#Đức Trí
Explore tagged Tumblr posts
Text
Hôm nay mưa buồn quá...
Con đường đã quen lâu ngày, những sáng vội vàng
Tình vẫn chưa tan sao mưa sáng lại đến, nhanh quá
Anh không ngờ…
3 notes
·
View notes
Video
youtube
The Classia Thủ Đức | Nhà phố, biệt thự Khang Điền
#youtube#The Classia - Dự án nhà phố biệt thự tuyệt đẹp của Khang Điền nổi bật với kiến trúc Châu Âu & tiện ích vị trí đắc địa tại Thủ Đức. Khám phá
0 notes
Text
Phúc phận một người từ đâu mà có? Xem xong hiểu rõ vận mệnh sướng khổ của bản thân #NhanSinhCuocSong
Phúc phận một người từ đâu mà có? Xem xong hiểu rõ vận mệnh sướng khổ của bản thân Trước đây, có một vị tài chủ, được mọi người gọi là viên ngoại, đã mời một thầy phong thủy đến xem mảnh đất có phong thủy tốt để chôn cất bản thân sau này. Sau khi vị thầy phong thủy đến nhà, lão viên ngoại có việc, không thể cùng với người thầy phong thủy đi xem đất được, liền bảo đứa cháu nhỏ của mình đi…
View On WordPress
#Bài học cuộc sống#báo ứng#chuyện kể#Dối mình dối người#đạo đức#Làm người#nhân quả#nhân sinh#nhân sinh cảm ngộ#nhân sinh cuộc sống#Nhân tâm#phong thuy#phúc đức#tâm linh#thien tam#tích đức#trí tuệ cổ nhân#triết lý cuộc sống#vận mệnh
1 note
·
View note
Text
"Nếu viết một cuốn sách về bạn yêu một người nhưng cuối cùng vẫn không có được, vậy dòng cuối sẽ là gì?"
1. "Vì ánh mắt luôn hướng về cậu, nên thừa sức biết cậu hướng về đâu"
2. "Diệt cỏ không tận gốc, xuân đến cỏ nảy mầm"
3. “Rất mất thời gian”
4. "Cầu mong ta đều được toả sáng, trong những năm tháng không gặp lại nhau nữa"
5. "Trước khi mất tôi sẽ đi chùa, dùng công đức cả cuộc đời này để cầu nguyện, cầu cho em đời này kiếp sau thuận lợi hạnh phúc, cầu cho tôi kiếp sau tình yêu vẹn toàn"
6. "Vừa là giới hạn
Vừa là ngoại lệ
Vừa là chấp niệm
Dù có bên nhau hay không, thì đời này tôi cho em vị trí mà em không phải tranh giành với ai cả"
- bình luận từ tiktok
#tiktok#trích dẫn hay#top cmt#top comment#cá yêu tinh#câu nói hay#quotes#trích dẫn#tình yêu#trích#buồn#cayeutinh#thất tình
166 notes
·
View notes
Text
Cổ nhân nói: “Trạng thái tu dưỡng cao của đời người là nhìn thấu mà không tranh cãi.”
1. Nhìn thấu mà không nói ra là tôn trọng
Vương Dương Minh từng nói: “Mỗi người nên có ít lời khuyên răn, phê bình và nhiều lời khuyến khích, khen thưởng”.
Đúng là khi hòa đồng với bạn bè, cách giao tiếp đúng đắn là bớt trách móc và bao dung hơn.
Trương Đại Thiên, một bậc thầy về hội họa truyền thống Trung Quốc, đã từng vẽ một bức tranh có tên “Lục Liễu Minh Thiên Đồ”, trong đó một con ve sầu lớn cúi đầu và kêu lên trên cành liễu, rất sống động như thật.
Chuyện xảy ra khi Trương Đại Thiên đến thăm Từ Nãi Lâm với những bức tranh của anh ấy, Tề Bạch Thạch cũng ở đó. Sau khi xem bức tranh này, Tề Bạch Thạch đánh giá cao tác phẩm: sự kết hợp giữa chuyển động và tĩnh lặng khá biểu cảm.
Trương Đại Thiên gật đầu và bày tỏ ý định của mình đối với bức tranh.
Sau đó, Tề Bạch Thạch nói rằng anh ấy cũng đã vẽ ve sầu, khi kêu nó sẽ ngẩng đầu lên.
Tình cờ lúc đó, có một ông nông dân già nói với Tề Bạch Thạch rằng tư thế của ve sầu khi kêu là “cúi xuống”.
Để tránh xung đột, Tề Bạch Thạch nói rằng: “Kỳ thật ta cũng chưa tận mắt nhìn thấy, có thể ta đã nhìn lầm”.
Trương Đại Thiên đã suy nghĩ về vấn đề này rất lâu sau khi vụ việc xảy ra. Mãi cho đến khi nhìn thấy một con ve sầu trên cành liễu ở vùng quê khi đang phác họa, ông mới phát hiện ra rằng đầu của con ve sầu thực sự hướng lên trên khi nó kêu.
Tề Bạch Thạch đã biết từ lâu, nhưng ông cũng không nói gì, chỉ để tránh cho người khác thấy xấu hổ.
Bình tĩnh là sự tôn trọng nhìn thấu mọi việc mà không nói ra, và đó cũng là lòng tốt thể hiện tấm lòng của một người.
Cổ nhân có câu: “Nhân hữu đoản, thiết mạc yết; nhân hữu tư, thiết mạc thuyết”. Dịch nghĩa: Người có lỗi, chớ vạch trần; việc riêng người, chớ nói truyền.
Khi tương tác với mọi người, chừa một con đường cho người khác là nền tảng của một mối quan hệ lâu dài.
Có một câu chuyện như vậy được ghi lại trong “Những câu nói của Khổng Tử”: Khổng Tử và một nhóm đệ tử ra ngoài không may gặp phải mưa lớn và không mang theo ô.
Đi ngang qua nhà Tử Hạ, một đệ tử đề nghị mượn ô của Tử Hạ.
Khổng Tử không đồng ý nói với các đệ tử: “Tử Hạ là người keo kiệt, không cho ta mượn thì mọi người cho là không kính trọng thầy; nếu cho ta mượn thì trong lòng sẽ khó chịu”.
Theo quan điểm của Khổng Tử, điều khôn ngoan là biết khuyết điểm của người khác và không làm khó họ, tránh khiến họ rơi vào tình thế khó xử.
Nhìn thấu một điều gì đó thì dễ, nhưng điều khó nhất là không nói ra. Người có thể nhìn thấu mà không nói là người thông minh.
2. Biết người mà không phán xét là tu dưỡng
Có một câu nói cổ: “Bạn không cần phải nói với mọi người mọi điều bạn biết, nếu không bạn sẽ không có bạn bè”.
Chúng ta không thể can thiệp vào cuộc sống của người khác, nhưng chúng ta có thể kiểm soát lời nói và hành động của chính mình.
Có một câu chuyện như vậy: Có một người đàn ông tên là Sĩ Thành Khỉ, rất tự cao về bản thân, anh ta nghe danh về Lão Tử đã lâu, nên muốn đến để học hỏi. Nhưng khi đến nơi, thấy nơi ở của Lão Tử dơ bẩn và lộn xộn, cảm thấy rất bực bội, liền nói với Lão Tử:
“Tôi nghe nói ông có trí tuệ, là một nhà đạo đức; cho nên ngưỡng mộ thanh danh mà nghìn dặm từ xa đến, nhưng đến đây lại thất vọng vô cùng. Rõ ràng nhà ông chẳng khác nào hang chuột, chuồng bò, chuồng ngựa, chuồng heo. Tôi không biết ông có gì đáng để tôi thỉnh giáo?”
Trên đường về, anh cảm thấy áy náy. Anh cứ suy nghĩ mãi, ngày hôm sau chịu không nổi, anh trở lại gặp Lão Tử nói: “Thật kì lạ! Hôm qua, tôi đến thỉnh giáo ông, nhưng không giữ lễ phép với ông, lại nói những lời mạ nhục ông. Vì sao ông không phản ứng, cũng không tức giận?”
Lão Tử trả lời: “Nếu như tôi là một người có đạo đức thật sự, thì cho dù anh mắng tôi là con trâu, con ngựa; hoặc là con chuột thì có liên quan gì với tôi? Việc này chẳng có gì quan trọng cả!”
Người xưa có câu: “Không thể nói chuyện biển cả với ếch ngồi đáy giếng, không thể bàn về băng tuyết với côn trùng mùa hè”.
Khi đối xử với người khác, bạn không nên đối xử với người khác theo tiêu chuẩn đánh giá của bản thân và nên giữ im lặng, chỉ khi đó bạn mới có thể giành được sự tôn trọng của người khác.
Nếu bạn chỉ trích người khác về những khuyết điểm của họ, bạn sẽ không thể sửa chữa chính mình.
Đừng chỉ trích người khác mà không làm việc của mình, bởi nói nhiều có thể làm tổn thương lòng người. Biết người mà không phán xét họ là trình độ tu dưỡng cao nhất của một người.
3. Biết sự thật mà không tranh cãi là trí tuệ
Tôi đã từng chứng kiến một câu chuyện như vậy: Ngày xửa ngày xưa, có một kỳ thủ nổi tiếng đến nỗi có khách đến nhà ông để bàn luận về kỹ năng chơi cờ dưới danh nghĩa xin lời khuyên, kỳ thủ gật đầu đồng ý.
Người khách chỉ vào hộp cờ và nói: “Ông có biết trong đó có bao nhiêu quân cờ không?”
Người chơi cờ mỉm cười nói: “Có 181 quân đen, 180 quân trắng và tổng cộng 361 quân cờ”.
Người khách sau đó cười lớn, lấy ra một quân cờ giấu trong lòng bàn tay và dọa rằng người chơi cờ đã trả lời sai và thua kém mình.
Khi các học trò của người chơi cờ thấy thầy mình bị xúc phạm, họ bắt đầu tranh cãi với vị khách.
Sau một lúc, người chơi cờ lịch sự thừa nhận sự thiếu sót của mình và vị khách vui vẻ rời đi.
Các học trò phàn nàn rằng người này rõ ràng là cố ý, người chơi cờ dùng điều này để dạy đệ tử: “Đã biết hắn là người vô lý, sao còn tranh cãi với hắn? Nếu tranh cãi sẽ không giải quyết được gì”.
Trong “Đạo Đức Kinh”, Lão Tử nói: “Thiện giả bất biện, biện giả bất thiện”. Người lương thiện không tranh không cãi, người tranh cãi không phải người lương thiện.
Mọi người đều biết sự thật nhưng rất ít người có thể làm được không vạch trần.
Chúng ta luôn phàn nàn rằng người khác vô lý, nhưng khi bạn tranh cãi với người khác, bạn sẽ trở thành loại người hay phàn nàn.
Tranh luận với người mạnh hơn bạn là vô ích; tranh luận với người yếu hơn bạn là vô nghĩa.
Kiềm chế ý muốn tranh luận với người khác về đúng sai là khả năng lớn nhất của con người. Bởi nhận thức là khác nhau, nếu tranh luận sẽ là lãng phí.
Nếu bạn thắng trong cuộc tranh luận, đối phương sẽ mất mặt; Nó không mang lại lợi ích gì cho người khác hoặc cho chính mình. Có thể nói hùng hồn là một loại năng lực, nhưng biết mà không tranh cãi là một loại trí tuệ.
Có câu nói rằng: “Chúng ta chỉ mất hai năm để học nói, nhưng phải mất sáu mươi năm để học cách im lặng”.
Cách nói của người khôn ngoan là: đừng nói nhiều, bớt phán xét người khác và đừng tranh cãi. Chỉ bằng cách nhìn thấu sự việc mà không nói ra, chúng ta mới có thể hòa hợp với nhau một cách thoải mái; Chỉ bằng cách biết mà không phán xét, bạn mới có thể giành được sự tôn trọng; Chỉ khi không tranh cãi, bạn mới có cuộc sống hạnh phúc. Đó là sự tôn trọng và cũng là cảnh giới tu dưỡng cao của đời người.
Thùy Dung biên tập
Nguồn: aboluowang (Vương Hòa)
21 notes
·
View notes
Text
Mấy dạo gần đây em nhức đầu thường xuyên, giấc ngủ của em cũng không kéo dài quá 4 tiếng, đầu óc cứ chao đảo và u ám.
Em bị mất phương hướng trên con đường em chọn, ngoài kia quá nhiều người tài giỏi, em thấy mình bất lực...
Nhan sắc, vóc dáng, bản năng, trí tuệ, tiền bạc và đạo đức, em quay cuồng và lặng hụp với những dòng suy nghĩ chảy không ngừng trong tâm trí em
16 notes
·
View notes
Text
TMNT - Bản chất con người là thiện hay ác?
Từ nhỏ đến lớn, nhiều điều chúng ta học được đều nói rằng bản chất con người là tốt, vì vậy chúng ta đã định nghĩa con người: con người là tốt bụng, biết ơn, trọng tình trọng nghĩa, biết ơn và đền đáp, có phẩm hạnh cao thượng.
Thế giới của tuổi thơ, thực sự hầu hết mọi người đều là hóa thân của sự hoàn hảo, chẳng hạn như tình cảm giữa thầy và trò, bạn bè, và tình yêu đầu đời. Bởi vì vào thời điểm đó, mối quan hệ của chúng ta cơ bản không liên quan đến lợi ích, vì vậy bạn đã bị ảo tưởng che mắt.
Nhưng khi bạn bước vào xã hội, mối quan hệ của bạn bắt đầu liên quan đến lợi ích, bạn sẽ phát hiện ra hành động của họ hoàn toàn trái ngược với những gì bạn đã học trước đây, bạn bè mượn tiền không trả, người yêu ngoại tình, đối tác kinh doanh phản bội, đồng nghiệp đâm sau lưng bạn, anh chị em tranh giành tài sản, không quan tâm đến sự sống chết của cha mẹ.
Khi hành vi của họ không giống như những gì bạn đã học hồi nhỏ, bạn bắt đầu bị họ tổn thương, và nỗi đau của bạn bắt đầu tiếp diễn.
Bản chất con người là tốt hay xấu?
Chúng ta có thể nhìn từ một số góc độ, nếu bản chất con người sinh ra đã là tốt, vậy tại sao ba tôn giáo lớn (Nho, Phật, Đạo) lại phải đặt ra nhiều quy tắc như vậy để hạn chế hành vi của con người? Chúng ta đều biết Phật giáo có rất nhiều giới luật, chẳng hạn như không được giết hại, không được ăn thịt, không được chạm vào phụ nữ, v.v.
Nếu bản chất con người thực sự là tốt, tại sao chúng ta lại cần phải coi “Nhân chi sơ, tính bản thiện” như một kinh điển? Nếu bản chất con người thực sự là tốt, vậy tại sao mỗi quốc gia lại cần có luật pháp để hạn chế hành vi của con người?
Vì vậy, hãy nhớ rằng bản chất con người không phải là tốt, chính vì vậy chúng ta mới cần những cuốn sách kinh điển về đạo đức và pháp luật, để cùng nhau duy trì sự ổn định của xã hội.
Nhìn vào bản chất con người qua góc độ di truyền:
Mọi người đã từng làm cha mẹ đều biết, khi đứa trẻ của bạn còn là một đứa trẻ sơ sinh, ngoài việc trông có vẻ hiền lành và đáng yêu, bạn sẽ phát hiện ra rằng đôi khi hành vi của chúng không hề có bóng dáng của lòng tốt, niềm tin của trẻ sơ sinh rất đơn giản, chỉ gồm tám chữ: “Thuận ta là bạn, nghịch ta tức thù”, nghĩa là trẻ sơ sinh sinh ra đã tự coi mình là trung tâm, chúng không hề đặt mình vào vị trí của bạn để suy nghĩ cho bạn.
Chỉ cần chúng muốn thứ gì đó, chúng sẽ lấy nó. Nếu không lấy được, chúng sẽ khóc, nếu khóc mà vẫn không lấy được, chúng sẽ khóc to hơn, cho đến khi giành được thứ mình muốn mới thôi. Tư tưởng ích kỷ này của trẻ nhỏ không cần ai truyền dạy, nó bẩm sinh.
Vậy bản chất con người là tốt hay xấu?
Tôi sẽ nói cho bạn biết, bản chất con người không phải là tốt, cũng không phải là xấu, mà là ích kỷ!
Mọi lời nói hay hành động của một người, đều chỉ là để thỏa mãn lợi ích của bản thân mình mà thôi.
Ví dụ này sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn, giả sử tôi và Tiểu Mỹ đã yêu nhau 5 năm, thực tế trong 5 năm đó tôi không hề yêu Tiểu Mỹ, tôi chỉ là không có bạn gái, dù sao tôi cũng độc thân, có người chăm sóc luôn tốt hơn là không có ai, vì vậy tôi miễn cưỡng yêu Tiểu Mỹ.
Ngược lại, Tiểu Mỹ yêu tôi đến chết đi sống lại, tôi là người đàn ông cô ấy yêu nhất trong đời, không có ai khác, chỉ cần cô ấy nhìn thấy tôi, cô ấy sẽ hạnh phúc vô cùng, chỉ cần ở bên tôi, cô ấy sẽ hạnh phúc như một vị thần. Vì vậy, trong 5 năm yêu nhau với Tiểu Mỹ, mọi người có thể tưởng tượng được, không cần nói, chắc chắn là Tiểu Mỹ đã chăm sóc tôi.
Cô ấy có thể đi bộ hàng km để mua canh gà hầm cho tôi uống, cô ấy có thể tiết kiệm chi tiêu để mua quần áo cho tôi, cô ấy thậm chí có thể lừa tiền của bố mẹ mình để giúp tôi khởi nghiệp, nói chung trong 5 năm đó, thế giới của Tiểu Mỹ chỉ có mình tôi, và cô ấy đã hy sinh tất cả cho tôi.
Kết quả sau 5 năm, vì một số lý do, tình yêu của chúng tôi không thể tiếp tục, tôi và Tiểu Mỹ chia tay, và vì tôi là người đề xuất chia tay trước, vào thời điểm đó, cả thế giới, bao gồm cả Tiểu Mỹ, đều chửi tôi là kẻ xấu, nói rằng tôi không phải là đàn ông, có người nói tôi không xứng đáng là con người, thậm chí có người chửi tôi là thú vật, và Tiểu Mỹ chửi tôi còn ác hơn.
Cô ấy nói:
“Anh còn nhớ không? Từng có lần vì muốn nấu một nồi súp cho anh uống, tôi đã đi bộ hàng ki lô mét; Anh còn nhớ không? Từng có một năm tôi không mua một món đồ nào cho mình, nhưng lại sẵn lòng mua cho anh cả tủ quần áo; Anh còn nhớ không? Tôi đã lừa lấy tiền của bố mẹ mình để giúp anh khởi nghiệp, khiến tôi và gia đình mình trở mặt, anh không phải là một người đàn ông…”.
Dù sao thì tôi cũng đã trở thành một con chuột chạy qua đường, bị mọi người la ó, không thể ra khỏi nhà, bị mắng chửi đến mức không thể chịu nổi.
Chúng ta hãy phân tích nghiêm túc vấn đề này, từ góc độ đạo đức thông thường, thực sự tôi đã làm sai, tôi là một kẻ tồi, một con thú, tôi bị cả thế giới khinh bỉ, tôi không có gì để nói.
Chúng ta hãy phân tích từ góc độ bản chất con người:
Đầu tiên, tôi và Tiểu Mỹ đã ở bên nhau 5 năm, tôi không hề yêu Tiểu Mỹ, nhưng Tiểu Mỹ lại yêu tôi đến chết đi sống lại. Mọi người có thể tưởng tượng, tôi đã ở bên một người mà tôi không hề yêu trong 5 năm. Trong khi đó, Tiểu Mỹ đã ở bên người cô ấy yêu nhất trong 5 năm, rõ ràng trong 5 năm đó, tôi phải đối mặt với một người mà tôi không yêu mỗi ngày, tôi đã sống trong đau khổ như thế nào, trong khi Tiểu Mỹ có thể ở bên người cô ấy yêu nhất mỗi ngày, tôi có thể chắc chắn rằng Tiểu Mỹ đã sống rất hạnh phúc trong 5 năm đó.
Thứ hai, như Tiểu Mỹ đã nói, cô ấy đã hy sinh rất nhiều vì tôi, cô ấy đã đi bộ hàng km để mua gà, chỉ để có thể nấu một nồi súp gà cho tôi uống. Vậy lúc cô ấy đưa nồi súp cho tôi, ai là người hạnh phúc, ai là người đau khổ? Đối với tôi, đó chỉ là một bát súp gà, dù ai nấu cũng như nhau, nhưng đối với Tiểu Mỹ thì khác, cô ấy thấy người cô ấy yêu nhất uống súp gà, cô ấy đã cười rất hạnh phúc, lòng cô ấy ngọt ngào biết bao, cô ấy cảm thấy mọi hy sinh đều xứng đáng, cô ấy làm mọi việc mà không hối tiếc.
Mọi người hãy nhận ra một sự thật, đừng quên rằng trong 5 năm đó, tất cả những gì cô ấy đã làm cho tôi, tôi chưa bao giờ ép buộc cô ấy làm, tất cả đều do cô ấy tự nguyện. Tại sao cô ấy lại tự nguyện làm? Bởi vì khi cô ấy hy sinh cho người mình yêu, cô ấy cảm thấy vô cùng hạnh phúc.
Mọi người chú ý, câu này, tất cả những gì cô ấy hy sinh có thể khiến cô ấy cảm thấy vô cùng hạnh phúc, vì vậy từ góc độ ích kỷ của bản chất con người, tất cả những gì cô ấy hy sinh chỉ là để làm cho chính mình hạnh phúc mà thôi, bề ngoài cô ấy đã làm rất nhiều cho tôi, nhưng thực chất cô ấy chỉ làm vì hạnh phúc của chính mình.
Vì vậy, về mặt đạo đức, cô ấy là một người tốt, tôi là một kẻ tồi, nhưng sự thật là trong 5 năm đó, tôi đã sống trong đau khổ, trong khi Tiểu Mỹ có thể ở bên người cô ấy yêu, và còn có thể hy sinh cho người mình yêu nhất, cô ấy đã sống rất hạnh phúc trong 5 năm đó, vì vậy sự thật là tôi đã chịu đựng 5 năm đau khổ để cô ấy có được 5 năm hạnh phúc.
Mặc dù tôi không phải là một kẻ tồi như vậy, tôi cũng không ủng hộ hành vi như vậy của đàn ông, nhưng qua câu chuyện này tôi tin rằng mọi người có thể lần đầu tiên nhìn thấy sự thật của vấn đề, tại sao Tiểu Mỹ lại đau khổ, tại sao mọi người lại chửi tôi là một kẻ tồi, bởi vì đa số mọi người trên thế giới này đều sống trong một thế giới ngọt ngào hàng ngày, không biết gì về sự thật của bản chất con người.
Bản chất con người là ích kỷ, người nào hiểu được bản chất ích kỷ của mình thì có thể hiểu được bản chất con người, và chỉ khi hiểu được bản chất con người thì mới có thể đứng vững trên đỉnh.
Để đánh giá sự thay đổi giữa thiện và ác trong bản chất con người, ta cần dựa vào lợi ích. Khi không có mối quan hệ lợi ích, bản chất con người là thiện. Chỉ cần có lợi ích xuất hiện, bản chất con người là ích kỷ. Nếu lợi ích đủ lớn, bản chất con người sẽ trở nên ác.
Hãy kể một câu chuyện, mẹ tôi có sáu anh chị em, một chị gái, một em trai và ba em gái, và mẹ tôi năm nay đã 63 tuổi. Trong số họ, có bốn chị em đã mua một mảnh đất ở quê nhà để xây một tòa nhà, với hy vọng sống cùng nhau và tận hưởng niềm vui gia đình.
Nhưng họ cũng có một nỗi lo lớn, đó là sợ rằng việc sống chung lâu dài sẽ dẫn đến mâu thuẫn vì những chuyện nhỏ nhặt.
Mẹ tôi đã hỏi ý kiến của tôi, và tôi đã nói với mẹ rằng, các chị em đều sinh ra từ cùng một bào thai, và ngay cả người nhỏ nhất cũng đã qua tuổi không còn hoài nghi, vì vậy những chuyện nhỏ nhặt hàng ngày, mọi người đều sẽ thông cảm cho nhau, và mẹ nên yên tâm sống hạnh phúc với họ trong những năm tháng cuối đời.
Khi tôi nói điều này với mẹ, bà ngoại của tôi đã mất vài năm và tài sản của bà đã được giải quyết. (Mặc dù bà ngoại không giàu có, nhưng một ngôi nhà cùng một số tiền mặt ở nông thôn vẫn là đáng kể), chính vì tài sản của bà ngoại đã được giải quyết, tôi tin rằng các chị em sẽ không gặp phải xung đột lợi ích lớn khi sống cùng nhau.
Nếu bà ngoại và tài sản của bà vẫn còn, tôi sẽ khó có thể dự đoán hậu quả, có thể họ sẽ xảy ra xung đột lớn vì điều đó. Thực tế, khi bà ngoại tôi qua đời vài năm trước, việc chia tài sản đã khiến họ không hạnh phúc, và một số chị em đã có mâu thuẫn, nhưng may mắn là không quá nghiêm trọng. Người gây ra mâu thuẫn nhiều nhất là chú tôi, vì chú là con trai.
Theo tư tưởng phong kiến của nông thôn, chú tôi nghĩ rằng tất cả tài sản của bà ngoại nên thuộc về chú. (Lưu ý: Bà ngoại tôi đã chia đều tài sản, và chú tôi chỉ nhận được một chút nhiều hơn), bà ngoại tôi đã nằm trên giường bệnh hơn một năm, và chú tôi không bao giờ đến thăm, cho đến khi bà qua đời, chú mới xuất hiện.
Các cô tôi rất tức giận, nhưng tôi biết rằng hành động của chú tôi phù hợp với bản chất con người, đó là bản chất tìm kiếm lợi ích và tránh tổn thất trong con người (Lưu ý: Hiện tại mối quan hệ đã được hàn gắn)
Vì vậy, dù là người thân, bạn bè, hay người yêu, dù họ có tốt đến đâu, bạn cũng không thể hoàn toàn tin tưởng họ, bởi vì một khi xảy ra xung đột lợi ích, những người này chắc chắn sẽ làm tổn thương bạn sâu sắc nhất. Càng có lợi ích lớn, bản chất con người càng trở nên ích kỷ, và khi sự ích kỷ đạt đến một mức độ nhất định, bản chất con người sẽ trở nên ác.
Nhìn vào tất cả các vị vua cổ đại tranh đấu, bạn không thể thấy bóng dáng của thiện, như cuộc đảo chính Huyền Vũ Môn của Lý Thế Dân, giết chết anh trai và em trai của mình, thậm chí Võ Tắc Thiên còn giết chết con đẻ của mình.
Triết lý sống “cửu tử nhất sinh”
Vào năm 1993, hai cậu bé 10 tuổi không học hành gì cả, quyết định bắt cóc một cậu bé 2 tuổi để chơi đùa, và cuối cùng đã tàn nhẫn giết chết cậu bé 2 tuổi đó. Sau đó, họ bị cảnh sát bắt giữ, trong đó một người tên là Jon đã thừa nhận không chối cãi về việc giết chết đứa trẻ.
Người kia lại đổ tất cả trách nhiệm lên Jon, tự mình thoát khỏi mọi tội lỗi, và thể hiện rõ ràng bản chất ích kỷ của con người, luôn tìm lợi ích và tránh hại.
Đây là vụ án giết người gây chấn động Liverpool, Anh, và sau đó câu chuyện này đã được chuyển lên màn ảnh, quay thành một bộ phim ngắn có tên “Detainment” và còn được đề cử giải Oscar.
Mọi suy nghĩ về thiện và ác của loài người đều bắt đầu từ ý niệm. Khi bạn cho rằng bản chất con người là thiện, bạn sẽ giả định rằng tất cả mọi người đều là người tốt. Khi bạn cho rằng bản chất con ngư��i là ác, bạn sẽ giả định rằng tất cả mọi người đều là người xấu.
Chẳng hạn, bạn biết 10 người bạn, nếu bạn giả định rằng tất cả 10 người họ đều là người tốt, bạn sẽ mong đợi họ đối xử tốt với bạn mỗi ngày. Nếu một ngày nào đó trong số 10 người bạn đó, có một người phản bội bạn, bạn chắc chắn sẽ không chịu đựng nổi nỗi đau, và cuộc sống như vậy sẽ khiến bạn sống trong đau khổ. Triết lý sống này được gọi là “cửu sinh nhất tử”.
Ngược lại, nếu bạn giả định rằng tất cả 10 người bạn đó đều không phải là người tốt, bạn sẽ không có bất kỳ kỳ vọng nào vào họ (Tôi đang nói về giả định trong lòng). Nếu một ngày nào đó bất ngờ có một người đối xử tốt với bạn, bạn sẽ cảm thấy như mình đã trúng số, và niềm vui bất ngờ này sẽ khiến cuộc sống của bạn trở nên hạnh phúc. Triết lý sống này được gọi là “cửu tử nhất sinh”.
Tôi nhận thấy rằng đại đa số mọi người thích sống theo triết lý “cửu sinh nhất tử”. Giống như nhiều cặp vợ chồng khi kết hôn, họ thường giả định trước rằng cuộc hôn nhân của họ sẽ hạnh phúc, và cũng hứa hẹn với nhau về một tình yêu đẹp, sống bên nhau cho đến khi bạc đầu, không bao giờ chia ly. Nếu một ngày nào đó họ ly hôn, cặp vợ chồng này rất dễ trở mặt thành thù, ghét đối phương đến chết, và không bao giờ gặp lại nhau nữa.
Tôi khuyến khích những người kết hôn nên giữ tâm thế “cửu tử nhất sinh”, đừng để những câu chuyện tình yêu cổ tích làm mờ trí tuệ của bạn. Nếu ngay từ đầu bạn không giả định rằng mọi thứ sẽ hoàn hảo, thì việc ly hôn sẽ nằm trong dự đoán của bạn, và bạn sẽ không cảm thấy đau khổ. Nếu có thể sống bên nhau cho đến khi bạc đầu, đó sẽ là một điều bất ngờ, phải không?
Nhưng nói thật lòng, trên thế giới này không có mấy người có loại trí tuệ đó!
Người càng ích kỷ, cuộc sống càng hạnh phúc
“Bạn thật là ích kỷ”, câu nói này có quen thuộc không? Từ nhỏ đến lớn, mọi người xung quanh đều dạy chúng ta không được ích kỷ, trong tâm trí chúng ta đã gieo một hạt giống rằng ích kỷ là không tốt, là một từ mang nghĩa tiêu cực, khiến cho nhiều người không sống thật với bản thân mình suốt đời. Nhiều người làm mọi việc chỉ để người khác nhìn thấy, và còn nhiều người sống chỉ để làm vui lòng người khác.
Ví dụ, có người cười một cái cũng phải tự nhủ, không biết nụ cười đó có làm người khác cười không, nụ cười đó có đẹp không, có phạm phải điều gì không đúng đắn không. Làm ơn, hãy cười cho chính mình một lần, nếu không một ngày nào đó rời khỏi thế giới này, bạn sẽ không còn cơ hội nữa. Còn một câu nói nữa, “chết vì danh dự, sống trong đau khổ” là hình ảnh của đa số mọi người, muốn danh dự là sống vì người khác, sống trong ánh mắt của người khác.
Hãy kể cho mọi người nghe một ví dụ, một lần tôi về quê, có một buổi họp lớp, mọi người cùng nhau ăn một bữa cơm, chúng tôi chọn một nhà hàng. Lúc đó, có một bạn học lập tức lấy điện thoại ra gọi điện đặt chỗ ở nhà hàng, cả quá trình gọi điện diễn ra như thể bạn ấy có mối quan hệ kinh doanh lớn với chủ nhà hàng vậy. Lúc đó, nhiều bạn học đã bị bạn ấy thu hút, trong lòng nghĩ rằng bạn học này có mối quan hệ rộng lớn, tùy tiện tìm một nhà hàng nào cũng quen biết, thật là có uy tín. Khi chúng tôi đến nhà hàng, cả nhà hàng trống trải, chỉ có một bàn của chúng tôi ăn, bạn nói bạn học đó không phải là làm việc vô ích sao?
Nói thật lòng, trong thế giới của tôi, người như vậy sống thật mệt mỏi, hoàn toàn sống vì người khác, tôi là người rất đơn giản, muốn cười thì cười, muốn khóc thì khóc. Tôi cười hay khóc đều là để làm cho mình thoải mái, tôi không quan tâm người xung quanh có thoải mái hay không.
Cấp độ cao nhất của Phật giáo nói rằng “minh tâm kiến tánh” , ý chỉ là sự hiện hữu của bản tánh tự thân. Ch���ng hạn, khi bạn từ 1-3 tuổi, gần như chưa hề bị ô nhiễm bởi môi trường xung quanh, mọi hành động của bạn đều xuất phát từ suy nghĩ của chính mình, đó chính là sự hiện hữu của bản tánh tự thân.
Bạn có thể nhớ lại một chút, 3 tuổi của bạn tuyệt vời như thế nào, không sợ trời, không sợ đất, cảm thấy thế giới này là của bạn, bạn có thể làm được mọi thứ. Khi lớn lên, sau khi trải qua sự giáo dục sau khi sinh, bạn không còn là bạn của trước kia nữa, bạn đã trở thành một robot, làm bất cứ điều gì người khác làm, mỗi ngày lặp lại, bởi vì bản tánh ích kỷ đã nhạt nhòa.
Các bạn có biết tại sao con người sợ chết không?
Lý do con người không nỡ từ giã cõi đời này là bởi vì họ còn lưu luyến những điều tiếc nuối. Nếu một người sống cả đời không có điều gì tiếc nuối, khi họ rời đi chắc chắn sẽ là với tâm trạng thanh thản; nếu còn tiếc nuối, làm sao bạn có thể buông bỏ?
Vì thế, người sống vì người khác không thể không có tiếc nuối. Mọi người ạ, cuộc đời này như một chuyến tàu đơn hành trong hành lang của cuộc sống, ích kỷ một chút và sống thật tốt cho chính mình một lần, khi rời đi không để lại tiếc nuối, bởi bản chất con người là ích kỷ, bạn chỉ cần thể hiện nó một cách hoàn hảo hơn một chút là được.
Lý thuyết tiến hóa về bản chất ích kỷ của loài người
Hãy để tôi chia sẻ một câu chuyện, một bà mẹ đơn thân nghèo khó nuôi hai đứa trẻ, một đứa 9 tuổi, một đứa 8 tuổi. Hai đứa trẻ co ro trong nhà chờ mẹ, chúng lạnh và đói, ôm chặt lấy nhau để sưởi ấm. Mẹ của chúng đã đi ra ngoài cả một ngày, chúng rất nhớ mẹ, và càng nhớ hơn là thức ăn mà mẹ mang về.
Kể từ lần cuối cùng ăn uống, đã là 2 ngày trước đó, khi ấy mẹ mang về hai quả lê. Hai anh em nhường nhịn nhau một vài lần, hai quả lê được chuyền qua lại giữa hai bàn tay của chúng, cuối cùng anh trai ăn quả to hơn và em trai ăn quả nhỏ hơn. Mẹ của chúng ngồi bên cạnh, nở nụ cười trên khóe miệng, bà luôn dạy bọn trẻ phải nhường nhịn và giúp đỡ lẫn nhau, và bọn trẻ cũng vâng lời, ngay cả khi rất đói, chúng cũng không tranh giành đồ ăn.
Bất ngờ, cậu con trai lớn đưa quả lê cho mẹ và nói: “Mẹ ơi, mẹ cũng ăn một miếng đi”, cậu con trai nhỏ cũng giơ quả lê lên. Đôi mắt người mẹ ướt đẫm, mẹ nói: “Con yêu, mẹ không đói, các con cứ ăn đi”. Hai đứa trẻ nhìn nhau và tiếp tục ăn, ăn với những miếng to hơn.
Mẹ của chúng quay đi, nước mắt rơi xuống, nhớ lại mẹ mình cũng luôn giữ những điều tốt nhất cho mình, nhớ lại tất cả những gì mẹ đã làm cho mình. Bên ngoài gió lạnh thổi, và lúc này mẹ trở về, đứa trẻ nhìn chằm chằm vào chiếc bánh mì trên tay mẹ, và kêu to:“Mẹ…!”
Câu chuyện ấm áp này, bạn có thể thấy được bản chất ích kỷ của con người không? Bạn có thể thấy được bản chất ích kỷ của trẻ khi nhìn thấy bánh mì không? Dù được giáo dục như thế nào đi nữa, bản chất con người không bao giờ thay đổi.
Phân tích tiếp theo có thể sẽ rất khắc nghiệt, nhưng đó là sự thật, sự ích kỷ của con người có hai loại: vật chất và tinh thần. Sự ích kỷ về vật chất là “người chết vì tiền, chim chết vì mồi,” còn sự ích kỷ về tinh thần, bạn có thể thường xuyên nghe thấy câu nói “Bạn chỉ quan tâm đến cảm xúc của mình, bạn có bao giờ nghĩ đến cảm xúc của tôi không!” Sự ích kỷ về tinh thần là việc tận hưởng niềm vui nội tâm của bản thân.
Từ câu chuyện trên, chúng ta có thể thấy, từ phút đầu tiên nhìn thấy mẹ, điều đầu tiên hai anh em nhìn thấy là thức ăn, bởi vì họ thực sự rất đói, và sự nhường nhịn của họ chỉ là do sự giáo dục của mẹ và đạo đức xã hội. Có người sẽ nói, đó là bản năng sinh tồn khi đói, bạn nói không sai, điều đó càng chứng minh bản chất con người là ích kỷ. Con người sinh ra là để ích kỷ, dù là bản chất con người hay bản năng sinh tồn, để tồn tại, chúng ta sẽ tự nhiên loại bỏ đối thủ.
Có người sẽ nói, hai đứa trẻ trong câu chuyện cũng nhường nhịn lẫn nhau, cũng đưa lê cho mẹ ăn, nếu bản chất họ là ích kỷ, thì qua giáo dục không phải cũng đã thay đổi sao? Sai rồi, bản chất ích kỷ của con người không thể thay đổi, sự thay đổi chỉ là: từ sự ích kỷ cấp thấp chuyển sang sự ích kỷ cấp cao hơn! Qua giáo dục, họ đã nhận ra giá trị của sự nhường nhịn và tình yêu, hành động của họ chỉ là nhu cầu tình cảm nội tâm của họ, làm như vậy khiến họ cảm thấy thoải mái và hạnh phúc. Sự thoải mái và hạnh phúc này chính là sự ích kỷ mà họ muốn thỏa mãn nội tâm, dù bạn có nghĩ cho người khác đến đâu, cũng đều dựa trên một số nhu cầu và mục đích của bản thân, chỉ là mức độ che giấu khác nhau.
Một người giúp đỡ người khác, ngoài việc làm điều tốt cho người khác, thực chất là đang thỏa mãn nhu cầu tinh thần của bản thân là một người tốt. Bạn còn nhớ câu nói này không, “Giúp người là cội nguồn của niềm vui!” Điều đó có nghĩa là, khi bạn giúp đỡ người khác, bạn sẽ cảm thấy vui, và niềm vui đó chính là sự ích kỷ mà bạn nhận được.
Hãy lấy một ví dụ, khi bạn thấy một người lãnh đạo có tầm nhìn lớn, người đó cũng rất tốt, luôn nghĩ cho người khác. Bạn có bao giờ tự hỏi tại sao anh ta lại tốt với người khác như vậy không?
Anh ta tốt với người khác, chính là vì mong muốn những người này có thể đền đáp lại anh ta sau này, phải không?
Bạn có thể nói rằng có người làm việc tốt mà không để lại tên tuổi, không mong đợi bất kỳ sự đền đáp nào. Nếu bạn dám nói như vậy, tôi muốn hỏi bạn làm thế nào bạn biết về những người này.
Chẳng hạn, bạn giúp đỡ một người hôm nay, bạn không mong đợi bất kỳ sự đền đáp nào từ họ, nhưng khi bạn giúp đỡ họ, bạn cảm thấy rất vui trong lòng, và niềm vui đó chính là sự ích kỷ của bạn, cũng là phần thưởng lớn nhất cho bạn.
Nhiều người cho rằng tình yêu của cha mẹ dành cho con cái là vô tư. Là cha của hai đứa trẻ, tôi sẽ nói về cảm xúc của mình. Con gái thứ hai của tôi đã chào đời, chúng tôi chăm sóc cô bé mỗi ngày mà không mong đợi bất cứ điều gì, nhưng tất cả mọi người trong gia đình đều cảm thấy vô cùng hạnh phúc.
Chú ý rằng, chúng tôi cảm thấy vô cùng hạnh phúc, và niềm hạnh phúc đó chính là sự ích kỷ về cảm xúc khi chúng tôi dành tất cả cho cô bé. Yêu con gái tôi không phải vì cảm xúc của cô bé, mà vì cảm xúc của chính chúng tôi. Tất nhiên, tình yêu “ích kỷ” này có lợi cho con cái, điều này không cần phải nghi ngờ.
Gần đây tôi đã trải qua một sự kiện có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời tôi, tôi muốn chia sẻ để mọi người cùng học hỏi.
Con trai của một người bạn tôi bị bệnh, không phải là bệnh nhẹ mà khá nghiêm trọng. Là bạn, tôi chắc chắn phải đến thăm. Khi tôi đến, người bạn của tôi liên tục khóc. Là bạn, tôi chắc chắn phải an ủi cô ấy, tôi nói: “Không ai muốn con mình như vậy, nhưng việc bạn khóc cũng không giải quyết được vấn đề, khóc quá nhiều cũng làm tổn thương cơ thể của bạn, tôi tin rằng con bạn cũng không muốn thấy kết quả như vậy”.
Có người tin vào bản chất tốt của con người, có người tin vào bản chất xấu, nhưng tôi luôn tin vào bản chất ích kỷ của con người. Khi tôi thấy người mẹ này khóc vì đứa trẻ, tôi cảm thấy cô ấy hoàn toàn không có bất kỳ yếu tố ích kỷ nào, tôi còn nghi ngờ liệu lý thuyết về bản chất ích kỷ của con người có chút vấn đề không?
Và rồi người mẹ đó đã trả lời một câu khiến tôi giật mình, nếu tôi nói ra, chắc chắn cũng sẽ làm bạn giật mình, cô ấy nói: “Lão Hạo, tôi hiểu những gì bạn nói, nhưng khi tôi khóc ra, tôi cảm thấy dễ chịu hơn một chút…”
Mọi người, hãy suy ngẫm về câu nói này, đây là lời cô ấy tự nói, cô ấy nói rằng khi cô ấy khóc ra, cô ấy cảm thấy dễ chịu hơn một chút. Cô ấy khóc ra để cảm thấy dễ chịu hơn, vẫn có yếu tố vì bản thân. Bản năng con người tự động sẽ giúp bạn ích kỷ, yêu thương con cái là thật, làm cho bản thân dễ chịu hơn cũng là thật.
“Làm cho bản thân dễ chịu hơn” – câu nói này bạn hãy suy ngẫm, khi nào bạn hiểu được câu nói này, bạn đã có khả năng kiểm soát bản chất con người rất mạnh.
Tất nhiên, sự ích kỷ cũng có nhiều cấp độ khác nhau, không phải chỉ quan tâm đến bản thân là ích kỷ, làm tốt cho người khác, mong đợi sự đền đáp trong tương lai cũng là sự ích kỷ, hy vọng bạn có thể có sự ích kỷ ở cấp độ cao hơn!
11 notes
·
View notes
Text
Tưởng như thân đến tuyệt cùng
Rồi lương duyên cũng trầm luân biển người
Dạo này hay vô tình mở trúng bài "Quê Xa" của nhạc sĩ Đức Trí làm nhớ lại khoảng thời gian ngày ấy. Chuyện giữa mình với Anh Q. thật lạ lùng. Va vào nhau như-đã và sẽ-luôn... nhưng cuối cùng cũng không chống lại được quy luật trầm luân.
Đằng sau mỗi cuộc phân ly
Đôi lần trọn vẹn, nhiều khi bão bùng
Sau tất cả, tụi mình vẫn không tha thứ được cho nhau. Nhìn anh qua cầu, em chỉ mong người nào lấy anh phải thực sự sống hạnh phúc, vì khi bên anh em nhận ra rằng một ngôi nhà mà bão sẽ bắt đầu sau cánh cửa chính là ngôi nhà ở chung với anh.
Ѕáng naу có người bảo tôi
Ɲghe đâu sang năm chắc em lấу chồng
Đúng ra đó là chuуện vui
Thầm chúc cho em niềm vui duуên mới...
Ϲhắc tôi sẽ ở vậу thôi
Xa quê bao năm cũng lâu lắm rồi
Ϲó đâu dám về lại thăm
thà nhớ thương thôi chứ về buồn lắm
Ϲó khi cách trở mà haу
Ɓên nhau không vui, sống xa nhớ nhiều
Tôi thôi cứ là vậу thôi
Vậу thôi tôi nhé, nhớ nhau vậу thôi
2 notes
·
View notes
Text
SAO MỘC NGHỊCH HÀNH 2024 - Tái Định Hướng Cuộc Sống Qua Những Chiêm Nghiệm Sâu Sắc
🟠 Từ ngày 9/10/2024 đến 4/2/2025, #sao_Mộc sẽ bắt đầu #nghịch_hành từ 21º Song Tử xuống 11º #Song_Tử, mở ra một giai đoạn chiêm nghiệm và tái định hướng cuộc sống của chúng ta. Trong suốt nửa đầu năm, sao Mộc đã thúc đẩy những cơ hội mở rộng về giao tiếp, học tập và khám phá. Nhưng khi bước vào giai đoạn nghịch hành, bạn được mời gọi quay trở lại, nhìn nhận lại những trải nghiệm vừa qua và điều chỉnh bản thân theo những hiểu biết sâu sắc hơn.
🟠 Với sự hiện diện của sao Mộc trong cung Song Tử từ ngày 26/5, bạn đã từng trải qua một khoảng thời gian sôi nổi với vô vàn cơ hội để phát triển kỹ năng giao tiếp và tiếp thu kiến thức. Những chuyến đi ngắn ngày, các lớp học và những trải nghiệm xã hội đã giúp bạn trở thành một người đa nhiệm, linh hoạt trong việc giải quyết nhiều vấn đề cùng lúc. Tuy nhiên, điều này cũng mang lại sự quá tải về thông tin, khiến bạn dễ cảm thấy kiệt sức về mặt tinh thần.
🟠 Vì thế khi #Mộc_tinh_nghịch_hành, nó sẽ tác động ra sao đến cuộc sống của bạn?
▪️ Cơ hội để bạn nhìn lại cách tiếp cận học tập, nghiên cứu, giảng dạy, chia sẻ và tiêu thụ thông tin, giao tiếp. Bạn có thể xem xét lại các cuộc trò chuyện từ quá khứ để điều chỉnh lại suy nghĩ. Hoặc sẽ tự đặt câu hỏi về những câu chuyện bạn đã kể, cách bạn thu nạp kiến thức và theo đuổi trí tuệ, đã phục vụ hoặc cản trở sự phát triển cá nhân của bạn như thế nào.
▪️ Sao Mộc là hành tinh của đạo đức, nên bạn sẽ được nhắc nhở hãy truyền đạt đúng sự thật, hãy tôn trọng bản chất mọi thứ như nó vốn là thay vì phóng đại và tô vẽ nó bởi những thông tin thú vị.
▪️ Sao Mộc lục hợp #Chiron #Bạch_Dương, điều này mở ra khả năng phát triển tâm linh và chữa lành sâu sắc, giúp bạn kiểm tra lại triết lý sống và đức tin của mình. Bạn sẽ không còn tìm kiếm câu trả lời từ thế giới bên ngoài, mà thay vào đó, sẽ bắt đầu lắng nghe và tin tưởng vào tiếng nói thẳm sâu bên trong tâm hồn mình. Đây là thời gian để bạn làm lành với chính bản ngã và sống đúng với con người thật.
🟠 Để từ đó, khi sao Mộc #thuận_hành vào đầu năm 2025, tất cả những hiểu biết và kinh nghiệm thu được trong giai đoạn này sẽ biến thành những món quà quý giá. Bạn sẽ tiến lên với một trí tuệ sâu sắc hơn, trái tim mở rộng hơn và sự từ bi lớn lao đối với thế giới xung quanh. Không còn bị ràng buộc bởi những nhận thức cũ, bạn sẽ hiểu rõ hơn về vị trí của mình trong vũ trụ và sẵn sàng bước vào những hành trình mới.
Hãy cùng mình chờ đón những tín hiệu đổi thay này nhé, và mình mong rằng, hành trình nghịch hành này sẽ mang đến cho bạn hành trang ý nghĩa, để bạn có bước tiến xa hơn những gì bạn từng tưởng tượng ^^
~#MãNhânNgư~
5 notes
·
View notes
Text
ÚP MẶT VÀO VỚI TRANG KINH
Câu đúng văn phạm phải là “úp mặt vào trang kinh”, sao vẫn nghe thiếu thiếu gì đó! Thêm chữ “với” có vẻ thừa, thôi kệ. Cần gì đúng văn phạm. Đúng cho người, nhưng lại chẳng đúng với ta, thế thì tại sao không viết đúng cái điều mình nghĩ: Úp mặt vào với trang kinh!
Chợt nhớ một giai thoại Thiền, lâu rồi, tra mãi chẳng ra, đại loại:
Tăng hỏi Hoà Thượng:
Hoà Thượng sao vẫn còn tụng Kinh để làm gì?
Hoà Thượng đáp:
- Ta tụng kinh để che mắt.
Tăng hỏi:
- Con bắt chước Hoà Thượng được chăng?
Hoà Thượng đáp:
- Ta tụng kinh để che mắt. Còn mắt ông dùi vào kinh thì đến da trâu cũng lủng!
Trong Đại Huệ Phổ Giác Thiền Sư Ngữ Lục quyển 27 (Đại 47, 928 trung) ghi: Đóng cửa ngồi nhìn vách, đây chính là thuốc hay để dừng tâm; nếu chỉ dùi giấy cũ (Toản cố chỉ) thì nhất định sinh ra mầm mống sinh tử từ vô thủy đến nay trong tạng thức.”
Ôi! Tụng đọc kinh sách mà không tỏ ngộ thì chỉ là “dùi giấy cũ”. Đúng là với con mắt phàm phu đầy tư biện của chúng ta mà tụng đọc kinh sách thì da trâu cũng lủng chứ nói gì đến giấy mỏng của trang kinh!
Nhưng không! “Dùi giấy cũ” chỉ là sự phê phán của mấy ông Thiền sư, chỉ trích những kẻ chỉ biết tầm chương trích cú. Trong Thiền lâm chẳng đã từng dạy: “Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan. Ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết”. Làm sao để chẳng đồng với thuyết của tà ma ngoại đạo? Chỉ còn biết quay về úp mặt vào với trang kinh!
Ngoài kia người ta ác quá, lôi cả ông Phật của 26 thế kỷ trước ra nguỵ biện để phê phán cuộc đời thói hư tật xấu, nhân danh lý trí, trí thức, nhân danh cao thượng, khôn ngoan, cưỡng từ đoạt lý, phán không chừa chút sỉ diện tối thiểu còn sót lại, kiêu căng, đắc thắng, trong khi một chút hơi thở chánh niệm để bảo toàn nhân cách còn không có, thì nói chi đến hay dở đúng sai. Điều quý báu nhất của người con Phật, nhất là trong mùa an cư kiết hạ của chư tăng, chẳng cần phân bua tranh biện, lặng lẽ quay về úp mặt vào với trang kinh.
Úp mặt vào với Hoa Nghiêm, thấy mười cánh huyền môn mở ra phơi phới, cùng Thiện Tài Đồng Tử đi vào pháp giới, gặp Đức Mạn Thù Thất Lợi dắt đi gặp Phổ Hiền, lạy từng hạt bụi trong mười phương cõi nước để thâm tạ duyên sanh trùng trùng vô tận, để thương mình, để yêu người, nào có còn kẻ oán với người thân.
Úp mặt vào với Tứ A-hàm, thấy cùng với ngàn vị tỳ-kheo theo chân Phật, ôm bình bát đi vào tụ lạc khất thực. Thấy mỗi nhánh lá, cành hoa, vầng nhật nguyệt đầu non, ánh tinh cầu đáy nước, tất cả đều thơ mộng, hiền hoà, và nhiệm mầu như thể, như thế, như nhiên.
Úp mặt vào với Bát-nhã, thấy ta với người là một, thấy ta và cảnh không hai. Thấy nỗi tức giận đêm qua thành chất liệu thanh lương sáng sớm. Nghe những lời mắng chửi bữa nọ như bản giao hưởng tuyệt vời. Giọt lệ của ngày hôm qua biến thành mưa của ngày hôm nay. Ai còn lưỡng lự đâu nơi, nhờ gươm báu chặt đứt rời sắc không. Bao nhiêu phiền muộn viễn vông, chợt rơi rụng hết như không một chiều.
Úp mặt vào với Pháp Hoa, thấy giọt sương mai chiếu diệu lung linh nghìn pháp giới. Thấy mình bỗng dưng giàu sang cao cả, trí thức lên nhiều. Thấy lại tuổi thơ cùng bạn bè nắn viên đất sét thành ông Phật rồi sụp lạy nam mô, rồi được Phật cho lên ngắm toà Đa Bảo, hạnh phúc khi biết mình rồi cũng sẽ được dự hội A-nậu-đa-la.
Úp mặt vào với Niết-bàn, thấy mỗi phút giây đều hàm tàng bí mật, mỗi sự việc đều tổng nhiếp an nhiên. Từ bữa nọ tới bữa nay, từ mỗi phút giây hay từ vô lượng kiếp giữa thiên thu vời vợi, có gì để nói, có gì để bàn. Cố gắng lập bày chân nguỵ để tranh biện hơn thua, chẳng bằng hớp một ngụm trà thơm nơi đầu lưỡi rồi hít thở an nhiên.
Vâng! úp mặt vào với trang kinh, để về thương mẹ kính cha, thờ thầy mến bạn. Úp mặt vào với trang kinh, để thương quý người hành khất bên đường giống như thương kẻ rong rêu đầu đường xó chợ, bãi rác gầm cầu. Bạn đang bị mắc nợ ư? Bạn đang bị tấn công ư? Bạn đang được xưng tụng ư? Bạn đang bị tình phụ ư? Bạn ơi! Tôi chẳng thể trả nợ giùm cho bạn. Tôi chẳng thể bảo hộ được cho bạn. Tôi chẳng dìm bạn xuống, tôi cũng chẳng kéo được bạn lên. Nhưng tôi muốn nói, bạn hãy tin tôi đi, quay về úp mặt vào với trang kinh, ngay trong mùa hè này nhé. Bạn nhìn thấy không? Quý thầy, tăng ni khắp chốn, với chiếc y vàng, khuôn mặt an nhiên và nụ nụ cười ý nhị, đang phủ phục dưới chân Phật, và nhẹ nhàng tụng đọc tôn kinh.
Tôi xin mượn một câu thơ của Phạm Thiên Thư trong Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng, bối cảnh có thể khác nhau, nhưng lối về chỉ một, để kết thúc bài viết vu vơ này bạn nhé:
“Tiếng em hát giữa giáo đường
Chúa về trong những thánh chương bàng hoàng”
Thuỳ Ngữ Thất, bồ lựu nguyệt năm Giáp Thìn
Nhất Thanh T.NH.
Từ Bùn Sen Nở
9 notes
·
View notes
Text
nhẫn nại, bao dung: chìa khóa giúp vượt qua mọi điều không như ý #NhanSinhCuocSong
nhẫn nại, bao dung: chìa khóa giúp vượt qua mọi điều không như ý Con người sống trên đời luôn đi kèm với phiền muộn và khổ nạn, những chuyện không như ý thì nhiều, chuyện như ý thì ít, từ xưa đến nay đều như vậy. Bất luận là người phú quý hay là nghèo hèn thì đều luôn có phiền não của riêng mình. Bởi vậy, con người nên bình tĩnh an nhiên, mọi sự nên thuận theo tự nhiên mà chấp nhận, chỉ có thế…
View On WordPress
#bài học#Bài học cuộc sống#cảm ngộ#cổ nhân#cuộc sống#đạo đức#giận dữ#hạt giống#kien nhan#Làm người#mọi người#mọi thứ#người xưa#nhà sư#nhẫn nại#nhân sinh#nhân sinh cảm ngộ#nhân sinh cuộc sống#trí tuệ#trí tuệ cổ nhân#triết lý#triết lý cuộc sống#tu dưỡng
0 notes
Note
suzu có thể cho tui biết tại sao cô thích geto được không, cá nhân tui thì tui thấy sự đồng cảm của mọi người cho geto không được chính đáng cho lắm. cô cứ bỏ qua ask này của tui nếu cô không thoải mái nha :<<
Tôi từng có một cuộc deeptalk 3 tiếng với một đứa bạn của tôi (nó fan sukuna) về lý do tại sao gojo không xứng đáng bị fandom ghét như thế, và bây giờ thì tôi sẽ đưa ra một số lý do tại sao geto cũng đáng được nâng như nâng trứng hứng như hứng hoa nha (well, cũng tương tự như bài "ted-talk" của tôi với bạn fan sú kia thì bài viết về suguru này cũng sẽ dựa trên cảm nghĩ cá nhân và một số những phân tích dựa trên các sự kiện canon trong JJK).
By: lilydasimp
1. Bản chất Suguru là một người tốt.
- Suguru là một người rất tốt, anh ấy kiên định với lý tưởng của bản thân, có khuôn mẫu đạo đức cùng lập trường rất vững chắc và cao thượng. Trong season 2 của JJK, chúng ta có thể thấy rất rõ điều đó khi Satoru bảo, "đám phi thuật sư là lũ yếu đuối, tại sao lại phải bảo vệ?" thì Suguru trả lời, "vì chúng ta (những chú thuật sư) có sức mạnh hơn người thường, cho nên trọng trách của chúng ta là bảo vệ những người yếu thế hơn." Nếu nhìn từ ngoài vào, ta có thể đánh giá một cách chủ quan Suguru là kiểu người điển hình cho khuôn mẫu "anh hùng", với lý tưởng là sức mạnh đi kèm với trách nhiệm, và trách nhiệm ở đây chính là bảo vệ những người yếu thế hơn mình.
- Suguru là kiểu người tự tin vào sức mạnh của bản thân. Trong nhiệm vụ hộ tống Tinh Tương Thể, anh ấy đã nói với Riko rằng, "bọn anh sẽ bảo vệ tương lai cho em." Anh ấy đủ tự tin vào bản thân mình và Satoru, tin rằng cả hai là mạnh nhất. Nên giả như Riko chọn quay về, anh ấy sẽ chịu trách nhiệm "bảo đảm tương lai" cho Riko (bởi vì Riko chỉ là một đứa trẻ ngây thơ vô tội, mà một đứa trẻ thì nên được SỐNG, chứ không phải là bị hiến tế.)
- Có thể thấy, Suguru sẵn sàng đi ngược lại với nghĩa vụ mà cấp trên giao, vì anh ấy không muốn nhìn một đứa trẻ vô tội như Riko phải chết. Tức là gì, chúng ta có thể thấy, Suguru là một người giàu lòng trắc ẩn.
- Anh ấy lo lắng cho những người thân cận (lo cho Satoru khi Satoru thức trắng mấy đêm liền để bảo vệ cho Tinh Tương Thể, ai ấy cũng là người duy nhất nhận ra Satoru đang mệt mỏi, cũng là người duy nhất lên tiếng nhắc nhở cậu bạn thân không nên làm việc quá sức). Như vậy, Suguru còn là một người cực kì tinh tế.
- Chúng ta sẽ không phân tích quá sâu vào thuật thức của Suguru, nhưng có một điều chúng ta chắc chắn phải biết, đó là Suguru phải hấp thụ những chú linh thường xuyên dưới dạng những tinh cầu thường xuyên. Mà các chú linh, nguyền hồn, đều bắt nguồn từ những tiêu cực, thù hận, sợ hãi, ái dục,... nên chắc chắn những oán niệm đó sẽ ảnh hưởng đến tâm lý của anh ấy.
- Tâm lý của Suguru có bước ngoặt sâu sắc sau khi nhiệm vụ thất bại, Tinh Tương Thể Riko Amanai bị giết ngay trước mắt (cũng là ngay sau khi anh ấy hứa là sẽ BẢO VỆ tương lai cho Riko). Suguru đã thua cuộc trước Toji, không bảo vệ được Tinh Tương Thể, (đáng ra anh ấy cũng phải bỏ mạng nếu không phải vì Toji thấy hứng thú với thuật thức hiếm gặp của anh và tha mạng), và Riko - một đứa trẻ vô tội bị GIẾT ngay trước mắt. Đó là một cảm giác khủng khiếp còn khó tả hơn nhiều so với thứ gọi là "cú sốc tinh thần".
- Như vậy thì có thật là "mạnh nhất" hay không? Thậm chí còn không bảo vệ được một đứa trẻ vô tội mà lại để đứa nhỏ chết ngay trước mắt mình.
- Chưa dừng lại ở đó, Suguru lại thấy Satoru ôm xác Tinh Tưởng Thể và khắp nhà xác là lũ phi thuật sư đông nghịt vây quanh, vỗ tay rào rào. Chúng vui mừng trước cái chết của một đứa bé tội nghiệp??? (Tôi mà là Suguru thì chắc tôi điên lên rồi khử sạch tất cả rồi chứ không có chuyện nhân nhượng như thế đâu)
- Nhưng mà, ngay cả khi Satoru bảo "cậu có muốn giết sạch lũ người này không? nếu bây giờ mà giết thì tôi cũng không cảm thấy gì đâu.", Suguru lại không làm vậy. Đấy là khi lý tưởng bảo vệ phi thuật sư của anh dần tan nát, cũng là sự cố gắng níu lại lý trí lần cuối cùng.
- Cú sốc tinh thần quá lớn, Suguru bị trầm cảm. Ngoài ra, nếu xét về tâm lý học thì khả năng cao Suguru còn bị PTSD (Rối loạn căng thẳng sau sang chấn cực độ). Anh ấy mất ngủ, mệt mỏi, bơ phờ, và thường xuyên zone out, đây là triệu chứng điển hình của PTSD và trầm cảm.
- Cộng thêm việc Satoru đã trở thành mạnh nhất, các nhiệm vụ Đặc Cấp giờ chỉ một mình Satoru là đã đủ để xử lý. Không chỉ vậy, tâm lý của Suguru còn xấu đi rõ rệt sau khi hậu bối Haibara chết (có một điều mà mình nhận ra đó là Haibara cũng còn trẻ, trạc tuổi Riko, và tính cách cũng hoạt bát, năng động na ná Riko). Haibara chết rất đau đớn, nếu mọi người để ý kĩ có thể thấy tấm chăn trắng đắp lên xác cậu ấy bị rũ xuống, cho thấy rằng cậu ấy chết vì bị mất nửa người bên dưới.)
- Bản thân Suguru khi đi tới nhận xác cũng phải thấy tận mắt cái chết quá bi thảm của đàn em, nên một lần nữa, lý tưởng cao thượng lúc trước của anh càng lúc càng vỡ vụn.
- Cái mốc đánh dấu cho sự sụp đổ hoàn toàn của lý tưởng đó là sau cuộc nói chuyện với Yuki. Tinh thần Suguru lúc ấy đã lao dốc đáng báo động rồi, nhưng khi nói chuyện với Yuki, anh ấy nhận ra một điều, đó là bản thân phải tạo dựng một thế giới không có nguyền hồn hay chú linh. Vì sao? Vì nếu không có nguyền hồn hay chú linh, thì các chú thuật sư sẽ không phải chết nữa. Nhưng làm thế nào để tạo dựng một thế giới như vậy? Nếu cứ mỗi ngày đều đi tiêu diệt nguyền hồn, dù có siêng làm nhiệm vụ đến đâu thì nguyền hồn vẫn là vô hạn. Việc tiêu diệt nguyền hồn mỗi ngày cũng giống như việc xén cỏ dại vậy. Xén cả ngàn lần thì cả ngàn lần cỏ mọc, vậy nên mới có câu: "Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc."
- Tương tự với việc tiêu diệt nguyền hồn, cũng giống như cỏ dại, thay vì mỗi ngày đều cật lực trừ tà thì tại sao không tiêu diệt cội nguồn của nguyền hồn??? Hay nói cách khác, TIÊU DIỆT CÁC PHI THUẬT SƯ. Nếu các phi thuật sư không còn, chấp niệm tiêu cực cũng tan biến, nguyền hồn sẽ không còn nữa, và, điều đó cũng có nghĩa là không một chú thuật sư nào sẽ phải bỏ mạng giống như đồng đội của anh ấy, như Haibara.
2. Dù có thế nào đi nữa thì bản chất Suguru luôn là một người rất tốt.
- Nhưng Gege xây dựng Suguru là một hình mẫu nhân vật "phản diện lý tưởng cực đoan". Kiểu nhân vật này rất tham vọng, có đạo đức nhưng lại theo xu hướng lệch lạc, cực đoan, biện hộ cho hành động mình làm là vì mục đích cao cả (Thanos trong MCU là một điển hình). Ở đây, "hành động" của Suguru là muốn gây dựng một thế giới chỉ có các chú thuật sư vì "mục đích cao cả" là không muốn ai phải bỏ mạng vì nguyền hồn. Anh ấy chỉ muốn tạo một thế giới mà những người ấy quan tâm được sống, được an toàn và hạnh phúc. Có thể thấy rất rất rất rõ điều đó qua sự kính trọng và trung thành tuyệt đối của những chú nguyền sư dưới trướng Suguru, điển hình là cặp song sinh mà Suguru đã cứu sống (hai đứa bé có khả năng nhìn thấy nguyền hồn và bị lũ phi thuật sư nhốt lại, dung túng, đe doạ, chửi rủa và hành hạ về cả thể xác lẫn tinh thần).
- Tôi đồng cảm cho những gì mà Suguru trải qua, nhưng lại khó có thể đồng tình cho cách mà anh ấy hành động. Khi mà anh ấy tàn sát ngôi làng rồi sau đó bị treo án tử, chắc chắn trong số những người bị giết sẽ có những người vô tội, những người hướng thiện, và thậm chí, là cả những đứa trẻ.
- Điềm tĩnh, tham vọng, quyết tâm, giàu lòng trắc ẩn, nhưng lại hành động có phần xốc nổi và máu lạnh. Tôi có thể cảm thông cho Suguru nhưng nhiêu đấy những lý lẽ dẫn chứng mà tôi đưa ra vẫn khó có thể bào chữa cho hành động của anh ấy. Xét về đạo đức, thì việc thông cảm hay không thông cảm cho Suguru cũng giống khái niệm "bẫy đạo đức" trong triết học vậy. Giống như việc liệu có nên đẩy một người khoẻ mạnh xuống đường ray để cứu năm người bên dưới không, hay không làm vậy vì người đó chẳng có tội tình gì và cuối cùng bất lực không thể làm gì khác ngoài nhìn năm người kia bị tàu cán chết.
3. Suguru vừa đáng trách nhưng cũng thật sự đáng thương.
- Cố gắng như thế mà cuối cùng sau mười năm lại phải bỏ mạng trong khi lý tưởng vẫn chưa được hoàn thành. Bạn thân duy nhất trở thành kẻ địch, rồi cuối cùng phải chết dưới tay của người đã từng là tri kỉ duy nhất.
- Đến khi chết rồi thì cơ thể lại bị lão Kenjaku chiếm đoạt, nói chung là sống thì khổ đau tủi cực mà chết cũng không được ra đi thanh thản. Suguru là điển hình cho kiểu nhân vật phản diện lầm đường lạc lối, kiểu bất hạnh và tan vỡ từ thể xác cho đến tâm can.
- Một điều nữa, tôi để ý anh ấy rơi nước mắt lúc gặp lại Satoru - người đã tử hình anh ấy (afterlife). Tôi sẽ để dòng này ở đây và không nói gì cả (toi cut len thien dang tim anh day)
4. Tóm lại, Suguru là một người rất tốt.
- Anh ấy là một trong số cực ít những nhân vật để lại trong tôi ấn tượng sâu sắc. Mà cũng phải cảm ơn ông bố chồng Gege Akutami vì đã xây dựng rất thành công hình mẫu phản diện toàn vẹn như Suguru.
- Suzu hiếm khi đa cảm thế này lắm anh chị em thông cảm nha, chẳng qua là iu thương chồng quá nên mới phóng bút viết ra cái post này thôi 🥺
7 notes
·
View notes
Text
HÔN NHÂN giống như một đôi giày. Nếu bạn chọn đôi quá rộng, hãy chuẩn bị kéo lê nó suốt đời. Nếu chọn đôi quá chật, hãy sẵn sàng chịu đựng những cơn đau không dứt.
Hôn nhân đặc biệt ở chỗ, một khi đã chọn, bạn không thể tháo giày ra dù có khó chịu hay đau đớn thế nào. Đó là lý do mình muốn gửi đến bạn lá thư này.
Gửi những người độc thân,
Khi bạn đã sẵn sàng “chọn giày” cho cuộc đời mình, hãy lưu ý ba điều sau:
1. NGOẠI HÌNH:
Đừng chỉ chọn giày vì nó đẹp, thời trang hay rẻ. Hãy chọn đôi vừa vặn với mình. Không phải ai đẹp trai, giàu có hay thông minh cũng sẽ hợp với bạn, và cũng không phải cô gái nào xinh đẹp cũng là dành cho bạn. Tìm người hòa hợp với giá trị và niềm tin của bạn, người đồng hành cùng bạn trên hành trình cuộc sống.
Bạn cần biết mình muốn đi về đâu trước khi tìm bạn đời. Nếu không biết đích đến, bạn có thể chọn sai người.
2. VỊ TRÍ:
Mỗi đôi giày có vị trí riêng: giày công sở, giày thể thao, giày dạ hội, giày trẻ em. Người phù hợp với bạn cũng vậy – không phải ở đâu cũng có. Bạn không thể vừa có đức tin mà lại tìm bạn đời ở nơi không cùng giá trị sống. Người đồng hành với bạn sẽ ở nơi phù hợp với những gì bạn tin tưởng. Hãy hiểu rõ mình và xác định giá trị sống, bạn sẽ tìm thấy người tương đồng.
3. CẢM NHẬN:
Trong chuyện chọn giày này, bạn không được phép thử trước khi mua. Đó là lý do bạn cần lắng nghe lời khuyên từ những người từng trải, như các nhà tư vấn hoặc những người có kinh nghiệm hôn nhân. Quan trọng hơn, hãy xin sự chỉ dẫn từ "Nhà sản xuất" – Đấng Toàn Năng để biết đâu là đôi giày phù hợp với bạn.
“Điều đáng chuẩn bị không phải là đám cưới, mà là cuộc hôn nhân sau đó.”
Nhiều người bị cuốn theo không khí đám cưới, vội vàng đồng ý mà quên mất: Đám cưới chỉ là một ngày, còn hôn nhân kéo dài cả đời. Sau đám cưới, bạn sẽ đối diện với thực tế, vậy điều gì sẽ chờ bạn phía trước?
Chọn giày cho đời mình không thể qua loa.
Hãy đặt câu hỏi:
- Đôi giày này xuất xứ từ đâu? (Tìm hiểu gia cảnh)
- Nó có vừa không? (Kiểm tra giá trị và niềm tin)
- Giá trị thế nào? (Mối quan tâm và sở thích)
- Độ bền ra sao? (Tính cách và phẩm chất)
- Ai đã tạo ra nó? (Sự tương đồng về đức tin)
- Nó có hợp với mình không? (Liệu người ấy yêu và chấp nhận bạn như bạn là?)
HÃY GHI NHỚ:
Nhiều người đang kéo lê đôi giày của họ, mệt mỏi và khó lòng đi đến đích. Có những người khác lại chịu đựng đau đớn hàng ngày, chỉ ước có thể tháo giày ra, nhưng không biết làm cách nào. Và có những đôi giày trông thật đẹp, nhưng khi tháo ra, người ta chỉ thấy toàn những vết sẹo.
Điều quan trọng không nằm ở vẻ ngoài, mà là sự vừa vặn. Bạn không thể biết giày có hợp không nếu chỉ nhìn từ xa – hãy đến gần và xây dựng mối quan hệ. Nhưng hãy nhớ: Bạn không được phép thử trước khi mua.
Và nếu lỡ chọn nhầm đôi giày, bạn vẫn có thể điều chỉnh cho vừa nếu bạn để "Nhà sản xuất" can thiệp và dẫn dắt trong hôn nhân của mình.
Chúc phúc cho mọi cuộc hôn nhân và tình yêu. 🙏
(Cảm ơn tác giả gốc của bài viết.)
Dịch bởi #Lilipham #Readandshare
4 notes
·
View notes
Text
180723
Lâu quá mình không quay lại đây,
Có Threads, nó cũng khá giống Tumblr, ít nhất là với mình. Nhưng mà mình vẫn thích, vẫn thương, vẫn yêu Tum lắm.
Mình mới coi xong tập cuối của phần 3 "Người thầy y đức". Phù, mãi mới xong, bộ phim mà mình đã trân quý dành dụm thời gian để xem thật cẩn thận chi tiết. Một điều thú vị ở mình đó là, các bộ phim liên quan đến bác sĩ mình đều khá ưu ái và mến mộ. Nó giúp mình có nhiều động lực đối với những thứ mình đang làm, và có lẽ so với việc giành giật mạng sống nơi phòng cấp cứu kia thì cố gắng đi tiếp với cuộc sống chẳng mấy dễ dàng này của mình vẫn dễ thở hơn.
Mọi người ổn không? Mọi người khoẻ chứ?
Hôm qua ấy, ngày 17.07, mình đã kí hợp đồng và thử đồng phục xong ở công ty mới. Mình không chắc mình có chọn đúng không, kiểu như là mình đã dành rất nhiều sức lực để quyết định rời đi hay ở lại nơi này. Nhưng mà chắc là đến lúc mình cần phải đi, mình cảm thấy nếu không ở một môi trường nào đó khác, nhiệt huyết và sức cháy của mình sẽ lụi tàn đi rất nhiều. Với một con nhỏ cung Sư Tử như mình thì việc đó rất là không ổn đối với lòng tự trọng và tham vọng của mình.
Mình đang gầy lắm đó, nhưng mình cũng áp lực với việc gầy đó. Trông mình có đẹp hơn không? Trông mình có thu hút hơn chứ? Mặc dù điều đó trong mắt hầu hết nhưng người thương yêu mình đều là không quan trọng. Nhưng với riêng mình thì đó là rất nhiều vấn đề.
Mình đã có giai đoạn viêm tai khá nặng, nên chỉ trong một tuần đã xuống hẳn một con số kí khá bất ngờ. Mình không còn theo dõi các shop bigsize, thay vào đó là những bộ đồ mới với vóc dáng gọn gàng hơn.
Tuần rồi mình có vô tình lướt trúng một clip tiktok của bạn cấp 3, bạn đó trong mắt mình là khá xinh, cao, body cuốn hút. Thế nhưng mà trong những clip viral của bạn, "lũ đàn ông thiếu kiến thức và trí tuệ" lại tràn ngập phần bình luận với những câu từ vô cùng khiếm nhã, cười cợt thậm chí xúc phạm bạn của mình.
Dĩ nhiên là so với việc căng thẳng hay buồn rầu dài lâu với những thành phần thô lỗ đó, ánh hào quang của việc được một vài lần lên xu hướng tiktok vẫn giúp bạn mình có động lực đăng tải nhiều clip thêm. Hoặc có khi đơn giản vì bạn thích. Mình hoàn toàn không có ý kiến gì về điều đó.
Nhưng mà, Tlinh đã nói một câu khá đỉnh: "Trí tuệ nhân tạo sắp thống trị thế giới và tất cả các bạn vẫn đang mắc kẹt trong thời kỳ đồ đá để chỉ ra cơ thể phụ nữ trông như thế nào". Trời ơi, hãy thôi xét nét về cơ thể phụ nữ đi, các bạn chưa bao giờ đủ tầm đâu.
Mình cảm thấy nực cười, khi mà thay vì cố gắng phát triển tốt hơn, người ta, một phần cộng đồng nào đó vẫn nỗ lực miệt mài núp sau bàn phím để rồi phán xét ai đó trong khi họ vẫn đang thật sự toả sáng với cá tính và chất riêng của họ. Mình thấy đẹp, tất cả những người con gái trên đời này đều đẹp lắm. Nhưng mà đôi khi vẫn trừ một vài thành phần khó hiểu không chấp nhận được thôi.
Aishhh, thôi kệ đi!
Mình có người yêu rồi, anh ấy là người yêu cũ của mình. Là người đã khiến mình đau khổ, là điều đã đưa mình quay trở lại Tum sau 5 năm hờ hững. Và giờ đây nhờ có cậu ấy, hay là do ha, mình cũng đã thôi dần sử dụng Tum. Mình vẫn muốn viết chứ, mình vẫn vào mỗi ngày một lần theo dõi mọi người đó. Nhưng có lẽ thời gian, sức lực và tâm trí con chữ của mình đã dành hết vào những dòng tin nhắn mỗi ngày với bạn đó rồi.
Mình không giải thích với ai được, và chắc chắn không ai sẽ hiểu được trọn vẹn lí do vì sao mình chọn anh, chọn quay lại với anh, chọn yêu và thương anh một lần nữa. Nhưng mà mình tin là mình đang đúng, đôi khi thì vẫn thấy khó hiểu. Nhưng mà mình không hối hận. Gặp anh, mình muốn có gia đình với anh. Muốn đi xa hơn với anh, cùng nấu cơm với anh, ôm anh ngủ, khóc lóc với anh, đeo cùng loại nhẫn với anh, đứng tên trong sổ hộ khẩu với anh trong danh xưng vợ chồng.
Tụi mình vẫn chỉ là những đứa trẻ 23, nhưng tụi mình tham ước mơ. Tụi mình đều động viên nhau bằng những câu từ nếu - thì, sau này - sẽ. Nó sẽ thật phù phiếm hoặc hão huyền, nhưng được sống trong những lời nói ước mơ đó với anh, mình vẫn cảm thấy vui vẻ nhiều.
Tụi mình có vấn đề đấy, mỗi tuần, mỗi ngày. Mình có khi khóc, anh có khi đứng dậy với tư thế tưởng như sẽ bỏ đi. Nhưng mà khi khoảng lặng dành cho mỗi đứa đến, mình sẽ ôm lấy tấm lưng ấy, anh sẽ không rời bỏ mình một mình mà đi mà thay vào đó là một cái thơm trán nhẹ nhàng.
Các bạn, một người con gái đã sứt sẹo nhiều đến nỗi có suy nghĩ tồi tệ về tình yêu, vẫn có thể một lần tìm thấy anh ban mai cho trái tim cô ấy. Vậy thì các bạn cũng hãy thế nhé. Hãy từ từ cho mọi thứ thời gian, và đừng lặp lại một lỗi sai nhiều lần. Đối diện và tìm ra giải pháp. Bạn chỉ có thể đi tiếp khi bạn có một đôi chân v���ng chắc, một trái tim đã thật sự được chữa lành.
Cuộc sống của mình, hai tháng gần đây dường như rất ít sử dụng mạng xã hội. Có một vài trend như Vinamilk hay thậm chí là ��ng dụng Locket hay là Threads, mình cập nhật siêu trễ. Tự nhiên đôi khi cũng thấy hơi hoảng, lật đật tìm hiểu chứ sợ trông già sớm quá. Nhưng mà một ngày của mình đang rất hài lòng với vài ứng dụng và những mẩu tin định kì đó rồi. Messenger hay Instagram còn không truy cập quá nhiều. Mình trông hơi có phần Lowkey rồi nhe. Hihi,
Mình mệt, lười và thích thu về thế giới của mình. Quỹ thời gian của mình khá ít nên thành ra mình không hào hứng để san sẻ cho thêm cái gì mới. Hơn 2 tuần nay mình toàn ngủ từ 9 rưỡi 10 giờ. Vô tình hôm nay lại tỉnh táo đến lạ ấy chứ. Chắc do muốn tranh thủ nốt bộ phim.
Mình đã có khá nhiều vấn đề căng thẳng đó, mà toàn là vấn đề mới. Mình khóc chứ, mình buồn, nhưng mà mình cũng dửng dưng. Kiểu đau cái đầu ghê muốn lẹ lẹ không muốn dây dưa mệt óc.
Mình bị la nữa, mình đã tuột dốc nhiều. Trong khi ngoài kia ai cũng cố gắng phát triển và đi lên. Mình cũng 1 phần vui 1 phần quên 1 phần tự hổ thẹn và buồn day dứt với chính mình.
Nhưng mà cuộc sống là được trải qua nhiều cảm xúc với nhiều cung bậc khác nhau. Mình chỉ muốn mình có thể khóc và mình có thể ăn. Mình có gia đình. Mình vẫn còn rất may mắn và hạnh phúc so với hàng tỉ sinh mệnh đang không ngừng vượt lên số phận ngoài kia.
Mình không rõ mục đích ban đầu mình viết là dài hay ngắn, lan man hay tập trung vào vấn đề nào. Có điều, mình đã gõ xong rồi đó.
Các bạn ngủ ngon,
Thảo Nguyên 🦖
33 notes
·
View notes
Text
VIÊN NGỌC QUÝ: 12 NHÂN DUYÊN TRONG ĐẠO PHẬT
(12 nhân duyên tùy ý đoạn được một cái nào thì các cái kia đều tan rã)
Nhân là đưa đến kết quả (năng sanh). Duyên là giúp nhân thành quả (sở sanh). 12 nhân duyên còn gọi là 12 hữu chi (có cành nhánh), 12 trùng thành (gặp nhân duyên tạo thành), 12 kinh cước (chỉ móc nối với nhau), 12 liên hoàn (liên đới và trở lại). Tùy khả năng đoạn một khoen là cả vòng 12 khoen tan rã. Sao mai vừa mọc ngày mồng 8 tháng 12, Bồ tát Cồ Đàm chứng ngộ Lý Duyên khởi tức 12 nhân duyên này. Từ đó, Ngài dùng ánh sáng duyên khởi làm đuốc soi đường, mở cửa bồ đề cho thế gian chúng sanh. 12 vòng (khoen) nhân duyên là:
1. Vô minh
2. Hành
3. Thức
4. Danh sắc
5. Lục nhập
6. Xúc
7. Thọ
8. Ái
9. Thủ
10. Hữu
11. Sanh
12. Lão tử
Chúng ta hiểu từng nhân duyên như sau.
1. VÔ MINH
Vẽ hình ảnh bà già mù chống gậy đi trong rừng xương. Rừng xương vì xương sống, xương sườn chúng ta đã bỏ từ bao kiếp luân hồi. Mù là không sáng, khởi niệm quên lửng chân không diệu tánh. Rừng là cũ kỹ, rậm rạp là nhiều. Con đường toàn xương chúng ta đã đi từ vô thủy, chúng ta đã biết chán chưa? Chúng ta còn đăm đăm trước mắt chuyện con rắn, heo, gà trước mắt. Còn tham lam, giận hờn cả ngày, đâu có thời gian nhận được mình là bà già mù đi trong rừng xương.
Quán duyên khởi, thấy mối tương quan của vạn pháp, huyễn sanh, huyễn diệt. Người có trí biết thương kẻ đồng nghiệp, tha thứ khoan dung những mê dại. Một lòng từ bi hỉ xả để độ tha. Vô minh là khởi niệm khiến quên mất chân tánh và mất sự sáng suốt của trí tuệ. Do vô minh nên mới tạo nghiệp thiện hay ác để tiếp nối vòng luân hồi sanh tử là hành. Cho nên vô minh (là hoặc, nhân) duyên hành (nghiệp, quả).
Thập triền (phẩn, phú, hôn trầm, thụy miên, hỷ du, trạo cử, vô tàm, vô quý, khan và tật đố). Triền là dây trói buộc chúng sanh, khiến chúng ta không ra khỏi sanh tử được mà bị ràng buộc hoài, không thoát khỏi được sợi dây ái nhiễm, dục nhiễm mà được lên bờ giải thoát an lạc. Thập triền này là thức ăn của vô minh. Khi vô minh bị đoạn trừ thì minh khởi.
Chúng ta cần phải làm giàu trí óc mình, thay đổi hiểu biết và chuyển hoá mình bằng những kho tàng tri kiến của các bậc cổ đức, cần mở mang và hoàn thiện tâm hồn bằng những dấu vết bước đi của người xưa. Chìa khóa hạnh phúc là tánh giản dị. Do đây ta có đầu óc rảnh rang để lo sự nghiệp tâm linh, không chăn ba con gà, rắn và heo nữa.
2. HÀNH
Trong kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy: nếu mình nói hay hành động với tâm thanh tịnh hay ô nhiễm thì an vui hay khổ não sẽ theo liền với mình như bóng theo hình hay như bánh xe lăn theo dấu chân con bò.
“Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý ô nhiễm
Ta nói hay hành động
Khổ não sẽ theo ta
Như bánh xe lăn theo
Bước chân của con bò.” [26]
“Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh
Ta nói hay hành động
An vui sẽ theo ta
Như bóng chẳng rời hình.”[27]
Như anh thợ gốm đang nắn chiếc bình. Nắn khéo thì bình đẹp (thanh tịnh). Vụng thì bình méo (ô nhiễm). Hãy nắn cẩn thận tức là chính thân miệng ý hiện tại đang tô điểm hoặc bóp méo tương lai của chúng ta. Lành thiện thì cuộc đời mai sau sẽ huy hoàng. Mê dại xấu ác thì thảm hại đáng thương đang chờ đợi, tức hành vi hiện tại đem quả báo mai sau nên Hành duyên Thức, nghĩa là những hành vi hiện tại có năng lực tiềm ẩn, điều khiển thúc đẩy tâm thức trong chiều sâu, để dẫn dắt hữu tình đi đến tương lai. Nghiệp thường xuyên thay đổi theo tâm biến hoá của mình như người thợ tùy sở thích mà nắn vạn hình thiên kiểu.
Nương lời dạy của Đức Phật, biết rõ hành uẩn duyên sanh, vô thường vô ngã, nhờ định lực, hành vô hành, đắc vô đắc, có thể dừng bước trên con đường sanh tử vô tận. Kinh Tương Ưng III, Phẩm Tham Luyến[28] , Đức Phật dạy: “Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hành? Có sáu tư thân này: sắc tư, thanh tư, hương tư, vị tư, xúc tư, pháp tư. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hành. Do xúc tập khởi nên các hành tập khởi. Do xúc đoạn diệt nên các hành đoạn diệt. Đây là con đường Thánh đạo Tám ngành đưa đến đoạn diệt, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.”
Đức Phật dạy sắc tư, thanh tư, hương tư, vị tư, xúc tư và pháp tư là tâm suy nghĩ về sắc thanh hương vị xúc pháp, 6 trần gọi là Hành. Tư là động lực đưa đến tái sanh, tức là tùy bàn tay khéo vụng mà thành bình đẹp xấu. Ý nghiệp là căn bản sanh tử. Tâm trong sạch là gốc giải thoát. Ý thanh khiết là nền tảng tiến hóa. Ý nghiệp niệm niệm phan duyên, kích động sáu căn, dung thông khắp cơ thể. Bao nhiêu nghiệp thiện ác nặng nhẹ, ý đều làm chủ. Ý nghiệp vi tế rất khó khăn cho chú mục đồng chăn giữ. Chúng ta phải tự điều phục tâm mình như Kinh Pháp Cú dạy:
“Người dẫn thủy, dẫn nước;
Kẻ làm cung, nắn tên;
Người thợ mộc, uốn ván;
Bậc chí thiện, tự điều.”[29]
Tâm ta như một dòng sông. Sự chuyển động của dòng sông là tổng hợp của tất cả những chuyển động từng giọt nước. Cũng thế, tâm chúng ta là một chuỗi thiện ác, vui buồn yêu ghét. Sự liên tục xê dịch, đổi dời, triền miên chuyển động biến hóa này là Hành ấm. Rời các niệm tưởng suy nghĩ không có hành ấm nên nói hành vô ngã.
3. THỨC
Tranh vẽ cảnh chú khỉ nhảy từ cành này sang cành khác. Cành cũ (nghiệp cũ) đã khô cằn, cành mới trĩu đầy quả (có thể lành hay độc). Tâm thức thật thể ở khắp pháp giới nhưng vì vô minh cứ gặp cảnh là thọ khổ vui, khởi yêu ghét. Không ngờ đã mắc chỗ đầu thai đem đến danh sắc. Thân sau gọi là tái sanh. Thân này là hậu quả của năm uẩn cũ. Thần thức theo nghiệp chịu báo tái sanh để đền ơn hay trả oán hoặc hưởng phước hoặc chịu tội gọi là thức duyên danh sắc.
Tâm thức là một chuỗi biến đổi duyên sanh làm sống bào thai và là cái biết của sáu giác quan sau này. Nếu định nghiệp sắp làm con trai thì thân trung ấm dấy niệm thương mẹ. Nếu là con gái thì thân trung ấm dấy niệm thương cha. Nhơn lòng yêu làm hạt giống, nạp tưởng điên đảo nên thai để gá vào mẹ, nên nó là hành duyên thức. Cái hành nó chuyền níu qua thức.
Khi thần thức hoan hỉ với lúc cha mẹ giao hợp, ba hơi nóng hay điểm này (cha, mẹ, trung ấm) nhập cục với nhau như một điểm hồ đặc ở trong tử cung. Thức ấy là tinh thần; tinh cha huyết mẹ là vật chất. Bấy giờ trong bào thai có ba nguyên tố là mạng sống, hơi ấm của ba lửa (cha, mẹ, thần thức) và thức: tánh biết, tánh Phật mà khi cuộc vào thân người thì gọi là thức A-lại-da. Khi đầu thai, thức này đến trước nhất, rồi lần hồi nảy sanh bảy thức kia. Thức tâm là danh (phần vô hình), phôi thai là sắc (hữu hình) nên bảo thức duyên danh sắc, thức leo qua danh sắc.
Lớn lên khi sáu căn tiếp xúc sáu trần sinh phân biệt sáu thức. Nếm mật ong thì ngon ngọt, ăn ‘cơm không’ ta thấy vị lạt nhạt nhẽo. Các thực phẩm mỗi thứ, một vị nhưng khi bài tiết ra, chúng chẳng khác nhau. Cái tô so với cái tách là lớn nhưng so với cái chậu lại bé. Tâm phân biệt theo nghiệp mà nhuốm màu vạn vật. Thế giới sáu trần chính nó tạo ra toàn những bất đồng. Đường ngọt, muối mặn, khổ vui, động tĩnh chung quy cũng chỉ là nhân duyên sanh nên vô ngã, vô thường, khổ và không. Chỉ cần chúng ta luôn tự chủ và sáng suốt. Những cảm giác khởi lên chúng ta ghi nhận, biết rồi để mặc chúng tan đi với tánh cách vô thường của chúng. Vọng tâm như con khỉ nhảy nhót, ưa thích rồi chán bỏ, rồi lại ưa thích rồi lại chán bỏ… giác quan tiếp xúc sự vật. Yêu và ghét phát sanh. Thế là có anh si mê đứng đấy. Nhưng với chánh niệm thì đấy là lúc trí tuệ phát sanh. Bắt buộc phải có mặt ở một nơi mà các giác quan bị quấy rầy. Đừng ngại, giác ngộ không có nghĩa là điếc hay mù, chỉ cần chánh niệm, không dính mắc. Bản chất là ảo ảnh nên sáu trần tự trôi qua. Điều cần yếu là phải học cách kiểm soát và làm chủ con khỉ. Tám thức phân biệt tài tình tuyệt diệu.
1. Nhãn thức tâm vương là chủ tể biến ra thế giới màu sắc, hình tướng.
2. Nhĩ thức tâm vương biến ra thế giới âm thanh.
3. Tỵ thức tâm vương biến ra thế giới thơm hôi.
4. Thiệt thức tâm vương biến ra thế giới ngọt chua.
5. Thân thức tâm vương úm bala biến ra thế giới nóng, lạnh, trơn và rít.
6. Hoàng đế ý thức tâm vương tài ba lanh lẹ, quán xuyến vào các pháp trần, chiếu rọi quá khứ, hiện tại, vị lai và thống lý cả năm quốc gia trên.
Năm thức trên tuần nghiệp theo duyên biến ra năm trần cảnh, kiến hoặc chấp năm trần là thật. Ý thức phân biệt xấu đẹp hay dở là tư hoặc. Kiến hoặc, tư hoặc là gốc trầm luân. Ai chăm quán vô ngã, vô ngã sở thì ý thức chuyển thành Diệu quan sát trí, mở đường cho tạng thức trở về đại viên cảnh trí, thành chánh đẳng chánh giác.
Thật ra nhãn thức không nhìn thấy cảnh bên ngoài đâu.
a. Thần kinh: ta đang nhìn sự vật ở thần kinh trong con mắt. Do ánh sáng mặt trời chiếu vào bông hoa ở ngoài vườn, phản chiếu qua con ngươi vào thị giác thần kinh.b. Bóng ảnh: tâm liền thấy một bóng ảnh gọi là nhãn thức đã sanh.c. Bóng ảnh theo nghiệp người: theo nghiệp người, cha mẹ, gia đình, nhà trường đã dạy ta gọi là hoa vạn thọ…Trước kia ta yên chí là ta thấy bông hoa thật ở ngoài vườn. Đâu ngờ mình chỉ thấy bóng ảnh ở thần kinh của nghiệp người, theo duyên hiện lên gọi là nhãn thức sanh; rồi lại theo duyên tan đi, gọi là nhãn thức diệt.
Bóng ảnh này không phản ảnh trung thành sự thật đâu. Nó theo duyên ánh sáng mặt trời, giả hiện trong lòng mắt đang tối của loài người. Mắt cua tròn xoe lồi ra ngoài hẳn lãnh tia sáng một cách khác. Bông hoa hiện lên hẳn cũng phải là một hình sắc khác. Các công nghệ sản xuất gương hiện nay minh chứng điều đó cảnh vật tuần nghiệp phát hiện. Thế cho nên, nhãn thức hư vọng vô ngã và nhãn thức hư vọng thế nào thì năm thức kia cũng vậy.
4. DANH SẮC
Phật dạy vẽ một chiếc thuyền đang chở bốn thùng đồ vật (đất, nước, gió và lửa). Vọng thân như con thuyền đang trôi trên dòng sông sanh tử. Danh là tâm (sắc là đất nước gió lửa) chính những yêu ghét mừng giận của chúng ta hàng ngày đưa chúng ta đi đầu thai, như khỉ theo nghiệp leo trèo mà có lên hay xuống. Đức Phật gọi bào thai là danh sắc.Tâm là danh, người chèo lái con thuyền tức thức A-lại-da. Một khi thân đã thành tựu hoàn mãn rồi, thức này sẽ lần hồi nảy sanh bảy thức kia. Cái nghiệp (vọng thân) của mình như thuyền đang trôi trên dòng sông sanh tử. Có Danh Sắc bào thai thì có sáu căn. Nên danh sắc duyên lục nhập.
5. LỤC NHẬP
Lục Nhập là sáu căn (bào thai hoàn mãn ra khỏi bụng mẹ). Phật dạy vẽ nhà có sáu cửa vì sáu trần sẽ từ sáu căn đi thẳng vào tâm.Căn nhân trần phát ra cái biết và trần nhân căn mới có tướng hiện; từ đó thức phân biệt là đầu mối chia chẻ nhị biên, khiến ngã tánh sai lầm mọc rễ. Chủ thể nhận thức (tâm) và đối tượng nhận thức (cảnh) dựa nhau đồng khởi là do môi giới sáu căn. Kinh Lăng Nghiêm[30] , mười phương Như Lai khác miệng đồng lời xác nhận rằng: “Đầu nút câu sanh vô minh khiến luân hồi sanh tử chính là sáu căn, cho nên y sáu căn mà cởi gỡ thì được tịch thường đạo quả an vui giải thoát” (Tri kiến lập tri tức vô minh bản; tri kiến vô kiến tư tức Niết bàn). Thế thì sở dĩ bây giờ chúng ta là chúng sanh và Phật là bậc thánh vì ngài khi sáu căn tiếp xúc sáu trần thì không khởi niệm, còn mình thì mở tung các căn như căn nhà mở toang các cửa để thu nạp và lãnh trần cảnh, rồi tính toán khôn dại, hơn thua, lợi hại. Thế là vô số tham, sân, si khởi dậy và tạo ra nghiệp sát, đạo, dâm, vọng…Do có sáu căn mở toang tiếp cảnh ngoài nên có xúc chạm, vì thế lục nhập duyên chuyền níu qua xúc.
6. XÚC
Căn trần xúc chạm (mắt xúc trần, tai xúc thanh, mũi xúc hương, lưỡi xúc vị, thân xúc chạm và ý xúc pháp) nhưng nguy hiểm nhất là nam nữ hai thân xúc chạm. Đây là nguồn chảy thành biển trầm luân sanh tử thế gian. Thân này là quả của dục nhiễm. Rồi trong lúc có thân, chúng ta lại tiếp tục tạo vô số các nhân mới để tạo quả vị lai. Hàng ngày yêu thích cái áo này, ký tên với cây viết này mới chịu, làm việc với người mình hạp, chỉ thoả mãn với món ăn mình thích, chỉ nói chuyện hay email với người mình ưa… những việc nho nhỏ đó đều biểu lộ chủng tử lòng ái nhiễm, lòng tham ái của con gà hay bồ câu và ta cứ vô minh, vô tình hay cố ý tạo những hạt giống chủng tử đó.
Thế nên bổn phận đầu tiên của người xuất gia là hộ sáu căn (hộ mắt đừng để thấy sắc ái nhiễm, hộ tai đừng nghe tiếng bậy, hộ lưỡi đừng thốt lời ám muội, hộ mũi đừng ngửi hương son phấn, hộ thân đừng đam mê xúc chạm, hộ ý đừng để tư tưởng bất chính khởi lên). Quán thân do bốn đại đất nước gió lửa giả hợp, không ta, không người, không thọ và không mạng. Sự xúc chạm là pháp không có. Chỉ có sự có mặt hai duyên căn trần. Rộng quán sát sẽ thấy tất cả vạn pháp đều không tự có. Thực sự chỉ là sự có mặt của duyên. Ai am hiểu sự thật này là hiểu Phật pháp. Không nhận thức được thật tướng của các pháp, không thấu đáo được chân tướng của chính mình, không có chánh kiến là vô minh. Bà già mù vô minh vẫn ngự trị muôn loài cho tới bao giờ chúng ta chịu mở mắt theo ánh sáng giác ngộ của Như Lai.
7. THỌ
Hàng ngày chúng ta thọ cơm, thọ nước uống, thọ dưỡng khí vào, thọ hơi ấm mặt trời. Rồi chấp thủ đất, nước, gió, lửa vô thường này là ta. Thân kiến là gốc tất cả tà kiến. Cho thân là ta nên mỗi khi căn chạm cảnh, tâm liền thọ trần mà có khổ vui. Tất cả chỉ có thọ ấm vọng lãnh nạp hư phát minh mà thôi. Thọ uẩn là yếu tố kích thích, trói buộc và sai sử chúng ta rõ ràng nhất.
Thọ thì khổ vì có nhận lãnh là có khổ. Thọ thân này là thân riêng của ta. Thọ tâm này là tâm riêng của ta là cái thọ đầu tiên để từ đó có những cái thọ khác. Nào là thọ cái ăn, thọ cái mặc, thọ cái ở, thọ sắc, thanh, hương, vị, xúc, thọ những cái làm ta thích thú, thọ những cái cần thiết, thọ những cái không cần thiết, rồi thọ những cái xa xỉ, thọ những cái thừa thãi, vô ích vì thói quen góp nhặt tham lam không thể bỏ qua. Mỗi chúng sanh, mỗi cuộc đời là một chuỗi những thọ nhận liên tiếp.
Thọ cuộc đời là một trường đau khổ (khổ đế: tám khổ). Còn nhiều nỗi khổ khác do thọ mà ra như nhận được một cái quý thì nơm nớp sợ mất, lo giữ nhưng chắc gì còn với mình. Người giàu sợ mất của. Người có địa vị sợ mất địa vị. Người có người yêu sợ mất người yêu. Người có danh vọng sợ mất danh vọng. Thọ thuận thì vui. Thọ nghịch thì khổ. Thọ không thuận không nghịch thì si. Đây là lạc thọ, khổ thọ và si thọ. Tóm lại ba thọ đều là khổ.
Thân vô ngã (vọng thân vì bao gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), tâm cũng vô ngã (là vọng tâm vì thọ, tưởng, hành và thức là không). Thân và tâm không phải là hai thực thể riêng biệt, độc lập và tách rời. Chúng luôn đi đôi, quan hệ liên đới chặt chẽ, đồng xuất phát từ một tạng thức u mê nhưng tài tình kỳ diệu.
Hàng ngày sáu căn tiếp xúc sáu trần, thọ khổ vui, tưởng yêu ghét, hành suy nghĩ và thức phân biệt. Ai cũng biết thọ chỉ là cảm giác nhân duyên sanh. Đã là cảm giác thì hẳn hư vọng. Nhân duyên sanh là trong chấp ngã (cho thân này là thật), ngoài chấp pháp (cho sáu trần là thật). Ví dụ: Mắt nhìn thấy một người thân thương, tâm vui (thọ lạc, vui vì gặp thuận cảnh, đưa đến ái ngã); Nhìn ra vườn thấy ai dẹp những chậu hoa cúc dễ thương của mình đi, bực bội (khổ thọ, vì chạm cảnh trái ý). Nhìn cảnh không buồn không vui (si thọ vì chấp có ta đang nhìn cảnh ấy). Nếu vui từ tâm ra thì sao không thường vui, nếu vui từ cảnh ra thì can hệ gì đến ta, rõ ràng thọ trống rỗng hư vọng không thật thể. Hàng ngày sáu căn tiếp xúc sáu trần, nuôi dưỡng ba độc tham sân si. Các tổ có tuệ giác nên bình thản, gọi là xả thọ. Chúng sanh cho thọ là vui nên càng thọ càng tốt. Đức Phật dạy thọ thì khổ.
1) Hoại khổ: ta gọi vui (lạc thọ), Phật gọi là hoại khổ vì vạn pháp tánh chất vô thường, quá khứ đã qua, hiện tại đang mất, thấy vui chỉ là do pháp trần lạc tạ ảnh tử.2) Khổ khổ: ta gọi khổ (khổ thọ), Phật gọi khổ khổ vì thân sanh già bịnh chết đã khổ còn thọ thêm cảnh khổ bên ngoài.3) Hành khổ: ta gọi bình thường, không khổ không vui (si thọ), Phật gọi là hành khổ vì si mê cho căn trần là thật, chấp ngã chấp pháp càng huân càng dày thì quyết định chỉ đi đến tam đồ khổ báo, thế nên cả ba thọ đều khổ.
Thọ khổ là khổ, vì tăng trưởng sân não.Còn bình thường huân tập ngu si không tuệ, nên thọ si là khổ.Còn vui thì tăng trưởng lòng tham, lún sâu vào biển vô minh, khó nghĩ tới sự ngóc đầu ra, nên lạc thọ là khổ.
Dòng sông là những giọt nước đang xê dịch. Thân thể ta là một dòng sông. Vô biên tế bào đang chuyển biến. Tâm ta cũng là một dòng sông. Các cảm thọ sanh diệt, diệt sanh không ngừng, theo sự hoạt động của sáu giác quan. Cảm thọ vui đưa đến tham luyến, khổ đưa đến chán bỏ. Mỗi cảm thọ đều kích thích tham và sân nổi dậy. Nay chánh niệm thì tình trạng bắt đầu thay đổi. Cảm thọ được diễn biến chiếu soi dưới ánh sáng của ý thức. Chánh niệm không nhận nó là ta nữa, không nói tôi ưa thứ này, tôi chịu thứ kia, tôi vui, tôi khổ.Kết quả đầu tiên là khôi phục lại chủ quyền, do đây cảm thọ đã mất đi ma lực của nó. Kết quả thứ hai là thấy được nguồn gốc của nó là vô minh. Do chấp ngã, chấp pháp mà có cảm thọ. Kết quả thứ ba là biết tự tánh nó hư vọng, không có bản chất, chỉ là những cảm giác sanh và diệt theo nhân duyên. Có khi tu tập cả chục năm qua rồi mình vẫn chưa vô được những ý nghĩa này. Xin hãy suy nghĩ.
Cả ngày gắt gỏng cau có do nguyên nhân vì thức khuya, thiếu ngủ, đây là cảm thọ khổ gốc từ sinh lý. Bị một người bạn hiểu lầm, bực tức, thọ khổ, đây gốc là từ tâm lý. Đi về thấy ai bày trong phòng mình rác bẩn, đồ đạc lộn xộn bừa bãi, phát cáu, đây là thọ khổ vì vật lý. Được khen ta vui, quán chiếu, khám phá ra căn bản thọ vui là từ ngã ái và lạc thọ này đưa đến ảo tưởng. Có tỉnh ra mới tránh được những tự hào, tự mãn vô ích. Một khi lạc thọ ảo hoá tan biến nhường chỗ cho những niềm vui lành mạnh có tác dụng nuôi dưỡng giác ngộ, trưởng dưỡng thánh thai, thế nên cảm thọ rõ ràng bất định. Khổ vui tùy theo bản chất mọi người.
Bởi vậy, Phật dạy vẽ minh họa sự xúc thọ như người bị mũi tên độc bắn vào mắt. Nếu người khôn thì rút ra rồi, nhưng chúng ta cứ cắm mũi tên ấy tự đâm vào mình từ sáng đến chiều, ngày này sang ngày khác cho nát thây ra, nếu có ai hỏi thì rút ra đâm vào người khác nữa. Ví dụ có người nói vu oan cho ta, tức là bị một mũi tên đâm vào mắt, vào tim. Chúng ta đâu có chịu quên lời nói trái tai ấy đâu. Mỗi lần nhớ là một lần đâm sâu vào mắt. Chưa đủ, ta lại điện thoại hay email cho người ở Sa Đéc, Cà Mau… rồi Ấn độ, Hoa kỳ… kể nỗi oan khổ của mình cho người khác nghe, thế là đưa tiếp những mũi tên khác đâm vào mắt người khác. Cứ thế mỗi ngày chuyển không biết mũi tên đi để tự đâm vào mắt người mà không biết lời thị phi đó chỉ là trò chơi của động và tĩnh, là làn sóng âm ba, là cái không có. Chỉ bậc thánh nhân xả thọ mới an ổn tinh thần, tìm được sự thanh thản mát mẻ. Một thiền sư nói rằng:
“Thị phi rơi rụng như hoa sớm
Để lòng lạnh băng với gió sương.”
Hàng ngày quán chiếu thân, tâm và cảnh đều giả nên an định tinh thần. Nhiều mũi tên có bay đến, nhưng cả các thánh nhân không nhận và không giữ, thế là chúng tự gẫy và rụng xuống như hoa rơi. Nếu không thế thì dù xuất gia vẫn sâu kết phiền não, gồng gánh trọn đời.
“Kẻ hơn mua oán,
Thua ngủ không yên,
Hơn thua đều xả,
Tự tại bình an.” [31]
Yêu tương tư là mũi tên cắm phập sâu nhất.
“Thương em mười kiếp vẫn chờ
Trăm ngàn năm nữa vẫn thương em mà”.
Vì đưa đến tham đắm, dấn vào biển vô minh, cho nên đời đời, kiếp kiếp ràng buộc gặp nhau hoài. Mỗi tên này nhiều vị độc, mũi tên tình ái. Ngạn ngữ Pháp có câu: “Có ba loại người không sợ trời sập là kẻ điên, kẻ say và người đang yêu” vì những kẻ này bị tên cắm quá sâu, đắm nhiễm mà không màng gì đến sự nguy hại xung quanh. Tứ Niệm Xứ là kiện tướng để hàng phục vọng tưởng hay thọ tưởng ái nhiễm này. Chúng ta từ nhiều kiếp quay cuồng chỉ vì bốn đảo:
1) Thân bất tịnh mà cứ quý chuộng mê say cho là nơi nương tựa;
2) Thọ thì khổ mà cứ khao khát, những mong càng được nhiều càng hay;
3) Tâm vô thường, vọng tưởng mà cứ tin chắc là một phiến thủy chung sáng suốt;
4) Pháp không thật mà cứ cho nội sáu căn, ngoại sáu trần, chặng giữa là sáu thức là thật.
Quán chiếu thuần thục mới không nô lệ sáu trần, khôi phục lại quyền tự do độc lập.Tứ niệm xứ dạy chúng ta dùng hơi thở quán chiếu sự có mặt của khổ vui, của tình cảm ái nhiễm, rồi từ từ điều phục. Hơi thở nhẹ nhàng an tịnh dần dần. Thân tâm nhẹ nhàng an tịnh dần dần. Cứ như thế chúng ta an tịnh hoá cả ba thọ, ba tưởng. Chánh kiến thấy rõ nguồn gốc, bản chất và hậu quả của những cảm thọ khổ vui nên giải thoát được sự khống chế của nó. Đối trị thọ với chánh niệm không nhận là mình. Biết nguồn gốc thọ là vô minh, tánh nó là hư vọng. Quang trạch được khu rừng năm ấm sẽ được hưởng bình an, thong thả đi trong đời không bị dính mắc, là con đường Niết Bàn. Hãy quán có thọ thì có khổ. Có lãnh thọ nhiều thì khổ nhiều. Có lãnh thọ ít thì khổ ít. Đức Phật dạy như nhiên để nó đến rồi đi, thọ mà không thọ.
8. ÁI
Như người say rượu, đã uống mấy chai rồi, say lỉ bỉ, mấy chai không nằm nghiêng ngả lăn dưới đất. Trên bàn một chai để sẵn sắp sửa uống và còn mấy chai nữa sắp hàng chờ đợi. Ý nghĩa bức tranh này cho ta biết khát khao thọ cảm vẫn vô tận trong lòng muôn thú, trong lòng chúng ta, quá khứ cũng thọ ái dục, hiện tại vẫn thọ và mãi đến vị lai. Ái dục ngọt ngào khiến càng say sưa đắm đuối mất chánh kiến.
Tri giác khởi liền sau thọ. Yêu thích tham luyến tiếp liền sau thọ vui. Ghét bỏ xa lánh tiếp liền khổ thọ. Do đó, hết yêu đến ghét, hết ghét lại yêu, cứ vậy triền miên niệm niệm vọng tưởng. Thật ra tưởng tức không, vì rời đối tượng hiện tại và các pháp trần nhớ về quá khứ, vị lai, tưởng quả tình không có, chỉ đối duyên tạm có, duyên diệt ảo tưởng liền tan.
Ngài Quán Tự Tại bồ tát thấy nghe hay biết đủ thứ, không bị che mờ, không bị chi phối. Tất cả hay dở, lành dữ đều bay qua như gió thoảng, như hư không. Được như vậy nên hết khổ. Lời nói là thứ hư vọng, chỉ là trò chơi động tĩnh, trò chơi của khí hơi, do không khí chuyển động (làn sóng âm ba) mà thính giác thần kinh tự biến ra âm thanh để phân biệt. Trí tuệ Bát Nhã biết lời nói là gió thoảng nên không bận lòng. Không ôm không khí chuyển động đó để suy nghĩ rồi sinh oán ghét hay thương yêu.
Thực hành sâu xa Bát Nhã không có nghĩa là chìm nghỉm trong đó mà là tự tại không gián đoạn. Tâm an định một phiến. Tưởng uẩn không lúc nào bị chi phối. Thế là hết khổ. Chúng ta khi đang quán thì tưởng uẩn trừng lặng. Nhưng khi xúc sự vẫn nhận vọng tưởng là mình. Thế là thực hành Bát Nhã chưa sâu nên hễ đụng chuyện liền khổ. “Ái bất nhiễm bất sanh ta bà” vì nhân ái nhiễm nên chúng ta hiện diện ở đây. Vì thế, Đức Phật dạy ở khoen xúc rằng sự xúc chạm của nam nữ là nguồn chảy thành biển trầm luân sanh tử thế gian. Loại tình cảm được đề cập đến nhiều nhất trong các tác phẩm nhân loại đó là tình yêu nam nữ. Đây là loại tình cảm mãnh liệt hơn các loại tình cảm khác bởi vì nó liên quan đến bản năng sâu kín của con người. Con người luôn muốn chiếm đoạt về mình mẫu người có thể đem lại hạnh phúc cho mình. Đây là tâm lý vị kỷ và tình nam nữ có sự thôi thúc âm thầm của hoạt động tình dục, một loại hoạt động gây khoái cảm xác thịt rõ rệt nhất là duyên hệ lụy ràng buộc của nhiều đời, là nguồn máy để tạo ra bánh xe luân hồi quay chuyển. Nếu không có thiện căn thâm sâu, không nguyện lực kiên cố, không có thiện tri thức hỗ trợ thì tăng cũng như tục khó thoát khỏi lưới ái nhiễm này.
Nhìn sâu vào thì tình yêu cũng chỉ là bản chất ích kỷ tăng thêm ngã ái, ngã luyến; người thương mình nên mình thương lại và đây cũng là sự hưởng thụ của bản năng con người. Chính bản năng thích hưởng thụ đã thúc đẩy nam nữ tìm đến nhau, và ngược lại nó cũng thúc đẩy họ làm khổ lẫn nhau (biết bao nhiêu vợ chồng gây gỗ, đánh đập, li dị, ngoại tình; nhưng ngược lại cũng có những cặp có tình thương chân chính của sự hy sinh, độ lượng, vị tha… thì tình yêu đó có thể bớt đi màu sắc bi quan của bản năng ích kỷ). Mặt trái của ái, yêu là ố, là ghét. Yêu ham điều này, chán ghét điều khác, nên thọ duyên ái ố. Ca dao Việt Nam có câu:
“Thương nhau cau sáu bổ ba
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười.”
Hay:
“Thuơng nhau trái ấu cũng tròn
Ghét nhau bồ hòn cũng méo.”
Yêu cũng nhớ mà ghét càng nhớ hơn. Tâm vướng mắc dù thân không có cạnh nhau nhưng vẫn mang nỗi không ưa trong lòng. Ràng buộc khổ não đâu có chịu xả ra mà càng nhớ thì càng si mê. Càng mê càng khổ, càng khổ càng mê. Cứ thế đi đến vô cùng. Chúng ta có hai câu thơ:
“Vũ vô kềm tỏa năng lưu khách,
Sắc bất ba đào dị nịch nhân.”
Mưa không có kềm dây nhưng có khả năng lưu giữ bước chân khách. Mỹ sắc không phải sóng ba đào nhưng có thể dìm chìm kẻ anh hùng hào kiệt. Đây là sức mạnh của ái tình và lòng ái nhiễm.
Kinh Pháp cú có rất nhiều lời dạy của Đức Phật về lòng ái nhiễm như:
“Dòng ái dục chảy khắp,
Như dây leo mọc tràn,
Thấy dây leo vừa sanh,
Dùng kiếm tuệ đoạn gốc.” [32]
“Ai sống trong đời này,
Ái dục được hàng phục,
Sầu khổ tự tiêu dần,
Như nước giọt lá sen.” [33]
“Biết thân như bọt nổi,
Giác thân to huyễn hóa,
Bẻ mũi tên ma ái,
Vượt tầm mắt tử thần.”[34]
“Người nhặt hoa dục lạc,
Tâm ái nhiễm mê cuồng,
Đắm say trong dục vọng,
Bị nô lệ tử thần.” [35]
“Do vậy chớ yêu ai,
Ái biệt ly là khổ,
Những ai không yêu ghét,
Không có thể buộc ràng.” [36]
“Luyến ái sinh ưu tư,
Luyến ái sinh sợ hãi,
Ai giải thoát luyến ái,
Không ưu không sợ hãi.” [37]
“Tham ái sinh ưu tư,
Tham ái sinh sợ hãi,
Ai giải thoát tham ái,
Không ưu không sợ hãi”. [38]
Trong Tương Ưng: “Từ vô thủy luân hồi, này các Tỳ Kheo, không dễ gì tìm được chúng sanh trong thế gian này lại không lần nào làm cha hay làm mẹ.”
Tuần báo News Week ra ngày 03 tháng 11 năm 2003, Robert J. Samaelson, một kinh tế gia nổi tiếng nói: “Thường những người trẻ thì muốn già hơn, còn người già thì muốn trẻ hơn. Đây chẳng qua chỉ là một đoạn đường trong nỗ lực kiếm tìm hạnh phúc thiên thu bất tận của con người”.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy rất rõ về giới dục nhiễm [39] này:“Nếu chúng sanh lục đạo các thế giới, cái tâm không ái nhiễm, dục vọng không theo dòng sanh tử tiếp tục. Nếu tu theo pháp tam muội cốt để ra khỏi trần lao, nếu không trừ lòng ái nhiễm thì ra khỏi trần lao được. Dù có nhiều trí thiền định hiện tiền, nếu không đoạn trừ lòng ái nhiễm thì không ra khỏi trần lao được. Dù có nhiều trí thiền thiền định hiện tiền, nếu không đoạn trừ lòng ái nhiễm thì cũng lạc vào ma đạo. Hạng trên thành ma vương, giữa thành ma dân, dưới thành ma nữ. Các bọn ma này cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô thượng.
Sau khi Như Lai diệt độ, trong thế gian có nhiều loại ma này, giả làm thiện tri thức, khiến các chúng sanh sa vào hầm ái kiến, bỏ mất con đường bồ đề. A-nan, nếu ông dạy chúng sanh tu pháp tam-ma-đề trước hết phải đoạn dục vọng trong tự tâm. Ấy gọi là lời dạy rõ ràng thanh tịnh, quyết định thứ nhất của các đức Như Lai, Phật, Thế Tôn. Thế nên A-nan, nếu không đoạn lòng ái nhiễm, tà hạnh mà tu thiền định thì cũng như nấu cát, nấu đá mà muốn thành cơm. Dẫu trải qua trăm ngàn kiếp cũng chỉ gọi là cát nóng, đá nóng. Vì cớ sao? Vì đó là giống cát, giống đá, không phải là bản nhân của cơm vậy.
Ông đem thân tâm cầu diệu quả của Phật, dầu được diệu ngộ cũng chỉ là gốc dục vọng, cỗi gốc đã thành dâm thì phải trôi lăn trong tam đồ, chắc không ra khỏi, còn đường nào tu chứng niết bàn. Chắc phải khiến cho thân tâm đều đoạn hết giống ái nhiễm cho đến tính đoạn cũng không còn nữa thì mới trông mong chứng quả bồ đề của Phật. Như lời tôi nói đây, gọi là lời nói của Đức Phật. Không như lời nói đó, tức là lời nói của ma Ba tuần.” Ma ba tuần là ma ở trên cõi trời dục giới hay phá hoại bậc tu hành bằng hình thức hiện mỹ nữ hay dùng danh lợi để lung lay chí nguyện người tu hành.
9. THỦ
Tâm đã có thủ chấp, yêu ghét đã quyết định thì hăng hái tạo nghiệp, nên Phật dạy vẽ một người đang cố vươn mình lên để hái trái (có thể quả độc hay lành), không biết xả đi để tìm an vui tinh thần. Bởi lòng tham ái càng ngày càng thấm, càng nhiều nên bôn ba theo đuổi tìm kiếm khắp nơi, giáp xứ để tiến thủ lấy công việc làm ăn, ở và lo bảo thủ lấy tên tuổi công danh, sự nghiệp, người thương… nên nói ái duyên thủ. Hễ yêu muốn sự chi thì nó chuyền leo đến để bám giữ. Ái và thủ thuộc hoặc.
Con người là năm thủ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành và thức) nghĩa là có thói quen tự cột chặt vào năm uẩn. Bao nhiêu tập khí vô minh đều nhận là tôi: thân tôi, tôi khổ, tôi vui, tôi ưa thích, tôi nóng tánh… nên cứ bị kích thích, tạo nghiệp. Gốc khổ không phải ở năm uẩn mà ở chỗ cứ vơ lấy năm uẩn nhận là mình. Nếu giác tỉnh, bình tĩnh, sáng suốt, không thủ chấp thì năm thứ mê này sẽ tan dần. Muốn tỉnh giác phải vâng theo lời Phật, tu các pháp quán: sắc ấm là kiên cố vọng tưởng, thọ ấm là hư minh vọng tưởng, tưởng là dung thông vọng tưởng, hành ấm là u uẩn vọng tưởng và thức ấm là vi tế tinh tưởng.
10. HỮU
Hễ có thủ chấp liền tạo nghiệp nên vẽ một thiếu phụ mang thai (tạo nghiệp là gieo vào tạng thức một cái nhân để ngày mai có quả báo trong sáu nẽo luân hồi, như cái thai là nhân sau này có hài nhi).Giữ năm giới là nhân sanh về cõi người. 10 thiện là lên cõi trời. Có thêm thiền định thì lên sắc và vô sắc giới. Tất cả những hành vi thiện lành mà không có trí tuệ Bát Nhã soi sáng, đều có một năng lực tiềm ẩn để trổ quả trong tương lai, kéo dài hành trình sanh tử, nghĩa là khi chúng ta làm một Phật sự hay phước thiện gì mà không quán tam luân không tịch (ta không, người không và sự bố thí là không) hay quán đây diệu dụng để trang nghiêm biển phước bồ đề mà thường chúng ta muốn hưởng quả của việc thí đó, thì chúng ta sẽ được quả, do đó chúng ta cứ đi lên để hưởng phước thiện ở cõi trời, người và a-tu-la, nhưng cũng có khi đi xuống để đền nợ, trả oán, chịu quả ở cõi địa ngục, ngạ quỷ và bàng sanh, do đó bánh xe luân hồi lăn hoài từ vô thủy (không chỗ bắt đầu) mà không gián đoạn đến vô chung (không chỗ kết thúc).
10. SANH
Vẽ đứa trẻ sơ sanh từ bụng mẹ sanh ra. Đã có thân hình ắt có sợ hãi, có già bịnh. Đây là một ổ phiền não. Đây là nguồn gốc của tất cả khổ đau. Vũ trụ là một cơ thể sống thống nhất với nhau, trong đó mọi vật thể đều dường như có một sức sống thầm kín ẩn dấu bên trong dù đó là chất hữu cơ hay vô cơ (hữu tình hay vô tình).
Tất cả đều theo quy trình sanh, trụ, dị và diệt. Ngay cả sự hủy diệt của một hành tinh, cũng chỉ là sự sinh hoá kế tiếp theo sau của vũ trụ. Ngay cả một chiếc lá vàng rơi rụng, một gốc cây khô già cỗi, một bô lão nằm xuống… cũng không nằm ngoài tiến trình sống của nhân loại và vạn hữu. Tất cả đều sống và đều sinh hoá vô tận.
Krishna Murti, nhà văn và triết gia Ấn độ đã nói rằng: “Sáng nay hoa lá vĩnh viễn, vượt thời gian và tư tưởng, bao dung tình yêu và niềm vui… Hoa sẽ chết đi chiều nay, nhưng ẩn tàng sự sống. Cánh hoa nào cũng chết, nhưng chết trong sự sống. Cánh hoa nào cũng sẽ rơi nhưng rơi trong sự sanh khởi…” Trong vòng quay của hữu tình và vô tình, sự sống được biểu hiện rõ nét nhất nơi đời sống của sinh vật qua quá trình giao phối của hai giao tử đực và cái, nam và nữ, cha và mẹ để cho ra đời những giống con tiếp tục duy trì chủng loại đó gọi là sanh.
Nếu định nghiệp sắp làm con trai thì trung ấm thân dấy niệm thương mẹ, nếu là con gái thì dấy niệm thương cha. Nhơn lòng yêu làm hạt giống, nạp tưởng điên đảo nên thai để gá vào mẹ. Khi thần thức hoan hỉ với lúc cha mẹ giao hợp, ba hơi nóng hay điểm này (cha, mẹ, trung ấm) này nhập cục với nhau như một điểm hồ đặc ở trong tử cung. Thức ấy là tinh thần; tinh cha huyết mẹ là vật chất. Bấy giờ trong bào thai có ba nguyên tố:
1) Mạng sống có kỳ hạn của thai sanh;
2) Hơi ấm của ba lửa (cha, mẹ, thần thức lẫn giữa khối tinh huyết ấy kêu là nhất điểm chơn dương);
3) Thức: tánh biết, tánh Phật mà khi cuộc vào thân người thì gọi là thức Alaida. Khi đầu thai, thức này đến trước nhất, rồi lần hồi nảy sanh bảy thức kia.
11. LÃO, BỊNH VÀ TỬ
Chết là cái chắc chắn đến với mỗi chúng ta, nhưng khi nó đến vẫn mang cho chúng ta một nổi bàng hoàng, một sự đau buồn to lớn… nhưng dù thế nào đi nữa, nó cũng là một sự cảnh tỉnh chúng ta rằng mạng sống con người thật ngắn ngủi, không thể đoán trước được và thật mỏng manh. Chết là tiếng gọi chung từ tử thần, là một định nghiệp chung và là mẫu số chung cho tất cả chúng ta.
Chết nhắc cho chúng ta về bản chất phù du của mạng sống ngắn ngủi, khiến ta phải suy nghĩ lại về mình và khuyên chúng ta sống có ý nghĩa hơn, đừng lãng phí thời gian theo những theo đuổi tầm thường, theo những hoạt động vô tích sự, những lời nói sáo rỗng, những bảo thủ ngu dốt, những sở hữu vật chất tầm thường… vì những cái này kết cuộc chỉ gây đau khổ cho chúng ta.
Khi linh hồn chúng ta đi ra khỏi thế giới này thì những sở hữu, những thành tựu, những danh tốt, tiếng thơm đều trở thành vô dụng, chỉ có bản chất đạo đức con người mới có tồn tại… chỉ có tính chánh trực, lòng tốt, kiên nhẫn, trí tuệ và sự hy sinh hết lòng vì người khác là còn mãi. Hãy tu tập những phẩm tánh cao thượng này, thì cái chết đến sẽ là một sự ra đi nhẹ nhàng, là một sự hoàn thành lớn và không có gì để sợ hãi. Chết sẽ là sự hoan hỉ nên đánh vang tiếng trống, vui mừng vì ta đã hoàn thành nhiệm vụ. Sanh tử đã hết, gánh nặng đã đặt xuống, những việc cần làm đã làm xong. Không còn gì nữa.
Đức Phật dạy đối trị lòng tham ái xác thân bằng hạnh đầu đà và quán về cái chết (cửu tưởng quán). Tập thấy mình là một xác chết, một tử thi. Một cô gái trẻ đẹp đi qua kia chỉ là những bộ xương bọc thịt, phủ một lớp da, xức dầu thơm, bản chất là 32 thể trược đang chuẩn bị hoá dòi mủn nát trở về với cát bụi.
Niệm thân để đối kháng lại chỗ thấy biết rất sai của mình. Cháu đưa đám ông, con đưa đám cha. Cứ thế nối dòng đào hố vô thường, kiếp kiếp đời đời không thay đổi tri kiến, không thay đổi lối sống. Tập thấy cơ thể ta và người chỉ là những tập hợp vô thường đầy khốn khổ. Do đây giải thoát khỏi những hiểm nguy của tham ái.Nghĩ đến cái chết, đến sự hủy diệt, ta sẽ không quyến luyến cuộc đời. Do đó tâm được hoan hỉ và định tâm. Bởi biết sự vật đúng chân tướng của nó, ta không bị ràng buộc.
Nếu chúng ta không quán cái chết và tính tất nhiên của nó, chúng ta sẽ không có sự chuẩn bị, chúng ta sẽ trở nên mất chánh niệm khi cái chết đến, nhất là đối với người thân trong gia đình, bạn bè hay chính bản thân chúng ta. Vì vậy, hãy chuẩn bị hành trang tâm lý cho cái chết thanh bình. Nếu chúng ta để đời sống của chúng ta chạy theo vật chất thì chúng ta sẽ chết trong lo âu và tiếc nuối. Ngược lại, nếu chúng ta sống hết lòng phục vụ mọi người với tấm lòng từ bi thì chúng ta có thể chết với tâm an ổn, hạnh phúc. Thế nên phương pháp tốt nhất chuẩn bị cho sự chết là hãy sống một đời sống tận tụy phục vụ con người với trọn vẹn lòng yêu thương của mình.
Phần đông chúng ta bị nghiệp và các thứ cảm xúc ngăn che không cho thấy bản tánh. Những hành nghiệp tiếp tục trói buộc chúng ta vào vòng sanh tử không cùng tận. Bởi thế mọi sự đang bấp bênh, tùy thuộc cách ta đang sống, suy nghĩ ngay giờ phút này. Nếp sống hiện tại của ta có ảnh hưởng đến suốt kiếp vị lai. Đó là lý do cấp thiết khiến ta phải chuẩn bị con đường của mình với thái độ thông minh. Cần tránh thảm kịch quay tròn trong 12 nhân duyên khổ nhọc. Kiếp sống này là thời gian và nơi chốn duy nhất cho ta chuẩn bị. Ta chỉ có thể thực sự chuẩn bị bằng cách trở về chân tâm. Tổ Liên Hoa dạy: ‘Đời người ngắn ngủi, đâu có thời giờ để tâm lang thang. Cần thầy nghe quán tưởng không xao lãng để cầu giác ngộ. Có ba dụng cụ là văn, tư, tu có thể giúp chúng ta thấy được sự thật ta là ai và thể hiện niềm vui giải thoát gọi là trí vô ngã.’
Sống và chết là một chuyển tiếp. Đức Phật không can thiệp vào đường đi của nghiệp lực. Đức Phật chỉ giảng về cơ cấu và tác động của nó. Nguồn gốc của tái sanh là tham sân si. Mà tham sân si được vẽ trên nền xanh hư vọng nghĩa là huyễn hóa không có, vì thế nhà thiền gọi là không gốc:
“Vốn từ không gốc,
Từ không mà đến,
Lại từ không mà đi,
Ta vốn không đến đi,
Tử sanh làm gì lụy.”
(Thiền sư Như Trừng Lân Giác)
“Sanh từ chỗ nào đến?
Chết sẽ đi nơi nào,
Biết được chỗ đi đến,
Mới gọi người học đạo.”
(Thiền sư Hương Hải)
Đức Phật dạy chúng ta có năm pháp bất định là:
1. Mạng sống bất định: mạng sống là tuổi thọ, chất ấm, thức thứ tám duy trì mạng căn, là năm uẩn, là sáu căn, sáu thức hoạt động… Nó bất định vì chúng ta không biết khởi thủy của nó khi nào và chung cuộc khi nào. Nó không chủ thể, nó muốn không sinh hoạt nữa thì không sinh hoạt nữa gọi là mạng sống đã dừng.
2. Bịnh tật bất định: do vi khuẩn nhập và theo đạo Phật là tứ đại khi hoà, khi không hoà, khiến cho thân thể khi khoẻ, khi bịnh bất định.
3. Thời gian bất định: thời gian là sự biến dịch và vận hành thay đổi, ngày đêm sáng tối, quá khứ, hiện tại và vị lai không dừng và không định lại một chỗ. Thời gian như ngựa ruỗi. Trần thế như mây mờ. Đức phật biết tiết kiệm tối đa dù chỉ một phút, vì chết có thể đến bất cứ lúc nào. Đối với người hiểu đạo thì thời gian là phương thuốc nhiệm mầu để cảnh tỉnh vô thường, bồi dưỡng, tẩm bổ trí tuệ và kết quả hoa hương.
4. Chết bất định: muốn chết là chết không theo ý mình cho nên bất định. Có khi thật trẻ, có khi trung niên và có khi già mới chết. Có khi do bịnh mà chết, do tai nạn và có khi không có nguyên nhân gì cả cũng ngã lăn đùng ra chết. Chúng ta sanh một nơi, trú một nơi hay nhiều nơi và chết thường khó định là nơi nào? Có thể là núi rừng hoang vắng, cao nguyên lộng gió, đại lộ xe cộ, sông suối biển khơi, nơi chôn nhau cắt rốn, mồ mả tổ tiên, chùa chiền tự viện…Chết là sự gián đoạn một kiếp người, gián đoạn của một hơi thở mà hơi thở thì rất mỏng manh.
5. Nơi sanh bất định: đây là cảnh giới tái sanh bất định (chớ không phải bịnh viện chọn để sanh con), là cảnh giới hiện diện sau khi chết. Chết không phải là hết mà là một gian đoạn chuyển từ kiếp sống này sang kiếp sống khác. Con người chỉ rời bỏ thể xác này đến một cảnh giới khác.
Cứ thế mà làm nhân, làm quả quyện nhau khiến bánh xe quay liên tiếp không dứt. Trong vòng luân hồi cái chết và sống làm duyên cho nhau. Chết nơi này, sanh nơi khác, chúng sanh có mặt ở một nơi thì cùng một lúc cũng có một chúng sanh vắng mặt ở một nơi. Có khi chết sanh lại chỗ cũ cũng có. Muốn biết nghiệp tái sanh của mình hãy nhìn nghiệp hiện tại của mình. Mạng sống vốn bấp bênh, thân người luôn bịnh hoạn, thời giờ không ngừng bức bách, nơi chết lại vô chừng, chỗ tái sanh thì bất định. Hãy sống thu thúc giới hạnh và thanh tịnh.
13. SƠ ĐỒ 12 NHÂN DUYÊN
Trong 12 nhân duyên, cái nhân làm duyên cho quả. Quả làm nhân cho duyên, tạo thành xâu chuỗi luân hồi vô tận mà sự sống và chết từ thiên thu đã không ngừng tái diễn. Nếu chia theo nhân quả chuyền níu của quá khứ, hiện tại, tương lai và ‘hoặc-nghiệp-khổ’ thì vòng 12 nhân duyên được hiểu như sau:
Hai nhân -/ Vô minh: vọng hoặc che tối -> Hoặcquá khứ -/ Hành: vọng dấy nên ba nghiệp hiện hành chẳng dừng -> Nghiệp
Năm quả -/ Thức: hạt giống nghiệp phát sanh ra thức. Hiện tại Thức là biết đối cảnh để phân biệt
Nghiệp thức là nghiệp quả, một nghiệp -> Khổ-/ Danh sắc: thức tâm là danh. Năm căn là sắc-/ Lục nhập: sáu căn đều đủ. Tùy theo căn thì trần nhập vào căn nấy.-/ Xúc: căn nào đối trần nấy sanh xúc-/ Thọ: căn xúc trần thọ tốt xấu.
-> Bốn thứ này chỉ về sắc thân và sự cảm thọ của sắc thân trong sanh tử nên thuộc -> Khổ
Ba nhân -/ Ái: bởi lãnh thọ sanh áihiện tại -/ Thủ: vì tham ái đắm nhiễm, nên theo đuổi kiếm tìm kiếm.
-> là ái nhiễm đắm trước nên thuộc về -> Hoặc
-/ Hữu: do theo dõi mong cầunên gây ra các nghiệp hữu lậu.
Hai quả -/ Sanh: Vì đã có nghiệp nhân tất phảivị lai với lấy cái thọ sanh đời sau
->đây là các hành của thân khẩu ý nên thuộc -> Nghiệp
-/ Già bịnh chết: đã có sanh thân tức chịu cái khổ của bịnh, lão tử.
-> đây là sự thọ quả trong sanh tử nên -> Khổ
12 nhân duyên tùy ý đoạn được một cái nào thì các cái kia đều tan rã.
Hễ nhân đã đoạn thì không còn hạt giống nữa. Hễ duyên đã đoạn thì không còn cảnh phụ trợ.
Đức Phật kết vòng 12 nhân duyên như sau:
“Hai pháp có thể biết và phải thông suốt là danh và sắc;Hai pháp có thể biết và phải tận trừ là vô minh và ái dục;Hai pháp có thể biết và phải thực tập là giới và định;Hai pháp có thể biết và phải chứng ngộ là giải thoát và trí tuệ”.
Nguồn: phatgiao.org.vn
25 notes
·
View notes
Text
CHÁNH NIỆM VỀ TRI THIÊN MỆNH Thái Thanh Nguyên Cổ nhân thường nói “ngũ thập tri thiên mệnh”. Trong chuỗi lịch sử phát triển nhân văn lại có đức ông Khổng Tử nước Lỗ thời Xuân Thu đã kết tập nên sách Luận Ngữ, trong đó cũng có nêu vấn đề “ngũ thập nhi tri thiên mệnh”. Thiên mệnh là gì? Thiên mệnh có quyết định gì cho một con người và thật sự ảnh hưởng đến toàn cục xã hội hay không? Mỗi chúng ta hãy tự hệ thống những tư liệu đã từng đọc qua xem sao nhé.
Tuy Khổng Tử chỉ là một triết gia, nhưng vào thời thế giới chưa có nhiều triết gia thì triết luận của Ông đã kịp ảnh hưởng một phần địa cầu. Rất nhiều người từ thời đó cho đến bây giờ đã xem Ông như một giáo chủ lừng lẫy không kém đức Thích Ca hay đức Jésus Christ. Như vậy, ta cũng nên mượn bố cục bảy mươi năm đời người của Khổng Tử kết hợp với lẽ nhân sinh tứ khổ của đức Thích Ca để làm cơ sở cho việc phân tích được xuyên suốt.
Con người lúc trong bào thai cho đến khi sinh ra vốn là một hành trình khó khăn chứ không phải đơn giản như nhiều loài sinh vật khác. Tuy nhiên, chưa chắc các loài sinh vật khác sinh sản dễ dàng như ta tưởng, bởi lớn có cái khó của lớn, nhỏ có cái khó của nhỏ. Hơn nữa, cái khó đó, không chỉ ở bản thân chính người ra đời mà là cái khó cộng chung của rất nhiều nhân tố khác như mẹ, cha, bà đỡ, anh chị, ông bà, họ hàng… Tương tự, ai cũng phải trải qua một thời kỳ khó khăn của chính bản thân cùng với một số người khác. Lại thêm hoàn cảnh ra đời của đứa trẻ nữa! Sinh vào nhà giàu hay nghèo? Có truyền thống hiếu học hay thất học? Sinh quán là trung tâm thị thành hay một miền sơn dã quạnh hiu? Qua đó, bước đầu ta đã thấy chỉ là chuyện từ sinh đến trưởng của một con người thôi mà đã khéo sắp đặt thành một nhóm nhân vật liên quan, âu không phải do hên xui hay ngẫu nhiên mà có chứ?
Tiếp đến là quãng đời thập hữu ngũ nhi chí vu học. Thời xưa, Khổng Tử quan sát rằng trẻ em dưới mười tuổi cần được ép hay khuyến khích đi học, học được vài năm sau thì may ra mới tự ham học tiếp. Nếu chuyên học, mười lăm tuổi khả dĩ đã thông suốt chữ nghĩa của dân tộc mình, hiểu đủ nghĩa vụ cơ bản với gia đình, biết cư xử giao tiếp trong xã hội theo giáo trình hiện hành và thông thạo các thao tác hoạt động cần có của một con người. Tuy nhiên, nếu sự học và nhận thức của ai ai cũng tiến triển đồng đều y như một thì ta công nhận Vũ Trụ sinh diệt hoàn toàn do bởi công thức định luật của Tạo Hóa. Sự thật là mỗi con người tiến triển hoàn toàn khác biệt, không hề có ai giống hệt nhau kể cả sinh đôi. Như vậy, ta thấy ra thêm một vấn đề là Vũ Trụ tuy vận động bởi Tạo Hóa nhưng vẫn còn sự tham gia xoay chuyển của một thế lực khác.
Quãng đời tiếp nối là tam thập nhi lập mỗi người cũng mỗi khác. Có người không chỉ học bấy nhiêu mà còn tìm tòi nghiên cứu thêm bao nhiêu sự cao rộng nữa. Có người học một hiểu mười, có kẻ học lại hoài vẫn không thấu một. Có người nhờ vào trình độ học vấn ít nhiều mà tạo dựng được cơ ngơi gia thất tương ứng với sở học của mình. Lại có người vô học nhưng giàu có, cũng có người bác học mà luôn thất bại. Như vậy, do Tạo Hóa chăng hay do may rủi chăng?
Thế rồi, đến tứ thập nhi bất hoặc thì thật sự có bất hoặc chăng? Nếu ai có học thức khá đủ, dù là học trường lớp hay học trường đời mà đều được thông suốt, không bị trắng đen điên đảo, không bị thị phi mê hoặc… thì quả là hoàn toàn do công thức của Tạo Hóa rồi. Rõ ràng, rất nhiều người đã học hết đại học, làm việc hơn mười năm từ vị trí này đến số má nọ mà vẫn bị dắt mũi trong ăn uống thuốc men trang phục, thậm chí đến cả tầm nhìn và tư tưởng. Đa số, bị rơi vào tình trạng không chủ kiến mà chỉ nghe người khác du thuyết, khích tướng rồi chấp nhận nối đuôi. Họ tự an ủi hay ảo tưởng đó là chính kiến. Trong thẳm sâu, họ vẫn biết đó không phải là chính kiến, cũng không khái niệm được thế nào là chính kiến rồi cứ sống khuất lấp tạm thời, mãi rồi hình thành tập tính cố hữu.
Trạng thái đó nếu kéo dài đến năm mươi tuổi thì có thể ngũ thập nhi tri thiên mệnh được chăng? Nếu lúc đó vẫn chưa tri thiên mệnh nghĩa là sẽ vẫn tiếp tục trạng thái sống mơ hồ như vậy cho đến sáu mươi bảy mươi. Do sống không chính kiến, do tưởng nhầm mình có chính kiến, do giả vờ có chính kiến… mà con người phải xung đột nhau ở nhiều mức độ, xung đột với nhiều đối tượng kể cả người thân nhất, say mê xung đột dai dẳng suốt mấy mươi năm thì sao đạt được trạng thái an nhiên tương tự như lục thập nhi nhĩ thuận! Từ quá trình đó cơ thể hao mòn bệnh tật, ý chí suy nhục, bản thiện lệch lạc, bướng bỉnh khôn nguôi… dĩ nhiên là thấy sống khổ, bệnh khổ, già khổ. Đến lúc nhắm mắt xuôi tay, họ vẫn đang nghe tâm thức toàn khổ. Có ai muốn lăn trải cả một đời người mà bị khổ nhiều hơn được vui chăng?Như thế là một kiếp sống thất bại, chớ mong chi có ngày đắc được thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ. Đến bảy mươi chưa được tự tại, nói ra thì con cháu bất tuân, mang kinh nghiệm trao truyền thì mọi người bất phục… Có ai muốn như vậy chăng! Thật ra cũng có một tỷ lệ nào đó sớm hay muộn cũng được thành đạt trong chân thiện đồng thời cũng thật sự được an nhiên tự tại và thông tuệ; còn đại đa số vẫn rơi vào tình trạng bi hài như trên. Vì sao Tạo Hóa sinh Vũ Trụ, không khiến Vạn Vật luôn tươi đẹp mà lại có Tứ Khổ? như Châu Du xưa đã thống thiết kêu gào: “Trời đã sinh Du sao lại còn sinh Lượng!”
(Vui lòng nghe tiếp)
5 notes
·
View notes