#vun bồi phước thiện
Explore tagged Tumblr posts
Text
Khi đời bình yên, nhớ dặn lòng luôn tỉnh thức
Thật ra tất cả đều là những bậc thang, những bài học giúp ta tiến bộ mà thôi. Đừng bao giờ chủ quan trước những điều như ý. Vì an yên bên ngoài cũng chỉ là bề mặt của cuộc đời. Khi hoàn cảnh bình yên, người ta lại dễ đắm chìm không tỉnh thức. Quên mất rằng cuộc đời vô thường biến hoại. Nỗi đau cũng vô thường, và ngay cả bình yên đó cũng vô thường. Những đến đi trong cuộc đời, vốn là không thể…
View On WordPress
1 note
·
View note
Text
NHỮNG CÁI ''ĐỪNG'' RẤT ĐÁNG ĐỂ TÂM
Đừng vì hưởng được chút quả lành trong kiếp này mà quên đi việc phải tiếp tục tu tập, tiếp tục gieo nhân lành để thăng hoa cho những kiếp mai sau.
Đừng để thái độ, lời nói, hành động của người khác làm ảnh hưởng đến sự bình yên trong tâm mình.
Đừng quay lại lối mòn thói quen tập khí bất thiện cũ, phải quyết tâm từ bỏ và thay đổi để hướng thượng, hướng thiện hơn.
Đừng vì một chút thương gh��t, vui buồn, lợi danh, hơn thua cỏn con mà phá hủy công phu tu tập của mình.
Đừng để nghiệp bất thiện của người khác trở thành nghiệp của mình.
Đừng chạy theo bên ngoài quá nhiều mà bỏ quên thân tâm bên trong mình. Hãy chăm sóc cho thân được khỏe, tâm được an. Thân tâm an lạc thanh thản thì niệm và định mới có mặt được.
Đừng kết oan trái với bất cứ ai, mà cũng đừng dính mắc vô bất cứ ai, hãy nghĩ đến nỗi khổ đau của sinh tử luân hồi thì sẽ biết sợ mà buông, mà khước từ, mà vất bỏ. Hãy để mình và người khác được tự do.
Đừng phung phí phước, đừng xài hao phước, hết phước sẽ khổ, phải vun bồi phước liên tục, phước thiện nhỏ cũng làm.
Đừng tự ti mà cũng chẳng có gì để tự tôn, vì xét cho cùng có ai đâu mà so sánh hơn thua, cứ trọn vẹn với chính mình đang là.
Đừng quên chánh niệm khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần. Luôn quan sát kiểm soát và không phản ứng.
Đừng nghĩ cõi trời là điểm dừng, tu cho đến khi chấm dứt sinh tử luân hồi thì mới là điểm dừng thật sự.
Đừng hứa, đừng hẹn, có cơ hội làm thiện thì phải làm ngay, làm liền, vì cái chết đâu có biết ngày giờ.
Nguồn: Zalo Thiện Phát
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
4 notes
·
View notes
Text
Swanbay Oasis
Bài viết mới nhất: https://hanhomesno08maichitho.com/swanbay-oasis/
Swanbay Oasis
Swanbay Oasis phân khu có diện tích 34 ha nằm trong Đại đô thị Swanbay Đại Phước quy mô 200 ha, tọa lạc tại huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Cung ứng ra thị trường 342 căn nhà phố, Shop Villa, Garden Villa và Riverfront Villa đa dạng về diện tích cũng như tích hợp hệ thống tiện ích và mảng xanh thiên nhiên rộng lớn. Dự án Swanbay Oasis kế thừa tinh hoa và thành tựa của những phân khu triển khai trước đó, đặc biệt đây là sự kết hợp giữa SwanCity và đối tác mới, Mitsubishi Estate hứa hẹn sẽ tạo ra không gian sống chất lượng cho các gia đình Việt, nơi vun vén tổ ấm và hạnh phúc viên mãn. Sở hữu vị trí đẹp nên thơ bao quanh là dòng sông mang phong thủy, vượng khí được đánh giá tốt, hơn nữa biệt thự Swanbay Oasis còn thừa hưởng trọn vẹn sự phát triển đồng bộ về hạ tầng giao thông của địa phương với các công trình trọng điểm cả về đường bộ – đường thủy – đường hàng không sẽ làm tăng khả năng kết nối liên vùng và vươn ra thị trường quốc tế.
Phối cảnh Dự án Swanbay Oasis Nhơn Trạch Đồng Nai
TỔNG QUAN DỰ ÁN SWANBAY OASIS NHƠN TRẠCH
Tên dự án: Swanbay Oasis
Vị trí: Khu đô thị Swanbay, Đảo Đại Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai
Tổng diện tích: 34 ha
Quy mô: 342 căn nhà phố, Shop Villa, Garden Villa và Riverfront Villa
Diện tích Nhà phố thương mại: 157 m2
Diện tích Shop Villa: 362 – 746m2
Diện tích Garden Villa: 308 – 629 m2
Diện tích Riverfront Villa: 312 – 602 m2
VỊ TRÍ DỰ ÁN SWANBAY OASIS NHƠN TRẠCH
Vị trí Dự án SwanBay Oasis sở hữu vị trí chiến lược nằm ở cửa ngõ phía Đông TP HCM, địa thế dễ dàng kết nối đến sân bay Long Thành hay các tuyến giao thông đường bộ trọng điểm của vùng Đông Nam bộ như Quốc lộ 51, cao tốc Bến Lức – Long Thành, cao tốc Long Thành – Dầu Giây…Đặc biệt, vị trí SwanBay Oasis Đại Phước đồng thời tiếp giáp với quận 2 và quận 9 của TP HCM, khi công trình xây dựng cầu Cái Lái hoàn thành thì cư dân sẽ còn thuận lợi di chuyển hơn nữa đến các quận của Sài Gòn này.
Vị trí Dự án Swanbay Oasis Nhơn Trạch Đồng Nai
Với lợi thế về giao thông này, từ Nhà phố SwanBay Oasis cư dân dễ dàng tiếp cận đến chuỗi tiện ích hiện hữu của địa phương như: Bệnh viện Đa Khoa Nhơn Trạch, Ngân hàng Vietcombank, Ngân hàng Vietinbank, Ngân hàng Agribank, bưu điện Địa Phước, chợ Đại Phước, THPT Nhơn Trạch, Trường tiểu học Phú Thạnh…và cách dự án khoảng 20 phút là đến khu công nghiệp Nhơn Trạch và Sân bay quốc tế Long Thành.
Về phong thủy, long mạch của SwanBay Oasis được đánh giá rất hưng vượng mang lại tài lộc cho gia chủ bởi dự án án ngữ trên hòn đảo nằm tách biệt với phần đất liền của huyện Nhơn Trạch và bao quanh dự án là sông Đồng Nai với dòng chảy hiền hòa, bồi đắp phù sa màu mỡ cũng như đem đến bầu không khí trong lành và vô cùng mát mẻ.
Trong các đô thị vệ tinh của TP HCM thì Nhơn Trạch nổi lên là điểm đến với nhiều lợi thế và được đánh giá rất tiềm năng. Bởi địa phương không chỉ sở hữu vị trí liền kề TP HCM mà còn là tâm điểm kết nối các trục đường trọng yếu đi các tỉnh thành vùng Đông và Tây Nam bộ, đồng thời dễ dàng tiếp cận đến sân bay Quốc tế Long Thành. Một số công trình nổi bật kết nối với Nhơn Trạch như: Dự án xây dựng Cầu Cát Lái kết nối với quận 2 – TP HCM, đường Vành Đai 3 nối 5 tỉnh, tuyến đường 25B, tuyến 25C, đường Tân Vạn – Nhơn Trạch, đường nối từ đường cao tốc TP HCM – Long Thành – Dầu Giây tới cảng Phước An…Các tuyến đường này sẽ tạo mạng lưới giao thông hoàn thiện cho khu vực Nhơn Trạch trong tương lai.
Vị trí thực tế Dự án Swanbay Oasis Nhơn Trạch Đồng Nai
Song song với đó, Nhơn Trạch là một trong những trung tâm phát triển công nghiệp lớn bậc nhất của Đồng Nai. Cùng với Biên Hòa, Long Thành tạo thành thỏi nam châm thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư. Vừa qua, Chính phủ đã phê duyệt hàng loạt các khu công nghiệp (KCN) hình thành mới như: KCN Nhơn Trạch 1,2,3,4,5,6; KCN Dệt may Nhơn Trạch; KCN Ông Kèo…Khi các dự án này hoạt động sẽ hút dòng vốn FDI về Nhơn Trạch, địa phương này sẽ bứt phá trở thành đô thị vệ tinh đắt giá phía Đông TP HCM.
Trước hấp lực mạnh mẽ từ hạ tầng giao thông, các chính sách về quy hoạch, thu hút đầu tư…thị trường bất động sản Nhơn Trạch đang sở hữu nhiều ưu điểm nổi trội cùng với chỉ số hấp dẫn đã thu hút nhiều đại gia, thương hiệu quốc tế, điển hình có Swanbay Oasis Đại Phước. Hơn nữa, trong bối cảnh giới thượng lưu gia tăng xu hướng tìm kiếm các khu đô thị biệt lập để tận hưởng cuộc sống an toàn tránh xa dịch bệnh thì biệt thự SwanBay Oasis trở thành đích đến đắt giá nhất.
TIỆN ÍCH DỰ ÁN SWANBAY OASIS NHƠN TRẠCH
Tiện ích Dự án Swanbay Oasis Nhơn Trạch nhằm mục tiêu mang đến cho cư dân tương lai trải nghiệm sống thú vị và khác biệt, tại đây hệ thống tiện ích dịch vụ được đầu tư chăm chút không thua kém gì Resort cao cấp. Đặc biệt, với mật độ xây dựng khá thấp, có đến hơn 70% diện tích của đại đô thị Swanbay Đại Phước dành cho mảng xanh thiên nhiên và các công trình tiện ích dịch vụ. Tại đây, quý cư dân sẽ được thừa hưởng:
Hồ điều hòa với diện tích khủng lên tới 150ha & liền kề River Garden Residences
Trường học quốc tế liên cấp Kinderworld Singapore quy mô 7ha
Bệnh viện quốc tế và khu dịch vụ cộng đồng rộng 9.8 ha
Bến du thuyền hiện đã đi vào hoạt động
Sân Golf Jeongsan 18 lỗ đã đưa vào hoạt động
Quảng trường trung tâm nổi bật với kiến trúc Châu Âu cổ kính và tráng lệ
Trung tâm thương mại, siêu thị, phố mua sắm, chuỗi nhà hàng ẩm thực 5 sao…
Tiện ích Dự án Swanbay Oasis Nhơn Trạch Đồng Nai
MẶT BẰNG & THIẾT KẾ DỰ ÁN SWANBAY OASIS NHƠN TRẠCH
Thiết kế Dự án Swanbay Oasis có diện tích 34 ha cung ứng ra thị trường 342 căn nhà phố, Shop Villa, Garden Villa và Riverfront Villa với các thiết kế độc đáo sau:
Riverfront Villa: Dòng biệt thự được thiết kế với view nhìn hướng về phía sông với kiến trúc Pháp đương đại, vận dụng tối đa không gian mở nên rất thoáng đãng, có tính thẩm mỹ rất cao nhưng vẫn tối ưu hóa diện tích sử dụng.
Nhà phố, Shophouse: Được thiết kế theo phong cách hiện đại, năng động dựa trên concept xanh, dãy nhà nằm san sát, kết nối với nhau đồng điệu và liên kết trực diện với các tiện ích nội khu.
Shop Villas: Hướng tới các gia đình trẻ mang phong cách châu Á, thiết kế 1 trệt + 2 lầu được tối ưu hóa diện ích sử dụng, đảm bảo khả năng đón ánh sáng và gió trời tự nhiên.
Mặt bằng Dự án Swanbay Oasis Nhơn Trạch Đồng Nai
TIẾN ĐỘ THI CÔNG DỰ ÁN SWANBAY OASIS NHƠN TRẠCH
Xếp hạng
0 notes
Text
Giải Về Bạn (Mittakatha) – Tỳ Khưu Giới Nghiêm
Nay tôi phiên dịch quyển sách bé nhỏ nầy để bổ khuyết vào chỗ ấy, nghĩa là ai cũng có rất nhiều bạn, song lại không biết chọn bạn mà chơi. Hơn nữa, bạn ác thì không thiếu chi, bạn lành hoặc là pháp lữ mới là khó kiếm, cũng như vàng ngọc mới khó kiếm còn sạn sỏi thì không thiếu.
LỜI NÓI ĐẦU
Thiết tưởng tình bạn trên đời nầy ai cũng có và ai cũng biết, nhưng chọn bạn làm sao có kết quả lợi ích và đem lại điều an vui, thì điều đó mới là khó.
Nay tôi phiên dịch quyển sách bé nhỏ nầy để bổ khuyết vào chỗ ấy, nghĩa là ai cũng có rất nhiều bạn, song lại không biết chọn bạn mà chơi. Hơn nữa, bạn ác thì không thiếu chi, bạn lành hoặc là pháp lữ mới là khó kiếm, cũng như vàng ngọc mới khó kiếm còn sạn sỏi thì không thiếu.
Thân cận bạn lành hoặc thân thiết với phước lành chắc hẳn bạn lành hoặc phước l��nh ấy sẽ làm cho ta thấm nhuần đạo đức, từ từ thâm nhập những đức lành tánh tốt cho ngay trong khi còn tại tiền nầy, đúng như câu: “Thân cận thiện hữu, thí như vụ lộ trung hành, tuy bất thấp y, thời thời hữu nhuận”. Hơn thế nữa, cái phước mà mình đã làm hoặc lớn hoặc nhỏ và mới hay cũ, nhất là cận nghiệp, nghĩa là cái nghiệp lành nào mà ta vừa làm xong thì mãn thọ, cái phước ấy chắc chắn sẽ là bạn lành dẫn dắt ta trong nhàn cảnh nơi kiếp vị lai chẳng sai. Khi chúng ta đã có bạn lành tức là bậc thiện hữu trí thức hoặc bạn lành tức là phần phước mà chính ta đã tạo trong kiếp xa xưa hoặc trong đời nầy, chính cái phước ấy mới có khả năng nâng đỡ ta, đưa ta về thượng giới hoặc lạc cảnh, tức là cõi Người và các cõi Trời vậy.
Giữa thời đại văn minh khoa học dạy cho chúng ta nhiều sáng kiến nhiều sự tiến bộ về vật chất cũng như tinh thần, Phật Giáo đã và đang dạy chúng ta trong vô lượng chu kỳ thế giới của Chư Phật quá khứ và nhiều thế kỷ đang diễn tiến trong đời Phật Thích Ca Giáo Chủ hiện tại, những chân lý sáng ngời và diệu pháp cao siêu, tuy thế vẫn còn có ác hữu hoặc ác pháp làm một thứ mây mù che phủ cái chân lý ấy. Thế cho nên Phật dạy chúng ta lánh xa bạn dữ, thân cận bạn lành và phước lành.
Mong cầu quả phước nầy hãy thấu đến toàn cả chúng sanh, nhất là cha mẹ và thầy tổ, cùng đàn na thí chủ đồng thọ hưởng và sau đạt đến bờ giác ngộ.
Mong thay,
Phật Lịch 2518, D.L 1974
HÒA THƯỢNG GIỚI NGHIÊM
Lễ bái tam bảo ‒ Namatthu ratanattayassa
—
BẰNG HỮU THUYẾT (MITTAKATHA)
Lòng từ bi là đức tánh làm cho kết bạn với nhau được.
Nhân loại sanh trong thế gian nầy có sự liên quan mật thiết với nhau; như cha, mẹ, con, chồng, vợ, thầy, trò, chủ, tớ, bằng hữu với nhau… Theo lẽ thường, họ cùng sanh lên để giúp đỡ cứu hộ lẫn nhau cho có sự an vui tiến hóa, theo phẩm vị tương quan với nhau. Nhưng nếu tùy năng lực của sự cấu sanh thì có quả báo không đầy đủ để thọ hưởng sự an vui tiến hóa, cho đồng đều nhau luôn khi, bởi theo chúng ta đã từng thấy rõ, có khi cha mẹ và con từ bỏ nhau, trở thành quân thù kẻ nghịch, kiếm chuyện phá hoại lẫn nhau. Bởi cớ ấy, người đời cần phải nương pháp có đức tánh, tức là “tâm từ bi” mong điều tốt cho nhau để làm trợ nhân giúp thêm một bậc nữa, cũng là pháp để keo khắn tâm của người đã dính líu do những phẩm vị trên cho liên hiệp thân mật cùng nhau, mới kết quả tốt đẹp; tức là sự hộ trì cứu độ nhau được đầy đủ.
Thật vậy, nhân loại trong hoàn vũ nầy có liên quan với nhau, không nói là phẩm vị nào, như cha mẹ và các con chồng và vợ, thầy và trò, chủ và t���… cũng phải làm bạn với nhau cả, thì sự liên quan của những phẩm vị ấy mới được tiến triển một cách vinh hạnh. Nếu không thể, sẽ trở thành kẻ nghịch với nhau vậy.
Thế thì nhân khiến cho con người có sự thương yêu lẫn nhau phải nhờ cái chi?
Do nhờ tâm từ (Mettā) mong sự lành cho nhau. Bởi tâm từ là đức tánh tốt quan trọng, giống như nước hàn hoặc giống như nhựa, dùng để hàn những người liên quan với nhau cho thành hữu nghị chặt thêm lên nữa.
Không những thế, dù cho người dưng kẻ lạ, không phải máu thị tông môn với nhau hẳn, song cũng nhờ đức tánh (Mettā) nầy có thể keo khắn kết bằng hữu với nhau được, và cần phải mật thiết với bốn hạng bạn sau đây:
Bốn hạng bằng hữu (mitta)
Tiếng MITTA dịch là bằng hữu hoặc bạn, không phải chỉ để gọi đặc biệt những người đã có tâm từ bi trân trọng nhau, tùy theo các phẩm vị đã lâu năm thôi đâu, dù kẻ lữ thương mà họ chỉ gặp nhau chốc lát giữa khoảng đường họ cũng biết làm bạn với nhau trong khi đi đường cho đặng sự hy vọng nương cậy ấm áp trong lòng. Hoặc những phước thiện mà họ đã vun bồi sẵn trong tâm để làm nơi nương nhờ trong ngày vị lai, cũng được gọi là bạn vậy.
Ý nghĩa đúng như lời Phật thuyết trong Saṃyutta Nikāya nơi đoạn Devatā saṃyutta như vầy:
Sattho pasavato mittaṃ,
Mātā mittaṃ sake ghare
Sahāyo aṭṭhajātassa
Hoti mittaṃ punappunaṃ,
Sayaṃkatāni puññāni
Taṃ mittaṃ saṃparāyikaṃ
Nghĩa là:
“Người lữ thương là bạn của kẻ đường xa
Bà mẹ là bạn của trong nhà mình
Bằng hữu là bạn của người hữu sự hằng phát sanh,
Những phước báu mà họ đã tạo trử là bạn dính theo trong ngày vị lai”
Ý nghĩa của Phật ngôn trên đây sẽ nói rõ như vầy: tất cả tầng lớp trong nhân loại đều cần phải có bạn lành, đến đổi người lữ thương không từng quen biết nhau, cũng kể là bạn của người lữ hành được.
Người được kêu là bạn có nhiều hạng, song trong kệ ngôn nầy Đức Thế Tôn chỉ thuyết 4hạng như trên đã nói.
Tiếp theo đây sẽ giải rộng 4 hạng bằng hữu ấy như vầy:
Những người lữ thương là bạn của kẻ đi đường xa.
Tiếng nói lữ thương trong chỗ nầy, ám chỉ những người đi xa đến các hương thôn hoặc quốc độ khác theo đường thủy hoặc đường bộ, để mua hoặc bán những đồ đạc. Người lữ hành đồng đi chung một con đường xa với nhau; dù người buôn bán đi chân hay đi xe… cùng dều gọi lữ thương đồng hành cả.
Lẽ thường, người đi đường xa nếu không có bạn đi cùng, hẳn nhiên tâm bị buồn tẻ; khủng khiếp sẽ phát sanh rất nhiều trong con đường mình đi. Nhưng nếu may mắn gặp người đi đường dù không quen biết từ trước, cũng hy vọng một cách nồng nhiệt trong tâm và giảm bớt sự buồn tẻ hoặc khủng khiếp kia được.
Lại nữa, người di đường xa mệt nhọc đuối sức hoặc lâm cơn bệnh hoạn giữa đường, là nhân làm cho họ trở ngại cuộc hành trình, cố gắng đi tới nữa không được. Trong khi ấy nếu có những người lữ thương, là kẻ giàu lòng hào hiệp, đem võng khiên hoặc lấy xe chở đi; thì người lữ hành kia chắc hẳn khỏi sự mỏi mệt đuối sức và đem mình đến nơi đến chốn một cách bình an. Bởi cớ ấy cho nên đáng gọi người lữ thương là bạn, vì họ là người ngăn ngừa điều tai hại theo đường và giúp cho cuộc hành trình của kẻ lữ hành đến nơi đến chốn được an toàn vui vẻ.
Diễn giải bấy nhiêu đây cũng làm tài liệu để cho thấy rõ ràng: dù cho người lữ hành chưa từng quen biết với nhau từ trước, cũng làm cho ấm áp trong lòng của người đi đường và giúp cho thành tựu công việc, nên Ngài gọi: Người lữ thương là bạn của người đi đường xa (Sattho pasavato mittaṃ).
Câu Phật ngôn trên đây soi sáng cho ta thấy rõ quả lợi ích của sự có bằng hữu, để làm tài liệu nhắc nhở tâm của người đời nên thỏa thích và thân cận với bạn lành.
Bà mẹ là bạn trong nhà của mình.
Những người trong gia đình, chung sống một chổ với nhau và có công việc chung nhau một cách mật thiết, như cha mẹ với con trai con gái… Bậc trí tuệ gọi bà mẹ là bạn rất quan trọng, bởi bà mẹ có nhiều đặc ân mà làm những việc mà người khác trong gia đình khó làm được. Hẳn như vậy, những người khác trong gia đình của mình như con, vợ… nếu mình lâm bệnh, họ hằng nhờm gớm hoặc chán nản trong sự nuôi bệnh, riêng bà mẹ sẽ coi phẩn nhơ của con mình dường như hoa đẹp, không nhờm gớm, hy sinh chịu khó chịu cực với con. Cớ ấy cho nên Ngài gọi người Mẹ là bạn trong nhà của mình.
Lại nữa, tiếng gọi bạn đây đừng hiểu rằng chỉ đặc biệt gọi bà mẹ thôi đâu. Dù cha cũng có thể gọi Mitta được, bởi cha mẹ hằng có đủ 4 pháp của bạn lành (Mittadhamma) là:
Có nhiều đặc ân.
Chung vui chung khổ.
Hướng dẫn điều lợi ích.
Có tình thương (tâm từ ái).
Cả 4 bằng pháp nầy, cha mẹ hằng gọi nhuần đặc biệt đến với các con nam nữ, một cách đầy đủ, không chịu bỏ thiếu sót. Chẳng những thế, cha mẹ còn từ bi đặc biệt đến các con một cách phi thường. Người mong sự an vui và tốt lành bội phần cho các con, trong khi những đứa con nam nữ, dù thọ khổ chút ít, cha mẹ cũng có tâm lo lắng luôn khi. Nếu có thể thay thế cho các con để lãnh lấy sự đau khổ về phần mình thì cha mẹ nhận liền tức khắc, không sụt sè, dám hy sinh sự an vui của chính mình, đến đỗi sanh mạng của mình cũng không tiếc, miễn là hy sinh cho các con đươc sự an vui dễ dàng.
Về phần những người con nam nữ, có sự hy vọng ấm áp trong tâm rất nhiều khi chính mình được cha mẹ còn hộ trì cho.
Đức hiệu của cha mẹ
Đức Chánh đẳng CHánh giác dựa nơi pháp có đức tánh lành của cha mẹ đã rãi đến gội nhuần cho các con nam nữ như đã giải, cho nên Ngài ấn định danh hiệu của cha mẹ bằng 4 phẩm vị như vầy:
Brahmā ti mātāpitaro
Pubbācariyā ti vuccare
Āhuneyyā ca puttānaṃ
Pajāya ca anukampakā
Cha mẹ người tế độ các con, Như Lai gọi là “Phạm Thiên”
Là “Thầy tổ đầu tiên”
Là “Bậc đáng cúng dường” (A-la-hán)
Là “Chư Thiên trước nhứt”, của những người con nam nữ.
Giảng giải:
Ngài cho cha mẹ danh hiệu là “Phạm Thiêm của con”, bởi cha mẹ hằng rải tứ vô lượng tâm, là Từ, Bi, Hỷ, Xã đến các con một cách đầy đủ, không từng bỏ qua, giống như Chư Thiên bậc cao gọi là Phạm Thiên, không từng bỏ qua 4 đức tánh ấy đối với tát cả chúng sanh.
Ngài cho cha mẹ danh hiệu là “Thầy Tổ đầu tiên của con” bởi bắt đầu từ ngày mới sanh ra, cha mẹ hằng lưu tâm cố gắng dạy dỗ con đủ mọi cách, như dạy “con hãy ngồi như thế nầy; hãy đứng như thế nầy; hãy đi như thế nầy; hãy ăn uống như thế nầy; hoặc nói năng như thế nầy…”. Về sau, các bậc Thầy tổ khác với dạy cho học tập văn chương kỷ nghệ… hoặc truyền Tam quy Ngũ giới và cho xuất gia sadi hay thọ cụ túc giới… Những bậc Thầy Tổ sau này gọi là “Thầy sau” (Pacchārya) còn cha mẹ được gọi là “Thầy trước” (Pubbācārya), bởi đã dạy dỗ con cho lánh xa điều ác và thực hành điều thiện trước tất cả các Thầy Tổ khác.
Ngài cho cha mẹ danh hiệu là “Chư Thiên trước nhứt” của con, bởi lẽ, “Thanh tịnh Thiên” (Visuddhideva), là bậc dứt trừ phiền não, tức là Thánh nhân vô lậu, các Ngài không nghĩ gì đến sự lỗi lầm của chúng sanh ngu muội đã mong hại Ngài trái lại các Ngài cố gắng thực hành để hộ trì cho được sự an vui đến chúng sanh mà thôi và làm cho những lễ vật của phần đông dâng cúng được kết quả nhiều như thế nào, cha mẹ cũng thế, không chấp trách gì sự lỗi lầm của con nam nữ đã hành động sái quấy đến các Ngài. Cha mẹ hằng thực hiện những sự gội nhuần điều an vui tiến hóa cho các con thôi, không dĩ đến sự mệt nhọc của bản thân, mới đáng gọi cha mẹ là “Chư Thiên”, bởi có sự hành động tương tự như bậc Thanh tịnh Thiên. Lại nữa, những người con được nghe biết các vị Thiên Thần khác cũng do Cha mẹ là người chỉ dẫn cho biết, thế nên những người con mới hiểu lẽ thực hành về Chư Thiên ấy, luôn đến kết quả cao siêu xứng đáng theo sức hành động của mình.
Cớ ấy cho nên các bậc tôn xưng:
Thiên (Sammatideba), Sanh hóa Thiên (Upapattideba) và Thanh tịnh Thiên (Visuddhideba) đều gọi là “Chư Thiên sau”.
Riêng về cha mẹ gọi là “Chư Thiên trước”, bởi cha mẹ là người có đặc ân đối với các con nam nữ trước hơn tất cả Chư Thiên khác.
Bởi cớ ấy, hàng thức đạt nên tôn kính phụng dưỡng và cúng dường đến cha mẹ, là bậc bằng hữu tối thượng trước nhất, các Ngài có đặc ân về mọi phương diện, nhuwtslaf sự hộ trì nuôi dưỡng phi thường. Vậy đạo làm con chúng ta chớ nên hờ hững. Được như thế, sự an vui tiến hóa sẽ phát sanh đến cho ta, nagy nơi kiếp nầy và kiếp sau chẳng sai. Đức Bổn Sư Thích Ca đặc chỉ về pháp Tứ vô lương tâm, nhứt là từ (metta) của cha mẹ đã thực hiện gội nhuần đến các con như thế, cho nên Ngài gọi bà mẹ là bạn trong nhà của mình (mātā mittaṃ sake ghare).
Bạn hạng này có năng lực chỉ giúp những sự việc bên trong và trú trong phẩm vị là nơi tôn kính của những người con thôi. Hàng thức đạt không nên tự mãn chỉ nương nhờ với bằng hữu tức là cha mẹ thôi mà trái lại nên tìm kiếm bạn bên ngoài cho nhiều hơn nữa để được sức mạnh mà ta phải làm cho được kết quả khả quan.
Cây to người ta cắt đứt rễ cái rễ con rồi, khi gặp cơn gió lốc sẽ ngã xuống, người bị đứt hai tay hai chân rồi không thể làm được việc gì thế nào; người trên xã hội này cũng thế ấy, nếu không có bằng hữu nào khác ngoài cha mẹ, thì hẳn sẽ đứng không vững và sự an vui tiến hóa sẽ khó phát triển đến ta. Bởi cớ ấy, người thức đạt nên tìm kiếm bạn lành để giúp sức cho mình thêm nữa.
3) Bằng hữu là bạn của người hữu sự.
Trong tiếng Việt Nam có bạn quen và bạn thân đều kêu là bằng hữu hoặc bạn bè cả.
Tiếng bạn quen để nhận thức người bạn chung làm việc hoặc đi chung đường với mình, nghĩa là ta làm chức vụ gì người kia cũng có chức vụ giống như ta, người như thế gọi là bạn quen, chưa được kêu là bạn thân hoặc bằng hữu.
Bạn thân là khi nào chung vui chung khổ, có thể giúp ta để trừ diệt và ngăn ngừa điều tai hại đã phát sanh hoặc sắp phát sanh cho tiêu mất đi, và người có tình thương, trân trọng quý mến nhau với tấm lòng thanh khiết, luôn cả sự mật thiết đáng tin cậy nhau được, hoặc có tâm từ bi, trân trọng một cách chân thành đối với nhau. Người như thế mới đáng gọi là bằng hữu.
Nói về bạn là một sức mạnh quan trọng trong sự dìu dắt những người thân cận cho được sự tiến hóa hoặc sự tiêu hoại. Bởi bạn ác hằng giải bày cho thực hiện những việc không nên làm, hằng hướng dẫn cho tạo nghiệp ác và trược hạnh cho thân, khẩu, ý, khiến cho có kiến thức đê hèn, là điều đưa đến chỗ hư hoại thân thể và tài sản, là nhân làm cho khắc khổ trong đời này, và tiêu hoại điều lợi ích trong kiếp sau. Nghĩa là bạn ác lôi cuốn không cho có đức tin trong sạch ngưỡng mộ nơi Tam bảo, không cho thọ trì giới luật, không cho dứt bỏ của cải ra bố thí, không cho học kinh luật hoặc các môn học đứng đắn.
Bạn lành tức là bạn trí thức đáng thân cận, các ngài hằng giải bày những người gần gũi cho thực hiện những việc nên làm, hướng dẫn cho tạo thiện nghiệp, là việc đáng được hưởng quả an vui, tiến dẫn cho học kinh kệ và các môn học đúng theo lẽ đạo hoặc lẽ đời đặng cho những người đã vào thân cận có sự tiến hóa và hạnh phúc trong kiếp hiện tại cũng như tương lai.
Điều này ta nên thấy rằng: tất cả chúng sanh trong hoàn vũ, khi lọt khỏi lòng mẹ, ngoại trừ Đức Thế Tôn ra, thì không có người nào sanh ra dính sẵn sự hiểu biết hoặc những nghè nghiệp luôn một thể đâu và cũng không có người nào sanh ra thì đạt đến đức tánh phi thường của bậc Cao đức tức là Thiền định, đạo quả đâu. Trái lại, nhân mà người đời có thể hiểu biết những môn học hoặc đắc đạo quả lên bậc cao được cũng do nhờ bạn lành, tức là thầy dạy dỗ mới hiểu biết hoặc đạt đến đức tánh cao siêu được.
Để được chứng minh điều nầy, xin dẫn một câu chuyện như sau:
Thuật rằng: Đức A-Nan có sự nghi ngờ như vầy: Phạm hạnh pháp mà các bậc Thánh nhân được kết quả rồi, do năng lực của mình phân nửa, do năng lực của bạn lành phân nửa, gom sức mạnh chung nhau mới đắc hay sao ư?
Trong khi Đức A-Nan nghi ngại như vậy, Ngài liền đãnh lễ bạch hỏi Đức Bổn Sư được Ngài thuyết rằng: “Nầy A-Nan! Không phải thế đâu, tất cả người đắc Phạm hạnh pháp chỉ nhờ năng lực của bạn lành. Nầy A-Nan! Bạn lành hằng dìu dắt những người thân cận cho đi theo con đàng có 8 chi”.
Kế đó, Ngài thuyết để dạy đức A-Nan rằng “Nầy A-Nan! Những chúng sanh có sự sanh, già, đau, chết, có sự buồn rầu than tiếc, có sự khổ và bất bình trong tâm luôn khi, mà được thoát thân ra khỏi tất cả nỗi sanh già đau chết ấy, bởi nương nhờ Như Lai là Thiện hữu”.
Sự giảng giãi đến đây vừa cho nhận thức được chắc chắn rằng: Bạn ác khiến cho tiêu hoại, bạn lành khiến cho tiến hóa. Cớ ấy, những người thức đạt khi đã hiểu rõ lẽ nầy rồi, nên lánh hẳn bạn ác cho xa, như người đi đường xa tránh khỏi quảng đường có tai hại trái lại cần gần gủi bạn lành giống như cha mẹ không rời bỏ những người con yêu dấu vậy.
Sự nhận xét cách nào mới biết rằng: đây là bạn ác; đây là bạn lành?
Cách thức nhận xét hai hạng bạn ấy có nhiều lắm, nơi đây không giải đủ theo ý nghĩa đã xó trong các bộ kinh, chỉ lọc lấy Phật Ngôn nào vừa làm tài liệu để trang bị cho trí nhớ và trí tuệ của phần đông. Lại giảng vắn tắt như sau đây:
Các bậc trí thức đã gom những pháp tướng quan trọng, là tài liệu để nhận xét bạn, tập trung trong bộ Dhammanīti về đoạn bằng hữu thuyết như vầy: “Bạn hợp theo ba tướng mạo gọi là bạn lành, nếu không hợp theo ba tướng mạo ấy gọi là bạn ác”.
Ba tướng của bạn là:
Ahite paṭisedho ca: Ngăn cản nhau trong sự vô ích.
Hitesu ca niyojako: Dìu dắt nhau trong việc hữu ích.
Byāsane cāpariccāgo: Không bỏ nhau trong khi có sự tiêu hoại.
Đây là tướng mạo của bạn vắn tắt.
Tướng mạo làm tài liệu để nhận xét theo ba điều vắn tắt nầy là tài liệu nhận xét phổ thông cả bạn tại gia và xuất gia.
Trong bộ Aṅguttaranikāya (Tăng nhứt A-hàm), đoạn Sattaka nipāta, Đức Bổn Sư thuyết cách thức nhận xét bạn cả hai phẩm mạo, chia sẻ khác nhau như dưới đây:
Piyo: Làm cho kẻ khác thương được.
Garu: Làm cho kẻ khác tôn tọng.
Bhāvanīyo: Tu luyện cho có phần tiến hóa, xứng đáng là nơi khen ngợi.
Vattā: Siêng năng dạy dỗ.
Vacanakkhamo: Nhẫn nại lời nầy tiếng nọ.
Gambhīraṃ kathaṃ kattā: Tuần tự giảng giải ý nghĩa sâu xa.
Noca aṭṭhāne niyojati: Không hướng dẫn trong điều chẳng nên học.
Pháp dễ nhận xét bạn tại gia có bảy điều là:
Duddādaṃ dadāti: Cho những vật mà người khác khó cho được.
Dukkaraṃ karoti: Làm những việc mà người khác khó làm được.
Dukkhamaṃ khamati: Nín chịu những điều mà người khác khó nín chịu được.
Guyhamassa āvikaroti: Mách việc kín của mình bạn.
Guyhamassa parigūhati: Tiếp che dấu chuyện kín của bạn, không tiết lộ ra.
Āpadāsu na jahati: Không rời bỏ nhau trong khi có điều tai hại.
Khīṇena nāti maññati: Không khinh rẽ khi bạn bị sự túng cùng.
Bạn xuất gia hoặc tại gia, nếu có đủ những chi điều như đã nói trên đây, mới gọi là bạn lành. Bạn như thế, hàng thức đạt nên thân cận để được giúp sức mạnh trong khi mình hữu sự phát sanh. Bởi người đời đã sống chung tập thể, từng nhóm, kể từ một gia đình đến một xóm, một quốc độ, cũng cần phải nương gá lẫn nhau, giúp nhau trong mọi công việc lớn hoặc nhỏ. Mình không thể tự cố gắng hoàn thành một công việc nếu không có sự giúp sức của bạn bè. Thật vậy, công việc nào quá trình độ khả năng của một người làm cho kết quả thời, những công việc ấy được kết quả tốt đẹp y như ý muốn, bỡi có bạn lành giúp tính toán, giúp làm mới được. Vì lẽ đó nên Đức Thế Tôn dạy cho thấy rõ điều lợi ích của sự thân cận bạn lành rằng: Bằng hữu là bạn của người hữu sự hằng phát sanh.
Ba hạng bạn như đã giải trên đây làm cho kết quả tốt đẹp, là chỉ giúp cho nhau được sự an vui trong đời hiện tại nầy thôi, không thể giúp cho nhau được sự an vui trong đời vị lai đâu. Riêng về phước thiện mà các thiện nhơn đã tạo trử trong tâm mới là bạn có thể dính theo mình đến những kiếp sau.
Phước là bạn trong những đời sau:
Tiếng gọi phước là phản nghĩa với tội, có nghĩa rằng: “Điều lành là tài liệu làm cho tâm trong sạch”, hoặc là “thiện nghiệp”.
Tội có nghĩa là điều ác, vật bất tịnh hoặc là “ác nghiệp”.
Phước là điều làm cho tâm chúng sanh trở nên trong sạch.
Tội là điều làm cho tâm nóng nảy, bức rức.
Phước là bạn lành của người thực hành thân, khẩu, ý thanh hạnh.
Tội là bạn ác của người thực hành thân, khẩu, ý trược hạnh.
Phước dẫn chúng sanh về nhàn cảnh, là cõi người và các cõi trời.
Tội dẫn chúng sanh vào ác đạo (nơi không tiến hóa) là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, A-tu-la.
Phước đem sự sự an vui đến co chúng sanh hành thiện.
Tội đem sự khổ đến cho chúng sanh hành ác.
Nơi đây chỉ giảng giải về phước, là bạn lành của quí vị đã vun bồi mà thôi.
Phước đây chia làm hai điều là:
Phước nhân.
Phước quả.
Phước nhân là nói về thiện pháp để gội rửa tâm cho trong sạch, thanh khiết, để thoát khỏi phiền não như: tham, sân, si… Bởi vì thiện pháp nầy phát sanh trong tâm người nào, hằng làm cho tâm kẻ ấy trong sạch, xa lìa điều ác, việc làm, lời nói hoặc ý nghĩ điều gì toàn là thân, khẩu, ý thanh hạnh trong sạch cả ba cửa.
Phước quả là nói đến sự an vui được phát sanh lên cho người đã bổ túc; nhứt là làm cho phát sanh sự hớn hở, phỉ lạc trong tâm. Nếu nói theo chỗ phát khởi Phước thì gọi rằng:
Puñña kiriyā vatthu: Tư cách phát sanh Phước có 10 điều là:
Dāna: Bố thí: sự dứt bỏ của cải, đem ra làm phước với tư cách tế độ, với tư cách cúng dường ân đức, với tư cách ủng hộ, để cho người thọ thí được kết quả lợi ích. Bố thí đây là tài liệu dứt trừ lòng tham.
Sīla: Trì giới: Sự răn trị thân khẩu cho nghiêm trang luôn khi. Giới đây là tài liệu dứt trừ sân hận.
Bhāvanā: Tham thiền: Sự làm cho tâm vắng lặng và điêu luyện trí tuệ cho sáng suốt để thấy rõ chơn lý. Tham thiền đây là tài liệu dứt trừ si mê.
Apacāyana: Kính nhường: Sự tỏ ra nhỏ nhẹ cung kính đối với người lớn hoặc đối với người có giới đức… Kính nhường đây là tài liệu dứt trừ ngã chấp và ngã mạng (khinh rẻ kẻ khác).
Veyyāvacca: Tiếp giúp việc lành: Sự siêng năng cố gắng tiếp giúp làm những việc nên làm của người khác. Sự tiếp giúp nầy là tài liệu dứt trừ sự lười biếng (Kosajja).
Pattidāna: Chia phước: Sự hồi hướng phần phước nghĩa là làm những điều phước thiện nào rồi hồi hướng quả phước ấy đến kẻ khác. Hồi hướng nầy là tài liệu dứt trừ sự không hoan hỷ (arati) và sự bỏn sẻn khen ngợi đức tánh của kẻ khác (vaṇṇamacchariya).
Pattānumodanā: Hoan hỷ phần phước: Sự vui mừng nhận lãnh với phần phước mà kẻ khác hồi hướng cho. Hoan hỷ phần phước đây là sự dứt trừ tật đố diều tốt của kẻ khác (issa).
Dhammassavara: Nghe pháp: Sự nghe pháp hoặc sự thọ lời giáo huấn của bậc trí thức bằng cách cung kính. Nghe pháp đây là tài liệu dứt trừ sự không biết rõ hoặc hoài nghi (vicikicchā) và cứng cõi, ngã chấp, ngã mạng.
Dhammadesanā: Thuyết pháp: Sự giảng dạy pháp để dìu dắt kẻ khác cả đường đời và đường đạo. Thuyết pháp đây là tài liệu dứt trừ sự không biết rõ của kẻ khác và dứt trừ sự bỏn sẻn pháp (Dhammamaccariya).
Ditthujukamma: Sự làm cho kiến thức ngay thẳng: Đây là làm cho sự hiểu thấy đứng theo giòng pháp, sự sửa trị tri kiến cho ngay thẳng. Đây là tài liệu dứt trừ sự hiểu quấy (sửa trị tà kiến cho trở thành chánh kiến được là đức tánh tối quan trọng trong đường lối thực hành chánh pháp. Vì nếu con người có sự hiểu quấy thì sự hành động thân khẩu ý cũng có thể quấy theo. Nếu có sự hiểu biết hay hành đúng theo chánh pháp thì sự thực hiện nơi thân khẩu ý cũng có thể chánh đáng theo).
Phước trả quả cho người làm.
Những người lành đã tạo phước thiện sẵn dành trong tâm, khi nhận xét sự hành động do thân khẩu ý của mình đã làm rồi, thấy toàn là phước thiện tất cả, hẳn nhiên phát khởi phỉ lạc, thỏa thích vui tươi trong tâm rằng (điều lành, điều phước thiện ta đã làm sẵn rồi), khi nào nghĩ đến sẽ phát sanh sự hoan hỷ luôn luôn. Đến lúc gần chết, nếu được nghĩ thấy điều phước thiện mình đã tạo trữ ấy, chắc hẳn có sự vững dạ, dạn dĩ và không khủng khiếp đối với sự chết đã rõ ràng trước mắt; bởi tin chắc rằng: “Do nhờ năng lực phước thiện mà ta đã tạo trử đây, dù chết chăng nữa cũng được sanh về nơi nhàn cảnh chẳng sai”. Trong khi có sự tin mạnh như thế; hẳn nhiên người ấy có trí nhớ minh mẫn, không bị mê loạn, cho đến khi rã tan ngũ uẩn, bước sang đời mới cũng được êm đẹp. Kế sau sự chết sẽ được an vui nơi nhàn cảnh, ấy là nhờ quả của phước thiện mà ta đã huân tập, tu tạo đó vậy.
Phước là phù chú ngãi nghệ.
Người lành đã tu tạo phước duyên chôn sâu trong tâm, được gọi là người biết phù phép ngãi nghệ một cách linh diệu hiển hách, bởi người có tâm thỏa thích trong việc phước hẳn là nơi thương yêu vừa lòng của mọi người và Chư Thiên. Thật vậy, người nào muốn cho những kẻ xung quanh họ thân thiện và quý mến mình, nhưng người ấy dùng sái phương pháp về phước thiện, chỉ làm điều tội ác là nghiệp không đúng nhân quả, sái chân lý, không xứng đáng cho phần đông nhiệt tâm kính mến được, thử hỏi ai thương yêu quý trọng nỗi? Dù cho đi học phù phép ngãi nghệ hoặc kiếm những thầy đại tài danh tiếng đến bỏ bùa ngãi, cũng chẳng có ai tưng trọng do bị bùa phép của thầy ấy.
Riêng về bậc tịnh giả không cần học phù phép ngãi nghệ hoặc nhờ thầy ngãi đại tài đến giúp, để khiến cho phần đông thương yêu quý trọng mình đâu, người ta chỉ quyết tâm cố gắng tu tạo phước đức, là bố thí, trì giới, tham thiền… Đương nhiên những người xung quanh mình đến sum vầy tôn trọng muốn nghe muốn thấy mặt mình tất cả. Cớ ấy mới đáng nhận rằng phù chú ngãi nghệ hay nhứt, bỡi lẽ tâm của người đó có phước. Ông thầy trị bệnh với thứ thuốc linh dược có thể lành được do nhờ người bệnh chưa hết tuổi thọ.
Nói tóm lại cho dễ nghe là phù chú ngãi nghệ mà người ngu si trọng dụng, không hay bằng phù chú ngãi nghệ tức là phước thiện và thanh hạnh mà bậc trí thức đã nhiệt tâm tu tập.
Ý nghĩa giảng giải bấy nhiêu đây chỉ cho thấy rằng: Phước mà các vị thiện nhân đã tạo trử rồi gọi là đức tánh đem sự vui tươi lại cho từ đời nầy đến kiếp sau; lại đưa đường dẫn lối cho được sự an vui trong khi lâm chung. Bởi lẽ ấy, phước mới đáng gọi là bạn lành cao quý hơn tất cả bằng hữu khác, đúng như Phật ngôn đã nói: “Những điều phước thiện mà họ đã tự mình tạo trử, hẳn là bạn thân thiết dính theo trong đời vị lai (Sayaṃ katāni puññāni taṃ mittaṃ samparāyikaṃ).
#tinhtam #phatphap #TyKhuuGioiNghiem #ducphat #theravada
Theo nguồn: https://theravada.vn/book/giai-ve-ban-mittakatha-ty-khuu-gioi-nghiem/
Nguồn ảnh: Instagram Dhammanamo
0 notes
Text
Giảng giải về 4 hạng bạn hữu (mitta) trong Phật Giáo (P. Kết)
Phước là bạn trong những đời sau: Tiếng gọi phước là phản nghĩa với tội, có nghĩa rằng: “Điều lành là tài liệu làm cho tâm trong sạch”, hoặc là “thiện nghiệp”. Tội có nghĩa là điều ác, vật bất tịnh hoặc là “ác nghiệp”. Phước là điều làm cho tâm chúng sanh trở nên trong sạch. Tội là điều làm cho tâm nóng nảy, bức rức. Phước là bạn lành của người thực hành thân, khẩu, ý thanh hạnh. Tội là bạn ác của người thực hành thân, khẩu, ý trược hạnh. Phước dẫn chúng sanh về nhàn cảnh, là cõi người và các cõi trời. Tội dẫn chúng sanh vào ác đạo (nơi không tiến hóa) là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, A-tu-la. Phước đem sự sự an vui đến co chúng sanh hành thiện. Tội đem sự khổ đến cho chúng sanh hành ác. Nơi đây chỉ giảng giải về phước, là bạn lành của quí vị đã vun bồi mà thôi. Phước đây chia làm hai điều là: A. Phước nhân. B. Phước quả. Phước nhân là nói về thiện pháp để gội rửa tâm cho trong sạch, thanh khiết, để thoát khỏi phiền não như: tham, sân, si... Bởi vì thiện pháp nầy phát sanh trong tâm người nào, hằng làm cho tâm kẻ ấy trong sạch, xa lìa điều ác, việc làm, lời nói hoặc ý nghĩ điều gì toàn là thân, khẩu, ý thanh hạnh trong sạch cả ba cửa. Phước quả là nói đến sự an vui được phát sanh lên cho người đã bổ túc; nhứt là làm cho phát sanh sự hớn hở, phỉ lạc trong tâm. Nếu nói theo chỗ phát khởi Phước thì gọi rằng: Puñña kiriyā vatthu: Tư cách phát sanh Phước có 10 điều là: Dāna: Bố thí: sự dứt bỏ của cải, đem ra làm phước với tư cách tế độ, với tư cách cúng dường ân đức, với tư cách ủng hộ, để cho người thọ thí được kết quả lợi ích. Bố thí đây là tài liệu dứt trừ lòng tham. Sīla: Trì giới: Sự răn trị thân khẩu cho nghiêm trang luôn khi. Giới đây là tài liệu dứt trừ sân hận. Bhāvanā: Tham thiền: Sự làm cho tâm vắng lặng và điêu luyện trí tuệ cho sáng suốt để thấy rõ chơn lý. Tham thiền đây là tài liệu dứt trừ si mê. Apacāyana: Kính nhường: Sự tỏ ra nhỏ nhẹ cung kính đối với người lớn hoặc đối với người có giới đức... Kính nhường đây là tài liệu dứt trừ ngã chấp và ngã mạng (khinh rẻ kẻ khác). Veyyāvacca: Tiếp giúp việc lành: Sự siêng năng cố gắng tiếp giúp làm những việc nên làm của người khác. Sự tiếp giúp nầy là tài liệu dứt trừ sự lười biếng (Kosajja). Pattidāna: Chia phước: Sự hồi hướng phần phước nghĩa là làm những điều phước thiện nào rồi hồi hướng quả phước ấy đến kẻ khác. Hồi hướng nầy là tài liệu dứt trừ sự không hoan hỷ (arati) và sự bỏn sẻn khen ngợi đức tánh của kẻ khác (vaṇṇamacchariya). Pattānumodanā: Hoan hỷ phần phước: Sự vui mừng nhận lãnh với phần phước mà kẻ khác hồi hướng cho. Hoan hỷ phần phước đây là sự dứt trừ tật đố diều tốt của kẻ khác (issa). Dhammassavara: Nghe pháp: Sự nghe pháp hoặc sự thọ lời giáo huấn của bậc trí thức bằng cách cung kính. Nghe pháp đây là tài liệu dứt trừ sự không biết rõ hoặc hoài nghi (vicikicchā) và cứng cõi, ngã chấp, ngã mạng. Dhammadesanā: Thuyết pháp: Sự giảng dạy pháp để dìu dắt kẻ khác cả đường đời và đường đạo. Thuyết pháp đây là tài liệu dứt trừ sự không biết rõ của kẻ khác và dứt trừ sự bỏn sẻn pháp (Dhammamaccariya). Ditthujukamma: Sự làm cho kiến thức ngay thẳng: Đây là làm cho sự hiểu thấy đứng theo giòng pháp, sự sửa trị tri kiến cho ngay thẳng. Đây là tài liệu dứt trừ sự hiểu quấy (sửa trị tà kiến cho trở thành chánh kiến được là đức tánh tối quan trọng trong đường lối thực hành chánh pháp. Vì nếu con người có sự hiểu quấy thì sự hành động thân khẩu ý cũng có thể quấy theo. Nếu có sự hiểu biết hay hành đúng theo chánh pháp thì sự thực hiện nơi thân khẩu ý cũng có thể chánh đáng theo). Phước trả quả cho người làm. Những người lành đã tạo phước thiện sẵn dành trong tâm, khi nhận xét sự hành động do thân khẩu ý của mình đã làm rồi, thấy toàn là phước thiện tất cả, hẳn nhiên phát khởi phỉ lạc, thỏa thích vui tươi trong tâm rằng (điều lành, điều phước thiện ta đã làm sẵn rồi), khi nào nghĩ đến sẽ phát sanh sự hoan hỷ luôn luôn. Đến lúc gần chết, nếu được nghĩ thấy điều phước thiện mình đã tạo trữ ấy, chắc hẳn có sự vững dạ, dạn dĩ và không khủng khiếp đối với sự chết đã rõ ràng trước mắt; bởi tin chắc rằng: “Do nhờ năng lực phước thiện mà ta đã tạo trử đây, dù chết chăng nữa cũng được sanh về nơi nhàn cảnh chẳng sai”. Trong khi có sự tin mạnh như thế; hẳn nhiên người ấy có trí nhớ minh mẫn, không bị mê loạn, cho đến khi rã tan ngũ uẩn, bước sang đời mới cũng được êm đẹp. Kế sau sự chết sẽ được an vui nơi nhàn cảnh, ấy là nhờ quả của phước thiện mà ta đã huân tập, tu tạo đó vậy. Phước là phù chú ngãi nghệ. Người lành đã tu tạo phước duyên chôn sâu trong tâm, được gọi là người biết phù phép ngãi nghệ một cách linh diệu hiển hách, bởi người có tâm thỏa thích trong việc phước hẳn là nơi thương yêu vừa lòng của mọi người và Chư Thiên. Thật vậy, người nào muốn cho những kẻ xung quanh họ thân thiện và quý mến mình, nhưng người ấy dùng sái phương pháp về phước thiện, chỉ làm điều tội ác là nghiệp không đúng nhân quả, sái chân lý, không xứng đáng cho phần đông nhiệt tâm kính mến được, thử hỏi ai thương yêu quý trọng nỗi? Dù cho đi học phù phép ngãi nghệ hoặc kiếm những thầy đại tài danh tiếng đến bỏ bùa ngãi, cũng chẳng có ai tưng trọng do bị bùa phép của thầy ấy. Riêng về bậc tịnh giả không cần học phù phép ngãi nghệ hoặc nhờ thầy ngãi đại tài đến giúp, để khiến cho phần đông thương yêu quý trọng mình đâu, người ta chỉ quyết tâm cố gắng tu tạo phước đức, là bố thí, trì giới, tham thiền... Đương nhiên những người xung quanh mình đến sum vầy tôn trọng muốn nghe muốn thấy mặt mình tất cả. Cớ ấy mới đáng nhận rằng phù chú ngãi nghệ hay nhứt, bỡi lẽ tâm của người đó có phước. Ông thầy trị bệnh với thứ thuốc linh dược có thể lành được do nhờ người bệnh chưa hết tuổi thọ. Nói tóm lại cho dễ nghe là phù chú ngãi nghệ mà người ngu si trọng dụng, không hay bằng phù chú ngãi nghệ tức là phước thiện và thanh hạnh mà bậc trí thức đã nhiệt tâm tu tập. Ý nghĩa giảng giải bấy nhiêu đây chỉ cho thấy rằng: Phước mà các vị thiện nhân đã tạo trử rồi gọi là đức tánh đem sự vui tươi lại cho từ đời nầy đến kiếp sau; lại đưa đường dẫn lối cho được sự an vui trong khi lâm chung. Bởi lẽ ấy, phước mới đáng gọi là bạn lành cao quý hơn tất cả bằng hữu khác, đúng như Phật ngôn đã nói: “Những điều phước thiện mà họ đã tự mình tạo trử, hẳn là bạn thân thiết dính theo trong đời vị lai (Sayaṃ katāni puññāni taṃ mittaṃ samparāyikaṃ). Hết: Giải Về Bạn (Tỳ Khưu Giới Nghiêm) Read the full article
0 notes
Photo
Mười đại nguyện của Đức Phổ Hiền Bồ Tát
1. Lễ kính chư Phật
2. Xưng tán Như Lai
3. Quảng Tu Cúng Dường
4. Sám Hối Nghiệp Chướng
5. Tùy Hỷ Công Đức
6. Thỉnh Chuyển Pháp Luân
7. Thỉnh Phật Trụ Thế
8. Thường tùy Phật học
9. Hằng thuận chúng sanh
10. Phổ Giai Hồi Hướng
----------------------
GIẢNG GIẢI:
1. Lễ kính chư Phật (Venerating all Buddhas): tức là thành tâm quy kính nương tựa nơi Phật bảo, là đấng phước trí vẹn toàn và tình thương không bờ bến.
Phật dạy mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, tức là đều có hạt giống Phật trong tâm.
Vậy, lễ kính chư Phật còn có thể hiểu trong ngôn ngữ hiện đại là TÔN TRỌNG THA NHÂN.
Tôn trọng mỗi mỗi con người, tôn trọng mỗi mỗi mạng sống, và giúp người cơ hội phát huy Phật tánh sẳn có của mình.
Trong phạm vi gia đình không thôi, nếu con cái tôn trọng cha mẹ và ngược lại, cha mẹ tôn trọng con cái, thì mọi người đều được hạnh phúc và có nhịp cầu cảm thông. (lược bớt)
2. Xưng tán Như Lai (Praising the Thus Come One-Tathagata): Như Lai là đấng Giác Ngộ.
Đấng đi vào thế giới khổ đau từ cảnh giới chân như thanh tịnh. Ta xưng tán Như Lai là ngợi khen, tri ân, và cung đón sự đến của Ngài với chúng ta. Nếu chúng ta ca ngợi đức Như Lai được, mà không ca ngợi được những đức tính tốt nơi tha nhân thì chúng ta chưa thành tựu được hạnh nguyện xưng tán Như Lai. Trong các kinh, đức Phật thường hay khen ngợi “hay thay, hay thay” với đệ tử của Ngài. Ban tặng lời khen chân thành không giả dối xu nịnh cho tha nhân là giúp họ PHÁT TRIỂN LÒNG TỰ TIN. Không có lòng tự tin thì làm sao một người dám bước lên hành trình chuyển hoá chính mình. Cha mẹ mà khen ngợi con cái thì con cái sẽ tiếp tục làm những việc tốt. Thầy Tổ mà khen ngợi đệ tử thì đệ tử sẽ nỗ lực tu học. Lãnh đạo mà khen ngợi nhân viên là giúp cho nhân viên thấy được điểm mạnh của mình...Khen ngợi giúp cho người phát hiện được chân như Phật tánh tiềm ẩn trong họ. Khen ngợi người cũng giúp ta bỏ tâm kiêu căng, coi mình là nhất. Được khen ngợi, tha nhân có lòng tự tin hăng say làm việc Đạo.
3. Quảng Tu Cúng Dường (Offering universally): là dâng cúng lên ngôi Tam Bảo.
Phật dạy cúng dường phải hội đủ 5 phần (ngũ phần hương):
1/ hương của giới (kỷ luật),
2/ định (an trụ),
3/ huệ (trí tuệ giác ngộ),
4/ giải thoát (vượt qua mọi chướng ngại), và
5/ giải thoát tri kiến (cái nhìn thoáng rộng, không phân biệt ta và người, không chấp trước). Lại nữa, Phật dạy, phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật; vì lẽ đó, chúng ta tu học theo Ngài Phổ Hiền là phụng sự chúng sanh theo tinh thần ngũ phần hương (làm việc trong tinh thần kỹ luật, tương kính, làm việc với tâm an trụ và vui vẻ, làm việc có tổ chức và khoa học, làm việc với tinh thần phục khó, và cuối cùng, làm việc với tinh thần không suy tính vụ lợi, không khởi tâm cao ngạo.
Chúng ta “quảng tu cúng dường” bằng cách PHỤNG SỰ THA NHÂN .
4. Sám Hối Nghiệp Chướng (Repenting unwholesome deeds): thân chúng ta đã gây ra nhiều nghiệp chẳng trọn lành (unwholesome), lời nói chúng ta đã gây nhiều đau khổ buồn giận cho người, ý chúng ta đã mưu đồ bao gian kế.
Những nghiệp chướng đó từ vô thủy cho đến nay chồng chất tạo ra thân mạng và hành động ngày hôm nay. Chúng ta nhất tâm xin sám hối. Sám hối bằng cách thân làm những việc thiện, miệng nói những lời an ủi đến tha nhân, và ý nghĩ suy những điều tốt đẹp, những phương chước giúp đời. Sám hối nghiệp chướng là CHUYỂN HÓA NGHIỆP XẤU.
5. Tùy Hỷ Công Đức (Rejoicing in the good deeds of others): Là vui với niềm vui của người, vui với việc thiện của người, và cùng nhau làm việc thiện đem an vui lợi lạc cho quần sanh. Tùy hỉ công đức có thể diễn dịch theo ngôn ngữ hiện đại là biết HỢP TÁC CÙNG NHAU LÀM VIỆC THIỆN. HTTPGPH kêu gọi các cá nhân và nhóm nhỏ đang làm công tác từ thiện cứu tế khắp nơi cùng làm việc với nhau.
Nếu làm việc chung, mỗi cá nhân, mỗi nhóm vẫn giữ nguyên tình trạng của mình, nhưng có chung những phương tiện và sự hỗ trợ cần thiết.
6. Thỉnh Chuyển Pháp Luân (Petitioning the Dharma Wheel to be turned): khi đức Thế Tôn thuyết bài pháp đầu tiên, Ngài đã so sánh nó như là chuyển bánh xe. Bánh xe đưa chiếc xe tình thương và trí tuệ chuyên chở chúng sanh đến nơi an toàn. Bánh xe chánh pháp xoay chuyển mở ra không gian của tình thương rộng lơn . Mời thỉnh chư Phật chuyển bánh xe chánh pháp là xin Phật khai triển Pháp giới cho chúng sanh nương trú. Chúng ta cùng nhau mời gọi bao con tim mở rộng tình thương tạo nên một thế giới nhân bản và mẫn cảm hơn với nỗi đau của tha nhân. Thỉnh chuyển pháp luân là MỞ RỘNG VÒNG TAY TỪ ÁI.
7. Thỉnh Phật Trụ Thế (Pleading Buddha to remain in the world): tất cả những việc làm của chúng ta sẽ thiếu chân chánh nếu không có sự hướng đạo của Phật tánh.
Khi không nương theo Phật tánh thì mọi sự dù tốt trên hình thức cũng dễ dàng thành ma sự.
Chúng ta thỉnh Phật hiển hiện sáng ngời trong tâm ta và hướng dẫn ta trên con đường Bồ Tát Đạo.
Thỉnh Phật trụ thế cũng là thỉnh những vị Phật tương lai đến với chúng ta.
Thỉnh Phật trụ thế vì vậy là LÀM VIỆC VỚI PHẬT TÂM HẰNG HỮU TRONG SÁNG.
8. Thường tùy Phật học (Persistent in pursuing the Path): Trên bước đường thực hành Bồ Tát Đạo, chúng ta luôn trao dồi giáo lý về Tình thương, Lòng vị tha, và Tâm giác ngộ. Khi làm việc nhiều, chúng ta dễ sao lãng việc thực tập và dễ bị rơi vào tâm lý giãi đãi, lệ thuộc vào người khác.
Thường tùy Phật học là tự giác nỗ lực VUN BỒI HẠT GIỐNG PHẬT.
9. Hằng thuận chúng sanh (Flexibly and skillfully helping all sentient beings): Bồ Tát hằng thuận chúng sanh bằng cách hóa hiện ra vô sô thân hình khác nhau cho phù hợp vơi hoàn cảnh và địa vị của họ để giáo hóa và cứu trợ chúng sanh.
Cũng như vậy, hành giả và thiện nguyện viên của Phổ Hiền trong mọi hình sắc và vai trò của mình, không phân biệt giàu nghèo, địa vị, đều có thể dấn thân làm lợi ích an vui cho người. Hằng thuận chúng sanh là TRIỂN KHAI PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO.
10. Phổ Giai Hồi Hướng (sharing merits universally): Hồi hướng là mang ra san sẻ phước báo của mình đến muôn loài. Trong Phật giáo, phước báo đóng vai trò quan trọng. Phước báo có hữu lậu và vô lậu. Chẳng hạn như làm việc thiện, bố thí cúng dường, thì sanh nhân giàu sang, nhưng được giàu sang rồi mà không lo tu thì cũng bị sa đọa . Hồi hướng là chia sẽ phước báo đến người. Khi chúng ta giàu mà xung quanh chỉ toàn những người nghèo, thì thử hỏi có vui gì? Khi đó, loạn tặc sẽ khắp nơi, ai ai cũng nơm nớp lo sợ, môi trường bị ô nhiễm, dù giàu mà vẫn phải hít bụi bặm và uống nước ô nhiễm thì đâu phải là hạnh phúc hoàn toàn .
Hồi hướng là đem công đức mà mình tạo được gieo duyên lành để tương lai có một cuộc sống an lành sung túc biết hướng thiện, làm lành, và luôn giữ được tâm Bồ Đề. Hồi hướng còn là bỏ tâm tham chấp muốn giữ hết phước cho mình hay chấp thấy đo lường công quả hơn thua. Hồi hướng là tạo ra pháp giới rộng lớn cho mình trong hiện tại và mai sau, là SỐNG VỚI TÂM RỘNG RÃI.
#tu hành#tu học#Phổ Hiền Bồ tát#cuộc sống#con người#tỉnh thức#tâm#an#vui#hạnh phúc#tự tại#từ bi#trí tuệ
22 notes
·
View notes
Text
Giải Về Bạn (Mittakatha) – Tỳ Khưu Giới Nghiêm
Nay tôi phiên dịch quyển sách bé nhỏ nầy để bổ khuyết vào chỗ ấy, nghĩa là ai cũng có rất nhiều bạn, song lại không biết chọn bạn mà chơi. Hơn nữa, bạn ác thì không thiếu chi, bạn lành hoặc là pháp lữ mới là khó kiếm, cũng như vàng ngọc mới khó kiếm còn sạn sỏi thì không thiếu.
LỜI NÓI ĐẦU
Thiết tưởng tình bạn trên đời nầy ai cũng có và ai cũng biết, nhưng chọn bạn làm sao có kết quả lợi ích và đem lại điều an vui, thì điều đó mới là khó.
Nay tôi phiên dịch quyển sách bé nhỏ nầy để bổ khuyết vào chỗ ấy, nghĩa là ai cũng có rất nhiều bạn, song lại không biết chọn bạn mà chơi. Hơn nữa, bạn ác thì không thiếu chi, bạn lành hoặc là pháp lữ mới là khó kiếm, cũng như vàng ngọc mới khó kiếm còn sạn sỏi thì không thiếu.
Thân cận bạn lành hoặc thân thiết với phước lành chắc hẳn bạn lành hoặc phước lành ấy sẽ làm cho ta thấm nhuần đạo đức, từ từ thâm nhập những đức lành tánh tốt cho ngay trong khi còn tại tiền nầy, đúng như câu: “Thân cận thiện hữu, thí như vụ lộ trung hành, tuy bất thấp y, thời thời hữu nhuận”. Hơn thế nữa, cái phước mà mình đã làm hoặc lớn hoặc nhỏ và mới hay cũ, nhất là cận nghiệp, nghĩa là cái nghiệp lành nào mà ta vừa làm xong thì mãn thọ, cái phước ấy chắc chắn sẽ là bạn lành dẫn dắt ta trong nhàn cảnh nơi kiếp vị lai chẳng sai. Khi chúng ta đã có bạn lành tức là bậc thiện hữu trí thức hoặc bạn lành tức là phần phước mà chính ta đã tạo trong kiếp xa xưa hoặc trong đời nầy, chính cái phước ấy mới có khả năng nâng đỡ ta, đưa ta về thượng giới hoặc lạc cảnh, tức là cõi Người và các cõi Trời vậy.
Giữa thời đại văn minh khoa học dạy cho chúng ta nhiều sáng kiến nhiều sự tiến bộ về vật chất cũng như tinh thần, Phật Giáo đã và đang dạy chúng ta trong vô lượng chu kỳ thế giới của Chư Phật quá khứ và nhiều thế kỷ đang diễn tiến trong đời Phật Thích Ca Giáo Chủ hiện tại, những chân lý sáng ngời và diệu pháp cao siêu, tuy thế vẫn còn có ác hữu hoặc ác pháp làm một thứ mây mù che phủ cái chân lý ấy. Thế cho nên Phật dạy chúng ta lánh xa bạn dữ, thân cận bạn lành và phước lành.
Mong cầu quả phước nầy hãy thấu đến toàn cả chúng sanh, nhất là cha mẹ và thầy tổ, cùng đàn na thí chủ đồng thọ hưởng và sau đạt đến bờ giác ngộ.
Mong thay,
Phật Lịch 2518, D.L 1974
HÒA THƯỢNG GIỚI NGHIÊM
Lễ bái tam bảo ‒ Namatthu ratanattayassa
—
BẰNG HỮU THUYẾT (MITTAKATHA)
Lòng từ bi là đức tánh làm cho kết bạn với nhau được.
Nhân loại sanh trong thế gian nầy có sự liên quan mật thiết với nhau; như cha, mẹ, con, chồng, vợ, thầy, trò, chủ, tớ, bằng hữu với nhau… Theo lẽ thường, họ cùng sanh lên để giúp đỡ cứu hộ lẫn nhau cho có sự an vui tiến hóa, theo phẩm vị tương quan với nhau. Nhưng nếu tùy năng lực của sự cấu sanh thì có quả báo không đầy đủ để thọ hưởng sự an vui tiến hóa, cho đồng đều nhau luôn khi, bởi theo chúng ta đã từng thấy rõ, có khi cha mẹ và con từ bỏ nhau, trở thành quân thù kẻ nghịch, kiếm chuyện phá hoại lẫn nhau. Bởi cớ ấy, người đời cần phải nương pháp có đức tánh, tức là “tâm từ bi” mong điều tốt cho nhau để làm trợ nhân giúp thêm một bậc nữa, cũng là pháp để keo khắn tâm của người đã dính líu do những phẩm vị trên cho liên hiệp thân mật cùng nhau, mới kết quả tốt đẹp; tức là sự hộ trì cứu độ nhau được đầy đủ.
Thật vậy, nhân loại trong hoàn vũ nầy có liên quan với nhau, không nói là phẩm vị nào, như cha mẹ và các con chồng và vợ, thầy và trò, chủ và tớ… cũng phải làm bạn với nhau cả, thì sự liên quan của những phẩm vị ấy mới được tiến triển một cách vinh hạnh. Nếu không thể, sẽ trở thành kẻ nghịch với nhau vậy.
Thế thì nhân khiến cho con người có sự thương yêu lẫn nhau phải nhờ cái chi?
Do nhờ tâm từ (Mettā) mong sự lành cho nhau. Bởi tâm từ là đức tánh tốt quan trọng, giống như nước hàn hoặc giống như nhựa, dùng để hàn những người liên quan với nhau cho thành hữu nghị chặt thêm lên nữa.
Không những thế, dù cho người dưng kẻ lạ, không phải máu thị tông môn với nhau hẳn, song cũng nhờ đức tánh (Mettā) nầy có thể keo khắn kết bằng hữu với nhau được, và cần phải mật thiết với bốn hạng bạn sau đây:
Bốn hạng bằng hữu (mitta)
Tiếng MITTA dịch là bằng hữu hoặc bạn, không phải chỉ để gọi đặc biệt những người đã có tâm từ bi trân trọng nhau, tùy theo các phẩm vị đã lâu năm thôi đâu, dù kẻ lữ thương mà họ chỉ gặp nhau chốc lát giữa khoảng đường họ cũng biết làm bạn với nhau trong khi đi đường cho đặng sự hy vọng nương cậy ấm áp trong lòng. Hoặc những phước thiện mà họ đã vun bồi sẵn trong tâm để làm nơi nương nhờ trong ngày vị lai, cũng được gọi là bạn vậy.
Ý nghĩa đúng như lời Phật thuyết trong Saṃyutta Nikāya nơi đoạn Devatā saṃyutta như vầy:
Sattho pasavato mittaṃ,
Mātā mittaṃ sake ghare
Sahāyo aṭṭhajātassa
Hoti mittaṃ punappunaṃ,
Sayaṃkatāni puññāni
Taṃ mittaṃ saṃparāyikaṃ
Nghĩa là:
“Người lữ thương là bạn của kẻ đường xa
Bà mẹ là bạn của trong nhà mình
Bằng hữu là bạn của người hữu sự hằng phát sanh,
Những phước báu mà họ đã tạo trử là bạn dính theo trong ngày vị lai”
Ý nghĩa của Phật ngôn trên đây sẽ nói rõ như vầy: tất cả tầng lớp trong nhân loại đều cần phải có bạn lành, đến đổi người lữ thương không từng quen biết nhau, cũng kể là bạn của người lữ hành được.
Người được kêu là bạn có nhiều hạng, song trong kệ ngôn nầy Đức Thế Tôn chỉ thuyết 4hạng như trên đã nói.
Tiếp theo đây sẽ giải rộng 4 hạng bằng hữu ấy như vầy:
Những người lữ thương là bạn của kẻ đi đường xa.
Tiếng nói lữ thương trong chỗ nầy, ám chỉ những người đi xa đến các hương thôn hoặc quốc độ khác theo đường thủy hoặc đường bộ, để mua hoặc bán những đồ đạc. Người lữ hành đồng đi chung một con đường xa với nhau; dù người buôn bán đi chân hay đi xe… cùng dều gọi lữ thương đồng hành cả.
Lẽ thường, người đi đường xa nếu không có bạn đi cùng, hẳn nhiên tâm bị buồn tẻ; khủng khiếp sẽ phát sanh rất nhiều trong con đường mình đi. Nhưng nếu may mắn gặp người đi đường dù không quen biết từ trước, cũng hy vọng một cách nồng nhiệt trong tâm và giảm bớt sự buồn tẻ hoặc khủng khiếp kia được.
Lại nữa, người di đường xa mệt nhọc đuối sức hoặc lâm cơn bệnh hoạn giữa đường, là nhân làm cho họ trở ngại cuộc hành trình, cố gắng đi tới nữa không được. Trong khi ấy nếu có những người lữ thương, là kẻ giàu lòng hào hiệp, đem võng khiên hoặc lấy xe chở đi; thì người lữ hành kia chắc hẳn khỏi sự mỏi mệt đuối sức và đem mình đến nơi đến chốn một cách bình an. Bởi cớ ấy cho nên đáng gọi người lữ thương là bạn, vì họ là người ngăn ngừa điều tai hại theo đường và giúp cho cuộc hành trình của kẻ lữ hành đến nơi đến chốn được an toàn vui vẻ.
Diễn giải bấy nhiêu đây cũng làm tài liệu để cho thấy rõ ràng: dù cho người lữ hành chưa từng quen biết với nhau từ trước, cũng làm cho ấm áp trong lòng của người đi đường và giúp cho thành tựu công việc, nên Ngài gọi: Người lữ thương là bạn của người đi đường xa (Sattho pasavato mittaṃ).
Câu Phật ngôn trên đây soi sáng cho ta thấy rõ quả lợi ích của sự có bằng hữu, để làm tài liệu nhắc nhở tâm của người đời nên thỏa thích và thân cận với bạn lành.
Bà mẹ là bạn trong nhà của mình.
Những người trong gia đình, chung sống một chổ với nhau và có công việc chung nhau một cách mật thiết, như cha mẹ với con trai con gái… Bậc trí tuệ gọi bà mẹ là bạn rất quan trọng, bởi bà mẹ có nhiều đặc ân mà làm những việc mà người khác trong gia đình khó làm được. Hẳn như vậy, những người khác trong gia đình của mình như con, vợ… nếu mình lâm bệnh, họ hằng nhờm gớm hoặc chán nản trong sự nuôi bệnh, riêng bà mẹ sẽ coi phẩn nhơ của con mình dường như hoa đẹp, không nhờm gớm, hy sinh chịu khó chịu cực với con. Cớ ấy cho nên Ngài gọi người Mẹ là bạn trong nhà của mình.
Lại nữa, tiếng gọi bạn đây đừng hiểu rằng chỉ đặc biệt gọi bà mẹ thôi đâu. Dù cha cũng có thể gọi Mitta được, bởi cha mẹ hằng có đủ 4 pháp của bạn lành (Mittadhamma) là:
Có nhiều đặc ân.
Chung vui chung khổ.
Hướng dẫn điều lợi ích.
Có tình thương (tâm từ ái).
Cả 4 bằng pháp nầy, cha mẹ hằng gọi nhuần đặc biệt đến với các con nam nữ, một cách đầy đủ, không chịu bỏ thiếu sót. Chẳng những thế, cha mẹ còn từ bi đặc biệt đến các con một cách phi thường. Người mong sự an vui và tốt lành bội phần cho các con, trong khi những đứa con nam nữ, dù thọ khổ chút ít, cha mẹ cũng có tâm lo lắng luôn khi. Nếu có thể thay thế cho các con để lãnh lấy sự đau khổ về phần mình thì cha mẹ nhận liền tức khắc, không sụt sè, dám hy sinh sự an vui của chính mình, đến đỗi sanh mạng của mình cũng không tiếc, miễn là hy sinh cho các con đươc sự an vui dễ dàng.
Về phần những người con nam nữ, có sự hy vọng ấm áp trong tâm rất nhiều khi chính mình được cha mẹ còn hộ trì cho.
Đức hiệu của cha mẹ
Đức Chánh đẳng CHánh giác dựa nơi pháp có đức tánh lành của cha mẹ đã rãi đến gội nhuần cho các con nam nữ như đã giải, cho nên Ngài ấn định danh hiệu của cha mẹ bằng 4 phẩm vị như vầy:
Brahmā ti mātāpitaro
Pubbācariyā ti vuccare
Āhuneyyā ca puttānaṃ
Pajāya ca anukampakā
Cha mẹ người tế độ các con, Như Lai gọi là “Phạm Thiên”
Là “Thầy tổ đầu tiên”
Là “Bậc đáng cúng dường” (A-la-hán)
Là “Chư Thiên trước nhứt”, của những người con nam nữ.
Giảng giải:
Ngài cho cha mẹ danh hiệu là “Phạm Thiêm của con”, bởi cha mẹ hằng rải tứ vô lượng tâm, là Từ, Bi, Hỷ, Xã đến các con một cách đầy đủ, không từng bỏ qua, giống như Chư Thiên bậc cao gọi là Phạm Thiên, không từng bỏ qua 4 đức tánh ấy đối với tát cả chúng sanh.
Ngài cho cha mẹ danh hiệu là “Thầy Tổ đầu tiên của con” bởi bắt đầu từ ngày mới sanh ra, cha mẹ hằng lưu tâm cố gắng dạy dỗ con đủ mọi cách, như dạy “con hãy ngồi như thế nầy; hãy đứng như thế nầy; hãy đi như thế nầy; hãy ăn uống như thế nầy; hoặc nói năng như thế nầy…”. Về sau, các bậc Thầy tổ khác với dạy cho học tập văn chương kỷ nghệ… hoặc truyền Tam quy Ngũ giới và cho xuất gia sadi hay thọ cụ túc giới… Những bậc Thầy Tổ sau này gọi là “Thầy sau” (Pacchārya) còn cha mẹ được gọi là “Thầy trước” (Pubbācārya), bởi đã dạy dỗ con cho lánh xa điều ác và thực hành điều thiện trước tất cả các Thầy Tổ khác.
Ngài cho cha mẹ danh hiệu là “Chư Thiên trước nhứt” của con, bởi lẽ, “Thanh tịnh Thiên” (Visuddhideva), là bậc dứt trừ phiền não, tức là Thánh nhân vô lậu, các Ngài không nghĩ gì đến sự lỗi lầm của chúng sanh ngu muội đã mong hại Ngài trái lại các Ngài cố gắng thực hành để hộ trì cho được sự an vui đến chúng sanh mà thôi và làm cho những lễ vật của phần đông dâng cúng được kết quả nhiều như thế nào, cha mẹ cũng thế, không chấp trách gì sự lỗi lầm của con nam nữ đã hành động sái quấy đến các Ngài. Cha mẹ hằng thực hiện những sự gội nhuần điều an vui tiến hóa cho các con thôi, không dĩ đến sự mệt nhọc của bản thân, mới đáng gọi cha mẹ là “Chư Thiên”, bởi có sự hành động tương tự như bậc Thanh tịnh Thiên. Lại nữa, những người con được nghe biết các vị Thiên Thần khác cũng do Cha mẹ là người chỉ dẫn cho biết, thế nên những người con mới hiểu lẽ thực hành về Chư Thiên ấy, luôn đến kết quả cao siêu xứng đáng theo sức hành động của mình.
Cớ ấy cho nên các bậc tôn xưng:
Thiên (Sammatideba), Sanh hóa Thiên (Upapattideba) và Thanh tịnh Thiên (Visuddhideba) đều gọi là “Chư Thiên sau”.
Riêng về cha mẹ gọi là “Chư Thiên trước”, bởi cha mẹ là người có đặc ân đối với các con nam nữ trước hơn tất cả Chư Thiên khác.
Bởi cớ ấy, hàng thức đạt nên tôn kính phụng dưỡng và cúng dường đến cha mẹ, là bậc bằng hữu tối thượng trước nhất, các Ngài có đặc ân về mọi phương diện, nhuwtslaf sự hộ trì nuôi dưỡng phi thường. Vậy đạo làm con chúng ta chớ nên hờ hững. Được như thế, sự an vui tiến hóa sẽ phát sanh đến cho ta, nagy nơi kiếp nầy và kiếp sau chẳng sai. Đức Bổn Sư Thích Ca đặc chỉ về pháp Tứ vô lương tâm, nhứt là từ (metta) của cha mẹ đã thực hiện gội nhuần đến các con như thế, cho nên Ngài gọi bà mẹ là bạn trong nhà của mình (mātā mittaṃ sake ghare).
Bạn hạng này có năng lực chỉ giúp những sự việc bên trong và trú trong phẩm vị là nơi tôn kính của những người con thôi. Hàng thức đạt không nên tự mãn chỉ nương nhờ với bằng hữu tức là cha mẹ thôi mà trái lại nên tìm kiếm bạn bên ngoài cho nhiều hơn nữa để được sức mạnh mà ta phải làm cho được kết quả khả quan.
Cây to người ta cắt đứt rễ cái rễ con rồi, khi gặp cơn gió lốc sẽ ngã xuống, người bị đứt hai tay hai chân rồi không thể làm được việc gì thế nào; người trên xã hội này cũng thế ấy, nếu không có bằng hữu nào khác ngoài cha mẹ, thì hẳn sẽ đứng không vững và sự an vui tiến hóa sẽ khó phát triển đến ta. Bởi cớ ấy, người thức đạt nên tìm kiếm bạn lành để giúp sức cho mình thêm nữa.
3) Bằng hữu là bạn của người hữu sự.
Trong tiếng Việt Nam có bạn quen và bạn thân đều kêu là bằng hữu hoặc bạn bè cả.
Tiếng bạn quen để nhận thức người bạn chung làm việc hoặc đi chung đường với mình, nghĩa là ta làm chức vụ gì người kia cũng có chức vụ giống như ta, người như thế gọi là bạn quen, chưa được kêu là bạn thân hoặc bằng hữu.
Bạn thân là khi nào chung vui chung khổ, có thể giúp ta để trừ diệt và ngăn ngừa điều tai hại đã phát sanh hoặc sắp phát sanh cho tiêu mất đi, và người có tình thương, trân trọng quý mến nhau với tấm lòng thanh khiết, luôn cả sự mật thiết đáng tin cậy nhau được, hoặc có tâm từ bi, trân trọng một cách chân thành đối với nhau. Người như thế mới đáng gọi là bằng hữu.
Nói về bạn là một sức mạnh quan trọng trong sự dìu dắt những người thân cận cho được sự tiến hóa hoặc sự tiêu hoại. Bởi bạn ác hằng giải bày cho thực hiện những việc không nên làm, hằng hướng dẫn cho tạo nghiệp ác và trược hạnh cho thân, khẩu, ý, khiến cho có kiến thức đê hèn, là điều đưa đến chỗ hư hoại thân thể và tài sản, là nhân làm cho khắc khổ trong đời này, và tiêu hoại điều lợi ích trong kiếp sau. Nghĩa là bạn ác lôi cuốn không cho có đức tin trong sạch ngưỡng mộ nơi Tam bảo, không cho thọ trì giới luật, không cho dứt bỏ của cải ra bố thí, không cho học kinh luật hoặc các môn học đứng đắn.
Bạn lành tức là bạn trí thức đáng thân cận, các ngài hằng giải bày những người gần gũi cho thực hiện những việc nên làm, hướng dẫn cho tạo thiện nghiệp, là việc đáng được hưởng quả an vui, tiến dẫn cho học kinh kệ và các môn học đúng theo lẽ đạo hoặc lẽ đời đặng cho những người đã vào thân cận có sự tiến hóa và hạnh phúc trong kiếp hiện tại cũng như tương lai.
Điều này ta nên thấy rằng: tất cả chúng sanh trong hoàn vũ, khi lọt khỏi lòng mẹ, ngoại trừ Đức Thế Tôn ra, thì không có người nào sanh ra dính sẵn sự hiểu biết hoặc những nghè nghiệp luôn một thể đâu và cũng không có người nào sanh ra thì đạt đến đức tánh phi thường của bậc Cao đức tức là Thiền định, đạo quả đâu. Trái lại, nhân mà người đời có thể hiểu biết những môn học hoặc đắc đạo quả lên bậc cao được cũng do nhờ bạn lành, tức là thầy dạy dỗ mới hiểu biết hoặc đạt đến đức tánh cao siêu được.
Để được chứng minh điều nầy, xin dẫn một câu chuyện như sau:
Thuật rằng: Đức A-Nan có sự nghi ngờ như vầy: Phạm hạnh pháp mà các bậc Thánh nhân được kết quả rồi, do năng lực của mình phân nửa, do năng lực của bạn lành phân nửa, gom sức mạnh chung nhau mới đắc hay sao ư?
Trong khi Đức A-Nan nghi ngại như vậy, Ngài liền đãnh lễ bạch hỏi Đức Bổn Sư được Ngài thuyết rằng: “Nầy A-Nan! Không phải thế đâu, tất cả người đắc Phạm hạnh pháp chỉ nhờ năng lực của bạn lành. Nầy A-Nan! Bạn lành hằng dìu dắt những người thân cận cho đi theo con đàng có 8 chi”.
Kế đó, Ngài thuyết để dạy đức A-Nan rằng “Nầy A-Nan! Những chúng sanh có sự sanh, già, đau, chết, có sự buồn rầu than tiếc, có sự khổ và bất bình trong tâm luôn khi, mà được thoát thân ra khỏi tất cả nỗi sanh già đau chết ấy, bởi nương nhờ Như Lai là Thiện hữu”.
Sự giảng giãi đến đây vừa cho nhận thức được chắc chắn rằng: Bạn ác khiến cho tiêu hoại, bạn lành khiến cho tiến hóa. Cớ ấy, những người thức đạt khi đã hiểu rõ lẽ nầy rồi, nên lánh hẳn bạn ác cho xa, như người đi đường xa tránh khỏi quảng đường có tai hại trái lại cần gần gủi bạn lành giống như cha mẹ không rời bỏ những người con yêu dấu vậy.
Sự nhận xét cách nào mới biết rằng: đây là bạn ác; đây là bạn lành?
Cách thức nhận xét hai hạng bạn ấy có nhiều lắm, nơi đây không giải đủ theo ý nghĩa đã xó trong các bộ kinh, chỉ lọc lấy Phật Ngôn nào vừa làm tài liệu để trang bị cho trí nhớ và trí tuệ của phần đông. Lại giảng vắn tắt như sau đây:
Các bậc trí thức đã gom những pháp tướng quan trọng, là tài liệu để nhận xét bạn, tập trung trong bộ Dhammanīti về đoạn bằng hữu thuyết như vầy: “Bạn hợp theo ba tướng mạo gọi là bạn lành, nếu không hợp theo ba tướng mạo ấy gọi là bạn ác”.
Ba tướng của bạn là:
Ahite paṭisedho ca: Ngăn cản nhau trong sự vô ích.
Hitesu ca niyojako: Dìu dắt nhau trong việc hữu ích.
Byāsane cāpariccāgo: Không bỏ nhau trong khi có sự tiêu hoại.
Đây là tướng mạo của bạn vắn tắt.
Tướng mạo làm tài liệu để nhận xét theo ba điều vắn tắt nầy là tài liệu nhận xét phổ thông cả bạn tại gia và xuất gia.
Trong bộ Aṅguttaranikāya (Tăng nhứt A-hàm), đoạn Sattaka nipāta, Đức Bổn Sư thuyết cách thức nhận xét bạn cả hai phẩm mạo, chia sẻ khác nhau như dưới đây:
Piyo: Làm cho kẻ khác thương được.
Garu: Làm cho kẻ khác tôn tọng.
Bhāvanīyo: Tu luyện cho có phần tiến hóa, xứng đáng là nơi khen ngợi.
Vattā: Siêng năng dạy dỗ.
Vacanakkhamo: Nhẫn nại lời nầy tiếng nọ.
Gambhīraṃ kathaṃ kattā: Tuần tự giảng giải ý nghĩa sâu xa.
Noca aṭṭhāne niyojati: Không hướng dẫn trong điều chẳng nên học.
Pháp dễ nhận xét bạn tại gia có bảy điều là:
Duddādaṃ dadāti: Cho những vật mà người khác khó cho được.
Dukkaraṃ karoti: Làm những việc mà người khác khó làm được.
Dukkhamaṃ khamati: Nín chịu những điều mà người khác khó nín chịu được.
Guyhamassa āvikaroti: Mách việc kín của mình bạn.
Guyhamassa parigūhati: Tiếp che dấu chuyện kín của bạn, không tiết lộ ra.
Āpadāsu na jahati: Không rời bỏ nhau trong khi có điều tai hại.
Khīṇena nāti maññati: Không khinh rẽ khi bạn bị sự túng cùng.
Bạn xuất gia hoặc tại gia, nếu có đủ những chi điều như đã nói trên đây, mới gọi là bạn lành. Bạn như thế, hàng thức đạt nên thân cận để được giúp sức mạnh trong khi mình hữu sự phát sanh. Bởi người đời đã sống chung tập thể, từng nhóm, kể từ một gia đình đến một xóm, một quốc độ, cũng cần phải nương gá lẫn nhau, giúp nhau trong mọi công việc lớn hoặc nhỏ. Mình không thể tự cố gắng hoàn thành một công việc nếu không có sự giúp sức của bạn bè. Thật vậy, công việc nào quá trình độ khả năng của một người làm cho kết quả thời, những công việc ấy được kết quả tốt đẹp y như ý muốn, bỡi có bạn lành giúp tính toán, giúp làm mới được. Vì lẽ đó nên Đức Thế Tôn dạy cho thấy rõ điều lợi ích của sự thân cận bạn lành rằng: Bằng hữu là bạn của người hữu sự hằng phát sanh.
Ba hạng bạn như đã giải trên đây làm cho kết quả tốt đẹp, là chỉ giúp cho nhau được sự an vui trong đời hiện tại nầy thôi, không thể giúp cho nhau được sự an vui trong đời vị lai đâu. Riêng về phước thiện mà các thiện nhơn đã tạo trử trong tâm mới là bạn có thể dính theo mình đến những kiếp sau.
Phước là bạn trong những đời sau:
Tiếng gọi phước là phản nghĩa với tội, có nghĩa rằng: “Điều lành là tài liệu làm cho tâm trong sạch”, hoặc là “thiện nghiệp”.
Tội có nghĩa là điều ác, vật bất tịnh hoặc là “ác nghiệp”.
Phước là điều làm cho tâm chúng sanh trở nên trong sạch.
Tội là điều làm cho tâm nóng nảy, bức rức.
Phước là bạn lành của người thực hành thân, khẩu, ý thanh hạnh.
Tội là bạn ác của người thực hành thân, khẩu, ý trược hạnh.
Phước dẫn chúng sanh về nhàn cảnh, là cõi người và các cõi trời.
Tội dẫn chúng sanh vào ác đạo (nơi không tiến hóa) là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, A-tu-la.
Phước đem sự sự an vui đến co chúng sanh hành thiện.
Tội đem sự khổ đến cho chúng sanh hành ác.
Nơi đây chỉ giảng giải về phước, là bạn lành của quí vị đã vun bồi mà thôi.
Phước đây chia làm hai điều là:
Phước nhân.
Phước quả.
Phước nhân là nói về thiện pháp để gội rửa tâm cho trong sạch, thanh khiết, để thoát khỏi phiền não như: tham, sân, si… Bởi vì thiện pháp nầy phát sanh trong tâm người nào, hằng làm cho tâm kẻ ấy trong sạch, xa lìa điều ác, việc làm, lời nói hoặc ý nghĩ điều gì toàn là thân, khẩu, ý thanh hạnh trong sạch cả ba cửa.
Phước quả là nói đến sự an vui được phát sanh lên cho người đã bổ túc; nhứt là làm cho phát sanh sự hớn hở, phỉ lạc trong tâm. Nếu nói theo chỗ phát khởi Phước thì gọi rằng:
Puñña kiriyā vatthu: Tư cách phát sanh Phước có 10 điều là:
Dāna: Bố thí: sự dứt bỏ của cải, đem ra làm phước với tư cách tế độ, với tư cách cúng dường ân đức, với tư cách ủng hộ, để cho người thọ thí được kết quả lợi ích. Bố thí đây là tài liệu dứt trừ lòng tham.
Sīla: Trì giới: Sự răn trị thân khẩu cho nghiêm trang luôn khi. Giới đây là tài liệu dứt trừ sân hận.
Bhāvanā: Tham thiền: Sự làm cho tâm vắng lặng và điêu luyện trí tuệ cho sáng suốt để thấy rõ chơn lý. Tham thiền đây là tài liệu dứt trừ si mê.
Apacāyana: Kính nhường: Sự tỏ ra nhỏ nhẹ cung kính đối với người lớn hoặc đối với người có giới đức… Kính nhường đây là tài liệu dứt trừ ngã chấp và ngã mạng (khinh rẻ kẻ khác).
Veyyāvacca: Tiếp giúp việc lành: Sự siêng năng cố gắng tiếp giúp làm những việc nên làm của người khác. Sự tiếp giúp nầy là tài liệu dứt trừ sự lười biếng (Kosajja).
Pattidāna: Chia phước: Sự hồi hướng phần phước nghĩa là làm những điều phước thiện nào rồi hồi hướng quả phước ấy đến kẻ khác. Hồi hướng nầy là tài liệu dứt trừ sự không hoan hỷ (arati) và sự bỏn sẻn khen ngợi đức tánh của kẻ khác (vaṇṇamacchariya).
Pattānumodanā: Hoan hỷ phần phước: Sự vui mừng nhận lãnh với phần phước mà kẻ khác hồi hướng cho. Hoan hỷ phần phước đây là sự dứt trừ tật đố diều tốt của kẻ khác (issa).
Dhammassavara: Nghe pháp: Sự nghe pháp hoặc sự thọ lời giáo huấn của bậc trí thức bằng cách cung kính. Nghe pháp đây là tài liệu dứt trừ sự không biết rõ hoặc hoài nghi (vicikicchā) và cứng cõi, ngã chấp, ngã mạng.
Dhammadesanā: Thuyết pháp: Sự giảng dạy pháp để dìu dắt kẻ khác cả đường đời và đường đạo. Thuyết pháp đây là tài liệu dứt trừ sự không biết rõ của kẻ khác và dứt trừ sự bỏn sẻn pháp (Dhammamaccariya).
Ditthujukamma: Sự làm cho kiến thức ngay thẳng: Đây là làm cho sự hiểu thấy đứng theo giòng pháp, sự sửa trị tri kiến cho ngay thẳng. Đây là tài liệu dứt trừ sự hiểu quấy (sửa trị tà kiến cho trở thành chánh kiến được là đức tánh tối quan trọng trong đường lối thực hành chánh pháp. Vì nếu con người có sự hiểu quấy thì sự hành động thân khẩu ý cũng có thể quấy theo. Nếu có sự hiểu biết hay hành đúng theo chánh pháp thì sự thực hiện nơi thân khẩu ý cũng có thể chánh đáng theo).
Phước trả quả cho người làm.
Những người lành đã tạo phước thiện sẵn dành trong tâm, khi nhận xét sự hành động do thân khẩu ý của mình đã làm rồi, thấy toàn là phước thiện tất cả, hẳn nhiên phát khởi phỉ lạc, thỏa thích vui tươi trong tâm rằng (điều lành, điều phước thiện ta đã làm sẵn rồi), khi nào nghĩ đến sẽ phát sanh sự hoan hỷ luôn luôn. Đến lúc gần chết, nếu được nghĩ thấy điều phước thiện mình đã tạo trữ ấy, chắc hẳn có sự vững dạ, dạn dĩ và không khủng khiếp đối với sự chết đã rõ ràng trước mắt; bởi tin chắc rằng: “Do nhờ năng lực phước thiện mà ta đã tạo trử đây, dù chết chăng nữa cũng được sanh về nơi nhàn cảnh chẳng sai”. Trong khi có sự tin mạnh như thế; hẳn nhiên người ấy có trí nhớ minh mẫn, không bị mê loạn, cho đến khi rã tan ngũ uẩn, bước sang đời mới cũng được êm đẹp. Kế sau sự chết sẽ được an vui nơi nhàn cảnh, ấy là nhờ quả của phước thiện mà ta đã huân tập, tu tạo đó vậy.
Phước là phù chú ngãi nghệ.
Người lành đã tu tạo phước duyên chôn sâu trong tâm, được gọi là người biết phù phép ngãi nghệ một cách linh diệu hiển hách, bởi người có tâm thỏa thích trong việc phước hẳn là nơi thương yêu vừa lòng của mọi người và Chư Thiên. Thật vậy, người nào muốn cho những kẻ xung quanh họ thân thiện và quý mến mình, nhưng người ấy dùng sái phương pháp về phước thiện, chỉ làm điều tội ác là nghiệp không đúng nhân quả, sái chân lý, không xứng đáng cho phần đông nhiệt tâm kính mến được, thử hỏi ai thương yêu quý trọng nỗi? Dù cho đi học phù phép ngãi nghệ hoặc kiếm những thầy đại tài danh tiếng đến bỏ bùa ngãi, cũng chẳng có ai tưng trọng do bị bùa phép của thầy ấy.
Riêng về bậc tịnh giả không cần học phù phép ngãi nghệ hoặc nhờ thầy ngãi đại tài đến giúp, để khiến cho phần đông thương yêu quý trọng mình đâu, người ta chỉ quyết tâm cố gắng tu tạo phước đức, là bố thí, trì giới, tham thiền… Đương nhiên những người xung quanh mình đến sum vầy tôn trọng muốn nghe muốn thấy mặt mình tất cả. Cớ ấy mới đáng nhận rằng phù chú ngãi nghệ hay nhứt, bỡi lẽ tâm của người đó có phước. Ông thầy trị bệnh với thứ thuốc linh dược có thể lành được do nhờ người bệnh chưa hết tuổi thọ.
Nói tóm lại cho dễ nghe là phù chú ngãi nghệ mà người ngu si trọng dụng, không hay bằng phù chú ngãi nghệ tức là phước thiện và thanh hạnh mà bậc trí thức đã nhiệt tâm tu tập.
Ý nghĩa giảng giải bấy nhiêu đây chỉ cho thấy rằng: Phước mà các vị thiện nhân đã tạo trử rồi gọi là đức tánh đem sự vui tươi lại cho từ đời nầy đến kiếp sau; lại đưa đường dẫn lối cho được sự an vui trong khi lâm chung. Bởi lẽ ấy, phước mới đáng gọi là bạn lành cao quý hơn tất cả bằng hữu khác, đúng như Phật ngôn đã nói: “Những điều phước thiện mà họ đã tự mình tạo trử, hẳn là bạn thân thiết dính theo trong đời vị lai (Sayaṃ katāni puññāni taṃ mittaṃ samparāyikaṃ).
#tinhtam #phatphap #TyKhuuGioiNghiem #ducphat #theravada
Theo nguồn: https://theravada.vn/book/giai-ve-ban-mittakatha-ty-khuu-gioi-nghiem/
Nguồn ảnh: Instagram Dhammanamo
from Theravada https://theravadavn.tumblr.com/post/625033747302154240
0 notes
Text
Phần I
"Hãy tích cực hoạt động để tạo an lành cho kẻ khác." -- Sutta Nipàta
Có mười đức tánh cao quý vượt hẳn thế tục gọi là Pàrami (Ba La Mật), mà chư vị Bồ Tát đều thực hành tròn đủ để thành tựu Ðạo Quả Chánh Ðẳng Chánh Giác (Sammà Sambuddha).
Mười pháp Ba La Mật là: Bố Thí (Dàna), Trì Giới (Sìla), Xuất Gia (Nekkhamma), Trí Tuệ (Pannà), Tinh Tấn (Viriya), Nhẫn Nại (Khanti), Chân Thật (Sacca), Quyết Ðịnh (Adhìtthàna), Tâm Từ (Mettà), và Tâm Xả (Upekkhà).
Theo Bản Chú Giải kinh Cariyà Pitaka, Ba La Mật [1] là những phẩm hạnh không nhuộm màu vị kỷ, không đượm nhuần tà kiến và không ẩn ý ngã mạn. Ba La Mật nhờ trí tuệ dẫn dắt và do lượng từ bi vun quén đắp bồi.
Hành động của Bồ Tát tuyệt đối vị tha. Với đức từ bi vô lượng, lòng bác ái vô biên, xuyên qua bao nhiêu kiếp sống, các Ngài không ngừng nỗ lực chuyên cần nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo nàn thấp kém, giúp đỡ cho mọi người bằng muôn ngàn cách và làm giảm bớt phiền não cho tất cả chúng sanh.
Một vị Bồ Tát không nghĩ đến việc an hưởng thú thanh nhàn trong khi những người bạn xấu số của mình còn ở trong vòng lao khổ. Ðể làm dịu bớt phần nào nỗi khổ đau của nhân loại, Bồ Tát sẵn sàng hy sinh tất cả các vật sở hữu quý báu nhất, cho đến mạng sống của mình đi nữa cũng không tiếc, như câu chuyện trong Túc Sanh Truyện Vyàghrì Jàtaka diễn tả.
Với tâm đầy từ bi, Bồ Tát luôn luôn sẵn sàng tạo an lành hạnh phúc cho tất cả, không quên bỏ một chúng sanh nhỏ bé nào, nhưng không khi nào làm điều gì không do trí tuệ dẫn dắt. Lòng bi mẫn vô biên, tuy nhiên các Ngài luôn luôn cân phân tâm trí. Và trong khi phục vụ, Ngài không hề cầu mong một thế lực hoặc một quyền lợi vật chất nào trên thế gian. Khi đã hành động xứng đáng, danh thơm tự nhiên đến, tại sao cần phải chạy theo nó?
Bồ Tát hoàn toàn vị tha, luôn luôn sống cho kẻ khác. Không hề có một điểm ích kỷ, dầu nhỏ nhen đi nữa, trong những hành động của Ngài.
Kinh Dhammapada (Pháp Cú) có câu :
"Hãy để cho cả hai, hàng tại gia cư sĩ và tăng chúng, nghĩ rằng 'chính ta đã làm điều phải đó. Trong mọi công việc, dầu lớn dầu nhỏ, hãy để họ nhắc đến ta.' Ðó là tham vọng của người cuồng si. Nghĩ như vậy thì lòng tham và tính ngã mạn sẽ tăng trưởng." (Câu 74)
Một vị Bồ Tát không khi nào có tư tưởng ích kỷ và hẹp hòi như vậy. [2]
Bố Thí (Dàna)
Bố Thí, hay lòng quảng đại, là Ba La Mật đầu tiên mà trong khi thực hiện hành giả thành tựu hai nghiệp thiện là tiêu trừ những tư tưởng ích kỷ, xấu xa, và phát triển những tư tưởng vị tha, trong sạch. Bố thí là một niềm hân hoan, một phước lành cho cả người tặng, lẫn người thọ lãnh.
Bồ Tát không thắc mắc tìm hiểu người mà mình muốn cho một vật hoặc ban một đặc ân nào, có ��� trong tình trạng thiếu thốn món đó không. Ngài cho ra mà không chạy theo vật mình cho. Ngài bố thí vì lòng quảng đại mà cũng để diệt lần mọi hình thức luyến ái còn tiềm tàng trong tâm. Niềm vui khi phụng sự kẻ khác tự nhiên đến. Làm dịu bớt nỗi đau khổ của chúng sanh là một hạnh phúc khác do sự bố thí đem lại.
Tình thương của một vị Bồ Tát thật bao la. Lòng từ bi của Ngài ban rải cho tất cả muôn loài. Nhưng khi bố thí, Ngài không nhắm mắt cho càn. Lòng quảng đại không làm cho sự bố thí trở nên mù quáng. Nếu có một người ghiền rượu đến nhờ sự giúp đỡ của Ngài và nếu Ngài biết chắc chắn rằng người nầy sẽ lãnh món quà để dùng trong việc sai quấy, vị Bồ Tát sẽ không ngần ngại từ chối. Ðặt lòng quảng đại trong một hành động sai lầm không phải là Ba La Mật (Pàrami).
Khi giúp đỡ một người vì l�� do chánh đáng, Bồ Tát không hề lộ vẻ quan trọng hoặc tỏ ý tự tôn tự đại; trái lại, thấy đó là một cơ hội quý báu để làm bổn phận mình nên sẵn sàng và vui vẻ phục vụ kẻ khác một cách khiêm tốn. Ngài không bao giờ thấy mình cao hơn ai vì lẽ người đó nhờ mình.
Khi giúp đỡ, Ngài không thấy đó là thi ân, cũng không coi người mình giúp là đã thọ ân mình. Bồ Tát làm việc gì chỉ vì đó là điều phải, không tìm danh vọng, không mong đền đáp.
Bồ Tát không bỏ lỡ một dịp may nào để phục vụ kẻ khác, nhưng không hạ mình cầu xin ân huệ. Túc Sanh Truyện Brahma Jàtaka (số 323) thuật rằng có một vị Bồ Tát sống đời tu sĩ trong ngự uyển. Thường ngày vua đến viếng và cung cấp mọi vật dụng, nhưng dầu sao nhà vua không thể thấy hết mọi nhu cầu của Ngài. Ðôi dép và cây dù của Bồ Tát rách hư đã mười hai năm trường mà vua không hay. Ngài không hề hở môi. Ngày kia vua hay được. Trước cử chỉ tuy khiêm tốn nhưng lạ lùng như vậy, vua hỏi Ngài tại sao ?
Ngài trả lời :
"Tâu Bệ Hạ, kẻ cầu khẩn mà không được toại nguyện sẽ buồn rầu. Kẻ được người khác nhờ đến mà không thể giúp, càng buồn rầu hơn nữa."
Bồ Tát cho ra không xiết kể, không phân biệt giai cấp, chủng tộc hay tôn giáo, nhưng không bao giờ cầu mong người khác trả lại. Một đặc điểm của các Ngài là tri túc hoàn toàn. Thi hào Edward Dyer ca ngợi đức tánh ấy trong mấy dòng thơ :
"Vài người có thật nhiều mà vẫn còn tham muốn, Tôi có ít nhưng cảm thấy đủ. Chính họ 'nghèo', mặc dầu tiền rừng bạc bể Và chính tôi 'giàu', tuy túi rổng không."
Túc Sanh Truyện Kanha Jàtaka (số 440) có ghi chép rằng một hôm vua Trời Sakka (Ðế Thích), nghe danh vị Bồ Tát nọ là một nhân vật gương mẫu có nhiều đức độ. Vua Trời lấy làm cảm phục, kính cẩn đến bạch Ngài xin cho biết có cần dùng món chi để vua cúng dường. Bồ Tát vui vẻ xin được thành tựu bốn điều ước nguyện:
Ước nguyện tôi không sân hận, không phiền hà, hoặc có ác ý với người láng giềng! 2. Ước nguyện tôi không tham muốn vật sở hữu của người láng giềng! 3. Ước nguyện tôi không luyến ái riêng người nào! 4. Ước nguyện tôi có tâm xả!
Nghe vậy, tuy hết sức cảm phục, vua Trời Sakka (Ðế Thích) lấy làm thất vọng, xin Ngài chọn thêm một vật gì khác để vua cúng dường. Vị Bồ Tát trả lời:
"Bất luận nơi rừng sâu nào mà tôi sống, nơi nào mà tôi ở một mình, xin cho tôi được khỏe mạnh. Bởi vì bệnh hoạn sẽ làm xáo trộn cuộc sống yên tĩnh và làm trở ngại công phu hành thiền của tôi."
Vua Trời Sakka (Ðế Thích) nghĩ thầm: "Thật là tiếng đồn chẳng sai. Quả thật Bồ Tát Kanha là bậc thiện trí thức. Thay vì ước mong được thỏa mãn một nhu cầu vật chất, Ngài chỉ chọn những điều cần thiết cho đời sống đạo hạnh."
Lần thứ ba Vua Trời Sakka lại xin Bồ Tát chọn một m��n gì khác để cúng dường. Bồ Tát trả lời:
"Tâu Hoàng Thượng, tôi có thêm một nguyện vọng nữa. Bất luận ở đâu, không một chúng sanh nào làm tổn thương thân thể tôi, không một chúng sanh nào làm hại đến tâm trí tôi, đó là lời nguyện của tôi." (Jàtaka Stories, số 440)
Lòng quảng đại của một vị Bồ Tát thật không cùng. Ngài sẵn sàng cho ra tất cả, chẳng những của cải, tài sản, sự nghiệp và những sở hữu yêu chuộng khác, mà còn có thể cho cả ngai vàng, cả vương quốc, một cánh tay, một cái chân, cho đến vợ, đến con. Ðến mạng sống, Ngài cũng không ngần ngại cống hiến để tạo hạnh phúc cho nhân loại.
Túc Sanh Truyện Vessantara Jàtaka (số 547) có thuật rằng Hoàng Tử Vessantara, lúc còn tám tuổi, có lần thành thật nghĩ rằng:
"Nếu một ngày kia có người cần đến trái tim của ta, ta sẽ tự tay mổ ngực, moi tim ra cho. Nếu có người cần đến mắt, ta sẽ tự móc lấy mắt ra biếu. Nếu có người cần đến thịt ta, ta sẽ tự tay cắt ra một miếng để tặng."
Túc Sanh Truyện Vyàghrì Jàtaka cũng thán phục thuật lại câu chuyện một vị tu sĩ sẵn sàng và vui vẻ hy sinh mạng sống để đem lại hạnh phúc cho kẻ khác. Trong Jàtakamàlà câu chuyện được thuật lại như sau :
"Ngày kia, một vị Bồ Tát đi ngang qua khu rừng nọ cùng với người đệ tử. Ngài nhìn thấy một con cọp mẹ cùng với ba cọp con nằm ngất ngư gần chết vì đói. Ðộng lòng bi mẫn, Ngài bảo người đệ tử đi tìm thức ăn cho cọp. Nhưng đó chỉ là một cái cớ để được ở lại một mình với cọp, vì Ngài nghĩ rằng:
"Tại sao ta phải đi tìm một thân sống khác, khi có sẵn thân ta đây để làm món ăn cho cọp. Tìm thức ăn cho cọp ở nơi khác là một việc cầu may, hơn nữa ta có thể bỏ lỡ một cơ hội tốt đẹp để làm bổn phận.
"Chính cái thân ô trược nầy là nguồn gốc của bao nhiêu phiền não, bao nhiêu bất hạnh. Nếu ta cứ khư khư bám chặt lấy nó và không biết dùng nó để phụng sự kẻ khác thì thật là không sáng suốt chút nào. Trong đời chỉ có hai nguyên do làm cho con người hững hờ trước sự đau khổ của kẻ khác. Ðó là lòng luyến ái, cột trói chúng sanh vào những lạc thú, cố bám lấy sự vui sướng cá nhân, sợ nó mất đi, là một nguyên do làm cho ta lãnh đạm trước sự đau khổ của người khác. Thiếu lòng từ thiện, thiếu ý chí giúp đời là nguyên do khác. Nhưng ta không thể an vui khi kẻ khác đau khổ. Ngày nào chưa giúp được kẻ khổ, ngày ấy ta không thể an hưởng hạnh phúc. Như vậy làm sao có thể thản nhiên trước cảnh tượng hấp hối vì đói khát của cọp mẹ và bầy cọp con nầy.
"Nếu ta nhảy xuống vực sâu để làm mồi cho cọp thì ít ra ta cũng dùng cái thân khốn khổ nầy vào một việc hữu ích. Ta sẽ nuôi sống cọp mẹ, tránh cho nó khỏi phải làm điều ác là ăn thịt con nó, và cũng tránh cho bầy con nhỏ vô tội kia khỏi phải chết vì nanh vút của mẹ chúng.
"Lại nữa, hành động như vậy ta còn nêu một gương sáng cho ai còn ham muốn những gì mà họ cho là tốt đẹp trên đời nầy. Ta hy sinh thân nầy để cứu bốn mạng sống, để an ủi và khuyến khích những ai bé nhỏ yếu đuối, làm vui lòng những ai thấu triệt ý nghĩa sâu xa của lòng từ thiện và tạo nên một lý tưởng cho những ai muốn sống cuộc đời đạo hạnh. Vậy, đây là cơ hội hy hữu để bước lần đến mức độ giác ngộ hoàn toàn."
Nghĩ như vậy Bồ Tát liền gieo mình xuống vực thẩm, hy sinh mạng sống để ban bố tình trạng an lành cho bốn con cọp sắp chết.
Theo Nevari (Nepàla Bàshà), câu chuyện đáng thương tâm và đầy ý nghĩa thú vị trên được thuật lại như sau:
"Vào thuở xa xưa kia có một ông vua tên Mahàratthà có thế lực oai hùng và tâm đạo nhiệt thành. Ðức vua có ba hoàng tử là Mahà Prashàda, Mahà Deva và Mahà Sattva, cả ba đều hiền lành và dễ dạy.
Một buổi sáng tươi đẹp nọ, đức vua cùng ba hoàng tử đi dạo chơi trong rừng. Mảng lo nhìn xem phong cảnh và mê mẩn với hoa thơm cỏ lạ, ba vị hoàng tử càng đi sâu vào rừng.
Quan hầu cận thấy vắng bóng ba vị hoàng tử bèn tâu lại với vua. Ðức vua liền truyền lệnh cho các quan đi tìm, rồi ngự giá hồi cung.
Nói về ba vị hoàng tử, đi mãi đến một ngọn núi kia. Ðứng trên tảng đá nhìn xuống người anh cả trông thấy một con cọp cái và năm cọp con ở dưới vực sâu. Cả mẹ lẫn con chỉ còn da bọc xương, đang nằm thoi thóp. Ðã nhiều ngày từ khi đẻ con, cọp mẹ không tìm được thức ăn. Bầy cọp con bu theo mẹ để nút sửa, nhưng vú mẹ cạn khô không còn gì để bú. Cọp mẹ có vẻ đói lắm, rõ ràng đang sắp sửa ăn thịt con.
Người anh cả nhận thấy tình trạng bi đát ấy trước tiên, chỉ cho các em và nói rằng: "Các em hãy nhìn xem cảnh tượng đáng thương tâm kia, các em có thấy cọp mẹ không? Vì quá sức đói nên nó đang sắp sửa ăn thịt con cho đỡ dạ. Thật là một trạng thái vô cùng khốn khổ."
Mahà Sattva hỏi anh: "Cọp thường ăn vật chi?"
Mahà Prashàda trả lời rằng "thịt sống là món ăn của loài cọp và loài sư tử."
"Cọp mẹ có vẻ đã đuối sức lắm rồi. Chắc chắn đã nhiều ngày nó không có thức ăn. Phải chi có ai dám hy sinh thân mình cho nó thì quý biết mấy!
"Nhưng ai đâu lại vui lòng làm cái việc hy sinh cao cả ấy!" Mahà Deva lưu ý.
Mahà Prashàda nói: "Chắc chắn là không có ai làm được việc ấy."
Với một giọng cảm động, Mahà Sattva tiếp: "Em còn nhỏ, chắc chắn là chưa đủ trí khôn, nên em nghĩ rằng những người thiểu trí như chúng ta có lẽ không thể hy sinh mạng sống mình để cứu người. Nhưng cũng có hạng người từ bi, hoàn toàn sống cho kẻ khác. Những người như thế có thể sẽ vui lòng hiến thân mình để cứu sáu sanh mạng nầy."
Ba anh em bàn luận với nhau như vậy và nhìn thoáng qua lần cuối cùng bầy cọp vô hy vọng, rồi bỏ đi nơi khác.
Mahà Sattva nghĩ thầm:
"Ta phải hy sinh mạng sống phù du nầy để cứu bầy cọp đói kia. Tấm thân tứ đại mà ta mang đây chỉ là một đống ô trược đã gây cho ta bao nhiêu phiền não và phải chết một ngày nào. Tuy rằng hiện nay ta có thể ướp hoa, thoa dầu cho nó xinh đẹp, thơm tho, nhưng rồi một ngày kia nó sẽ tanh hôi và tan rã."
Gẫm suy như thế, chàng bèn bảo hai anh đi trước để mình chẩm rải ngoạn vật ngắm cảnh. Chờ hai anh đi xa, chàng hối hả trở lại chỗ cọp nằm, cổi quần áo treo trên nhánh cây và nghĩ rằng:
"Ta phải tích cực hành động để tạo an lành cho kẻ khác. Phải rải tâm từ đến tất cả chúng sanh. Phục vụ những ai cần đến ta là nhiệm vụ trọng đại. Ta hãy hy sinh tấm thân ô trược nầy để cứu mạng sống cho cọp mẹ và năm con. Do hành động tạo thiện nghiệp nầy, mong rằng ta sẽ bước lần đến mức Chánh Ðẳng Chánh Giác, và cứu độ chúng sanh ra khỏi đại dương của vòng luân hồi đau khổ. Ước mong tất cả chúng sanh đều an vui hạnh phúc!"
Ðộng lòng trắc ẩn và thấm nhuần tinh thần phục vụ vị tha, hoàng tử Mahà Sattva nhẹ nhàng gieo mình xuống hố, gần nơi bầy cọp nằm. Nhưng hoàng tử không chết, chỉ bị thương nặng. Cọp kia, dầu bẩm tánh rất hung dữ, cũng động lòng thương hại vị Bồ Tát, không nỡ chạm đến thân Ngài.
Bồ Tát thì nghĩ khác: 'Rõ ràng cọp đã quá yếu đuối nên không đủ sức vật mình để ăn!' Ngài bò lần đi tìm một khí cụ để tự sát. May thay, gần nơi cọp nằm có một khúc tre bể. Ngài nhặt lấy tre rồi tự cứa cổ đến chết. Ngài té ngã nằm trên vũng máu.
Cọp vừa đói vừa khát, thấy vậy đi lần đến, liếm vũng máu và xé thây Bồ Tát ra, ăn ngon lành. Phút chốc chỉ còn lại một đống xương tàn.
Chuyện thêm rằng lúc Bồ Tát tự sát để hiến thân cho cọp, trời đất chuyển động, nước biển nổi sóng to, ánh sáng mặt trời bỗng dưng tối sầm lại, cảnh vật trở nên lờ mờ, tất cả chư Thiên đồng thanh reo to: Lành thay! Lành thay! và từ trên không trung, bông Pàrijàta rơi xuống như mưa.
Trước cảnh tượng phi thường của trời đất, hai người anh đoán đúng rằng em mình đã hiến thân làm mồi cho cọp. Mahà Deva nói:
"Khi nảy Mahàsattva nói với một giọng rất đau thương, chắc em đã hy sinh mạng sống để cứu bầy cọp."
Hai anh liền đi lần trở lại tìm em và lấy làm kinh hoàng trước cảnh tượng hãi hùng. Ðâu là hình bóng của người em yêu mến. Chỉ còn đống xư��ng trắng điểm máu hồng, bên cạnh bầy cọp no bụng. Gần tảng đá, trên cành cây, quần áo của Mahà Sattva còn phất phơ trước gió.
Hai vị hoàng tử đau lòng xót dạ, khóc than thê thảm và buồn bã trở về để tâu lại với vua cha.
Chính ngay lúc Bồ Tát liều thân cứu cọp, hoàng hậu ở cung nội đang ngủ. Bà nằm mộng thấy một cái răng của mình bỗng nhiên rụng xuống và nghe nhức nhối đau xót tựa hồ như có ai cầm dao thẻo thịt ra từng miếng. Nhìn ra ngoài cửa, hoàng hậu lại thấy từ trên không, một con ó đáp xuống, xớt một trong ba con bồ câu xinh đẹp đang đậu trên nóc nhà và tha đi mất.
Hoàng hậu lấy làm kinh sợ, giựt mình tỉnh dậy, nhớ đến ba con còn lạc bước trong rừng. Bà lật đật chạy tìm vua để thuật lại điềm mộng.
Khi được biết rằng các hoàng tử còn lạc mất hoàng hậu van nài vua cho người đi tìm.
Vừa lúc ấy tin dữ cũng được đưa đến. Các quan chức vào rừng tìm hoàng tử trở về. Câu chuyện thê thảm được thuật lại. Tất cả đều cảm động và khóc than không xiết kể. Ðức vua an ủi hoàng hậu và cỡi voi vội vã cùng với quan quân hầu cận đi rước hai vị hoàng tử đau khổ còn chưa ra khỏi rừng.
Gặp cha, hai hoàng tử nghẹn ngào không nói được một lời. Sau cùng, cố sức nén lòng, hai vị lần lượt thuật lại cho vua cha và mọi người nghe cái chết dũng cảm của người em vô cùng cao quý.
Vua liền hạ lệnh sắm sửa ngựa voi để cùng hoàng hậu và bá quan đến nơi lịch sử.
Ðến nơi, vừa thấy những khúc xương tàn của người con yêu quý rải rác đó đây còn dính đầy máu đỏ vua và hoàng hậu ngã ra bất tỉnh.
Ngự y hối hả đem thuốc cứu cấp và các vị Bà La Môn Purohita rót lên mình nước hương trầm. Một hồi lâu vua và hoàng hậu dần dần tỉnh dậy.
Vua truyền gom góp tóc, xương và quần áo để lại một nơi, rồi đến trước đó, đứng chiêm ngưỡng người con yêu dấu. Tất cả quần thần cũng đến tỏ lòng sùng kính người anh hùng cao quý. Vua hạ lệnh xây dựng tại chỗ một bảo tháp khảm vàng để thờ vị Bồ Tát đã hiến thân cứu cọp, và cùng hoàng hậu ra về, lòng như dao cắt.
Về sau, bảo tháp thờ xá lợi của Bồ Tát Mahà Sattva có tên là "Om Namo Buddhà".
Sách Túc Sanh Truyện thuật lại câu chuyện có thêm rằng hiện nay bảo tháp ấy có tên là "Namurà" (tiếng gọi tắt chữ Om Namo Buddhà, có nghĩa tôn kính Ðức Phật).
Hai câu chuyện thuật lại có khác nhau nhưng dầu vị Bồ Tát đã hiến thân cứu cọp là nhà tu sĩ hay hoàng tử, thì đó chỉ là hình thức bề ngoài. Ðiểm quan trọng chính là gương hy sinh cao cả và hoàn toàn vị tha chứa đựng bên trong.
Theo thường lệ, khi sách Jàtaka (Túc Sanh Truyện) chép lại một sự tích nào đều có nêu ra cho biết nhân cơ hội nào Ðức Phật nhắc lại chuyện ấy. Tiếng Phạn gọi cơ hội ấy là Nidàna(nguyên do dẫn cớ tích). Nhưng những nhân vật trong hai câu chuyện kể trên không được xác nhận ở đoạn cuối cùng như trong các bài Jàtaka khác.
Sách Nevàri Jàkata rõ ràng mô tả đầy đủ hơn bổn Samskrit (Jàtakamàlà) nhưng căn nguyên của kinh Nevàri không được chắc chắn.
Về tư cách một vị Bồ Tát hành Bố Thí Ba La Mật, có đoạn kinh "Cariyà Pitaka" giải rằng:
Mỗi khi Bồ Tát tặng vật thực cho ai, Ngài ước mong người ấy được sống lâu, có sắc đẹp, yên vui, khoẻ mạnh, có trí tuệ và đắc Quả cao thượng nhất là Niết Bàn. Ðối với người khát nước, Ngài ban cho thức uống với ước nguyện rằng thức uống nầy không những giải cho người ấy cái khát của cơ thể vật chất mà còn làm suy giảm lòng khát khao dục vọng. Ban quần áo, Ngài cho với ước nguyện người ấy sẽ biết hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi. Khi giúp đỡ phương tiện đi đứng Ngài chú nguyện người thọ nhận sẽ trau giồi các năng lực tinh thần. Ban cho nhang trầm, Ngài ngưỡng mong người thọ lãnh sẽ hưởng hương thơm của Giới Ðức (Sìla). Ban dầu và hoa, Ngài chú nguyện người nhận sẽ hưởng danh thơm của người sống đời đạo hạnh như Ðức Phật. Giúp cho ai chỗ ngồi, Ngài nguyện cho người ấy có được nền tảng của sự Giác Ngộ. Giúp chỗ ở, Ngài mong người ấy sẽ là nơi nương tựa cho cả thế gian. Giúp ánh sáng, Ngài chú nguyện người nhận có được năm loại nhãn quan là mắt thịt, mắt trí tuệ, Thiên Nhãn, mắt của một vị Phật và tri kiến thông suốt chân tướng vạn pháp. Bố thí "Sắc", Bồ Tát chú nguyện người nhận lãnh được có hào quang như Ðức Phật ; "Thinh", được lời nói tao nhã dịu dàng như chư vị Phạm Thiên ; "Vị", được đẹp lòng, vui vẻ với tất cả mọi người ; "Xúc", có được cơ thể thanh lịch và tinh hảo như Ðức Phật ; và khi giúp đỡ thuốc men cho ai, Bồ Tát cầu chúc cho người ấy được sống mãi mãi, tức chứng ngộ Ðạo Quả Niết Bàn.
Bồ Tát phá gông cùm, giải phóng những người nô lệ với hy vọng cũng giải phóng con người, cùng một thế ấy, ra khỏi vòng xiềng xích của bao nhiêu dục vọng. Bồ Tát ly gia cắt ái, từ bỏ những đứa con yêu quý của mình để nới rộng tình phụ tử đậm đà ấy đến tất cả chúng sanh. Ngài từ bỏ vợ để làm chủ thế gian, bỏ ngai vàng để thừa hưởng vương quốc của sự chánh trực, công minh, và đạo đức.
Ðoạn kinh trên không những chỉ cho ta thấy thế nào là thái độ vị tha của Bồ Tát mà còn nói lên sự nỗ lực không ngừng và bất vụ lợi của các Ngài để phục vụ nhân loại. Tuy nhiên, mục tiêu cuối cùng của Bồ Tát là trở thành Phật, và Ngài không bao giờ lãng quên mục tiêu cứu cánh ấy.
Trì Giới (Sìla)
Phối hợp với lòng quảng đại siêu phàm của vị Bồ Tát là giới đức của Ngài (Sìla). Danh từ "Sìla" trong Phạn ngữ có nghĩa là quy luật, kỷ cương. Giới gồm có những bổn phận phải làm (càritta) và những điều nên tránh (vàritta). Ðạo làm cha mẹ, làm con, làm vợ, làm chồng, làm trò, làm thầy, làm bạn, bổn phận đối với các bậc tu sĩ, với kẻ ăn người ở trong nhà v.v... đều được giảng giải rõ ràng và cặn kẽ trong kinh Sigàlovàda Sutta.
Bổn phận của người cư sĩ Phật tử được mô tả trong một loạt những liên hệ, để cho dễ nhớ mỗi bổn phận đại khái gồm năm phần:
Con đối với cha mẹ, có bổn phận:
Phải phụng dưỡng và cung cấp đầy đủ vật dụng cho cha mẹ. ii. Làm công việc thay thế cha mẹ. iii. Có một tác phong đạo đức thích nghi để giữ tròn danh giá cho gia tộc. iv. Tỏ ra xứng đáng thọ hưởng di sản của ông cha. v. Ðể bát cúng dường Tam Bảo và hồi hướng phước báu cho những người đã quá vãng trong gia tộc.
Cha mẹ, được con săn sóc và giúp đỡ như vậy, phải biết thương con và có bổn phận:
Khuyên lơn và ngăn cản, không để con làm điều tội lỗi, tạo nghiệp bất thiện. ii. Nhắc nhở và dẫn dắt con luôn luôn đi trên đường thiện. iii. Giúp con hành nghề sanh sống chân chánh. iv. Khi con lớn khôn, dựng vợ gả chồng một cách xứng đáng, và v. Ðúng lúc chia lại cho con phần di sản của mình.
Học trò đối với thầy có bổn phận:
Luôn luôn tỏ lòng cung kính. ii. Trông nom hầu cận và chăm sóc thầy. iii. Chăm chỉ nghe lời thầy dạy. iv. Khi thầy cần đến, hết lòng giúp đỡ, và v. Kính cẩn thọ nhận lời thầy dạy bảo.
Thầy, được trò tôn kính và đối đãi như thế, phải biết thương trò và có bổn phận:
Rèn luyện trò biết tôn trọng kỷ luật. ii. Cố gắng làm cho trò lãnh hội dễ dàng lời dạy. iii. Dạy những môn kỹ thuật và khoa học thích hợp. iv. Tiến dẫn trò vào giới thân cận của mình để trò giao thiệp với bạn bè thân thuộc mình, và v. Ðào tạo trò cho ra người hoàn hảo trên mọi phương diện.
Chồng đối với vợ, có bổn phận:
Luôn luôn nhã nhặn, thanh tao. ii. Không khi nào tỏ ý khinh rẻ. iii. Luôn luôn trung thành với vợ. iv. Giao quyền hành cho vợ, và v. Mua sắm cho vợ các đồ trang sức.
Vợ, được chồng đối đãi như vậy, phải biết thương chồng và có bổn phận:
Làm tròn phận sự trong nhà, ii. Vui vẻ, tử tế với thân bằng quyến thuộc. iii. Luôn luôn trung thành với chồng. iv. Thận trọng gìn giữ và chăm sóc của cải trong nhà, và v. Luôn luôn siêng năng, không tháo trút công việc.
Một thiện hữu đối với bạn bè thân thuộc, có bổn phận:
Quảng đại, khoan hồng. ii. Nói năng nhã nhặn, thanh tao. iii. Sẵn sàng làm những việc tốt đẹp cho bạn. iv. Có tinh thần bình đẳng, và v. Luôn luôn thành thật.
Người bạn, được đối xử như vậy có bổn phận:
Bảo vệ bạn trong lúc bạn khinh suất. ii. Bảo vệ tài sản của bạn khi bạn không thận trọng. iii. Làm chỗ nương tựa cho bạn khi có việc lo sợ. iv. Không nên bỏ bạn lẻ loi trong cơn nguy biến. v. Ðối với gia đình bạn, luôn luôn nhã nhặn.
Ðối với kẻ ăn người ở, chủ nhà có bổn phận:
Không nên giao phó công việc làm quá sức. ii. Thù lao và nuôi cơm nước đầy đủ. iii. Khi đau ốm, tận tình chăm sóc. iv. Chia sớt những món ngon vật lạ. v. Không bắt làm quá giờ.
Người làm công, được chủ đối đãi tử tế như vậy, phải biết thương chủ và có bổn phận:
Thức dậy trước chủ. ii. Ði ngủ sau chủ. iii. Chỉ lấy hoặc dùng những vật chi mà chủ đã cho. iv. Thực hành nhiệm vụ một cách viên mãn. v. Truyền bá rộng rãi danh thơm tiếng tốt của chủ.
Người cao quý phải đối xử với hàng tu sĩ và Bà La Môn như sau:
Có những hành động từ ái. ii. Có những lời nói từ ái, iii. Có những tư tưởng từ ái. iv. Cửa nhà luôn luôn mở rộng để tiếp đón, và v. Sẵn sàng dâng cúng những vật dụng cần thiết.
Hàng tu sĩ và Bà La Môn, được người cao quý đối xử như vậy, phải biết thương và có bổn phận:
Khuyên can không để tín đồ rơi vào con đường bất thiện. ii. Nhắc nhở và dẫn dắt đi trên đường thiện. iii. Hết lòng thương mến. iv. Thuyết giảng những Pháp mà người ấy chưa từng nghe, làm sáng tỏ những Pháp đã thuyết rồi, và v. Vạch cho thấy con đường dẫn đến cảnh giới an vui hạnh phúc.
Người đã làm tròn những điều đáng làm (Càritta Sìla) nầy thật đúng là con người thanh lịch, hoàn toàn trong sạch và cao quý trong xã hội.
Ngoài những bổn phận ấy, Bồ Tát còn phải cố gắng tránh những điều không nên làm (Vàritta Sìla), ghép mình vào khuôn khổ giới luật để sống cuộc sống lý tưởng của một Phật tử thuần thành chân chánh.
Sau khi suy luận rõ ràng và đúng đắn thế nào là định luật nhân quả, Bồ Tát cố gắng tránh xa tất cả những điều bất thiện xấu xa lầm lạc và tận lực làm tất cả những điều thiện mà mình có thể làm. Ngài nhận thức rằng bổn phận của mình là phải trở thành một nguồn hạnh phúc cho tất cả và không bao giờ gây phiền toái cho một chúng sanh nào, dầu người hay thú.
Mọi người đều quý trọng đời sống của mình. Không ai có quyền cướp sự sống của kẻ khác. Bồ Tát rải tâm từ đến tất cả chúng sanh, chí đến những con vật bé nhỏ đang bò dưới chân, và không khi nào sát hại hoặc làm tổn thương một sinh vật nào. Con người vốn sẵn có một thú tính x��i giục giết hại những sinh vật khác để ăn thịt mà không chút thương xót. Cũng có khi sát sanh để tiêu khiển thì giờ. Dầu để nuôi sống thân mạng hay để tìm thú vui, không có lý do nào chánh đáng để giết một sanh linh hoặc làm cách nào khác cho một sanh linh bị giết. Có những phương pháp tàn nhẫn, đáng ghê tởm, cũng có những phương pháp mà người ta gọi là nhân đạo, để sát sanh. Nhưng làm đau khổ một chúng sanh là đã thiếu lòng từ ái. Giết một con thú đã là một hành động bất chánh, nói chi đến giết một người, mặc dầu nhiều lý do đã được viện dẫn, gọi là chánh đáng, có khi gọi là cao quý, để con người tàn sát giết hại con người. Bồ Tát cũng kiêng cử mọi hình thức trộm cắp, bất luận trực tiếp hay gián tiếp, và làm như vậy phát triển rộng rãi những đức tính thanh bạch, thành thật và ngay thẳng. Bồ Tát không để mình vi phạm một lỗi lầm bé nhỏ nào có thể phương hại đến phẩm giá con người, và hết sức cố gắng gìn giữ cuộc sống gia đình trung thành, tinh khiết, hoàn toàn trong sạch. Ngài tránh nói dối, không nói lời thô lổ cộc cằn, không nói điều nào làm cho người nầy có thể phiền trách người khác, không nói những lời vô ích. Ngài chỉ nói những lời thanh tao nhã nhặn, chân thật, dịu dàng, những lời có thể đem lại cho người khác hoàn cảnh hòa hợp, tình trạng an vui hạnh phúc, và những lời hữu ích. Bồ Tát không dùng món chi có chất độc hoặc có thể che lấp và làm chao động tinh thần. Trái lại, Ngài luôn luôn luyện tập cho tâm được an trụ, trí được sáng suốt.
Mặc dầu có phải bị thiệt thòi đi nữa, Bồ Tát cũng không hề dể duôi phạm phải một điều nào trong năm nguyên tắc căn bản để kiểm soát hành động và lời nói mình. Ðể giữ tròn năm giới, không những Bồ Tát có khi phải hy sinh tài sản, sự nghiệp, mà cũng có vài trường hợp Ngài còn phải hy sinh cả tánh mạng.
Không nên lầm tưởng rằng trong vòng luân hồi, một vị Bồ Tát phải hoàn toàn trong sạch. Ðã sanh ra làm chúng sanh trong cõi phàm, Ngài cũng có những nhược điểm và lỗi lầm. Vài câu chuyện trong Túc Sanh Truyện (Jàtaka) như Kanavera Jàtaka (Số 318) có mô tả một vị Bồ Tát nọ như một tên trộm cướp vô cùng lợi hại. Tuy nhiên, đó là một trường hợp hy hữu hơn là một thông lệ.
Ðối với Bồ Tát, là hạng người có nguyện vọng trở thành Phật, thì công trình nghiêm túc giữ gìn giới luật là điều vô cùng quan trọng. Túc Sanh Truyện Sìlà Vìmamsa Jàtaka (số 362) có đoạn thuật lại lời một vị Bồ-Tát: "Trí tuệ ngoài đạo đức là một thứ trí tuệ không có giá trị." (Sìlena n'anupetassa sutena' ttho na vijjati.)
Trong sách Visuddhi Magga (Thanh Tịnh Ðạo), Ðức Buddhaghosa viết rằng giới luật (Sìla) là nền tảng của tất cả đức hạnh cao thượng:
Ðạo chính đáng cho người vững chí; Sống thanh cao, cao quý chi bằng. Nên trang đức hạnh ai tầng. Mấy ai tả được uy hùng đến đâu. Cũng không phải dòng sâu lồng lộng Của Hằng Giang với ngọn Yama (Yanuma) Thủy triều reo rắc sông Sa (Sarabhu) Sông A Ti (Acivarati) với đại hà Ma Hi Mà rửa sạch những gì nhơ b��n Và những chi bất tịnh nơi lòng. Chỉ đức hạnh, sức khôn cùng, Gội tan ác ý, rửa dần mê tâm, Với gấm vóc, hương trầm bảo vật Cùng trăng thu vằng vặc ánh vàng. Nhẹ nhàng gió mát đêm trường. Cũng không xoa dịu nỗi lòng tham sân. Chỉ đức hạnh trong ngần cao quý Là vững bền, tiết chế lòng người. Trầm hương bay thuận gió đời. Chỉ hương đức hạnh ngát trời gần, xa. Nào nấc tiến cho ta tinh tấn Ðể ta nương đến tận trời cao. Cửa nào mở lối ta vào Niết Bàn cảnh giới muôn màu cho ta. Ðời đạo hạnh, tinh hoa, giới đức Không điểm tô, trang sức chi hơn Mà luôn sáng tỏ vô ngần, Chỉ nơi đức hạnh rỡ ràng hào quang. Nào vua chúa ngọc vàng lóng lánh Dường mờ lu bên ánh rạng nầy Tâm người đạo hạnh ngày ngày Chỉ còn thanh tịnh và đầy an vui. Qua kinh sách lòng người phải rõ, Ðời thanh cao uy chế chi bằng: Ðạo là nguồn cội phước lành, Ðạo là tiêu diệt mọi căn mê lầm.
(Bản dịch đoạn nầy của sách Thanh Tịnh Ðạo được Bà Hồ Thị Linh sắp thành văn vần.)
[1] Pàrami do chữ "pàram" có nghĩa là "phía bên kia", hay sự sáng suốt, sự giác ngộ, và chữ "i" là "đi". Theo nghĩa trắng, Pàrami là cái gì có thể đưa ta qua bờ bên kia, "đáo bỉ ngạn". Phạn ngữ Pàramita cũng được dùng trong nghĩa nầy.
[2] Ba La Mật có mười pháp. Mỗi pháp chia làm ba hạng là: Pàrami thuộc về tài sản, sự nghiệp, vợ, con. Upàpàrami, thuộc về một, hay nhiều bộ phận trong thân thể và Paramattha-parami, thuộc về mạng sống.
Thí dụ như Bố Thí Ba La Mật có ba hạng: Dàna Pàrami, là bố thí tài sản, sự nghiệp, hoặc vợ, con; Dàna upàpàrami là bố thí một bộ phận trong thân thể như tay, chân, mũi, tai v.v...; và Dàna paramattha-pàrami là hy sinh mạng sống mình cho kẻ khác, để cứu một chúng sanh.
Như Trì Giới Ba La Mật, cũng có ba hạng là: Sìla Pàrami, hy sinh tài sản sự nghiệp, hoặc vợ, con để giữ tròn giới luật; Sìla upàpàrami, hy sinh một bộ phận trong thân thể để giữ tròn giới luật; và Sìla paramattha-pàrami, hy sinh mạng sống để giữ giới luật trong sạch.
Cùng một thế ấy, mỗi Ba La Mật đều có 3 hạng. Cộng chung tất cả, có (10 x 3) = 30 Ba La Mật.
-ooOoo-
from https://theravada.vn/phan-i-2/
from Theravada - Blog https://theravadavn.weebly.com/blog/phan-i
0 notes
Text
Phần I
"Hãy tích cực hoạt động để tạo an lành cho kẻ khác." -- Sutta Nipàta
Có mười đức tánh cao quý vượt hẳn thế tục gọi là Pàrami (Ba La Mật), mà chư vị Bồ Tát đều thực hành tròn đủ để thành tựu Ðạo Quả Chánh Ðẳng Chánh Giác (Sammà Sambuddha).
Mười pháp Ba La Mật là: Bố Thí (Dàna), Trì Giới (Sìla), Xuất Gia (Nekkhamma), Trí Tuệ (Pannà), Tinh Tấn (Viriya), Nhẫn Nại (Khanti), Chân Thật (Sacca), Quyết Ðịnh (Adhìtthàna), Tâm Từ (Mettà), và Tâm Xả (Upekkhà).
Theo Bản Chú Giải kinh Cariyà Pitaka, Ba La Mật [1] là những phẩm hạnh không nhuộm màu vị kỷ, không đượm nhuần tà kiến và không ẩn ý ngã mạn. Ba La Mật nhờ trí tuệ dẫn dắt và do lượng từ bi vun quén đắp bồi.
Hành động của Bồ Tát tuyệt đối vị tha. Với đức từ bi vô lượng, lòng bác ái vô biên, xuyên qua bao nhiêu kiếp sống, các Ngài không ngừng nỗ lực chuyên cần nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo nàn thấp kém, giúp đỡ cho mọi người bằng muôn ngàn cách và làm giảm bớt phiền não cho tất cả chúng sanh.
Một vị Bồ Tát không nghĩ đến việc an hưởng thú thanh nhàn trong khi những người bạn xấu số của mình còn ở trong vòng lao khổ. Ðể làm dịu bớt phần nào nỗi khổ đau của nhân loại, Bồ Tát sẵn sàng hy sinh tất cả các vật sở hữu quý báu nhất, cho đến mạng sống của mình đi nữa cũng không tiếc, như câu chuyện trong Túc Sanh Truyện Vyàghrì Jàtaka diễn tả.
Với tâm đầy từ bi, Bồ Tát luôn luôn sẵn sàng tạo an lành hạnh phúc cho tất cả, không quên bỏ một chúng sanh nhỏ bé nào, nhưng không khi nào làm điều gì không do trí tuệ dẫn dắt. Lòng bi mẫn vô biên, tuy nhiên các Ngài luôn luôn cân phân tâm trí. Và trong khi phục vụ, Ngài không hề cầu mong một thế lực hoặc một quyền lợi vật chất nào trên thế gian. Khi đã hành động xứng đáng, danh thơm tự nhiên đến, tại sao cần phải chạy theo nó?
Bồ Tát hoàn toàn vị tha, luôn luôn sống cho kẻ khác. Không hề có một điểm ích kỷ, dầu nhỏ nhen đi nữa, trong những hành động của Ngài.
Kinh Dhammapada (Pháp Cú) có câu :
"Hãy để cho cả hai, hàng tại gia cư sĩ và tăng chúng, nghĩ rằng 'chính ta đã làm điều phải đó. Trong mọi công việc, dầu lớn dầu nhỏ, hãy để họ nhắc đến ta.' Ðó là tham vọng của người cuồng si. Nghĩ như vậy thì lòng tham và tính ngã mạn sẽ tăng trưởng." (Câu 74)
Một vị Bồ Tát không khi nào có tư tưởng ích kỷ và hẹp hòi như vậy. [2]
Bố Thí (Dàna)
Bố Thí, hay lòng quảng đại, là Ba La Mật đầu tiên mà trong khi thực hiện hành giả thành tựu hai nghiệp thiện là tiêu trừ những tư tưởng ích kỷ, xấu xa, và phát triển những tư tưởng vị tha, trong sạch. Bố thí là một niềm hân hoan, một phước lành cho cả người tặng, lẫn người thọ lãnh.
Bồ Tát không thắc mắc tìm hiểu người mà mình muốn cho một vật hoặc ban một đặc ân nào, có ở trong tình trạng thiếu thốn món đó không. Ngài cho ra mà không chạy theo vật mình cho. Ngài bố thí vì lòng quảng đại mà cũng để diệt lần mọi hình thức luyến ái còn tiềm tàng trong tâm. Niềm vui khi phụng sự kẻ khác tự nhiên đến. Làm dịu bớt nỗi đau khổ của chúng sanh là một hạnh phúc khác do sự bố thí đem lại.
Tình thương của một vị Bồ Tát thật bao la. Lòng từ bi của Ngài ban rải cho tất cả muôn loài. Nhưng khi bố thí, Ngài không nhắm mắt cho càn. Lòng quảng đại không làm cho sự bố thí trở nên mù quáng. Nếu có một người ghiền rượu đến nhờ sự giúp đỡ của Ngài và nếu Ngài biết chắc chắn rằng người nầy sẽ lãnh món quà để dùng trong việc sai quấy, vị Bồ Tát sẽ không ngần ngại từ chối. Ðặt lòng quảng đại trong một hành động sai lầm không phải là Ba La Mật (Pàrami).
Khi giúp đỡ một người vì lý do chánh đáng, Bồ Tát không hề lộ vẻ quan trọng hoặc tỏ ý tự tôn tự đại; trái lại, thấy đó là một cơ hội quý báu để làm bổn phận mình nên sẵn sàng và vui vẻ phục vụ kẻ khác một cách khiêm tốn. Ngài không bao giờ thấy mình cao hơn ai vì lẽ người đó nhờ mình.
Khi giúp đỡ, Ngài không thấy đó là thi ân, cũng không coi người mình giúp là đã thọ ân mình. Bồ Tát làm việc gì chỉ vì đó là điều phải, không tìm danh vọng, không mong đền đáp.
Bồ Tát không bỏ lỡ một dịp may nào để phục vụ kẻ khác, nhưng không hạ mình cầu xin ân huệ. Túc Sanh Truyện Brahma Jàtaka (số 323) thuật rằng có một vị Bồ Tát sống đời tu sĩ trong ngự uyển. Thường ngày vua đến viếng và cung cấp mọi vật dụng, nhưng dầu sao nhà vua không thể thấy hết mọi nhu cầu của Ngài. Ðôi dép và cây dù của Bồ Tát rách hư đã mười hai năm trường mà vua không hay. Ngài không hề hở môi. Ngày kia vua hay được. Trước cử chỉ tuy khiêm tốn nhưng lạ lùng như vậy, vua hỏi Ngài tại sao ?
Ngài trả lời :
"Tâu Bệ Hạ, kẻ cầu khẩn mà không được toại nguyện sẽ buồn rầu. Kẻ được người khác nhờ đến mà không thể giúp, càng buồn rầu hơn nữa."
Bồ Tát cho ra không xiết kể, không phân biệt giai cấp, chủng tộc hay tôn giáo, nhưng không bao giờ cầu mong người khác trả lại. Một đặc điểm của các Ngài là tri túc hoàn toàn. Thi hào Edward Dyer ca ngợi đức tánh ấy trong mấy dòng thơ :
"Vài người có thật nhiều mà vẫn còn tham muốn, Tôi có ít nhưng cảm thấy đủ. Chính họ 'nghèo', mặc dầu tiền rừng bạc bể Và chính tôi 'giàu', tuy túi rổng không."
Túc Sanh Truyện Kanha Jàtaka (số 440) có ghi chép rằng một hôm vua Trời Sakka (Ðế Thích), nghe danh vị Bồ Tát nọ là một nhân vật gương mẫu có nhiều đức độ. Vua Trời lấy làm cảm phục, kính cẩn đến bạch Ngài xin cho biết có cần dùng món chi để vua cúng dường. Bồ Tát vui vẻ xin được thành tựu bốn điều ước nguyện:
Ước nguyện tôi không sân hận, không phiền hà, hoặc có ác ý với người láng giềng! 2. Ước nguyện tôi không tham muốn vật sở hữu của người láng giềng! 3. Ước nguyện tôi không luyến ái riêng người nào! 4. Ước nguyện tôi có tâm xả!
Nghe vậy, tuy hết sức cảm phục, vua Trời Sakka (Ðế Thích) lấy làm thất vọng, xin Ngài chọn thêm một vật gì khác để vua cúng dường. Vị Bồ Tát trả lời:
"Bất luận nơi rừng sâu nào mà tôi sống, nơi nào mà tôi ở một mình, xin cho tôi được khỏe mạnh. Bởi vì bệnh hoạn sẽ làm xáo trộn cuộc sống yên tĩnh và làm trở ngại công phu hành thiền của tôi."
Vua Trời Sakka (Ðế Thích) nghĩ thầm: "Thật là tiếng đồn chẳng sai. Quả thật Bồ Tát Kanha là bậc thiện trí thức. Thay vì ước mong được thỏa mãn một nhu cầu vật chất, Ngài chỉ chọn những điều cần thiết cho đời sống đạo hạnh."
Lần thứ ba Vua Trời Sakka lại xin Bồ Tát chọn một món gì khác để cúng dường. Bồ Tát trả lời:
"Tâu Hoàng Thượng, tôi có thêm một nguyện vọng nữa. Bất luận ở đâu, không một chúng sanh nào làm tổn thương thân thể tôi, không một chúng sanh nào làm hại đến tâm trí tôi, đó là lời nguyện của tôi." (Jàtaka Stories, số 440)
Lòng quảng đại của một vị Bồ Tát thật không cùng. Ngài sẵn sàng cho ra tất cả, chẳng những của cải, tài sản, sự nghiệp và những sở hữu yêu chuộng khác, mà còn có thể cho cả ngai vàng, cả vương quốc, một cánh tay, một cái chân, cho đến vợ, đến con. Ðến mạng sống, Ngài cũng không ngần ngại cống hiến để tạo hạnh phúc cho nhân loại.
Túc Sanh Truyện Vessantara Jàtaka (số 547) có thuật rằng Hoàng Tử Vessantara, lúc còn tám tuổi, có lần thành thật nghĩ rằng:
"Nếu một ngày kia có người cần đến trái tim của ta, ta sẽ tự tay mổ ngực, moi tim ra cho. Nếu có người cần đến mắt, ta sẽ tự móc lấy mắt ra biếu. Nếu có người cần đến thịt ta, ta sẽ tự tay cắt ra một miếng để tặng."
Túc Sanh Truyện Vyàghrì Jàtaka cũng thán phục thuật lại câu chuyện một vị tu sĩ sẵn sàng và vui vẻ hy sinh mạng sống để đem lại hạnh phúc cho kẻ khác. Trong Jàtakamàlà câu chuyện được thuật lại như sau :
"Ngày kia, một vị Bồ Tát đi ngang qua khu rừng nọ cùng với người đệ tử. Ngài nhìn thấy một con cọp mẹ cùng với ba cọp con nằm ngất ngư gần chết vì đói. Ðộng lòng bi mẫn, Ngài bảo người đệ tử đi tìm thức ăn cho cọp. Nhưng đó chỉ là một cái cớ để được ở lại một mình với cọp, vì Ngài nghĩ rằng:
"Tại sao ta phải đi tìm một thân sống khác, khi có sẵn thân ta đây để làm món ăn cho cọp. Tìm thức ăn cho cọp ở nơi khác là một việc cầu may, hơn nữa ta có thể bỏ lỡ một cơ hội tốt đẹp để làm bổn phận.
"Chính cái thân ô trược nầy là nguồn gốc của bao nhiêu phiền não, bao nhiêu bất hạnh. Nếu ta cứ khư khư bám chặt lấy nó và không biết dùng nó để phụng sự kẻ khác thì thật là không sáng suốt chút nào. Trong đời chỉ có hai nguyên do làm cho con người hững hờ trước sự đau khổ của kẻ khác. Ðó là lòng luyến ái, cột trói chúng sanh vào những lạc thú, cố bám lấy sự vui sướng cá nhân, sợ nó mất đi, là một nguyên do làm cho ta lãnh đạm trước sự đau khổ của người khác. Thiếu lòng từ thiện, thiếu ý chí giúp đời là nguyên do khác. Nhưng ta không thể an vui khi kẻ khác đau khổ. Ngày nào chưa giúp được kẻ khổ, ngày ấy ta không thể an hưởng hạnh phúc. Như vậy làm sao có thể thản nhiên trước cảnh tượng hấp hối vì đói khát của cọp mẹ và bầy cọp con nầy.
"Nếu ta nhảy xuống vực sâu để làm mồi cho cọp thì ít ra ta cũng dùng cái thân khốn khổ nầy vào một việc hữu ích. Ta sẽ nuôi sống cọp mẹ, tránh cho nó khỏi phải làm điều ác là ăn thịt con nó, và cũng tránh cho bầy con nhỏ vô tội kia khỏi phải chết vì nanh vút của mẹ chúng.
"Lại nữa, hành động như vậy ta còn nêu một gương sáng cho ai còn ham muốn những gì mà họ cho là tốt đẹp trên đời nầy. Ta hy sinh thân nầy để cứu bốn mạng sống, để an ủi và khuyến khích những ai bé nhỏ yếu đuối, làm vui lòng những ai thấu triệt ý nghĩa sâu xa của lòng từ thiện và tạo nên một lý tưởng cho những ai muốn sống cuộc đời đạo hạnh. Vậy, đây là cơ hội hy hữu để bước lần đến mức độ giác ngộ hoàn toàn."
Nghĩ như vậy Bồ Tát liền gieo mình xuống vực thẩm, hy sinh mạng sống để ban bố tình trạng an lành cho bốn con cọp sắp chết.
Theo Nevari (Nepàla Bàshà), câu chuyện đáng thương tâm và đầy ý nghĩa thú vị trên được thuật lại như sau:
"Vào thuở xa xưa kia có một ông vua tên Mahàratthà có thế lực oai hùng và tâm đạo nhiệt thành. Ðức vua có ba hoàng tử là Mahà Prashàda, Mahà Deva và Mahà Sattva, cả ba đều hiền lành và dễ dạy.
Một buổi sáng tươi đẹp nọ, đức vua cùng ba hoàng tử đi dạo chơi trong rừng. Mảng lo nhìn xem phong cảnh và mê mẩn với hoa thơm cỏ lạ, ba vị hoàng tử càng đi sâu vào rừng.
Quan hầu cận thấy vắng bóng ba vị hoàng tử bèn tâu lại với vua. Ðức vua liền truyền lệnh cho các quan đi tìm, rồi ngự giá hồi cung.
Nói về ba vị hoàng tử, đi mãi đến một ngọn núi kia. Ðứng trên tảng đá nhìn xuống người anh cả trông thấy một con cọp cái và năm cọp con ở dưới vực sâu. Cả mẹ lẫn con chỉ còn da bọc xương, đang nằm thoi thóp. Ðã nhiều ngày từ khi đẻ con, cọp mẹ không tìm được thức ăn. Bầy cọp con bu theo mẹ để nút sửa, nhưng vú mẹ cạn khô không còn gì để bú. Cọp mẹ có vẻ đói lắm, rõ ràng đang sắp sửa ăn thịt con.
Người anh cả nhận thấy tình trạng bi đát ấy trước tiên, chỉ cho các em và nói rằng: "Các em hãy nhìn xem cảnh tượng đáng thương tâm kia, các em có thấy cọp mẹ không? Vì quá sức đói nên nó đang sắp sửa ăn thịt con cho đỡ dạ. Thật là một trạng thái vô cùng khốn khổ."
Mahà Sattva hỏi anh: "Cọp thường ăn vật chi?"
Mahà Prashàda trả lời rằng "thịt sống là món ăn của loài cọp và loài sư tử."
"Cọp mẹ có vẻ đã đuối sức lắm rồi. Chắc chắn đã nhiều ngày nó không có thức ăn. Phải chi có ai dám hy sinh thân mình cho nó thì quý biết mấy!
"Nhưng ai đâu lại vui lòng làm cái việc hy sinh cao cả ấy!" Mahà Deva lưu ý.
Mahà Prashàda nói: "Chắc chắn là không có ai làm được việc ấy."
Với một giọng cảm động, Mahà Sattva tiếp: "Em còn nhỏ, chắc chắn là chưa đủ trí khôn, nên em nghĩ rằng những người thiểu trí như chúng ta có lẽ không thể hy sinh mạng sống mình để cứu người. Nhưng cũng có hạng người từ bi, hoàn toàn sống cho kẻ khác. Những người như thế có thể sẽ vui lòng hiến thân mình để cứu sáu sanh mạng nầy."
Ba anh em bàn luận với nhau như vậy và nhìn thoáng qua lần cuối cùng bầy cọp vô hy vọng, rồi bỏ đi nơi khác.
Mahà Sattva nghĩ thầm:
"Ta phải hy sinh mạng sống phù du nầy để cứu bầy cọp đói kia. Tấm thân tứ đại mà ta mang đây chỉ là một đống ô trược đã gây cho ta bao nhiêu phiền não và phải chết một ngày nào. Tuy rằng hiện nay ta có thể ướp hoa, thoa dầu cho nó xinh đẹp, thơm tho, nhưng rồi một ngày kia nó sẽ tanh hôi và tan rã."
Gẫm suy như thế, chàng bèn bảo hai anh đi trước để mình chẩm rải ngoạn vật ngắm cảnh. Chờ hai anh đi xa, chàng hối hả trở lại chỗ cọp nằm, cổi quần áo treo trên nhánh cây và nghĩ rằng:
"Ta phải tích cực hành động để tạo an lành cho kẻ khác. Phải rải tâm từ đến tất cả chúng sanh. Phục vụ những ai cần đến ta là nhiệm vụ trọng đại. Ta hãy hy sinh tấm thân ô trược nầy để cứu mạng sống cho cọp mẹ và năm con. Do hành động tạo thiện nghiệp nầy, mong rằng ta sẽ bước lần đến mức Chánh Ðẳng Chánh Giác, và cứu độ chúng sanh ra khỏi đại dương của vòng luân hồi đau khổ. Ước mong tất cả chúng sanh đều an vui hạnh phúc!"
Ðộng lòng trắc ẩn và thấm nhuần tinh thần phục vụ vị tha, hoàng tử Mahà Sattva nhẹ nhàng gieo mình xuống hố, gần nơi bầy cọp nằm. Nhưng hoàng tử không chết, chỉ bị thương nặng. Cọp kia, dầu bẩm tánh rất hung dữ, cũng động lòng thương hại vị Bồ Tát, không nỡ chạm đến thân Ngài.
Bồ Tát thì nghĩ khác: 'Rõ ràng cọp đã quá yếu đuối nên không đủ sức vật mình để ăn!' Ngài bò lần đi tìm một khí cụ để tự sát. May thay, gần nơi cọp nằm có một khúc tre bể. Ngài nhặt lấy tre rồi tự cứa cổ đến chết. Ngài té ngã nằm trên vũng máu.
Cọp vừa đói vừa khát, thấy vậy đi lần đến, liếm vũng máu và xé thây Bồ Tát ra, ăn ngon lành. Phút chốc chỉ còn lại một đống xương tàn.
Chuyện thêm rằng lúc Bồ Tát tự sát để hiến thân cho cọp, trời đất chuyển động, nước biển nổi sóng to, ánh sáng mặt trời bỗng dưng tối sầm lại, cảnh vật trở nên lờ mờ, tất cả chư Thiên đồng thanh reo to: Lành thay! Lành thay! và từ trên không trung, bông Pàrijàta rơi xuống như mưa.
Trước cảnh tượng phi thường của trời đất, hai người anh đoán đúng rằng em mình đã hiến thân làm mồi cho cọp. Mahà Deva nói:
"Khi nảy Mahàsattva nói với một giọng rất đau thương, chắc em đã hy sinh mạng sống để cứu bầy cọp."
Hai anh liền đi lần trở lại tìm em và lấy làm kinh hoàng trước cảnh tượng hãi hùng. Ðâu là hình bóng của người em yêu mến. Chỉ còn đống xương trắng điểm máu hồng, bên cạnh bầy cọp no bụng. Gần tảng đá, trên cành cây, quần áo của Mahà Sattva còn phất phơ trước gió.
Hai vị hoàng tử đau lòng xót dạ, khóc than thê thảm và buồn bã trở về để tâu lại với vua cha.
Chính ngay lúc Bồ Tát liều thân cứu cọp, hoàng hậu ở cung nội đang ng���. Bà nằm mộng thấy một cái răng của mình bỗng nhiên rụng xuống và nghe nhức nhối đau xót tựa hồ như có ai cầm dao thẻo thịt ra từng miếng. Nhìn ra ngoài cửa, hoàng hậu lại thấy từ trên không, một con ó đáp xuống, xớt một trong ba con bồ câu xinh đẹp đang đậu trên nóc nhà và tha đi mất.
Hoàng hậu lấy làm kinh sợ, giựt mình tỉnh dậy, nhớ đến ba con còn lạc bước trong rừng. Bà lật đật chạy tìm vua để thuật lại điềm mộng.
Khi được biết rằng các hoàng tử còn lạc mất hoàng hậu van nài vua cho người đi tìm.
Vừa lúc ấy tin dữ cũng được đưa đến. Các quan chức vào rừng tìm hoàng tử trở về. Câu chuyện thê thảm được thuật lại. Tất cả đều cảm động và khóc than không xiết kể. Ðức vua an ủi hoàng hậu và cỡi voi vội vã cùng với quan quân hầu cận đi rước hai vị hoàng tử đau khổ còn chưa ra khỏi rừng.
Gặp cha, hai hoàng tử nghẹn ngào không nói được một lời. Sau cùng, cố sức nén lòng, hai vị lần lượt thuật lại cho vua cha và mọi người nghe cái chết dũng cảm của người em vô cùng cao quý.
Vua liền hạ lệnh sắm sửa ngựa voi để cùng hoàng hậu và bá quan đến nơi lịch sử.
Ðến nơi, vừa thấy những khúc xương tàn của người con yêu quý rải rác đó đây còn dính đầy máu đỏ vua và hoàng hậu ngã ra bất tỉnh.
Ngự y hối hả đem thuốc cứu cấp và các vị Bà La Môn Purohita rót lên mình nước hương trầm. Một hồi lâu vua và hoàng hậu dần dần tỉnh dậy.
Vua truyền gom góp tóc, xương và quần áo để lại một nơi, rồi đến trước đó, đứng chiêm ngưỡng người con yêu dấu. Tất cả quần thần cũng đến tỏ lòng sùng kính người anh hùng cao quý. Vua hạ lệnh xây dựng tại chỗ một bảo tháp khảm vàng để thờ vị Bồ Tát đã hiến thân cứu cọp, và cùng hoàng hậu ra về, lòng như dao cắt.
Về sau, bảo tháp thờ xá lợi của Bồ Tát Mahà Sattva có tên là "Om Namo Buddhà".
Sách Túc Sanh Truyện thuật lại câu chuyện có thêm rằng hiện nay bảo tháp ấy có tên là "Namurà" (tiếng gọi tắt chữ Om Namo Buddhà, có nghĩa tôn kính Ðức Phật).
Hai câu chuyện thuật lại có khác nhau nhưng dầu vị Bồ Tát đã hiến thân cứu cọp là nhà tu sĩ hay hoàng tử, thì đó chỉ là hình thức bề ngoài. Ðiểm quan trọng chính là gương hy sinh cao cả và hoàn toàn vị tha chứa đựng bên trong.
Theo thường lệ, khi sách Jàtaka (Túc Sanh Truyện) chép lại một sự tích nào đều có nêu ra cho biết nhân cơ hội nào Ðức Phật nhắc lại chuyện ấy. Tiếng Phạn gọi cơ hội ấy là Nidàna(nguyên do dẫn cớ tích). Nhưng những nhân vật trong hai câu chuyện kể trên không được xác nhận ở đoạn cuối cùng như trong các bài Jàtaka khác.
Sách Nevàri Jàkata rõ ràng mô tả đầy đủ hơn bổn Samskrit (Jàtakamàlà) nhưng căn nguyên của kinh Nevàri không được chắc chắn.
Về tư cách một vị Bồ Tát hành Bố Thí Ba La Mật, có đoạn kinh "Cariyà Pitaka" giải rằng:
Mỗi khi Bồ Tát tặng vật thực cho ai, Ngài ước mong người ấy được sống lâu, có sắc đẹp, yên vui, khoẻ mạnh, có trí tuệ và đắc Quả cao thượng nhất là Niết Bàn. Ðối với người khát nước, Ngài ban cho thức uống với ước nguyện rằng thức uống nầy không những giải cho người ấy cái khát của cơ thể vật chất mà còn làm suy giảm lòng khát khao dục vọng. Ban quần áo, Ngài cho với ước nguyện người ấy sẽ biết hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi. Khi giúp đỡ phương tiện đi đứng Ngài chú nguyện người thọ nhận sẽ trau giồi các năng lực tinh thần. Ban cho nhang trầm, Ngài ngưỡng mong người thọ lãnh sẽ hưởng hương thơm của Giới Ðức (Sìla). Ban dầu và hoa, Ngài chú nguyện người nhận sẽ hưởng danh thơm của người sống đời đạo hạnh như Ðức Phật. Giúp cho ai chỗ ngồi, Ngài nguyện cho người ấy có được nền tảng của sự Giác Ngộ. Giúp chỗ ở, Ngài mong người ấy sẽ là nơi nương tựa cho cả thế gian. Giúp ánh sáng, Ngài chú nguyện người nhận có được năm loại nhãn quan là mắt thịt, mắt trí tuệ, Thiên Nhãn, mắt của một vị Phật và tri kiến thông suốt chân tướng vạn pháp. Bố thí "Sắc", Bồ Tát chú nguyện người nhận lãnh được có hào quang như Ðức Phật ; "Thinh", được lời nói tao nhã dịu dàng như chư vị Phạm Thiên ; "Vị", được đẹp lòng, vui vẻ với tất cả mọi người ; "Xúc", có được cơ thể thanh lịch và tinh hảo như Ðức Phật ; và khi giúp đỡ thuốc men cho ai, Bồ Tát cầu chúc cho người ấy được sống mãi mãi, tức chứng ngộ Ðạo Quả Niết Bàn.
Bồ Tát phá gông cùm, giải phóng những người nô lệ với hy vọng cũng giải phóng con người, cùng một thế ấy, ra khỏi vòng xiềng xích của bao nhiêu dục vọng. Bồ Tát ly gia cắt ái, từ bỏ những đứa con yêu quý của mình để nới rộng tình phụ tử đậm đà ấy đến tất cả chúng sanh. Ngài từ bỏ vợ để làm chủ thế gian, bỏ ngai vàng để thừa hưởng vương quốc của sự chánh trực, công minh, và đạo đức.
Ðoạn kinh trên không những chỉ cho ta thấy thế nào là thái độ vị tha của Bồ Tát mà còn nói lên sự nỗ lực không ngừng và bất vụ lợi của các Ngài để phục vụ nhân loại. Tuy nhiên, mục tiêu cuối cùng của Bồ Tát là trở thành Phật, và Ngài không bao giờ lãng quên mục tiêu cứu cánh ấy.
Trì Giới (Sìla)
Phối hợp với lòng quảng đại siêu phàm của vị Bồ Tát là giới đức của Ngài (Sìla). Danh từ "Sìla" trong Phạn ngữ có nghĩa là quy luật, kỷ cương. Giới gồm có những bổn phận phải làm (càritta) và những điều nên tránh (vàritta). Ðạo làm cha mẹ, làm con, làm vợ, làm chồng, làm trò, làm thầy, làm bạn, bổn phận đối với các bậc tu sĩ, với kẻ ăn người ở trong nhà v.v... đều được giảng giải rõ ràng và cặn kẽ trong kinh Sigàlovàda Sutta.
Bổn phận của người cư sĩ Phật tử được mô tả trong một loạt những liên hệ, để cho dễ nhớ mỗi bổn phận đại khái gồm năm phần:
Con đối với cha mẹ, có bổn phận:
Phải phụng dưỡng và cung cấp đầy đủ vật dụng cho cha mẹ. ii. Làm công việc thay thế cha mẹ. iii. Có một tác phong đạo đức thích nghi để giữ tròn danh giá cho gia tộc. iv. Tỏ ra xứng đáng thọ hưởng di sản của ông cha. v. Ðể bát cúng dường Tam Bảo và hồi hướng phước báu cho những người đã quá vãng trong gia tộc.
Cha mẹ, được con săn sóc và giúp đỡ như vậy, phải biết thương con và có bổn phận:
Khuyên lơn và ngăn cản, không để con làm điều tội lỗi, tạo nghiệp bất thiện. ii. Nhắc nhở và dẫn dắt con luôn luôn đi trên đường thiện. iii. Giúp con hành nghề sanh sống chân chánh. iv. Khi con lớn khôn, dựng vợ gả chồng một cách xứng đáng, và v. Ðúng lúc chia lại cho con phần di sản của mình.
Học trò đối với thầy có bổn phận:
Luôn luôn tỏ lòng cung kính. ii. Trông nom hầu cận và chăm sóc thầy. iii. Chăm chỉ nghe lời thầy dạy. iv. Khi thầy cần đến, hết lòng giúp đỡ, và v. Kính cẩn thọ nhận lời thầy dạy bảo.
Thầy, được trò tôn kính và đối đãi như thế, phải biết thương trò và có bổn phận:
Rèn luyện trò biết tôn trọng kỷ luật. ii. Cố gắng làm cho trò lãnh hội dễ dàng lời dạy. iii. Dạy những môn kỹ thuật và khoa học thích hợp. iv. Tiến dẫn trò vào giới thân cận của mình để trò giao thiệp với bạn bè thân thuộc mình, và v. Ðào tạo trò cho ra người hoàn hảo trên mọi phương diện.
Chồng đối với vợ, có bổn phận:
Luôn luôn nhã nhặn, thanh tao. ii. Không khi nào tỏ ý khinh rẻ. iii. Luôn luôn trung thành với vợ. iv. Giao quyền hành cho vợ, và v. Mua sắm cho vợ các đồ trang sức.
Vợ, được chồng đối đãi như vậy, phải biết thương chồng và có bổn phận:
Làm tròn phận sự trong nhà, ii. Vui vẻ, tử tế với thân bằng quyến thuộc. iii. Luôn luôn trung thành với chồng. iv. Thận trọng gìn giữ và chăm sóc của cải trong nhà, và v. Luôn luôn siêng năng, không tháo trút công việc.
Một thiện hữu đối với bạn bè thân thuộc, có bổn phận:
Quảng đại, khoan hồng. ii. Nói năng nhã nhặn, thanh tao. iii. Sẵn sàng làm những việc tốt đẹp cho bạn. iv. Có tinh thần bình đẳng, và v. Luôn luôn thành thật.
Người bạn, được đối xử như vậy có bổn phận:
Bảo vệ bạn trong lúc bạn khinh suất. ii. Bảo vệ tài sản của bạn khi bạn không thận trọng. iii. Làm chỗ nương tựa cho bạn khi có việc lo sợ. iv. Không nên bỏ bạn lẻ loi trong cơn nguy biến. v. Ðối với gia đình bạn, luôn luôn nhã nhặn.
Ðối với kẻ ăn người ở, chủ nhà có bổn phận:
Không nên giao phó công việc làm quá sức. ii. Thù lao và nuôi cơm nước đầy đủ. iii. Khi đau ốm, tận tình chăm sóc. iv. Chia sớt những món ngon vật lạ. v. Không bắt làm quá giờ.
Người làm công, được chủ đối đãi tử tế như vậy, phải biết thương chủ và có bổn phận:
Thức dậy trước chủ. ii. Ði ngủ sau chủ. iii. Chỉ lấy hoặc dùng những vật chi mà chủ đã cho. iv. Thực hành nhiệm vụ một cách viên mãn. v. Truyền bá rộng rãi danh thơm tiếng tốt của chủ.
Người cao quý phải đối xử với hàng tu sĩ và Bà La Môn như sau:
Có những hành động từ ái. ii. Có những lời nói từ ái, iii. Có những tư tưởng từ ái. iv. Cửa nhà luôn luôn mở rộng để tiếp đón, và v. Sẵn sàng dâng cúng những vật dụng cần thiết.
Hàng tu sĩ và Bà La Môn, được người cao quý đối xử như vậy, phải biết thương và có bổn phận:
Khuyên can không để tín đồ rơi vào con đường bất thiện. ii. Nhắc nhở và dẫn dắt đi trên đường thiện. iii. Hết lòng thương mến. iv. Thuyết giảng những Pháp mà người ấy chưa từng nghe, làm sáng tỏ những Pháp đã thuyết rồi, và v. Vạch cho thấy con đường dẫn đến cảnh giới an vui hạnh phúc.
Người đã làm tròn những điều đáng làm (Càritta Sìla) nầy thật đúng là con người thanh lịch, hoàn toàn trong sạch và cao quý trong xã hội.
Ngoài những bổn phận ấy, Bồ Tát còn phải cố gắng tránh những điều không nên làm (Vàritta Sìla), ghép mình vào khuôn khổ giới luật để sống cuộc sống lý tưởng của một Phật tử thuần thành chân chánh.
Sau khi suy luận rõ ràng và đúng đắn thế nào là định luật nhân quả, Bồ Tát cố gắng tránh xa tất cả những điều bất thiện xấu xa lầm lạc và tận lực làm tất cả những điều thiện mà mình có thể làm. Ngài nhận thức rằng bổn phận của mình là phải trở thành một nguồn hạnh phúc cho tất cả và không bao giờ gây phiền toái cho một chúng sanh nào, dầu người hay thú.
Mọi người đều quý trọng đời sống của mình. Không ai có quyền cướp sự sống của kẻ khác. Bồ Tát rải tâm từ đến tất cả chúng sanh, chí đến những con vật bé nhỏ đang bò dưới chân, và không khi nào sát hại hoặc làm tổn thương một sinh vật nào. Con người vốn sẵn có một thú tính xúi giục giết hại những sinh vật khác để ăn thịt mà không chút thương xót. Cũng có khi sát sanh để tiêu khiển thì giờ. Dầu để nuôi sống thân mạng hay để tìm thú vui, không có lý do nào chánh đáng để giết một sanh linh hoặc làm cách nào khác cho một sanh linh bị giết. Có những phương pháp tàn nhẫn, đáng ghê tởm, cũng có những phương pháp mà người ta gọi là nhân đạo, để sát sanh. Nhưng làm đau khổ một chúng sanh là đã thiếu lòng từ ái. Giết một con thú đã là một hành động bất chánh, nói chi đến giết một người, mặc dầu nhiều lý do đã được viện dẫn, gọi là chánh đáng, có khi gọi là cao quý, để con người tàn sát giết hại con người. Bồ Tát cũng kiêng cử mọi hình thức trộm cắp, bất luận trực tiếp hay gián tiếp, và làm như vậy phát triển rộng rãi những đức tính thanh bạch, thành thật và ngay thẳng. Bồ Tát không để mình vi phạm một lỗi lầm bé nhỏ nào có thể phương hại đến phẩm giá con người, và hết sức cố gắng gìn giữ cuộc sống gia đình trung thành, tinh khiết, hoàn toàn trong sạch. Ngài tránh nói dối, không nói lời thô lổ cộc cằn, không nói điều nào làm cho người nầy có thể phiền trách người khác, không nói những lời vô ích. Ngài chỉ nói những lời thanh tao nhã nhặn, chân thật, dịu dàng, những lời có thể đem lại cho người khác hoàn cảnh hòa hợp, tình trạng an vui hạnh phúc, và những lời hữu ích. Bồ Tát không dùng món chi có chất độc hoặc có thể che lấp và làm chao động tinh thần. Trái lại, Ngài luôn luôn luyện tập cho tâm được an trụ, trí được sáng suốt.
Mặc dầu có phải bị thiệt thòi đi nữa, Bồ Tát cũng không hề dể duôi phạm phải một điều nào trong năm nguyên tắc căn bản để kiểm soát hành động và lời nói mình. Ðể giữ tròn năm giới, không những Bồ Tát có khi phải hy sinh tài sản, sự nghiệp, mà cũng có vài trường hợp Ngài còn phải hy sinh cả tánh mạng.
Không nên lầm tưởng rằng trong vòng luân hồi, một vị Bồ Tát phải hoàn toàn trong sạch. Ðã sanh ra làm chúng sanh trong cõi phàm, Ngài cũng có những nhược điểm và lỗi lầm. Vài câu chuyện trong Túc Sanh Truyện (Jàtaka) như Kanavera Jàtaka (Số 318) có mô tả một vị Bồ Tát nọ như một tên trộm cướp vô cùng lợi hại. Tuy nhiên, đó là một trường hợp hy hữu hơn là một thông lệ.
Ðối với Bồ Tát, là hạng người có nguyện vọng trở thành Phật, thì công trình nghiêm túc giữ gìn giới luật là điều vô cùng quan trọng. Túc Sanh Truyện Sìlà Vìmamsa Jàtaka (số 362) có đoạn thuật lại lời một vị Bồ-Tát: "Trí tuệ ngoài đạo đức là một thứ trí tuệ không có giá trị." (Sìlena n'anupetassa sutena' ttho na vijjati.)
Trong sách Visuddhi Magga (Thanh Tịnh Ðạo), Ðức Buddhaghosa viết rằng giới luật (Sìla) là nền tảng của tất cả đức hạnh cao thượng:
Ðạo chính đáng cho người vững chí; Sống thanh cao, cao quý chi bằng. Nên trang đức hạnh ai tầng. Mấy ai tả được uy hùng đến đâu. Cũng không phải dòng sâu lồng lộng Của Hằng Giang với ngọn Yama (Yanuma) Thủy triều reo rắc sông Sa (Sarabhu) Sông A Ti (Acivarati) với đại hà Ma Hi Mà rửa sạch những gì nhơ bợn Và những chi bất tịnh nơi lòng. Chỉ đức hạnh, sức khôn cùng, Gội tan ác ý, rửa dần mê tâm, Với gấm vóc, hương trầm bảo vật Cùng trăng thu vằng vặc ánh vàng. Nhẹ nhàng gió mát đêm trường. Cũng không xoa dịu nỗi lòng tham sân. Chỉ đức hạnh trong ngần cao quý Là vững bền, tiết chế lòng người. Trầm hương bay thuận gió đời. Chỉ hương đức hạnh ngát trời gần, xa. Nào nấc tiến cho ta tinh tấn Ðể ta nương đến tận trời cao. Cửa nào mở lối ta vào Niết Bàn cảnh giới muôn màu cho ta. Ðời đạo hạnh, tinh hoa, giới đức Không điểm tô, trang sức chi hơn Mà luôn sáng tỏ vô ngần, Chỉ nơi đức hạnh rỡ ràng hào quang. Nào vua chúa ngọc vàng lóng lánh Dường mờ lu bên ánh rạng nầy Tâm người đạo hạnh ngày ngày Chỉ còn thanh tịnh và đầy an vui. Qua kinh sách lòng người phải rõ, Ðời thanh cao uy chế chi bằng: Ðạo là nguồn cội phước lành, Ðạo là tiêu diệt mọi căn mê lầm.
(Bản dịch đoạn nầy của sách Thanh Tịnh Ðạo được Bà Hồ Thị Linh sắp thành văn vần.)
[1] Pàrami do chữ "pàram" có nghĩa là "phía bên kia", hay sự sáng suốt, sự giác ngộ, và chữ "i" là "đi". Theo nghĩa trắng, Pàrami là cái gì có thể đưa ta qua bờ bên kia, "đáo bỉ ngạn". Phạn ngữ Pàramita cũng được dùng trong nghĩa nầy.
[2] Ba La Mật có mười pháp. Mỗi pháp chia làm ba hạng là: Pàrami thuộc về tài sản, sự nghiệp, vợ, con. Upàpàrami, thuộc về một, hay nhiều bộ phận trong thân thể và Paramattha-parami, thuộc về mạng sống.
Thí dụ như Bố Thí Ba La Mật có ba hạng: Dàna Pàrami, là bố thí tài sản, sự nghiệp, hoặc vợ, con; Dàna upàpàrami là bố thí một bộ phận trong thân thể như tay, chân, mũi, tai v.v...; và Dàna paramattha-pàrami là hy sinh mạng sống mình cho kẻ khác, để cứu một chúng sanh.
Như Trì Giới Ba La Mật, cũng có ba hạng là: Sìla Pàrami, hy sinh tài sản sự nghiệp, hoặc vợ, con để giữ tròn giới luật; Sìla upàpàrami, hy sinh một bộ phận trong thân thể để giữ tròn giới luật; và Sìla paramattha-pàrami, hy sinh mạng sống để giữ giới luật trong sạch.
Cùng một thế ấy, mỗi Ba La Mật đều có 3 hạng. Cộng chung tất cả, có (10 x 3) = 30 Ba La Mật.
-ooOoo-
source https://theravada.vn/phan-i-2/ from Theravada https://theravadavn.blogspot.com/2020/07/phan-i.html
0 notes
Text
Bài văn cúng ngày Tết Cơm Mới – Văn Khấn Nôm Tết Hạ Nguyên
Bài văn cúng ngày Tết Cơm Mới – Văn Khấn Nôm Tết Hạ Nguyên http://dothobattrang.vn/bai-van-cung-ngay-tet-com-moi/
Bài văn cúng ngày Tết Cơm Mới , Tết cơm mới là ngày gì ?
Tết Hạ Nguyên ( hay tết cơm mới) là một trong ba ngày tết lớn của năm cùng với ngày tết Thượng Nguyên và Tết Trung Nguyên. Ngày tết cơm mới diễn ra vào ngày 10/10 âm lịch hằng năm. Tuy nhiên, cũng có nhiều nơi tổ chức ngày tết cơm mới và đúng ngày rằm tháng 10. Vào ngày này, cũng giống với các ngày lễ khác trong năm, người Việt chuẩn bị mâm cơm cúng trên bàn thờ và đọc bài văn cúng ngày tết cơm mới nhằm cầu mong phước lành tránh tai họa...
Ý nghĩa của Ngày tết cơm mới ?
Ngày tết cơm mới là ngày vua Hạ Vũ giải oan cho dân làng. Vua Hạ Vũ là vị vua nổi tiếng về việc chống lũ giúp dân. Mặc dù không phải là ngày lễ được tổ chức lớn và cầu kỳ như các ngày đại lễ của Phật Giáo như lễ Vu Lan... nhưng hình thức của lễ Hạ Nguyên ( tết cơm mới vẫn rất được chú trọng ), nội dung và ý nghĩa vẫn mang đậm yếu tố thờ cúng tâm linh sâu sắc . Đối với ngày Tết cơm mới, không phải chỉ là một ngày lễ tạ ơn đối với vua Hạ Vũ mà đó còn là ngày nhắc nhở đến con cháu, dòng họ một truyền thống " kết nối" phải biết tri ân và báo ân.
Vật phẩm sắm sửa trong ngày tết cơm mới bao gồm những gì ? Trong ngày tết cơm mới, mọi người sắm sửa hương hoa trà quả cùng với các vật phẩm thờ cúng như : Bát hương thờ, đèn cầy thờ... cùng với mâm cúng mặn để tiến hành lễ cúng tết Hạ Nguyên. Mâm cúng mặn cũng sẽ tùy thuộc vào điều kiện của từng gia đình và tùy thuộc văn hóa ẩm thực của từng vùng miền : xôi gà, giò luộc, thịt bò ...
Bài văn cúng ngày tết cơm - văn khấn nôm tết Hạ Nguyên
Nam Mô A Di Đà Phật ( 3 lần)
Con lạy chín phương trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương Con Kính lạy Hoàng Thiện Hậu Thổ chư vị tôn thần Con kính lạy ngài bản cảnh Thành Hoàng, ngài bản xứ thổ địa, ngài bản gia táo quân cùng chư vị tôn thần. Con kính lạy Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Thúc Bá Đệ Huynh, Cô Di, Tỷ Muội, họ nội họ ngoại
Tìn chủ con là .....Ngụ Tại .....
Hôm nay là ngày mùng 10 tháng 10 là ngày Tết Cơm Mới, tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, nấu cơm gạo mới, thắp nén hương dâng lên trước án.
Trộm nghĩ rằng : cây cao hóng mát Qủa tốt hương bay
Công tài bồi xưa những ai gây
Của quý hóa nay con cháu hưởng
Oưn trời đất Phật Tiên Chư Vị tôn Thần Sau nhờ ơn trời tổ tiêm gây dựng kể công tân khổ biết là bao
Đến nay con cháu dồi dào hưởng miếng trân cam
Nay nhân mùa gặt hái
Gánh nếp tẻ đầu
Nghĩ đến ơn xưa
Cày bừa vun xới
Kính cẩng dâng lên thường Tiên nếm trước
Mong chờ Tổ phước Hòa Cốc Phong Đăng Thóc lúa thêm tăng Hoa màu tươi mới Làm ăn tiến tới Con cháu được nhờ Lễ tuy đơn sơ Tỏ lòng thành kính
Chúng cn kính mời ngày bản cảnh thành hoàng Chư vị đại vương, ngài Bản xứ Thần Linh thổ địa, ngài bản gia Táo Quân, Ngũ Phương, Long Mạch, Tài Thần, Cúi xin các ngài giáng lầm trước án chứng dám lòng thành thụ hưởng lễ vật.
Chúng con kính mời các cụ Tổ khảo, Tổ tỷ, chư vị hương linh gia tiên nội ngoại họ..... cúi xin thương xót con cháu linh thiêng hiện về chứng dám tâm thành thụ hưởng lễ vật. Chúng con lễ bạc thành tâm, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì
Nam Mô A Di Đà Phật ( 3 lần)
Sau khi đọc bài văn cúng ngày Tết cơm mới, gia chủ cúi lạy trước hương án.
XEM THÊM : Văn cúng giải hạn cho 9 chòm sao
Xem nguyên bài viết tại : Bài văn cúng ngày Tết Cơm Mới – Văn Khấn Nôm Tết Hạ Nguyên
0 notes
Text
New Post has been published on Xem Bói Tuổi
Lá số tử vi tuổi Sửu sinh năm 1961 trong năm Mậu Tuất 2018
Chữ Tân biến thành chữ Toan Quý Bà Tân Sửu mọi đàng đều lo Thuận sanh mùa Hạ giàu to Nghịch sanh lỗi số phải dò đường đi Lục Xung chiếu mạng Thiên Di Tha phương lập nghiệp thiếu gì lợi danh Trung vận sự nghiệp đã thành Vẫn còn chao đảo, phước dành hậu lai Hậu vận mới thật an bài Gia đình hạnh phúc, hưởng dài ngày vui Mậu Tuất, có hên có xui Tạo thêm phước đức, đẩy lùi nạn tai.
Tân Sửu: 58 Tuổi 58 TUỔI – ÂM NỮ Sanh từ 15-2-1961 đến 4-2-1962 Tướng tinh: Con Đười Ươi.Con dòng Huỳnh Đế, quan lộc MẠNG: Bích Thượng Thổ (đất trên tường) SAO: Thái Âm: May mắn, danh lộc tốt HẠN: Huỳnh Tuyền: Phòng bệnh nặng VẬN NIÊN: Ngưu canh Điền (Trâu cày ruộng) tốt THIÊN CAN: Tân gặp Mậu: Sinh nhập, có lợi ĐỊA CHI: Sửu gặp Tuất: Cùng Hành, trung bình Giờ tốt xuất hành đầu năm : Ngày mồng 1 tết: – Từ 3 giờ đến 5 giờ sáng (giờ địa phương) – Đi về hướng Đông Nam để đón Tài thần MÀU SẮC: Hạp màu: Vàng, đỏ; Kỵ màu: Xanh, đen
(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push();
Tổng Quát Tuổi Tân Sửu (Nữ Mạng) năm 2018
– Qúy Bà Tân Sửu, đa phần là người có nếp sống mẫu mực, tôn trọng nề nếp truyền thống gia đình, dễ trở thành người vợ quý, mẹ hiền. – Với sự cố gắng siêng cần trong công việc làm ăn, cũng như tấm lòng ngay thẳng đứng đắn, luôn giữ chữ tín, rất được người tin cậy, dễ thành công trên đường đời. Tuy nhiên, Quý Bà thiếu sự linh hoạt trong ứng xử và không dám gánh vác trách nhiệm, đã bỏ mất nhiều cơ hội để tiến xa. – Đa phần, tuổi Tân Sửu sanh vào mùa Hè, Thu cuộc đời có nhiều dời đổi, thăng trầm, xa xứ lập nghiệp mới dễ dàng. Quý Bà có tấm lòng tốt, ngay chính và biết giúp đỡ kẻ khó nghèo nên cũng gặp nhiều may mắn. Trời dành lộc cho người hữu phước, cho kẻ có lòng và đó cũng là Nhân Quả hiện tiền, chẳng bao giờ sai chạy. Hậu vận có nhiều thành tựu, tuổi già an nhàn, phú túc, con cái nên danh.
Sự Nghiệp Tuổi Tân Sửu (Nữ Mạng) năm Mậu Tuất 2018
– Chiếu theo bảng tính Sao – Hạn để phân tích sự nghiệp tuổi Tân Sửu (Nữ Mạng) trong năm Mậu Tuất 2018:
– Năm nay, Qúy Bà gặp sao Thái Âm chiếu mạng, có nhiều may lành, công việc gặp thuận lợi, được người giúp đỡ, tài lộc dồi dào. Sao Thái Âm thuộc hành Kim, đối với mạng Hỏa Qúy Bà dễ vượt qua trở ngại nhưng cũng có phần hao tốn. – Hạn gặp Huỳnh Tuyền, quan tâm về sức khỏe nhiều hơn, có thể lâm bệnh nặng. – Về Tứ trụ, với Thiên lợi, Địa hòa, cuộc sống nhiều phần tốt đẹp. Công danh tài lộc thăng tiến, mưu sự dễ thành, tính toán việc gì cũng dễ đạt kết quả tốt. Gia đạo an bình, nhiều niềm vui. Vận niên Ngưu canh Điền, Qúy Bà đang sinh hoạt trong môi trường thuận lợi, công sức bỏ ra xứng hợp với lợi tức thu vào, có làm có hưởng. – Phối hợp các yếu tố trên, đứng về mặt Ngũ Hành để luận giải, năm nay Can Mậu thuộc Dương, ngũ hành hợp Hỏa, Trung vận là Thái Chùy, Hỏa Vận thái quá. Đối với Quý Bà mạng Thổ, gặp năm Hỏa có nhiều lợi ích cả về sức khỏe, lẫn danh lộc. – Sao Hạn khá tốt, Vận Thế cũng nhiều ưu điểm, đây là năm có thể mưu sự, làm ăn lớn có thể gặt hái kết quả cao. Duy có vấn đề sức khỏe là cần phải quan tâm nhiều hơn. Có thể nói, năm nay đánh dấu một bước tiến xa, tiến mạnh của Quý Bà trong việc vun bồi sự nghiệp. Tuy vậy, với Vận niên Ngưu canh Điền, Quý Bà cũng chỉ nên hoạt động trong môi trường quen thuộc, hợp với khả năng của mình, càng cố gắng càng tạo nhiều thành quả. Có thể nói, đây là năm khá tốt đối với Quý Bà, nhưng phải cẩn thận giữ gìn sức khỏe. – Xét về mặt Tử vi, Tiểu vận đi vào Bại Địa, bất lợi cho danh lộc lẫn phúc thọ, đồng thời còn có thể chiêu cảm các sự chẳng lành do Sao Hạn xấu gây ra. Đại Hạn 10 năm (từ 55 đến 64 tuổi) sự nghiệp tăng trưởng, con cái thành đạt. Tiểu hạn năm nay, tuy vào Bại Địa, nhưng được ảnh hưởng tốt của Đại Hạn, sẽ giảm phần khó khăn. – Cung Tiểu Hạn có Bệnh phù đáo nhập, nhưng lại có Hóa khoa tọa thủ, Quý Bà khó tránh khỏi bệnh hoạn nhưng không nguy hiểm. Nếu biết làm việc phước để tăng trường năng lực của Phúc tinh Hóa Khoa, có thể tránh được bệnh nặng hoặc bệnh nặng hóa nhẹ, bệnh nhẹ thành không. – Với Tướng, Ấn câu hội, chứng tỏ Quý Bà vẫn có cơ hội làm chủ hay đóng vai trò chủ động trong mọi công việc, vẫn có dịp thi thố khả năng, nhưng bên cạnh vẫn ẩn chứa những rủi ro, biến động bất ngờ. – Hội chiếu có Quả tú, Cô thần, Thiên không, Phục binh… Quý Bà một mình phải lo toan nhiều việc, trong lúc đó lại có người thân tín hay nội tình có điều bất ổn, sẽ gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt trong nhân sự dưới tay hay trong quan hệ với người cũng không mấy thuận lợi, có thể xảy ra nhiều chuyện bất hòa, tranh chấp vì quyền lợi. – Cung Mệnh có Thiên đức, Phúc đức, Quý Bà thường gặp may mắn, trong khó khăn thì được quý nhân giúp đỡ, mọi chuyện trở nên tốt lành, tài lộc dồi dào như ý. Nếu gặp khó khăn nên làm thêm việc thiện, cuộc sống càng tốt đẹp hơn. Mọi sự thành tựu ở đây không hẳn do tài trí mà chính là do phước đức. Vì vậy mà có sai biệt tùy theo hành vi thiện ác của mỗi người. – Cung Tài Bạch có Thiên trù, Hóa lộc chứng tỏ tài chánh dồi dào, dù có Tiểu Hao nhập Hạn Quý Bà cũng không có gì khó khăn về tiền bạc. – Nhìn chung các mặt, từ Sao Hạn, đến Tử Vi…năm nay nếu Quý Bà đừng làm ăn có tính may rủi, vẫn đạt được phần nào thành quả. Càng làm lớn càng lo lắng nhiều mà còn có thể mang bệnh. Nếu cứ theo đường cũ mà đi, việc cũ mà làm thì cuộc sống vẫn có tài lộc dư dùng và tinh thần thoải mái hơn.
(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push();
Tình Cảm Tuổi Tân Sửu (Nữ Mạng) trong năm 2018
– Năm nay công việc làm ăn, tuy có thuận lợi nhưng cũng có những khó khăn, không được xuôi thuận như những năm qua. Tuy vậy, với Địa Hòa gia đình vẫn là nguồn hạnh phúc của Quý Bà. – Quý Bà là người luôn chăm lo, giữ gìn gia đình, với Phục binh nhập Hạn, khó tránh khỏi khó khăn, bất hòa với chồng con. “Một sự nhịn, chín sự lành” là thái độ mà Quý Bà nên áp dụng để gia đình được êm ấm. – Với Thai, Vượng Quý Bà cũng có niềm vui, gia đình thêm d��u rể hay có người thân về đoàn tụ. – Với Hỷ thần tọa thủ, Khôi, Việt, Long, Các hội chiếu, gia đình có Hỷ sự, cưới gả, thêm cháu nội ngoại hoặc đoàn tụ với người thân. Với Bạch hổ ngộ Tấu thư, các con có người đạt, kết thúc chương trình với bằng cấp cao hoặc được ban khen, là niềm hạnh phúc của bậc cha mẹ. Nếu Quý Bà tham gia ở hoạt động Đoàn thể, Cộng đồng cũng được đánh giá cao thành quả, hoặc uy tín tăng cao trong sinh hoạt thường nhật. – Năm nay Cung Di có Thiên mã và nhiều Hỷ tinh hội, có dịp đi xa vui vẻ. Quý Bà cũng rất dễ bị tai tiếng, oán trách trong liên hệ bà con bằng hữu, nên cẩn thận lời nói để tránh thị phi, gây bất hòa. – Đối với Quý Bà đang ở trong tình trạng đơn lẻ, có những quan hệ tốt với người quyền chức, nhưng năm nay sẽ bị vướng vào tình cảm đem lại nhiều phiền muộn hơn là niềm vui. Nếu Quý Bà không sống chung với con cái, muốn có người bạn đời để giúp đỡ nhau và để chia xẻ vui buồn trong cuộc sống, năm nay cũng là năm thuận hợp. – Qúy Bà hợp với người tuổi Kỷ Hợi (60 tuổi), Canh Tý (59 tuổi), Quý Mão (56 tuổi); khắc kỵ với tuổi Tân Sửu (đồng tuổi), Mậu Tuất (61 tuổi), Ất Mùi (64 tuổi). – Khai trương, nhận việc, xuất hành nên chọn giờ chẵn, ngày chẵn, tháng lẻ mọi việc sẽ được thuận lợi hơn.
(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push();
Sức Khỏe Tuổi Tân Sửu (Nữ Mạng) trong năm 2018
– Năm nay, với Hạn Huỳnh Tuyền, cần quan tâm nhiều hơn đến sức khỏe. Đặc biệt theo dõi các bệnh về tim mạch, rối loạn máu huyết. Dù có bệnh nặng cũng không có gì nguy hiểm vì Cung Mệnh có Phúc Đức, Thiên Đức sẽ có khả năng ngăn chặn, hóa giải bệnh nạn. – Lái xe cẩn thận. Bổn mạng có suy nhưng không nguy. Nên dành thời gian cầu nguyện theo tín ngưỡng và làm thêm việc lành, mọi việc sẽ bình an.
Những Điểm Đặc Biệt Của Tuổi Tân Sửu trong năm 2018
– Mùa Xuân: Tháng Giêng: Mọi việc đều toại ý. Gia đình có chuyện mừng vui. Lộc tài hưng vượng. Tháng 2: Công việc làm ăn thuận lợi. Tài lộc tăng nhanh nhưng có hao tốn bất ngờ. Khó khăn được quý nhân giúp đỡ. Tháng 3: Gia đình có người phái nam đau ốm, hay gặp nạn. Tiền bạc tiêu hao. Tinh thần vướng bận. – Mùa Hạ: Tháng 4 và 5: Có đổi thay trong công việc. Mưu Sự gặp khó khăn, cẩn thận về hồ sơ, giấy tờ. Có tranh chấp hay bất hòa. Tháng 6: Tình thế chuyển biến tốt đẹp. Mọi điều thuận lợi, lộc tài tăng trưởng. Có uy thế trong công việc. – Mùa Thu: Tháng 7: Sức khỏe suy kém. Công việc có người giúp sức. Tháng 8 và 9: Lộc tài hưng vượng. Quan hệ tốt đẹp, có lợi lạc an vui. Có lợi về chỗ ở hay nhà cửa. Gia đình có hỷ sự, hỷ tín. – Mùa Đông: Tháng 10: Có danh lợi. Bị người ganh ghét. Tài lộc hao tốn hay rối rắm về hồ sơ giấy tờ. Tháng 11: Gia đình có tin buồn hay bị tai tiếng thị phi. Phòng kẻ xấu mưu hại. Tháng 12: Tiền bạc tiêu hao nhiều. Sức khỏe suy giảm. Có dịp đi xa.
Cúng Giải Sao Hạn Cho Tuổi Tân Sửu (Nữ Mạng) năm 2018
– Hàng tháng vào lúc 9 giờ tối ngày 26 Âm lịch dùng 7 ngọn đèn, hương hoa trà quả làm phẩm vật quay mặt về hướng Tây mà khấn vái.
Tổng Kết Lại Phần Xem Tuổi Sửu sinh năm 1961 trong năm 2018
– Xem lá số tử vi một cách tổng quát về số mạng, Vận Thế, Vận Niên, Vận may rủi, Sao chiếu mạng, Hạn ách của tuổi Tân Sửu (sinh năm 1961) trong năm Mậu Tuất 2018. – Xem tình trạng sức khỏe, tình cảm bản thân và gia đình, đường tình duyên, tuổi hợp nhau, khắc kỵ tình duyên của tuổi Tân Sửu. – Xem những màu sắc hợp và khắc kỵ với tuổi Tân Sửu. – Giờ tốt để xuất hành đầu năm của tuổi Tân Sửu trong năm 2018. – Những tháng thuận lợi, khó khăn với sự nghiệp của tuổi Tân Sửu trong năm 2018. Cách cúng giải sao giải hạn cho tuổi Tân Sửu vào năm Mậu Tuất 2018.
Đặt Mua Bản Đầy Đủ, Chi Tiết:
– Thanh toán bằng thẻ cào điện thoại và download hoàn toàn tự động:
(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push();
0 notes
Text
Giảng giải về 4 hạng bạn hữu (mitta) trong Phật Giáo (P.1)
BẰNG HỮU THUYẾT (MITTAKATHA)
Lòng từ bi là đức tánh làm cho kết bạn với nhau được. Nhân loại sanh trong thế gian nầy có sự liên quan mật thiết với nhau; như cha, mẹ, con, chồng, vợ, thầy, trò, chủ, tớ, bằng hữu với nhau... Theo lẽ thường, họ cùng sanh lên để giúp đỡ cứu hộ lẫn nhau cho có sự an vui tiến hóa, theo phẩm vị tương quan với nhau. Nhưng nếu tùy năng lực của sự cấu sanh thì có quả báo không đầy đủ để thọ hưởng sự an vui tiến hóa, cho đồng đều nhau luôn khi, bởi theo chúng ta đã từng thấy rõ, có khi cha mẹ và con từ bỏ nhau, trở thành quân thù kẻ nghịch, kiếm chuyện phá hoại lẫn nhau. Bởi cớ ấy, người đời cần phải nương pháp có đức tánh, tức là “tâm từ bi” mong điều tốt cho nhau để làm trợ nhân giúp thêm một bậc nữa, cũng là pháp để keo khắn tâm của người đã dính líu do những phẩm vị trên cho liên hiệp thân mật cùng nhau, mới kết quả tốt đẹp; tức là sự hộ trì cứu độ nhau được đầy đủ. Thật vậy, nhân loại trong hoàn vũ nầy có liên quan với nhau, không nói là phẩm vị nào, như cha mẹ và các con chồng và vợ, thầy và trò, chủ và tớ... cũng phải làm bạn với nhau cả, thì sự liên quan của những phẩm vị ấy mới được tiến triển một cách vinh hạnh. Nếu không thể, sẽ trở thành kẻ nghịch với nhau vậy. Thế thì nhân khiến cho con người có sự thương yêu lẫn nhau phải nhờ cái chi? Do nhờ tâm từ (Mettā) mong sự lành cho nhau. Bởi tâm từ là đức tánh tốt quan trọng, giống như nước hàn hoặc giống như nhựa, dùng để hàn những người liên quan với nhau cho thành hữu nghị chặt thêm lên nữa. Không những thế, dù cho người dưng kẻ lạ, không phải máu thị tông môn với nhau hẳn, song cũng nhờ đức tánh (Mettā) nầy có thể keo khắn kết bằng hữu với nhau được, và cần phải mật thiết với bốn hạng bạn sau đây:
Bốn hạng bằng hữu (mitta)
Tiếng MITTA dịch là bằng hữu hoặc bạn, không phải chỉ để gọi đặc biệt những người đã có tâm từ bi trân trọng nhau, tùy theo các phẩm vị đã lâu năm thôi đâu, dù kẻ lữ thương mà họ chỉ gặp nhau chốc lát giữa khoảng đường họ cũng biết làm bạn với nhau trong khi đi đường cho đặng sự hy vọng nương cậy ấm áp trong lòng. Hoặc những phước thiện mà họ đã vun bồi sẵn trong tâm để làm nơi nương nhờ trong ngày vị lai, cũng được gọi là bạn vậy. Ý nghĩa đúng như lời Phật thuyết trong Saṃyutta Nikāya nơi đoạn Devatā saṃyutta như vầy: Sattho pasavato mittaṃ, Mātā mittaṃ sake ghare Sahāyo aṭṭhajātassa Hoti mittaṃ punappunaṃ, Sayaṃkatāni puññāni Taṃ mittaṃ saṃparāyikaṃ Nghĩa là: “Người lữ thương là bạn của kẻ đường xa Bà mẹ là bạn của trong nhà mình Bằng hữu là bạn của người hữu sự hằng phát sanh, Những phước báu mà họ đã tạo trử là bạn dính theo trong ngày vị lai” Ý nghĩa của Phật ngôn trên đây sẽ nói rõ như vầy: tất cả tầng lớp trong nhân loại đều cần phải có bạn lành, đến đổi người lữ thương không từng quen biết nhau, cũng kể là bạn của người lữ hành được. Người được kêu là bạn có nhiều hạng, song trong kệ ngôn nầy Đức Thế Tôn chỉ thuyết 4 hạng như trên đã nói. Tiếp theo đây sẽ giải rộng 4 hạng bằng hữu ấy như vầy: Những người lữ thương là bạn của kẻ đi đường xa Tiếng nói lữ thương trong chỗ nầy, ám chỉ những người đi xa đến các hương thôn hoặc quốc độ khác theo đường thủy hoặc đường bộ, để mua hoặc bán những đồ đạc. Người lữ hành đồng đi chung một con đường xa với nhau; dù người buôn bán đi chân hay đi xe... cùng dều gọi lữ thương đồng hành cả. Lẽ thường, người đi đường xa nếu không có bạn đi cùng, hẳn nhiên tâm bị buồn tẻ; khủng khiếp sẽ phát sanh rất nhiều trong con đường mình đi. Nhưng nếu may mắn gặp người đi đường dù không quen biết từ trước, cũng hy vọng một cách nồng nhiệt trong tâm và giảm bớt sự buồn tẻ hoặc khủng khiếp kia được. Lại nữa, người di đường xa mệt nhọc đuối sức hoặc lâm cơn bệnh hoạn giữa đường, là nhân làm cho họ trở ngại cuộc hành trình, cố gắng đi tới nữa không được. Trong khi ấy nếu có những người lữ thương, là kẻ giàu lòng hào hiệp, đem võng khiên hoặc lấy xe chở đi; thì người lữ hành kia chắc hẳn khỏi sự mỏi mệt đuối sức và đem mình đến nơi đến chốn một cách bình an. Bởi cớ ấy cho nên đáng gọi người lữ thương là bạn, vì họ là người ngăn ngừa điều tai hại theo đường và giúp cho cuộc hành trình của kẻ lữ hành đến nơi đến chốn được an toàn vui vẻ. Diễn giải bấy nhiêu đây cũng làm tài liệu để cho thấy rõ ràng: dù cho người lữ hành chưa từng quen biết với nhau từ trước, cũng làm cho ấm áp trong lòng của người đi đường và giúp cho thành tựu công việc, nên Ngài gọi: Người lữ thương là bạn của người đi đường xa (Sattho pasavato mittaṃ). Câu Phật ngôn trên đây soi sáng cho ta thấy rõ quả lợi ích của sự có bằng hữu, để làm tài liệu nhắc nhở tâm của người đời nên thỏa thích và thân cận với bạn lành. Trích: Giải về bạn (Tỳ Khưu Giới Nghiêm) Read the full article
0 notes
Photo
CẦU AN THEO TINH THẦN KINH PHƯỚC ĐỨC
Mahamangala Sutta thuộc Sutta Nipata II, Tiểu Bộ kinh I, Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch là Kinh Phước Đức, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch là Kinh Điềm Lành Lớn (Kinh Đại Hạnh Phúc), một bản kinh cầu phước đức rất nhiệm mầu, hiệu ứng an lành đích thực cho những ai tụng đọc, thực hành và ứng dụng trong đời sống hàng ngày.
Vào các ngày đầu xuân, những người con Phật lên chùa dâng hương cầu nguyện, mong ước một năm mới bình an, thịnh vượng. Bên cạnh việc lễ bái, cầu nguyện, cúng dường v.v..., nếu người nào hữu duyên được đọc tụng và hành trì theo kinh Phước Đức thì chắc chắn sẽ gặt hái được phước báo vạn sự cát tường như ý.
Bản kinh Phước Đức ngắn gọn, súc tích, nghĩa lý rõ ràng có thể đưa vào kinh Nhật tụng để mọi người đọc tụng mỗi ngày. Duyên khởi để Thế Tôn ban pháp thoại này phát xuất từ lời thỉnh cầu của một vị Trời mong muốn biết và thực hành gieo trồng phước đức nhằm xây dựng đời sống an lành. Chư thiên là loài được xem là có phước đức hơn hết so với các loài trong lục đạo mà còn thỉnh ý Thế Tôn nói về phước đức để kiện toàn phước báo cho tự thân, huống gì loài người, và nhất là Phật tử chúng ta.
***
Lánh xa kẻ xấu ác
Được thân cận người hiền
Tôn kính bậc đáng kính
Là phước đức lớn nhất.
Theo Thế Tôn, phước đức lớn nhất, trước tiên là phát huy tuệ giác, thành tựu chánh kiến. Một trong những biểu hiện của chánh tri kiến là thấy rõ thiện và ác cùng với gốc rễ của nó (Kinh Chánh Tri Kiến, Trung Bộ I). Thấy rõ điều ác và người ác để tránh xa, đồng thời thấy rõ điều thiện và người hiền để thân gần, tôn kính các cá nhân đức hạnh, bậc mô phạm về đạo đức trong xã hội… chính là những nhân tố cực kỳ quan trọng để thành tựu phước đức. Đặc biệt, sự "tôn kính bậc đáng kính" vô cùng cần thiết cho việc thành tựu phước đức của cá nhân và cả quốc gia, xã hội. Bậc đáng kính là người có tài đức, bậc hiền tài, là nguyên khí của quốc gia. Thiếu trân quý, không trọng dụng hiền tài hoặc đặt để không đúng người, đúng việc, làm lãng phí tài và đức là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho phước đức của quốc gia suy giảm.
Sống trong môi trường tốt
Được tạo tác nhân lành
Được đi trên đường chánh
Là phước đức lớn nhất.
Mỗi người đều có quyền lựa chọn môi trường sống và làm việc cho chính mình. Tất nhiên, thực tế thì ít khi toàn diện, được cái này thì mất cái kia, song điều cần tỉnh giác ở đây là những thuận lợi về phương diện vật chất không phải lúc nào cũng cần thiết để cho chúng ta nhắm mắt và sẵn sàng đánh đổi. Cần bình tâm để nhận diện rằng được sống, làm việc, học tập và phụng sự trong môi trường lành mạnh sẽ tác động rất lớn đến việc hình thành nhân cách cao thượng. Nhờ sống trong môi trường đạo đức và trí tuệ, xung quanh hầu hết là người tốt nên ta dần trở nên chín chắn, hiền thiện và an lành hơn.
Có học, có nghề hay
Biết hành trì giới luật
Biết nói lời ái ngữ
Là phước đức lớn nhất.
Kinh nghiệm của tiền nhân cho thấy "nhất nghệ tinh, nhất thân vinh". Có chuyên môn cao ở bất cứ lĩnh vực nào cũng đều hữu dụng, mang lại lợi ích thiết thực cho tự thân, gia đình và xã hội. Có tài năng nhưng phải được đạo đức định hướng và dẫn dắt thì mới xứng hiền tài. Tài mà không hiền thì vẫn vô phước vô phần, đôi khi trở nên cực kỳ nguy hiểm nếu họ cậy tài để làm ác. Mặt khác, người có tài thì không nên tự cao, quát nạt, giấu nghề mà ngược lại, luôn sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm, dìu dắt và đ��o tạo thế hệ kế thừa với tất cả lòng thành, khiêm tốn và yêu thương. Được như vậy, xã hội ngày càng trở nên hoàn thiện, đất nước ngày càng phát triển ổn định hơn. Do đó mỗi chúng ta, nhất là các bạn trẻ phải lập chí học hành để có một nghề nghiệp chân chính, có trình độ chuyên môn và thu nhập cao, phục vụ nhiều hơn cho cộng đồng. Đó chính là một trong những phương diện của phước đức.
Được cung phụng mẹ cha
Yêu thương gia đình mình
Được hành nghề thích hợp
Là phước đức lớn nhất.
Những ai từng vì cuộc mưu sinh mà phải xa cha mẹ và người thân, sống nhờ nương nơi đất khách quê người, nhất là phải làm công việc nghịch tay trái nghề, mới thấm thía về sự thiếu phước. Ấy vậy mà có khá nhiều người đang nắm giữ phước đức trong tay nhưng lại không tự biết, thậm chí còn rúng rẫy xem thường khi đang có một công việc yêu thích ở gần nhà cùng với cha mẹ và những người thân. Cho nên, khi còn duyên lành sống với cha mẹ, anh em trong gia đình thì phải hiếu thuận hết lòng, có việc làm thích hợp (dù thu nhập không cao) cũng nên tận tâm vì đó là những chất liệu hình thành nên nguồn vui sống. Chính niềm hòa hiếu an vui của chúng ta, điều mà không thể đem các giá trị khác như danh tiếng, giàu sang để có thể hoán đổi, nên mới gọi là phước đức lớn nhất.
Sống ngay thẳng, bố thí,
Giúp quyến thuộc, thân bằng
Hành xử không tì vết
Là phước đức lớn nhất.
Một người làm ăn lương thiện, tạo dựng cơ nghiệp từ bàn tay và khối óc của chính mình chính là phước đức lớn nhất. Càng phước đức hơn khi cuộc sống của bản thân đã tạm ổn, người ấy biết phụng dưỡng cha mẹ, giúp đỡ người thân và sẻ chia với mọi người xung quanh, nhất là những người đang thực sự thiếu thốn. Sống trung thực, ngay thẳng, nhìn về quá khứ không có bất cứ điều gì phải dằn vặt, bận lòng. Tâm hồn trong sáng, hành xử đúng với ta mà cũng phải với người cùng với niềm kính trọng, yêu thương là nền tảng của bình an. Thiết lập được bình an là thành tựu phước đức.
Tránh không làm điều ác
Không say sưa nghiện ngập
Tinh cần làm việc lành
Là phước đức lớn nhất.
Phước đức hình thành và tăng trưởng nhanh nhất khi chúng ta biết siêng năng làm các điều lành. Một người khi phát nguyện làm các điều lành thì đồng nghĩa với không làm các điều ác. Điều lành luôn mang các thuộc tính có lợi ích cho mình và người, tạo ra hiệu ứng an lành trong hiện tại và tương lai. Một điều rất thú vị ở đây là để tạo phước đức cho bản thân bằng cách làm các hạnh lành thì tuyệt nhiên không dính vào say và nghiện. Vì không nhiều người chú ý đến khía cạnh này nên chủ quan không cảnh giác rồi đánh mất mình khi lỡ sa vào say và nghiện. Nói cách khác, say sưa và nghiện ngập là hai yếu tố quan trọng khiến tổn giảm phước đức nhanh chóng. Do vậy, muốn tạo dựng và giữ gìn phước đức của bản thân thì hãy luôn tỉnh táo, làm chủ được mình.
Biết khiêm cung lễ độ
Tri túc và biết ơn
Không bỏ dịp học đạo
Là phước đức lớn nhất.
Thành tựu phước đức rất khó, nhưng khi có chút phước rồi mà người hưởng phước biết khiêm cung, lễ độ với mọi người đồng thời luôn biết vừa đủ và tri ân lại càng khó hơn. Cái sự đời "giàu đổi bạn, sang đổi vợ" xưa nay không phải là chuyện hiếm. Có phước mà không biết gìn giữ và vun bồi nên chắc chắn sau một thời gian phước đức sẽ suy giảm. Với những người khi đã có cái ăn, cái mặc và chỗ ở rồi thì điều quan trọng không phải là cố gắng làm cho vinh thân phì gia thêm để thụ hưởng mà chính là vấn đề tu dưỡng phát huy đạo đức, an tịnh và thăng hoa tâm hồn. Những ai làm được như vậy thì phước đức ngày càng tăng thêm.
Biết kiên trì, phục thiện
Thân cận giới xuất gia
Dự pháp đàm học hỏi
Là phước đức lớn nhất.
Đi chùa, làm việc thiện, đi nghe pháp thoại, học đạo, tham thiền v.v… chính là những việc làm cao thượng, mang lại phước đức to lớn. Có nhiều vấn đề mà tiền bạc không mua được, danh vọng không đánh đổi được và uy quyền không lung lạc được… và chỉ có học đạo, tham thiền mới có thể giải quyết rốt ráo, mang lại niềm an ổn cho con người. Xưa kia thái tử Siddhartha và sau là vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng lên rừng tu đạo chính là đi tìm sự an tâm. Khi tâm đã an thì muôn sự đều bình an. Và chỉ có chuyên tâm học đạo mới có thể thành tựu phước đức to lớn này.
Sống tinh cần, tỉnh thức
Học chân lý nhiệm mầu
Thực chứng được Niết-bàn
Là phước đức lớn nhất.
Trong quá trình hướng nội, thanh lọc thân tâm thì chứng đạt Niết-bàn là phước đức lớn nhất. Sự siêng năng chuyên cần tu tập, duy trì sự tỉnh thức thường trực là những nhân tố quan trọng để thành tựu đạo quả. Niết-bàn là sự giải thoát khỏi tất cả những ràng buộc phiền não, là ánh sáng phá tan u ám của bóng tối si mê, là sự chấm dứt khổ đau luân hồi sanh tử. "Việc nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống" rồi, hành giả thong dong tự tại làm đẹp cho đời.
Chung đụng trong nhân gian
Tâm không hề lay chuyển
Phiền não hết, an nhiên,
Là phước đức lớn nhất.
Với tâm giải thoát tự tại, hành giả an nhiên bất động trước vô vàn biến động, tự tại vào ra trong sanh tử để cứu độ chúng sanh, làm đẹp cuộc đời như sở hành của vị Bồ-tát, đây không chỉ là phước đức cho một người mà tất cả cộng đồng, nhân loại.
***
Thật rõ ràng, xuyên suốt nội dung bản kinh Thế Tôn dạy về "làm" phước mà không hề có chuyện "xin" phước. Nên trong đạo Phật có chủ trương cầu nguyện mà tuyệt không có cầu xin. Vì Phật không trực tiếp ban phước cho ta an lành mà chỉ dạy phương cách rồi chúng ta phải tự thực tập, hành trì để tạo ra phước đức và được bình an.
Mong ước được an lành chính là một sự phát nguyện vun bồi phước đức tự thân, được thể hiện qua sự chuyển hóa ba nghiệp thân miệng ý theo hướng thiện lành. Do đó, bình an và phước đức có thể tạo dựng ngay bây giờ và ở đây.
- Quảng Tánh
#tâm#an#kinh phước đức#kin#đại hạnh phúc#cuộc sống#con người#Tu học#bình an#buông xả#tự tại#DucPhatday.vn
1 note
·
View note
Photo
VUN BỒI PHƯỚC ĐỨC
Phước đức là phước báo, hạnh phúc có được nhờ đức hạnh. Từ tâm đức và hạnh đức ấy mà con người nhận lãnh phước báo. Ai gieo trồng nhân phước đức thì gặt quả phước đức. Nhân phước đức ở đây là những suy nghĩ, lời nói và việc làm thiện lành, gọi chung là thiện nghiệp.
Trong kinh Phước đức, một bài kinh trong kinh Tập, thuộc Tiểu bộ kinh, Đức Phật dạy mười điều vừa là nhân mà cũng vừa là quả phước đức.
1. Lánh xa kẻ xấu ác, luôn thân cận người hiền, tôn kính bậc đáng kính.
2. Sống trong môi trường tốt, được tạo tác nhân lành, được đi trên đường chánh.
3. Có học - có nghề hay, biết hành trì giới luật, biết nói lời ái ngữ.
4. Được cung phụng cha mẹ, yêu thương gia đình mình, được hành nghề thích hợp.
5. Sống ngay thẳng - bố thí, giúp quyến thuộc thân bằng, hành xử không tì vết.
6. Tránh không làm điều ác, không say sưa nghiện ngập, tinh cần làm việc lành.
7. Biết khiêm cung - lễ độ, biết đủ và nhớ ơn, không bỏ dịp học đạo.
8. Biết kiên trì phục thiện, thân cận giới xuất gia, dự pháp đàm học hỏi.
9. Sống tinh cần tỉnh thức, học chân lý nhiệm mầu, thực chứng được Niết-bàn.
10. Hành xử trong nhân gian, tâm không hề lay chuyển, phiền não hết - an nhiên.
Đức Phật dạy: “Ai sống được như thế, đi đâu cũng an toàn, tới đâu cũng vững mạnh, phước đức của tự thân” (HT. Thích Nhất Hạnh dịch).
Khi thực hành mười điều trên là chúng ta đang sống trong hạnh phúc, đang thọ hưởng phước đức, đồng thời cũng là đang gieo trồng phước đức để tiếp tục thọ hưởng trong tương lai, đời sau. Đây chính là những thiện nghiệp sinh ra phước đức làm cho đời sống các chúng sinh được nhiều an vui, hạnh phúc. Chính vì thế mà mười phương cách vun bồi phước đức trong bài kinh còn được gọi là mười điều phước đức hay mười điều hạnh phúc.
- Nguồn: Giác Ngộ Online
10 notes
·
View notes
Text
Phần I
“Hãy tích cực hoạt động để tạo an lành cho kẻ khác.” – Sutta Nipàta
Có mười đức tánh cao quý vượt hẳn thế tục gọi là Pàrami (Ba La Mật), mà chư vị Bồ Tát đều thực hành tròn đủ để thành tựu Ðạo Quả Chánh Ðẳng Chánh Giác (Sammà Sambuddha).
Mười pháp Ba La Mật là: Bố Thí (Dàna), Trì Giới (Sìla), Xuất Gia (Nekkhamma), Trí Tuệ (Pannà), Tinh Tấn (Viriya), Nhẫn Nại (Khanti), Chân Thật (Sacca), Quyết Ðịnh (Adhìtthàna), Tâm Từ (Mettà), và Tâm Xả (Upekkhà).
Theo Bản Chú Giải kinh Cariyà Pitaka, Ba La Mật [1] là những phẩm hạnh không nhuộm màu vị kỷ, không đượm nhuần tà kiến và không ẩn ý ngã mạn. Ba La Mật nhờ trí tuệ dẫn dắt và do lượng từ bi vun quén đắp bồi.
Hành động của Bồ Tát tuyệt đối vị tha. Với đức từ bi vô lượng, lòng bác ái vô biên, xuyên qua bao nhiêu kiếp sống, các Ngài không ngừng nỗ lực chuyên cần nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo nàn thấp kém, giúp đỡ cho mọi người bằng muôn ngàn cách và làm giảm bớt phiền não cho tất cả chúng sanh.
Một vị Bồ Tát không nghĩ đến việc an hưởng thú thanh nhàn trong khi những người bạn xấu số của mình còn ở trong vòng lao khổ. Ðể làm dịu bớt phần nào nỗi khổ đau của nhân loại, Bồ Tát sẵn sàng hy sinh tất cả các vật sở hữu quý báu nhất, cho đến mạng sống của mình đi nữa cũng không tiếc, như câu chuyện trong Túc Sanh Truyện Vyàghrì Jàtaka diễn tả.
Với tâm đầy từ bi, Bồ Tát luôn luôn sẵn sàng tạo an lành hạnh phúc cho tất cả, không quên bỏ một chúng sanh nhỏ bé nào, nhưng không khi nào làm điều gì không do trí tuệ dẫn dắt. Lòng bi mẫn vô biên, tuy nhiên các Ngài luôn luôn cân phân tâm trí. Và trong khi phục vụ, Ngài không hề cầu mong một thế lực hoặc một quyền lợi vật chất nào trên thế gian. Khi đã hành động xứng đáng, danh thơm tự nhiên đến, tại sao cần phải chạy theo nó?
Bồ Tát hoàn toàn vị tha, luôn luôn sống cho kẻ khác. Không hề có một điểm ích kỷ, dầu nhỏ nhen đi nữa, trong những hành động của Ngài.
Kinh Dhammapada (Pháp Cú) có câu :
“Hãy để cho cả hai, hàng tại gia cư sĩ và tăng chúng, nghĩ rằng ‘chính ta đã làm điều phải đó. Trong mọi công việc, dầu lớn dầu nhỏ, hãy để họ nhắc đến ta.’ Ðó là tham vọng của người cuồng si. Nghĩ như vậy thì lòng tham và tính ngã mạn sẽ tăng trưởng.” (Câu 74)
Một vị Bồ Tát không khi nào có tư tưởng ích kỷ và hẹp hòi như vậy. [2]
Bố Thí (Dàna)
Bố Thí, hay lòng quảng đại, là Ba La Mật đầu tiên mà trong khi thực hiện hành giả thành tựu hai nghiệp thiện là tiêu trừ những tư tưởng ích kỷ, xấu xa, và phát triển những tư tưởng vị tha, trong sạch. Bố thí là một niềm hân hoan, một phước lành cho cả người tặng, lẫn người thọ lãnh.
Bồ Tát không thắc mắc tìm hiểu người mà mình muốn cho một vật hoặc ban một đặc ân nào, có ở trong tình trạng thiếu thốn món đó không. Ngài cho ra mà không chạy theo vật mình cho. Ngài bố thí vì lòng quảng đại mà cũng để diệt lần mọi hình thức luyến ái còn tiềm tàng trong tâm. Niềm vui khi phụng sự kẻ khác tự nhiên đến. Làm dịu bớt nỗi đau khổ của chúng sanh là một hạnh phúc khác do sự bố thí đem lại.
Tình thương của một vị Bồ Tát thật bao la. Lòng từ bi của Ngài ban rải cho tất cả muôn loài. Nhưng khi bố thí, Ngài không nhắm mắt cho càn. Lòng quảng đại không làm cho sự bố thí trở nên mù quáng. Nếu có một người ghiền rượu đến nhờ sự giúp đỡ của Ngài và nếu Ngài biết chắc chắn rằng người nầy sẽ lãnh món quà để dùng trong việc sai quấy, vị Bồ Tát sẽ không ngần ngại từ chối. Ðặt lòng quảng đại trong một hành động sai lầm không phải là Ba La Mật (Pàrami).
Khi giúp đỡ một người vì lý do chánh đáng, Bồ Tát không hề lộ vẻ quan trọng hoặc tỏ ý tự tôn tự đại; trái lại, thấy đó là một cơ hội quý báu để làm bổn phận mình nên sẵn sàng và vui vẻ phục vụ kẻ khác một cách khiêm tốn. Ngài không bao giờ thấy mình cao hơn ai vì lẽ người đó nhờ mình.
Khi giúp đỡ, Ngài không thấy đó là thi ân, cũng không coi người mình giúp là đã thọ ân mình. Bồ Tát làm việc gì chỉ vì đó là điều phải, không tìm danh vọng, không mong đền đáp.
Bồ Tát không bỏ lỡ một dịp may nào để phục vụ kẻ khác, nhưng không hạ mình cầu xin ân huệ. Túc Sanh Truyện Brahma Jàtaka (số 323) thuật rằng có một vị Bồ Tát sống đời tu sĩ trong ngự uyển. Thường ngày vua đến viếng và cung cấp mọi vật dụng, nhưng dầu sao nhà vua không thể thấy hết mọi nhu cầu của Ngài. Ðôi dép và cây dù của Bồ Tát rách hư đã mười hai năm trường mà vua không hay. Ngài không hề hở môi. Ngày kia vua hay được. Trước cử chỉ tuy khiêm tốn nhưng lạ lùng như vậy, vua hỏi Ngài tại sao ?
Ngài trả lời :
“Tâu Bệ Hạ, kẻ cầu khẩn mà không được toại nguyện sẽ buồn rầu. Kẻ được người khác nhờ đến mà không thể giúp, càng buồn rầu hơn nữa.”
Bồ Tát cho ra không xiết kể, không phân biệt giai cấp, chủng tộc hay tôn giáo, nhưng không bao giờ cầu mong người khác trả lại. Một đặc điểm của các Ngài là tri túc hoàn toàn. Thi hào Edward Dyer ca ngợi đức tánh ấy trong mấy dòng thơ :
“Vài người có thật nhiều mà vẫn còn tham muốn, Tôi có ít nhưng cảm thấy đủ. Chính họ 'nghèo’, mặc dầu tiền rừng bạc bể Và chính tôi 'giàu’, tuy túi rổng không.”
Túc Sanh Truyện Kanha Jàtaka (số 440) có ghi chép rằng một hôm vua Trời Sakka (Ðế Thích), nghe danh vị Bồ Tát nọ là một nhân vật gương mẫu có nhiều đức độ. Vua Trời lấy làm cảm phục, kính cẩn đến bạch Ngài xin cho biết có cần dùng món chi để vua cúng dường. Bồ Tát vui vẻ xin được thành tựu bốn điều ước nguyện:
Ước nguyện tôi không sân hận, không phiền hà, hoặc có ác ý với người láng giềng! 2. Ước nguyện tôi không tham muốn vật sở hữu của người láng giềng! 3. Ước nguyện tôi không luyến ái riêng người nào! 4. Ước nguyện tôi có tâm xả!
Nghe vậy, tuy hết sức cảm phục, vua Trời Sakka (Ðế Thích) lấy làm thất vọng, xin Ngài chọn thêm một vật gì khác để vua cúng dường. Vị Bồ Tát trả lời:
“Bất luận nơi rừng sâu nào mà tôi sống, nơi nào mà tôi ở một mình, xin cho tôi được khỏe mạnh. Bởi vì bệnh hoạn sẽ làm xáo trộn cuộc sống yên tĩnh và làm trở ngại công phu hành thiền của tôi.”
Vua Trời Sakka (Ðế Thích) nghĩ thầm: “Thật là tiếng đồn chẳng sai. Quả thật Bồ Tát Kanha là bậc thiện trí thức. Thay vì ước mong được thỏa mãn một nhu cầu vật chất, Ngài chỉ chọn những điều cần thiết cho đời sống đạo hạnh.”
Lần thứ ba Vua Trời Sakka lại xin Bồ Tát chọn một món gì khác để cúng dường. Bồ Tát trả lời:
“Tâu Hoàng Thượng, tôi có thêm một nguyện vọng nữa. Bất luận ở đâu, không một chúng sanh nào làm tổn thương thân thể tôi, không một chúng sanh nào làm hại đến tâm trí tôi, đó là lời nguyện của tôi.” (Jàtaka Stories, số 440)
Lòng quảng đại của một vị Bồ Tát thật không cùng. Ngài sẵn sàng cho ra tất cả, chẳng những của cải, tài sản, sự nghiệp và những sở hữu yêu chuộng khác, mà còn có thể cho cả ngai vàng, cả vương quốc, một cánh tay, một cái chân, cho đến vợ, đến con. Ðến mạng sống, Ngài cũng không ngần ngại cống hiến để tạo hạnh phúc cho nhân loại.
Túc Sanh Truyện Vessantara Jàtaka (số 547) có thuật rằng Hoàng Tử Vessantara, lúc còn tám tuổi, có lần thành thật nghĩ rằng:
“Nếu một ngày kia có người cần đến trái tim của ta, ta sẽ tự tay mổ ngực, moi tim ra cho. Nếu có người cần đến mắt, ta sẽ tự móc lấy mắt ra biếu. Nếu có người cần đến thịt ta, ta sẽ tự tay cắt ra một miếng để tặng.”
Túc Sanh Truyện Vyàghrì Jàtaka cũng thán phục thuật lại câu chuyện một vị tu sĩ sẵn sàng và vui vẻ hy sinh mạng sống để đem lại hạnh phúc cho kẻ khác. Trong Jàtakamàlà câu chuyện được thuật lại như sau :
“Ngày kia, một vị Bồ Tát đi ngang qua khu rừng nọ cùng với người đệ tử. Ngài nhìn thấy một con cọp mẹ cùng với ba cọp con nằm ngất ngư gần chết vì đói. Ðộng lòng bi mẫn, Ngài bảo người đệ tử đi tìm thức ăn cho cọp. Nhưng đó chỉ là một cái cớ để được ở lại một mình với cọp, vì Ngài nghĩ rằng:
"Tại sao ta phải đi tìm một thân sống khác, khi có sẵn thân ta đây để làm món ăn cho cọp. Tìm thức ăn cho cọp ở nơi khác là một việc cầu may, hơn nữa ta có thể bỏ lỡ một cơ hội tốt đẹp để làm bổn phận.
"Chính cái thân ô trược nầy là nguồn gốc của bao nhiêu phiền não, bao nhiêu bất hạnh. Nếu ta cứ khư khư bám chặt lấy nó và không biết dùng nó để phụng sự kẻ khác thì thật là không sáng suốt chút nào. Trong đời chỉ có hai nguyên do làm cho con người hững hờ trước sự đau khổ của kẻ khác. Ðó là lòng luyến ái, cột trói chúng sanh vào những lạc thú, cố bám lấy sự vui sướng cá nhân, sợ nó mất đi, là một nguyên do làm cho ta lãnh đạm trước sự đau khổ của người khác. Thiếu lòng từ thiện, thiếu ý chí giúp đời là nguyên do khác. Nhưng ta không thể an vui khi kẻ khác đau khổ. Ngày nào chưa giúp được kẻ khổ, ngày ấy ta không thể an hưởng hạnh phúc. Như vậy làm sao có thể thản nhiên trước cảnh tượng hấp hối vì đói khát của cọp mẹ và bầy cọp con nầy.
"Nếu ta nhảy xuống vực sâu để làm mồi cho cọp thì ít ra ta cũng dùng cái thân khốn khổ nầy vào một việc hữu ích. Ta sẽ nuôi sống cọp mẹ, tránh cho nó khỏi phải làm điều ác là ăn thịt con nó, và cũng tránh cho bầy con nhỏ vô tội kia khỏi phải chết vì nanh vút của mẹ chúng.
"Lại nữa, hành động như vậy ta còn nêu một gương sáng cho ai còn ham muốn những gì mà họ cho là tốt đẹp trên đời nầy. Ta hy sinh thân nầy để cứu bốn mạng sống, để an ủi và khuyến khích những ai bé nhỏ yếu đuối, làm vui lòng những ai thấu triệt ý nghĩa sâu xa của lòng từ thiện và tạo nên một lý tưởng cho những ai muốn sống cuộc đời đạo hạnh. Vậy, đây là cơ hội hy hữu để bước lần đến mức độ giác ngộ hoàn toàn.”
Nghĩ như vậy Bồ Tát liền gieo mình xuống vực thẩm, hy sinh mạng sống để ban bố tình trạng an lành cho bốn con cọp sắp chết.
Theo Nevari (Nepàla Bàshà), câu chuyện đáng thương tâm và đầy ý nghĩa thú vị trên được thuật lại như sau:
“Vào thuở xa xưa kia có một ông vua tên Mahàratthà có thế lực oai hùng và tâm đạo nhiệt thành. Ðức vua có ba hoàng tử là Mahà Prashàda, Mahà Deva và Mahà Sattva, cả ba đều hiền lành và dễ dạy.
Một buổi sáng tươi đẹp nọ, đức vua cùng ba hoàng tử đi dạo chơi trong rừng. Mảng lo nhìn xem phong cảnh và mê mẩn với hoa thơm cỏ lạ, ba vị hoàng tử càng đi sâu vào rừng.
Quan hầu cận thấy vắng bóng ba vị hoàng tử bèn tâu lại với vua. Ðức vua liền truyền lệnh cho các quan đi tìm, rồi ngự giá hồi cung.
Nói về ba vị hoàng tử, đi mãi đến một ngọn núi kia. Ðứng trên tảng đá nhìn xuống người anh cả trông thấy một con cọp cái và năm cọp con ở dưới vực sâu. Cả mẹ lẫn con chỉ còn da bọc xương, đang nằm thoi thóp. Ðã nhiều ngày từ khi đẻ con, cọp mẹ không tìm được thức ăn. Bầy cọp con bu theo mẹ để nút sửa, nhưng vú mẹ cạn khô không còn gì để bú. Cọp mẹ có vẻ đói lắm, rõ ràng đang sắp sửa ăn thịt con.
Người anh cả nhận thấy tình trạng bi đát ấy trước tiên, chỉ cho các em và nói rằng: "Các em hãy nhìn xem cảnh tượng đáng thương tâm kia, các em có thấy cọp mẹ không? Vì quá sức đói nên nó đang sắp sửa ăn thịt con cho đỡ dạ. Thật là một trạng thái vô cùng khốn khổ.”
Mahà Sattva hỏi anh: “Cọp thường ăn vật chi?”
Mahà Prashàda trả lời rằng “thịt sống là món ăn của loài cọp và loài sư tử.”
“Cọp mẹ có vẻ đã đuối sức lắm rồi. Chắc chắn đã nhiều ngày nó không có thức ăn. Phải chi có ai dám hy sinh thân mình cho nó thì quý biết mấy!
"Nhưng ai đâu lại vui lòng làm cái việc hy sinh cao cả ấy!” Mahà Deva lưu ý.
Mahà Prashàda nói: “Chắc chắn là không có ai làm được việc ấy.”
Với một giọng cảm động, Mahà Sattva tiếp: “Em còn nhỏ, chắc chắn là chưa đủ trí khôn, nên em nghĩ rằng những người thiểu trí như chúng ta có lẽ không thể hy sinh mạng sống mình để cứu người. Nhưng cũng có hạng người từ bi, hoàn toàn sống cho kẻ khác. Những người như thế có thể sẽ vui lòng hiến thân mình để cứu sáu sanh mạng nầy.”
Ba anh em bàn luận với nhau như vậy và nhìn thoáng qua lần cuối cùng bầy cọp vô hy vọng, rồi bỏ đi nơi khác.
Mahà Sattva nghĩ thầm:
“Ta phải hy sinh mạng sống phù du nầy để cứu bầy cọp đói kia. Tấm thân tứ đại mà ta mang đây chỉ là một đống ô trược đã gây cho ta bao nhiêu phiền não và phải chết một ngày nào. Tuy rằng hiện nay ta có thể ướp hoa, thoa dầu cho nó xinh đẹp, thơm tho, nhưng rồi một ngày kia nó sẽ tanh hôi và tan rã.”
Gẫm suy như thế, chàng bèn bảo hai anh đi trước để mình chẩm rải ngoạn vật ngắm cảnh. Chờ hai anh đi xa, chàng hối hả trở lại chỗ cọp nằm, cổi quần áo treo trên nhánh cây và nghĩ rằng:
“Ta phải tích cực hành động để tạo an lành cho kẻ khác. Phải rải tâm từ đến tất cả chúng sanh. Phục vụ những ai cần đến ta là nhiệm vụ trọng đại. Ta hãy hy sinh tấm thân ô trược nầy để cứu mạng sống cho cọp mẹ và năm con. Do hành động tạo thiện nghiệp nầy, mong rằng ta sẽ bước lần đến mức Chánh Ðẳng Chánh Giác, và cứu độ chúng sanh ra khỏi đại dương của vòng luân hồi đau khổ. Ước mong tất cả chúng sanh đều an vui hạnh phúc!”
Ðộng lòng trắc ẩn và thấm nhuần tinh thần phục vụ vị tha, hoàng tử Mahà Sattva nhẹ nhàng gieo mình xuống hố, gần nơi bầy cọp nằm. Nhưng hoàng tử không chết, chỉ bị thương nặng. Cọp kia, dầu bẩm tánh rất hung dữ, cũng động lòng thương hại vị Bồ Tát, không nỡ chạm đến thân Ngài.
Bồ Tát thì nghĩ khác: 'Rõ ràng cọp đã quá yếu đuối nên không đủ sức vật mình để ăn!’ Ngài bò lần đi tìm một khí cụ để tự sát. May thay, gần nơi cọp nằm có một khúc tre bể. Ngài nhặt lấy tre rồi tự cứa cổ đến chết. Ngài té ngã nằm trên vũng máu.
Cọp vừa đói vừa khát, thấy vậy đi lần đến, liếm vũng máu và xé thây Bồ Tát ra, ăn ngon lành. Phút chốc chỉ còn lại một đống xương tàn.
Chuyện thêm rằng lúc Bồ Tát tự sát để hiến thân cho cọp, trời đất chuyển động, nước biển nổi sóng to, ánh sáng mặt trời bỗng dưng tối sầm lại, cảnh vật trở nên lờ mờ, tất cả chư Thiên đồng thanh reo to: Lành thay! Lành thay! và từ trên không trung, bông Pàrijàta rơi xuống như mưa.
Trước cảnh tượng phi thường của trời đất, hai người anh đoán đúng rằng em mình đã hiến thân làm mồi cho cọp. Mahà Deva nói:
“Khi nảy Mahàsattva nói với một giọng rất đau thương, chắc em đã hy sinh mạng sống để cứu bầy cọp.”
Hai anh liền đi lần trở lại tìm em và lấy làm kinh hoàng trước cảnh tượng hãi hùng. Ðâu là hình bóng của người em yêu mến. Chỉ còn đống xương trắng điểm máu hồng, bên cạnh bầy cọp no bụng. Gần tảng đá, trên cành cây, quần áo của Mahà Sattva còn phất phơ trước gió.
Hai vị hoàng tử đau lòng xót dạ, khóc than thê thảm và buồn bã trở về để tâu lại với vua cha.
Chính ngay lúc Bồ Tát liều thân cứu cọp, hoàng hậu ở cung nội đang ngủ. Bà nằm mộng thấy một cái răng của mình bỗng nhiên rụng xuống và nghe nhức nhối đau xót tựa hồ như có ai cầm dao thẻo thịt ra từng miếng. Nhìn ra ngoài cửa, hoàng hậu lại thấy từ trên không, một con ó đáp xuống, xớt một trong ba con bồ câu xinh đẹp đang đậu trên nóc nhà và tha đi mất.
Hoàng hậu lấy làm kinh sợ, giựt mình tỉnh dậy, nhớ đến ba con còn lạc bước trong rừng. Bà lật đật chạy tìm vua để thuật lại điềm mộng.
Khi được biết rằng các hoàng tử còn lạc mất hoàng hậu van nài vua cho người đi tìm.
Vừa lúc ấy tin dữ cũng được đưa đến. Các quan chức vào rừng tìm hoàng tử trở về. Câu chuyện thê thảm được thuật lại. Tất cả đều cảm động và khóc than không xiết kể. Ðức vua an ủi hoàng hậu và cỡi voi vội vã cùng với quan quân hầu cận đi rước hai vị hoàng tử đau khổ còn chưa ra khỏi rừng.
Gặp cha, hai hoàng tử nghẹn ngào không nói được một lời. Sau cùng, cố sức nén lòng, hai vị lần lượt thuật lại cho vua cha và mọi người nghe cái chết dũng cảm của người em vô cùng cao quý.
Vua liền hạ lệnh sắm sửa ngựa voi để cùng hoàng hậu và bá quan đến nơi lịch sử.
Ðến nơi, vừa thấy những khúc xương tàn của người con yêu quý rải rác đó đây còn dính đầy máu đỏ vua và hoàng hậu ngã ra bất tỉnh.
Ngự y hối hả đem thuốc cứu cấp và các vị Bà La Môn Purohita rót lên mình nước hương trầm. Một hồi lâu vua và hoàng hậu dần dần tỉnh dậy.
Vua truyền gom góp tóc, xương và quần áo để lại một nơi, rồi đến trước đó, đứng chiêm ngưỡng người con yêu dấu. Tất cả quần thần cũng đến tỏ lòng sùng kính người anh hùng cao quý. Vua hạ lệnh xây dựng tại chỗ một bảo tháp khảm vàng để thờ vị Bồ Tát đã hiến thân cứu cọp, và cùng hoàng hậu ra về, lòng như dao cắt.
Về sau, bảo tháp thờ xá lợi của Bồ Tát Mahà Sattva có tên là “Om Namo Buddhà”.
Sách Túc Sanh Truyện thuật lại câu chuyện có thêm rằng hiện nay bảo tháp ấy có tên là “Namurà” (tiếng gọi tắt chữ Om Namo Buddhà, có nghĩa tôn kính Ðức Phật).
Hai câu chuyện thuật lại có khác nhau nhưng dầu vị Bồ Tát đã hiến thân cứu cọp là nhà tu sĩ hay hoàng tử, thì đó chỉ là hình thức bề ngoài. Ðiểm quan trọng chính là gương hy sinh cao cả và hoàn toàn vị tha chứa đựng bên trong.
Theo thường lệ, khi sách Jàtaka (Túc Sanh Truyện) chép lại một sự tích nào đều có nêu ra cho biết nhân cơ hội nào Ðức Phật nhắc lại chuyện ấy. Tiếng Phạn gọi cơ hội ấy là Nidàna(nguyên do dẫn cớ tích). Nhưng những nhân vật trong hai câu chuyện kể trên không được xác nhận ở đoạn cuối cùng như trong các bài Jàtaka khác.
Sách Nevàri Jàkata rõ ràng mô tả đầy đủ hơn bổn Samskrit (Jàtakamàlà) nhưng căn nguyên của kinh Nevàri không được chắc chắn.
Về tư cách một vị Bồ Tát hành Bố Thí Ba La Mật, có đoạn kinh “Cariyà Pitaka” giải rằng:
Mỗi khi Bồ Tát tặng vật thực cho ai, Ngài ước mong người ấy được sống lâu, có sắc đẹp, yên vui, khoẻ mạnh, có trí tuệ và đắc Quả cao thượng nhất là Niết Bàn. Ðối với người khát nước, Ngài ban cho thức uống với ước nguyện rằng thức uống nầy không những giải cho người ấy cái khát của cơ thể vật chất mà còn làm suy giảm lòng khát khao dục vọng. Ban quần áo, Ngài cho với ước nguyện người ấy sẽ biết hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi. Khi giúp đỡ phương tiện đi đứng Ngài chú nguyện người thọ nhận sẽ trau giồi các năng lực tinh thần. Ban cho nhang trầm, Ngài ngưỡng mong người thọ lãnh sẽ hưởng hương thơm của Giới Ðức (Sìla). Ban dầu và hoa, Ngài chú nguyện người nhận sẽ hưởng danh thơm của người sống đời đạo hạnh như Ðức Phật. Giúp cho ai chỗ ngồi, Ngài nguyện cho người ấy có được nền tảng của sự Giác Ngộ. Giúp chỗ ở, Ngài mong người ấy sẽ là nơi nương tựa cho cả thế gian. Giúp ánh sáng, Ngài chú nguyện người nhận có được năm loại nhãn quan là mắt thịt, mắt trí tuệ, Thiên Nhãn, mắt của một vị Phật và tri kiến thông suốt chân tướng vạn pháp. Bố thí “Sắc”, Bồ Tát chú nguyện người nhận lãnh được có hào quang như Ðức Phật ; “Thinh”, được lời nói tao nhã dịu dàng như chư vị Phạm Thiên ; “Vị”, được đẹp lòng, vui vẻ với tất cả mọi người ; “Xúc”, có được cơ thể thanh lịch và tinh hảo như Ðức Phật ; và khi giúp đỡ thuốc men cho ai, Bồ Tát cầu chúc cho người ấy được sống mãi mãi, tức chứng ngộ Ðạo Quả Niết Bàn.
Bồ Tát phá gông cùm, giải phóng những người nô lệ với hy vọng cũng giải phóng con người, cùng một thế ấy, ra khỏi vòng xiềng xích của bao nhiêu dục vọng. Bồ Tát ly gia cắt ái, từ bỏ những đứa con yêu quý của mình để nới rộng tình phụ tử đậm đà ấy đến tất cả chúng sanh. Ngài từ bỏ vợ để làm chủ thế gian, bỏ ngai vàng để thừa hưởng vương quốc của sự chánh trực, công minh, và đạo đức.
Ðoạn kinh trên không những chỉ cho ta thấy thế nào là thái độ vị tha của Bồ Tát mà còn nói lên sự nỗ lực không ngừng và bất vụ lợi của các Ngài để phục vụ nhân loại. Tuy nhiên, mục tiêu cuối cùng của Bồ Tát là trở thành Phật, và Ngài không bao giờ lãng quên mục tiêu cứu cánh ấy.
Trì Giới (Sìla)
Phối hợp với lòng quảng đại siêu phàm của vị Bồ Tát là giới đức của Ngài (Sìla). Danh từ “Sìla” trong Phạn ngữ có nghĩa là quy luật, kỷ cương. Giới gồm có những bổn phận phải làm (càritta) và những điều nên tránh (vàritta). Ðạo làm cha mẹ, làm con, làm vợ, làm chồng, làm trò, làm thầy, làm bạn, bổn phận đối với các bậc tu sĩ, với kẻ ăn người ở trong nhà v.v… đều được giảng giải rõ ràng và cặn kẽ trong kinh Sigàlovàda Sutta.
Bổn phận của người cư sĩ Phật tử được mô tả trong một loạt những liên hệ, để cho dễ nhớ mỗi bổn phận đại khái gồm năm phần:
Con đối với cha mẹ, có bổn phận:
Phải phụng dưỡng và cung cấp đầy đủ vật dụng cho cha mẹ. ii. Làm công việc thay thế cha mẹ. iii. Có một tác phong đạo đức thích nghi để giữ tròn danh giá cho gia tộc. iv. Tỏ ra xứng đáng thọ hưởng di sản của ông cha. v. Ðể bát cúng dường Tam Bảo và hồi hướng phước báu cho những người đã quá vãng trong gia tộc.
Cha mẹ, được con săn sóc và giúp đỡ như vậy, phải biết thương con và có bổn phận:
Khuyên lơn và ngăn cản, không để con làm điều tội lỗi, tạo nghiệp bất thiện. ii. Nhắc nhở và dẫn dắt con luôn luôn đi trên đường thiện. iii. Giúp con hành nghề sanh sống chân chánh. iv. Khi con lớn khôn, dựng vợ gả chồng một cách xứng đáng, và v. Ðúng lúc chia lại cho con phần di sản của mình.
Học trò đối với thầy có bổn phận:
Luôn luôn tỏ lòng cung kính. ii. Trông nom hầu cận và chăm sóc thầy. iii. Chăm chỉ nghe lời thầy dạy. iv. Khi thầy cần đến, hết lòng giúp đỡ, và v. Kính cẩn thọ nhận lời thầy dạy bảo.
Thầy, được trò tôn kính và đối đãi như thế, phải biết thương trò và có bổn phận:
Rèn luyện trò biết tôn trọng kỷ luật. ii. Cố gắng làm cho trò lãnh hội dễ dàng lời dạy. iii. Dạy những môn kỹ thuật và khoa học thích hợp. iv. Tiến dẫn trò vào giới thân cận của mình để trò giao thiệp với bạn bè thân thuộc mình, và v. Ðào tạo trò cho ra người hoàn hảo trên mọi phương diện.
Chồng đối với vợ, có bổn phận:
Luôn luôn nhã nhặn, thanh tao. ii. Không khi nào tỏ ý khinh rẻ. iii. Luôn luôn trung thành với vợ. iv. Giao quyền hành cho vợ, và v. Mua sắm cho vợ các đồ trang sức.
Vợ, được chồng đối đãi như vậy, phải biết thương chồng và có bổn phận:
Làm tròn phận sự trong nhà, ii. Vui vẻ, tử tế với thân bằng quyến thuộc. iii. Luôn luôn trung thành với chồng. iv. Thận trọng gìn giữ và chăm sóc của cải trong nhà, và v. Luôn luôn siêng năng, không tháo trút công việc.
Một thiện hữu đối với bạn bè thân thuộc, có bổn phận:
Quảng đại, khoan hồng. ii. Nói năng nhã nhặn, thanh tao. iii. Sẵn sàng làm những việc tốt đẹp cho bạn. iv. Có tinh thần bình đẳng, và v. Luôn luôn thành thật.
Người bạn, được đối xử như vậy có bổn phận:
Bảo vệ bạn trong lúc bạn khinh suất. ii. Bảo vệ tài sản của bạn khi bạn không thận trọng. iii. Làm chỗ nương tựa cho bạn khi có việc lo sợ. iv. Không nên bỏ bạn lẻ loi trong cơn nguy biến. v. Ðối với gia đình bạn, luôn luôn nhã nhặn.
Ðối với kẻ ăn người ở, chủ nhà có bổn phận:
Không nên giao phó công việc làm quá sức. ii. Thù lao và nuôi cơm nước đầy đủ. iii. Khi đau ốm, tận tình chăm sóc. iv. Chia sớt những món ngon vật lạ. v. Không bắt làm quá giờ.
Người làm công, được chủ đối đãi tử tế như vậy, phải biết thương chủ và có bổn phận:
Thức dậy trước chủ. ii. Ði ngủ sau chủ. iii. Chỉ lấy hoặc dùng những vật chi mà chủ đã cho. iv. Thực hành nhiệm vụ một cách viên mãn. v. Truyền bá rộng rãi danh thơm tiếng tốt của chủ.
Người cao quý phải đối xử với hàng tu sĩ và Bà La Môn như sau:
Có những hành động từ ái. ii. Có những lời nói từ ái, iii. Có những tư tưởng từ ái. iv. Cửa nhà luôn luôn mở rộng để tiếp đón, và v. Sẵn sàng dâng cúng những vật dụng cần thiết.
Hàng tu sĩ và Bà La Môn, được người cao quý đối xử như vậy, phải biết thương và có bổn phận:
Khuyên can không để tín đồ rơi vào con đường bất thiện. ii. Nhắc nhở và dẫn dắt đi trên đường thiện. iii. Hết lòng thương mến. iv. Thuyết giảng những Pháp mà người ấy chưa từng nghe, làm sáng tỏ những Pháp đã thuyết rồi, và v. Vạch cho thấy con đường dẫn đến cảnh giới an vui hạnh phúc.
Người đã làm tròn những điều đáng làm (Càritta Sìla) nầy thật đúng là con người thanh lịch, hoàn toàn trong sạch và cao quý trong xã hội.
Ngoài những bổn phận ấy, Bồ Tát còn phải cố gắng tránh những điều không nên làm (Vàritta Sìla), ghép mình vào khuôn khổ giới luật để sống cuộc sống lý tưởng của một Phật tử thuần thành chân chánh.
Sau khi suy luận rõ ràng và đúng đắn thế nào là định luật nhân quả, Bồ Tát cố gắng tránh xa tất cả những điều bất thiện xấu xa lầm lạc và tận lực làm tất cả những điều thiện mà mình có thể làm. Ngài nhận thức rằng bổn phận của mình là phải trở thành một nguồn hạnh phúc cho tất cả và không bao giờ gây phiền toái cho một chúng sanh nào, dầu người hay thú.
Mọi người đều quý trọng đời sống của mình. Không ai có quyền cướp sự sống của kẻ khác. Bồ Tát rải tâm từ đến tất cả chúng sanh, chí đến những con vật bé nhỏ đang bò dưới chân, và không khi nào sát hại hoặc làm tổn thương một sinh vật nào. Con người vốn sẵn có một thú tính xúi giục giết hại những sinh vật khác để ăn thịt mà không chút thương xót. Cũng có khi sát sanh để tiêu khiển thì giờ. Dầu để nuôi sống thân mạng hay để tìm thú vui, không có lý do nào chánh đáng để giết một sanh linh hoặc làm cách nào khác cho một sanh linh bị giết. Có những phương pháp tàn nhẫn, đáng ghê tởm, cũng có những phương pháp mà người ta gọi là nhân đạo, để sát sanh. Nhưng làm đau khổ một chúng sanh là đã thiếu lòng từ ái. Giết một con thú đã là một hành động bất chánh, nói chi đến giết một người, mặc dầu nhiều lý do đã được viện dẫn, gọi là chánh đáng, có khi gọi là cao quý, để con người tàn sát giết hại con người. Bồ Tát cũng kiêng cử mọi hình thức trộm cắp, bất luận trực tiếp hay gián tiếp, và làm như vậy phát triển rộng rãi những đức tính thanh bạch, thành thật và ngay thẳng. Bồ Tát không để mình vi phạm một lỗi lầm bé nhỏ nào có thể phương hại đến phẩm giá con người, và hết sức cố gắng gìn giữ cuộc sống gia đình trung thành, tinh khiết, hoàn toàn trong sạch. Ngài tránh nói dối, không nói lời thô lổ cộc cằn, không nói điều nào làm cho người nầy có thể phiền trách người khác, không nói những lời vô ích. Ngài chỉ nói những lời thanh tao nhã nhặn, chân thật, dịu dàng, những lời có thể đem lại cho người khác hoàn cảnh hòa hợp, tình trạng an vui hạnh phúc, và những lời hữu ích. Bồ Tát không dùng món chi có chất độc hoặc có thể che lấp và làm chao động tinh thần. Trái lại, Ngài luôn luôn luyện tập cho tâm được an trụ, trí được sáng suốt.
Mặc dầu có phải bị thiệt thòi đi nữa, Bồ Tát cũng không hề dể duôi phạm phải một điều nào trong năm nguyên tắc căn bản để kiểm soát hành động và lời nói mình. Ðể giữ tròn năm giới, không những Bồ Tát có khi phải hy sinh tài sản, sự nghiệp, mà cũng có vài trường hợp Ngài còn phải hy sinh cả tánh mạng.
Không nên lầm tưởng rằng trong vòng luân hồi, một vị Bồ Tát phải hoàn toàn trong sạch. Ðã sanh ra làm chúng sanh trong cõi phàm, Ngài cũng có những nhược điểm và lỗi lầm. Vài câu chuyện trong Túc Sanh Truyện (Jàtaka) như Kanavera Jàtaka (Số 318) có mô tả một vị Bồ Tát nọ như một tên trộm cướp vô cùng lợi hại. Tuy nhiên, đó là một trường hợp hy hữu hơn là một thông lệ.
Ðối với Bồ Tát, là hạng người có nguyện vọng trở thành Phật, thì công trình nghiêm túc giữ gìn giới luật là điều vô cùng quan trọng. Túc Sanh Truyện Sìlà Vìmamsa Jàtaka (số 362) có đoạn thuật lại lời một vị Bồ-Tát: “Trí tuệ ngoài đạo đức là một thứ trí tuệ không có giá trị.” (Sìlena n'anupetassa sutena’ ttho na vijjati.)
Trong sách Visuddhi Magga (Thanh Tịnh Ðạo), Ðức Buddhaghosa viết rằng giới luật (Sìla) là nền tảng của tất cả đức hạnh cao thượng:
Ðạo chính đáng cho người vững chí; Sống thanh cao, cao quý chi bằng. Nên trang đức hạnh ai tầng. Mấy ai tả được uy hùng đến đâu. Cũng không phải dòng sâu lồng lộng Của Hằng Giang với ngọn Yama (Yanuma) Thủy triều reo rắc sông Sa (Sarabhu) Sông A Ti (Acivarati) với đại hà Ma Hi Mà rửa sạch những gì nhơ bợn Và những chi bất tịnh nơi lòng. Chỉ đức hạnh, sức khôn cùng, Gội tan ác ý, rửa dần mê tâm, Với gấm vóc, hương trầm bảo vật Cùng trăng thu vằng vặc ánh vàng. Nhẹ nhàng gió mát đêm trường. Cũng không xoa dịu nỗi lòng tham sân. Chỉ đức hạnh trong ngần cao quý Là vững bền, tiết chế lòng người. Trầm hương bay thuận gió đời. Chỉ hương đức hạnh ngát trời gần, xa. Nào nấc tiến cho ta tinh tấn Ðể ta nương đến tận trời cao. Cửa nào mở lối ta vào Niết Bàn cảnh giới muôn màu cho ta. Ðời đạo hạnh, tinh hoa, giới đức Không điểm tô, trang sức chi hơn Mà luôn sáng tỏ vô ngần, Chỉ nơi đức hạnh rỡ ràng hào quang. Nào vua chúa ngọc vàng lóng lánh Dường mờ lu bên ánh rạng nầy Tâm người đạo hạnh ngày ngày Chỉ còn thanh tịnh và đầy an vui. Qua kinh sách lòng người phải rõ, Ðời thanh cao uy chế chi bằng: Ðạo là nguồn cội phước lành, Ðạo là tiêu diệt mọi căn mê lầm.
(Bản dịch đoạn nầy của sách Thanh Tịnh Ðạo được Bà Hồ Thị Linh sắp thành văn vần.)
[1] Pàrami do chữ “pàram” có nghĩa là “phía bên kia”, hay sự sáng suốt, sự giác ngộ, và chữ “i” là “đi”. Theo nghĩa trắng, Pàrami là cái gì có thể đưa ta qua bờ bên kia, “đáo bỉ ngạn”. Phạn ngữ Pàramita cũng được dùng trong nghĩa nầy.
[2] Ba La Mật có mười pháp. Mỗi pháp chia làm ba hạng là: Pàrami thuộc về tài sản, sự nghiệp, vợ, con. Upàpàrami, thuộc về một, hay nhiều bộ phận trong thân thể và Paramattha-parami, thuộc về mạng sống.
Thí dụ như Bố Thí Ba La Mật có ba hạng: Dàna Pàrami, là bố thí tài sản, sự nghiệp, hoặc vợ, con; Dàna upàpàrami là bố thí một bộ phận trong thân thể như tay, chân, mũi, tai v.v…; và Dàna paramattha-pàrami là hy sinh mạng sống mình cho kẻ khác, để cứu một chúng sanh.
Như Trì Giới Ba La Mật, cũng có ba hạng là: Sìla Pàrami, hy sinh tài sản sự nghiệp, hoặc vợ, con để giữ tròn giới luật; Sìla upàpàrami, hy sinh một bộ phận trong thân thể để giữ tròn giới luật; và Sìla paramattha-pàrami, hy sinh mạng sống để giữ giới luật trong sạch.
Cùng một thế ấy, mỗi Ba La Mật đều có 3 hạng. Cộng chung tất cả, có (10 x 3) = 30 Ba La Mật.
-ooOoo-
from Theravada - Dhamma Bậc Giác Ngộ Chỉ Dạy Được Các Bậc Trưởng Lão Gìn Giữ & Lưu Truyền - Feed https://theravada.vn/phan-i-2/ from Theravada https://theravadavn.tumblr.com/post/622530982802800640
0 notes
Text
Phần I
"Hãy tích cực hoạt động để tạo an lành cho kẻ khác." -- Sutta Nipàta
Có mười đức tánh cao quý vượt hẳn thế tục gọi là Pàrami (Ba La Mật), mà chư vị Bồ Tát đều thực hành tròn đủ để thành tựu Ðạo Quả Chánh Ðẳng Chánh Giác (Sammà Sambuddha).
Mười pháp Ba La Mật là: Bố Thí (Dàna), Trì Giới (Sìla), Xuất Gia (Nekkhamma), Trí Tuệ (Pannà), Tinh Tấn (Viriya), Nhẫn Nại (Khanti), Chân Thật (Sacca), Quyết Ðịnh (Adhìtthàna), Tâm Từ (Mettà), và Tâm Xả (Upekkhà).
Theo Bản Chú Giải kinh Cariyà Pitaka, Ba La Mật [1] là những phẩm hạnh không nhuộm màu vị kỷ, không đượm nhuần tà kiến và không ẩn ý ngã mạn. Ba La Mật nhờ trí tuệ dẫn dắt và do lượng từ bi vun quén đắp bồi.
Hành động của Bồ Tát tuyệt đối vị tha. Với đức từ bi vô lượng, lòng bác ái vô biên, xuyên qua bao nhiêu kiếp sống, các Ngài không ngừng nỗ lực chuyên cần nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo nàn thấp kém, giúp đỡ cho mọi người bằng muôn ngàn cách và làm giảm bớt phiền não cho tất cả chúng sanh.
Một vị Bồ Tát không nghĩ đến việc an hưởng thú thanh nhàn trong khi những người bạn xấu số của mình còn ở trong vòng lao khổ. Ðể làm dịu bớt phần nào nỗi khổ đau của nhân loại, Bồ Tát sẵn sàng hy sinh tất cả các vật sở hữu quý báu nhất, cho đến mạng sống của mình đi nữa cũng không tiếc, như câu chuyện trong Túc Sanh Truyện Vyàghrì Jàtaka diễn tả.
Với tâm đầy từ bi, Bồ Tát luôn luôn sẵn sàng tạo an lành hạnh phúc cho tất cả, không quên bỏ một chúng sanh nhỏ bé nào, nhưng không khi nào làm điều gì không do trí tuệ dẫn dắt. Lòng bi mẫn vô biên, tuy nhiên các Ngài luôn luôn cân phân tâm trí. Và trong khi phục vụ, Ngài không hề cầu mong một thế lực hoặc một quyền lợi vật chất nào trên thế gian. Khi đã hành động xứng đáng, danh thơm tự nhiên đến, tại sao cần phải chạy theo nó?
Bồ Tát hoàn toàn vị tha, luôn luôn sống cho kẻ khác. Không hề có một điểm ích kỷ, dầu nhỏ nhen đi nữa, trong những hành động của Ngài.
Kinh Dhammapada (Pháp Cú) có câu :
"Hãy để cho cả hai, hàng tại gia cư sĩ và tăng chúng, nghĩ rằng 'chính ta đã làm điều phải đó. Trong mọi công việc, dầu lớn dầu nhỏ, hãy để họ nhắc đến ta.' Ðó là tham vọng của người cuồng si. Nghĩ như vậy thì lòng tham và tính ngã mạn sẽ tăng trưởng." (Câu 74)
Một vị Bồ Tát không khi nào có tư tưởng ích kỷ và hẹp hòi như vậy. [2]
Bố Thí (Dàna)
Bố Thí, hay lòng quảng đại, là Ba La Mật đầu tiên mà trong khi thực hiện hành giả thành tựu hai nghiệp thiện là tiêu trừ những tư tưởng ích kỷ, xấu xa, và phát triển những tư tưởng vị tha, trong sạch. Bố thí là một niềm hân hoan, một phước lành cho cả người tặng, lẫn người thọ lãnh.
Bồ Tát không thắc mắc tìm hiểu người mà mình muốn cho một vật hoặc ban một đặc ân nào, có ở trong tình trạng thiếu thốn món đó không. Ngài cho ra mà không chạy theo vật mình cho. Ngài bố thí vì lòng quảng đại mà cũng để diệt lần mọi hình thức luyến ái còn tiềm tàng trong tâm. Niềm vui khi phụng sự kẻ khác tự nhiên đến. Làm dịu bớt nỗi đau khổ của chúng sanh là một hạnh phúc khác do sự bố thí đem lại.
Tình thương của một vị Bồ Tát thật bao la. Lòng từ bi của Ngài ban rải cho tất cả muôn loài. Nhưng khi bố thí, Ngài không nhắm mắt cho càn. Lòng quảng đại không làm cho sự bố thí trở nên mù quáng. Nếu có một người ghiền rượu đến nhờ sự giúp đỡ của Ngài và nếu Ngài biết chắc chắn rằng người nầy sẽ lãnh món quà để dùng trong việc sai quấy, vị Bồ Tát sẽ không ngần ngại từ chối. Ðặt lòng quảng đại trong một hành động sai lầm không phải là Ba La Mật (Pàrami).
Khi giúp đỡ một người vì lý do chánh đáng, Bồ Tát không hề lộ vẻ quan trọng hoặc tỏ ý tự tôn tự đại; trái lại, thấy đó là một cơ hội quý báu để làm bổn phận mình nên sẵn sàng và vui vẻ phục vụ kẻ khác một cách khiêm tốn. Ngài không bao giờ thấy mình cao hơn ai vì lẽ người đó nhờ mình.
Khi giúp đỡ, Ngài không thấy đó là thi ân, cũng không coi người mình giúp là đã thọ ân mình. Bồ Tát làm việc gì chỉ vì đó là điều phải, không tìm danh vọng, không mong đền đáp.
Bồ Tát không bỏ lỡ một dịp may nào để phục vụ kẻ khác, nhưng không hạ mình cầu xin ân huệ. Túc Sanh Truyện Brahma Jàtaka (số 323) thuật rằng có một vị Bồ Tát sống đời tu sĩ trong ngự uyển. Thường ngày vua đến viếng và cung cấp mọi vật dụng, nhưng dầu sao nhà vua không thể thấy hết mọi nhu cầu của Ngài. Ðôi dép và cây dù của Bồ Tát rách hư đã mười hai năm trường mà vua không hay. Ngài không hề hở môi. Ngày kia vua hay được. Trước cử chỉ tuy khiêm tốn nhưng lạ lùng như vậy, vua hỏi Ngài tại sao ?
Ngài trả lời :
"Tâu Bệ Hạ, kẻ cầu khẩn mà không được toại nguyện sẽ buồn rầu. Kẻ được người khác nhờ đến mà không thể giúp, càng buồn rầu hơn nữa."
Bồ Tát cho ra không xiết kể, không phân biệt giai cấp, chủng tộc hay tôn giáo, nhưng không bao giờ cầu mong người khác trả lại. Một đặc điểm của các Ngài là tri túc hoàn toàn. Thi hào Edward Dyer ca ngợi đức tánh ấy trong mấy dòng thơ :
"Vài người có thật nhiều mà vẫn còn tham muốn, Tôi có ít nhưng cảm thấy đủ. Chính họ 'nghèo', mặc dầu tiền rừng bạc bể Và chính tôi 'giàu', tuy túi rổng không."
Túc Sanh Truyện Kanha Jàtaka (số 440) có ghi chép rằng một hôm vua Trời Sakka (Ðế Thích), nghe danh vị Bồ Tát nọ là một nhân vật gương mẫu có nhiều đức độ. Vua Trời lấy làm cảm phục, kính cẩn đến bạch Ngài xin cho biết có cần dùng món chi để vua cúng dường. Bồ Tát vui vẻ xin được thành tựu bốn điều ước nguyện:
Ước nguyện tôi không sân hận, không phiền hà, hoặc có ác ý với người láng giềng! 2. Ước nguyện tôi không tham muốn vật sở hữu của người láng giềng! 3. Ước nguyện tôi không luyến ái riêng người nào! 4. Ước nguyện tôi có tâm xả!
Nghe vậy, tuy hết sức cảm phục, vua Trời Sakka (Ðế Thích) lấy làm thất vọng, xin Ngài chọn thêm một vật gì khác để vua cúng dường. Vị Bồ Tát trả lời:
"Bất luận nơi rừng sâu nào mà tôi sống, nơi nào mà tôi ở một mình, xin cho tôi được khỏe mạnh. Bởi vì bệnh hoạn sẽ làm xáo trộn cuộc sống yên tĩnh và làm trở ngại công phu hành thiền của tôi."
Vua Trời Sakka (Ðế Thích) nghĩ thầm: "Thật là tiếng đồn chẳng sai. Quả thật Bồ Tát Kanha là bậc thiện trí thức. Thay vì ước mong được thỏa mãn một nhu cầu vật chất, Ngài chỉ chọn những điều cần thiết cho đời sống đạo hạnh."
Lần thứ ba Vua Trời Sakka lại xin Bồ Tát chọn một món gì khác để cúng dường. Bồ Tát trả lời:
"Tâu Hoàng Thượng, tôi có thêm một nguyện vọng nữa. Bất luận ở đâu, không một chúng sanh nào làm tổn thương thân thể tôi, không một chúng sanh nào làm hại đến tâm trí tôi, đó là lời nguyện của tôi." (Jàtaka Stories, số 440)
Lòng quảng đại của một vị Bồ Tát thật không cùng. Ngài sẵn sàng cho ra tất cả, chẳng những của cải, tài sản, sự nghiệp và những sở hữu yêu chuộng khác, mà còn có thể cho cả ngai vàng, cả vương quốc, một cánh tay, một cái chân, cho đến vợ, đến con. Ðến mạng sống, Ngài cũng không ngần ngại cống hiến để tạo hạnh phúc cho nhân loại.
Túc Sanh Truyện Vessantara Jàtaka (số 547) có thuật rằng Hoàng Tử Vessantara, lúc còn tám tuổi, có lần thành thật nghĩ rằng:
"Nếu một ngày kia có người cần đến trái tim của ta, ta sẽ tự tay mổ ngực, moi tim ra cho. Nếu có người cần đến mắt, ta sẽ tự móc lấy mắt ra biếu. Nếu có người cần đến thịt ta, ta sẽ tự tay cắt ra một miếng để tặng."
Túc Sanh Truyện Vyàghrì Jàtaka cũng thán phục thuật lại câu chuyện một vị tu sĩ sẵn sàng và vui vẻ hy sinh mạng sống để đem lại hạnh phúc cho kẻ khác. Trong Jàtakamàlà câu chuyện được thuật lại như sau :
"Ngày kia, một vị Bồ Tát đi ngang qua khu rừng nọ cùng với người đệ tử. Ngài nhìn thấy một con cọp mẹ cùng với ba cọp con nằm ngất ngư gần chết vì đói. Ðộng lòng bi mẫn, Ngài bảo người đệ tử đi tìm thức ăn cho cọp. Nhưng đó chỉ là một cái cớ để được ở lại một mình với cọp, vì Ngài nghĩ rằng:
"Tại sao ta phải đi tìm một thân sống khác, khi có sẵn thân ta đây để làm món ăn cho cọp. Tìm thức ăn cho cọp ở nơi khác là một việc cầu may, hơn nữa ta có thể bỏ lỡ một cơ hội tốt đẹp để làm bổn phận.
"Chính cái thân ô trược nầy là nguồn gốc của bao nhiêu phiền não, bao nhiêu bất hạnh. Nếu ta cứ khư khư bám chặt lấy nó và không biết dùng nó để phụng sự kẻ khác thì thật là không sáng suốt chút nào. Trong đời chỉ có hai nguyên do làm cho con người hững hờ trước sự đau khổ của kẻ khác. Ðó là lòng luyến ái, cột trói chúng sanh vào những lạc thú, cố bám lấy sự vui sướng cá nhân, sợ nó mất đi, là một nguyên do làm cho ta lãnh đạm trước sự đau khổ của người khác. Thiếu lòng từ thiện, thiếu ý chí giúp đời là nguyên do khác. Nhưng ta không thể an vui khi kẻ khác đau khổ. Ngày nào chưa giúp được kẻ khổ, ngày ấy ta không thể an hưởng hạnh phúc. Như vậy làm sao có thể thản nhiên trước cảnh tượng hấp hối vì đói khát của cọp mẹ và bầy cọp con nầy.
"Nếu ta nhảy xuống vực sâu để làm mồi cho cọp thì ít ra ta cũng dùng cái thân khốn khổ nầy vào một việc hữu ích. Ta sẽ nuôi sống cọp mẹ, tránh cho nó khỏi phải làm điều ác là ăn thịt con nó, và cũng tránh cho bầy con nhỏ vô tội kia khỏi phải chết vì nanh vút của mẹ chúng.
"Lại nữa, hành động như vậy ta còn nêu một gương sáng cho ai còn ham muốn những gì mà họ cho là tốt đẹp trên đời nầy. Ta hy sinh thân nầy để cứu bốn mạng sống, để an ủi và khuyến khích những ai bé nhỏ yếu đuối, làm vui lòng những ai thấu triệt ý nghĩa sâu xa của lòng từ thiện và tạo nên một lý tưởng cho những ai muốn sống cuộc đời đạo hạnh. Vậy, đây là cơ hội hy hữu để bước lần đến mức độ giác ngộ hoàn toàn."
Nghĩ như vậy Bồ Tát liền gieo mình xuống vực thẩm, hy sinh mạng sống để ban bố tình trạng an lành cho bốn con cọp sắp chết.
Theo Nevari (Nepàla Bàshà), câu chuyện đáng thương tâm và đầy ý nghĩa thú vị trên được thuật lại như sau:
"Vào thuở xa xưa kia có một ông vua tên Mahàratthà có thế lực oai hùng và tâm đạo nhiệt thành. Ðức vua có ba hoàng tử là Mahà Prashàda, Mahà Deva và Mahà Sattva, cả ba đều hiền lành và dễ dạy.
Một buổi sáng tươi đẹp nọ, đức vua cùng ba hoàng tử đi dạo chơi trong rừng. Mảng lo nhìn xem phong cảnh và mê mẩn với hoa thơm cỏ lạ, ba vị hoàng tử càng đi sâu vào rừng.
Quan hầu cận thấy vắng bóng ba vị hoàng tử bèn tâu lại với vua. Ðức vua liền truyền lệnh cho các quan đi tìm, rồi ngự giá hồi cung.
Nói về ba vị hoàng tử, đi mãi đến một ngọn núi kia. Ðứng trên tảng đá nhìn xuống người anh cả trông thấy một con cọp cái và năm cọp con ở dưới vực sâu. Cả mẹ lẫn con chỉ còn da bọc xương, đang nằm thoi thóp. Ðã nhiều ngày từ khi đẻ con, cọp mẹ không tìm được thức ăn. Bầy cọp con bu theo mẹ để nút sửa, nhưng vú mẹ cạn khô không còn gì để bú. Cọp mẹ có vẻ đói lắm, rõ ràng đang sắp sửa ăn thịt con.
Người anh cả nhận thấy tình trạng bi đát ấy trước tiên, chỉ cho các em và nói rằng: "Các em hãy nhìn xem cảnh tượng đáng thương tâm kia, các em có thấy cọp mẹ không? Vì quá sức đói nên nó đang sắp sửa ăn thịt con cho đỡ dạ. Thật là một trạng thái vô cùng khốn khổ."
Mahà Sattva hỏi anh: "Cọp thường ăn vật chi?"
Mahà Prashàda trả lời rằng "thịt sống là món ăn của loài cọp và loài sư tử."
"Cọp mẹ có vẻ đã đuối sức lắm rồi. Chắc chắn đã nhiều ngày nó không có thức ăn. Phải chi có ai dám hy sinh thân mình cho nó thì quý biết mấy!
"Nhưng ai đâu lại vui lòng làm cái việc hy sinh cao cả ấy!" Mahà Deva lưu ý.
Mahà Prashàda nói: "Chắc chắn là không có ai làm được việc ấy."
Với một giọng cảm động, Mahà Sattva tiếp: "Em còn nhỏ, chắc chắn là chưa đủ trí khôn, nên em nghĩ rằng những người thiểu trí như chúng ta có lẽ không thể hy sinh mạng sống mình để cứu người. Nhưng cũng có hạng người từ bi, hoàn toàn sống cho kẻ khác. Những người như thế có thể sẽ vui lòng hiến thân mình để cứu sáu sanh mạng nầy."
Ba anh em bàn luận với nhau như vậy và nhìn thoáng qua lần cuối cùng bầy cọp vô hy vọng, rồi bỏ đi nơi khác.
Mahà Sattva nghĩ thầm:
"Ta phải hy sinh mạng sống phù du nầy để cứu bầy cọp đói kia. Tấm thân tứ đại mà ta mang đây chỉ là một đống ô trược đã gây cho ta bao nhiêu phiền não và phải chết một ngày nào. Tuy rằng hiện nay ta có thể ướp hoa, thoa dầu cho nó xinh đẹp, thơm tho, nhưng rồi một ngày kia nó sẽ tanh hôi và tan rã."
Gẫm suy như thế, chàng bèn bảo hai anh đi trước để mình chẩm rải ngoạn vật ngắm cảnh. Chờ hai anh đi xa, chàng hối hả trở lại chỗ cọp nằm, cổi quần áo treo trên nhánh cây và nghĩ rằng:
"Ta phải tích cực hành động để tạo an lành cho kẻ khác. Phải rải tâm từ đến tất cả chúng sanh. Phục vụ những ai cần đến ta là nhiệm vụ trọng đại. Ta hãy hy sinh tấm thân ô trược nầy để cứu mạng sống cho cọp mẹ và năm con. Do hành động tạo thiện nghiệp nầy, mong rằng ta sẽ bước lần đến mức Chánh Ðẳng Chánh Giác, và cứu độ chúng sanh ra khỏi đại dương của vòng luân hồi đau khổ. Ước mong tất cả chúng sanh đều an vui hạnh phúc!"
Ðộng lòng trắc ẩn và thấm nhuần tinh thần phục vụ vị tha, hoàng tử Mahà Sattva nhẹ nhàng gieo mình xuống hố, gần nơi bầy cọp nằm. Nhưng hoàng tử không chết, chỉ bị thương nặng. Cọp kia, dầu bẩm tánh rất hung dữ, cũng động lòng thương hại vị Bồ Tát, không nỡ chạm đến thân Ngài.
Bồ Tát thì nghĩ khác: 'Rõ ràng cọp đã quá yếu đuối nên không đủ sức vật mình để ăn!' Ngài bò lần đi tìm một khí cụ để tự sát. May thay, gần nơi cọp nằm có một khúc tre bể. Ngài nhặt lấy tre rồi tự cứa cổ đến chết. Ngài té ngã nằm trên vũng máu.
Cọp vừa đói vừa khát, thấy vậy đi lần đến, liếm vũng máu và xé thây Bồ Tát ra, ăn ngon lành. Phút chốc chỉ còn lại một đống xương tàn.
Chuyện thêm rằng lúc Bồ Tát tự sát để hiến thân cho cọp, trời đất chuyển động, nước biển nổi sóng to, ánh sáng mặt trời bỗng dưng tối sầm lại, cảnh vật trở nên lờ mờ, tất cả chư Thiên đồng thanh reo to: Lành thay! Lành thay! và từ trên không trung, bông Pàrijàta rơi xuống như mưa.
Trước cảnh tượng phi thường của trời đất, hai người anh đoán đúng rằng em mình đã hiến thân làm mồi cho cọp. Mahà Deva nói:
"Khi nảy Mahàsattva nói với một giọng rất đau thương, chắc em đã hy sinh mạng sống để cứu bầy cọp."
Hai anh liền đi lần trở lại tìm em và lấy làm kinh hoàng trước cảnh tượng hãi hùng. Ðâu là hình bóng của người em yêu mến. Chỉ còn đống xương trắng điểm máu hồng, bên cạnh bầy cọp no bụng. Gần tảng đá, trên cành cây, quần áo của Mahà Sattva còn phất phơ trước gió.
Hai vị hoàng tử đau lòng xót dạ, khóc than thê thảm và buồn bã trở về để tâu lại với vua cha.
Chính ngay lúc Bồ Tát liều thân cứu cọp, hoàng hậu ở cung nội đang ngủ. Bà nằm mộng thấy một cái răng của mình bỗng nhiên rụng xuống và nghe nhức nhối đau xót tựa hồ như có ai cầm dao thẻo thịt ra từng miếng. Nhìn ra ngoài cửa, hoàng hậu lại thấy từ trên không, một con ó đáp xuống, xớt một trong ba con bồ câu xinh đẹp đang đậu trên nóc nhà và tha đi mất.
Hoàng hậu lấy làm kinh sợ, giựt mình tỉnh dậy, nhớ đến ba con còn lạc bước trong rừng. Bà lật đật chạy tìm vua để thuật lại điềm mộng.
Khi được biết rằng các hoàng tử còn lạc mất hoàng hậu van nài vua cho người đi tìm.
Vừa lúc ấy tin dữ cũng được đưa đến. Các quan chức vào rừng tìm hoàng tử trở về. Câu chuyện thê thảm được thuật lại. Tất cả đều cảm động và khóc than không xiết kể. Ðức vua an ủi hoàng hậu và cỡi voi vội vã cùng với quan quân hầu cận đi rước hai vị hoàng tử đau khổ còn chưa ra khỏi rừng.
Gặp cha, hai hoàng tử nghẹn ngào không nói được một lời. Sau cùng, cố sức nén lòng, hai vị lần lượt thuật lại cho vua cha và mọi người nghe cái chết dũng cảm của người em vô cùng cao quý.
Vua liền hạ lệnh sắm sửa ngựa voi để cùng hoàng hậu và bá quan đến nơi lịch sử.
Ðến nơi, vừa thấy những khúc xương tàn của người con yêu quý rải rác đó đây còn dính đầy máu đỏ vua và hoàng hậu ngã ra bất tỉnh.
Ngự y hối hả đem thuốc cứu cấp và các vị Bà La Môn Purohita rót lên mình nước hương trầm. Một hồi lâu vua và hoàng hậu dần dần tỉnh dậy.
Vua truyền gom góp tóc, xương và quần áo để lại một nơi, rồi đến trước đó, đứng chiêm ngưỡng người con yêu dấu. Tất cả quần thần cũng đến tỏ lòng sùng kính người anh hùng cao quý. Vua hạ lệnh xây dựng tại chỗ một bảo tháp khảm vàng để thờ vị Bồ Tát đã hiến thân cứu cọp, và cùng hoàng hậu ra về, lòng như dao cắt.
Về sau, bảo tháp thờ xá lợi của Bồ Tát Mahà Sattva có tên là "Om Namo Buddhà".
Sách Túc Sanh Truyện thuật lại câu chuyện có thêm rằng hiện nay bảo tháp ấy có tên là "Namurà" (tiếng gọi tắt chữ Om Namo Buddhà, có nghĩa tôn kính Ðức Phật).
Hai câu chuyện thuật lại có khác nhau nhưng dầu vị Bồ Tát đã hiến thân cứu cọp là nhà tu sĩ hay hoàng tử, thì đó chỉ là hình thức bề ngoài. Ðiểm quan trọng chính là gương hy sinh cao cả và hoàn toàn vị tha chứa đựng bên trong.
Theo thường lệ, khi sách Jàtaka (Túc Sanh Truyện) chép lại một sự tích nào đều có nêu ra cho biết nhân cơ hội nào Ðức Phật nhắc lại chuyện ấy. Tiếng Phạn gọi cơ hội ấy là Nidàna(nguyên do dẫn cớ tích). Nhưng những nhân vật trong hai câu chuyện kể trên không được xác nhận ở đoạn cuối cùng như trong các bài Jàtaka khác.
Sách Nevàri Jàkata rõ ràng mô tả đầy đủ hơn bổn Samskrit (Jàtakamàlà) nhưng căn nguyên của kinh Nevàri không được chắc chắn.
Về tư cách một vị Bồ Tát hành Bố Thí Ba La Mật, có đoạn kinh "Cariyà Pitaka" giải rằng:
Mỗi khi Bồ Tát tặng vật thực cho ai, Ngài ước mong người ấy được sống lâu, có sắc đẹp, yên vui, khoẻ mạnh, có trí tuệ và đắc Quả cao thượng nhất là Niết Bàn. Ðối với người khát nước, Ngài ban cho thức uống với ước nguyện rằng thức uống nầy không những giải cho người ấy cái khát của cơ thể vật chất mà còn làm suy giảm lòng khát khao dục vọng. Ban quần áo, Ngài cho với ước nguyện người ấy sẽ biết hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi. Khi giúp đỡ phương tiện đi đứng Ngài chú nguyện người thọ nhận sẽ trau giồi các năng lực tinh thần. Ban cho nhang trầm, Ngài ngưỡng mong người thọ lãnh sẽ hưởng hương thơm của Giới Ðức (Sìla). Ban dầu và hoa, Ngài chú nguyện người nhận sẽ hưởng danh thơm của người sống đời đạo hạnh như Ðức Phật. Giúp cho ai chỗ ngồi, Ngài nguyện cho người ấy có được nền tảng của sự Giác Ngộ. Giúp chỗ ở, Ngài mong người ấy sẽ là nơi nương tựa cho cả thế gian. Giúp ánh sáng, Ngài chú nguyện người nhận có được năm loại nhãn quan là mắt thịt, mắt trí tuệ, Thiên Nhãn, mắt của một vị Phật và tri kiến thông suốt chân tướng vạn pháp. Bố thí "Sắc", Bồ Tát chú nguyện người nhận lãnh được có hào quang như Ðức Phật ; "Thinh", được lời nói tao nhã dịu dàng như chư vị Phạm Thiên ; "Vị", được đẹp lòng, vui vẻ với tất cả mọi người ; "Xúc", có được cơ thể thanh lịch và tinh hảo như Ðức Phật ; và khi giúp đỡ thuốc men cho ai, Bồ Tát cầu chúc cho người ấy được sống mãi mãi, tức chứng ngộ Ðạo Quả Niết Bàn.
Bồ Tát phá gông cùm, giải phóng những người nô lệ với hy vọng cũng giải phóng con người, cùng một thế ấy, ra khỏi vòng xiềng xích của bao nhiêu dục vọng. Bồ Tát ly gia cắt ái, từ bỏ những đứa con yêu quý của mình để nới rộng tình phụ tử đậm đà ấy đến tất cả chúng sanh. Ngài từ bỏ vợ để làm chủ thế gian, bỏ ngai vàng để thừa hưởng vương quốc của sự chánh trực, công minh, và đạo đức.
Ðoạn kinh trên không những chỉ cho ta thấy thế nào là thái độ vị tha của Bồ Tát mà còn nói lên sự nỗ lực không ngừng và bất vụ lợi của các Ngài để phục vụ nhân loại. Tuy nhiên, mục tiêu cuối cùng của Bồ Tát là trở thành Phật, và Ngài không bao giờ lãng quên mục tiêu cứu cánh ấy.
Trì Giới (Sìla)
Phối hợp với lòng quảng đại siêu phàm của vị Bồ Tát là giới đức của Ngài (Sìla). Danh từ "Sìla" trong Phạn ngữ có nghĩa là quy luật, kỷ cương. Giới gồm có những bổn phận phải làm (càritta) và những điều nên tránh (vàritta). Ðạo làm cha mẹ, làm con, làm vợ, làm chồng, làm trò, làm thầy, làm bạn, bổn phận đối với các bậc tu sĩ, với kẻ ăn người ở trong nhà v.v... đều được giảng giải rõ ràng và cặn kẽ trong kinh Sigàlovàda Sutta.
Bổn phận của người cư sĩ Phật tử được mô tả trong một loạt những liên hệ, để cho dễ nhớ mỗi bổn phận đại khái gồm năm phần:
Con đối với cha mẹ, có bổn phận:
Phải phụng dưỡng và cung cấp đầy đủ vật dụng cho cha mẹ. ii. Làm công việc thay thế cha mẹ. iii. Có một tác phong đạo đức thích nghi để giữ tròn danh giá cho gia tộc. iv. Tỏ ra xứng đáng thọ hưởng di sản của ông cha. v. Ðể bát cúng dường Tam Bảo và hồi hướng phước báu cho những người đã quá vãng trong gia tộc.
Cha mẹ, được con săn sóc và giúp đỡ như vậy, phải biết thương con và có bổn phận:
Khuyên lơn và ngăn cản, không để con làm điều tội lỗi, tạo nghiệp bất thiện. ii. Nhắc nhở và dẫn dắt con luôn luôn đi trên đường thiện. iii. Giúp con hành nghề sanh sống chân chánh. iv. Khi con lớn khôn, dựng vợ gả chồng một cách xứng đáng, và v. Ðúng lúc chia lại cho con phần di sản của mình.
Học trò đối với thầy có bổn phận:
Luôn luôn tỏ lòng cung kính. ii. Trông nom hầu cận và chăm sóc thầy. iii. Chăm chỉ nghe lời thầy dạy. iv. Khi thầy cần đến, hết lòng giúp đỡ, và v. Kính cẩn thọ nhận lời thầy dạy bảo.
Thầy, được trò tôn kính và đối đãi như thế, phải biết thương trò và có bổn phận:
Rèn luyện trò biết tôn trọng kỷ luật. ii. Cố gắng làm cho trò lãnh hội dễ dàng lời dạy. iii. Dạy những môn kỹ thuật và khoa học thích hợp. iv. Tiến dẫn trò vào giới thân cận của mình để trò giao thiệp với bạn bè thân thuộc mình, và v. Ðào tạo trò cho ra người hoàn hảo trên mọi phương diện.
Chồng đối với vợ, có bổn phận:
Luôn luôn nhã nhặn, thanh tao. ii. Không khi nào tỏ ý khinh rẻ. iii. Luôn luôn trung thành với vợ. iv. Giao quyền hành cho vợ, và v. Mua sắm cho vợ các đồ trang sức.
Vợ, được chồng đối đãi như vậy, phải biết thương chồng và có bổn phận:
Làm tròn phận sự trong nhà, ii. Vui vẻ, tử tế với thân bằng quyến thuộc. iii. Luôn luôn trung thành với chồng. iv. Thận trọng gìn giữ và chăm sóc của cải trong nhà, và v. Luôn luôn siêng năng, không tháo trút công việc.
Một thiện hữu đối với bạn bè thân thuộc, có bổn phận:
Quảng đại, khoan hồng. ii. Nói năng nhã nhặn, thanh tao. iii. Sẵn sàng làm những việc tốt đẹp cho bạn. iv. Có tinh thần bình đẳng, và v. Luôn luôn thành thật.
Người bạn, được đối xử như vậy có bổn phận:
Bảo vệ bạn trong lúc bạn khinh suất. ii. Bảo vệ tài sản của bạn khi bạn không thận trọng. iii. Làm chỗ nương tựa cho bạn khi có việc lo sợ. iv. Không nên bỏ bạn lẻ loi trong cơn nguy biến. v. Ðối với gia đình bạn, luôn luôn nhã nhặn.
Ðối với kẻ ăn người ở, chủ nhà có bổn phận:
Không nên giao phó công việc làm quá sức. ii. Thù lao và nuôi cơm nước đầy đủ. iii. Khi đau ốm, tận tình chăm sóc. iv. Chia sớt những món ngon vật lạ. v. Không bắt làm quá giờ.
Người làm công, được chủ đối đãi tử tế như vậy, phải biết thương chủ và có bổn phận:
Thức dậy trước chủ. ii. Ði ngủ sau chủ. iii. Chỉ lấy hoặc dùng những vật chi mà chủ đã cho. iv. Thực hành nhiệm vụ một cách viên mãn. v. Truyền bá rộng rãi danh thơm tiếng tốt của chủ.
Người cao quý phải đối xử với hàng tu sĩ và Bà La Môn như sau:
Có những hành động từ ái. ii. Có những lời nói từ ái, iii. Có những tư tưởng từ ái. iv. Cửa nhà luôn luôn mở rộng để tiếp đón, và v. Sẵn sàng dâng cúng những vật dụng cần thiết.
Hàng tu sĩ và Bà La Môn, được người cao quý đối xử như vậy, phải biết thương và có bổn phận:
Khuyên can không để tín đồ rơi vào con đường bất thiện. ii. Nhắc nhở và dẫn dắt đi trên đường thiện. iii. Hết lòng thương mến. iv. Thuyết giảng những Pháp mà người ấy chưa từng nghe, làm sáng tỏ những Pháp đã thuyết rồi, và v. Vạch cho thấy con đường dẫn đến cảnh giới an vui hạnh phúc.
Người đã làm tròn những điều đáng làm (Càritta Sìla) nầy thật đúng là con người thanh lịch, hoàn toàn trong sạch và cao quý trong xã hội.
Ngoài những bổn phận ấy, Bồ Tát còn phải cố gắng tránh những điều không nên làm (Vàritta Sìla), ghép mình vào khuôn khổ giới luật để sống cuộc sống lý tưởng của một Phật tử thuần thành chân chánh.
Sau khi suy luận rõ ràng và đúng đắn thế nào là định luật nhân quả, Bồ Tát cố gắng tránh xa tất cả những điều bất thiện xấu xa lầm lạc và tận lực làm tất cả những điều thiện mà mình có thể làm. Ngài nhận thức rằng bổn phận của mình là phải trở thành một nguồn hạnh phúc cho tất cả và không bao giờ gây phiền toái cho một chúng sanh nào, dầu người hay thú.
Mọi người đều quý trọng đời sống của mình. Không ai có quyền cướp sự sống của kẻ khác. Bồ Tát rải tâm từ đến tất cả chúng sanh, chí đến những con vật bé nhỏ đang bò dưới chân, và không khi nào sát hại hoặc làm tổn thương một sinh vật nào. Con người vốn sẵn có một thú tính xúi giục giết hại những sinh vật khác để ăn thịt mà không chút thương xót. Cũng có khi sát sanh để tiêu khiển thì giờ. Dầu để nuôi sống thân mạng hay để tìm thú vui, không có lý do nào chánh đáng để giết một sanh linh hoặc làm cách nào khác cho một sanh linh bị giết. Có những phương pháp tàn nhẫn, đáng ghê tởm, cũng có những phương pháp mà người ta gọi là nhân đạo, để sát sanh. Nhưng làm đau khổ một chúng sanh là đã thiếu lòng từ ái. Giết một con thú đã là một hành động bất chánh, nói chi đến giết một người, mặc dầu nhiều lý do đã được viện dẫn, gọi là chánh đáng, có khi gọi là cao quý, để con người tàn sát giết hại con người. Bồ Tát cũng kiêng cử mọi hình thức trộm cắp, bất luận trực tiếp hay gián tiếp, và làm như vậy phát triển rộng rãi những đức tính thanh bạch, thành thật và ngay thẳng. Bồ Tát không để mình vi phạm một lỗi lầm bé nhỏ nào có thể phương hại đến phẩm giá con người, và hết sức cố gắng gìn giữ cuộc sống gia đình trung thành, tinh khiết, hoàn toàn trong sạch. Ngài tránh nói dối, không nói lời thô lổ cộc cằn, không nói điều nào làm cho người nầy có thể phiền trách người khác, không nói những lời vô ích. Ngài chỉ nói những lời thanh tao nhã nhặn, chân thật, dịu dàng, những lời có thể đem lại cho người khác hoàn cảnh hòa hợp, tình trạng an vui hạnh phúc, và những lời hữu ích. Bồ Tát không dùng món chi có chất độc hoặc có thể che lấp và làm chao động tinh thần. Trái lại, Ngài luôn luôn luyện tập cho tâm được an trụ, trí được sáng suốt.
Mặc dầu có phải bị thiệt thòi đi nữa, Bồ Tát cũng không hề dể duôi phạm phải một điều nào trong năm nguyên tắc căn bản để kiểm soát hành động và lời nói mình. Ðể giữ tròn năm giới, không những Bồ Tát có khi phải hy sinh tài sản, sự nghiệp, mà cũng có vài trường hợp Ngài còn phải hy sinh cả tánh mạng.
Không nên lầm tưởng rằng trong vòng luân hồi, một vị Bồ Tát phải hoàn toàn trong sạch. Ðã sanh ra làm chúng sanh trong cõi phàm, Ngài cũng có những nhược điểm và lỗi lầm. Vài câu chuyện trong Túc Sanh Truyện (Jàtaka) như Kanavera Jàtaka (Số 318) có mô tả một vị Bồ Tát nọ như một tên trộm cướp vô cùng lợi hại. Tuy nhiên, đó là một trường hợp hy hữu hơn là một thông lệ.
Ðối với Bồ Tát, là hạng người có nguyện vọng trở thành Phật, thì công trình nghiêm túc giữ gìn giới luật là điều vô cùng quan trọng. Túc Sanh Truyện Sìlà Vìmamsa Jàtaka (số 362) có đoạn thuật lại lời một vị Bồ-Tát: "Trí tuệ ngoài đạo đức là một thứ trí tuệ không có giá trị." (Sìlena n'anupetassa sutena' ttho na vijjati.)
Trong sách Visuddhi Magga (Thanh Tịnh Ðạo), Ðức Buddhaghosa viết rằng giới luật (Sìla) là nền tảng của tất cả đức hạnh cao thượng:
Ðạo chính đáng cho người vững chí; Sống thanh cao, cao quý chi bằng. Nên trang đức hạnh ai tầng. Mấy ai tả được uy hùng đến đâu. Cũng không phải dòng sâu lồng lộng Của Hằng Giang với ngọn Yama (Yanuma) Thủy triều reo rắc sông Sa (Sarabhu) Sông A Ti (Acivarati) với đại hà Ma Hi Mà rửa sạch những gì nhơ bợn Và những chi bất tịnh nơi lòng. Chỉ đức hạnh, sức khôn cùng, Gội tan ác ý, rửa dần mê tâm, Với gấm vóc, hương trầm bảo vật Cùng trăng thu vằng vặc ánh vàng. Nhẹ nhàng gió mát đêm trường. Cũng không xoa dịu nỗi lòng tham sân. Chỉ đức hạnh trong ngần cao quý Là vững bền, tiết chế lòng người. Trầm hương bay thuận gió đời. Chỉ hương đức hạnh ngát trời gần, xa. Nào nấc tiến cho ta tinh tấn Ðể ta nương đến tận trời cao. Cửa nào mở lối ta vào Niết Bàn cảnh giới muôn màu cho ta. Ðời đạo hạnh, tinh hoa, giới đức Không điểm tô, trang sức chi hơn Mà luôn sáng tỏ vô ngần, Chỉ nơi đức hạnh rỡ ràng hào quang. Nào vua chúa ngọc vàng lóng lánh Dường mờ lu bên ánh rạng nầy Tâm người đạo hạnh ngày ngày Chỉ còn thanh tịnh và đầy an vui. Qua kinh sách lòng người phải rõ, Ðời thanh cao uy chế chi bằng: Ðạo là nguồn cội phước lành, Ðạo là tiêu diệt mọi căn mê lầm.
(Bản dịch đoạn nầy của sách Thanh Tịnh Ðạo được Bà Hồ Thị Linh sắp thành văn vần.)
[1] Pàrami do chữ "pàram" có nghĩa là "phía bên kia", hay sự sáng suốt, sự giác ngộ, và chữ "i" là "đi". Theo nghĩa trắng, Pàrami là cái gì có thể đưa ta qua bờ bên kia, "đáo bỉ ngạn". Phạn ngữ Pàramita cũng được dùng trong nghĩa nầy.
[2] Ba La Mật có mười pháp. Mỗi pháp chia làm ba hạng là: Pàrami thuộc về tài sản, sự nghiệp, vợ, con. Upàpàrami, thuộc về một, hay nhiều bộ phận trong thân thể và Paramattha-parami, thuộc về mạng sống.
Thí dụ như Bố Thí Ba La Mật có ba hạng: Dàna Pàrami, là bố thí tài sản, sự nghiệp, hoặc vợ, con; Dàna upàpàrami là bố thí một bộ phận trong thân thể như tay, chân, mũi, tai v.v...; và Dàna paramattha-pàrami là hy sinh mạng sống mình cho kẻ khác, để cứu một chúng sanh.
Như Trì Giới Ba La Mật, cũng có ba hạng là: Sìla Pàrami, hy sinh tài sản sự nghiệp, hoặc vợ, con để giữ tròn giới luật; Sìla upàpàrami, hy sinh một bộ phận trong thân thể để giữ tròn giới luật; và Sìla paramattha-pàrami, hy sinh mạng sống để giữ giới luật trong sạch.
Cùng một thế ấy, mỗi Ba La Mật đều có 3 hạng. Cộng chung tất cả, có (10 x 3) = 30 Ba La Mật.
-ooOoo-
from Theravada - Dhamma Bậc Giác Ngộ Chỉ Dạy Được Các Bậc Trưởng Lão Gìn Giữ & Lưu Truyền - Feed https://theravada.vn/phan-i-2/
0 notes