Don't wanna be here? Send us removal request.
Photo
"Một người mang vác đầy cỏ khô luôn phải tìm mọi cách tránh xa ngọn lửa; gần lửa, cỏ khô sẽ bắt lửa, cháy rụi. Một người chọn cho mình sự lương thiện để mang theo đi qua thế gian, cũng giống như người mang vác đầy cỏ khô bên mình, phải luôn tìm mọi cách tránh xa những phù phiếm của người đời”.
📝Gom góp bao nhiêu niềm tin, chỉ cần một lần người ném trả lại ngọn lửa phụ-bạc là cháy hết. Gom góp bao nhiêu yêu thương, chỉ cần một lần người ném trả lại ngọn lửa hận-thù là cháy rụi. Góm góp bao nhiêu lời ái ngữ, chỉ cần một lần người ném trả lại ngọn lửa ác khẩu là cháy tan… Có những điều thiện lành mong manh như cỏ khô, mà lòng người đời lại như lửa dữ.
📝Thế gian này đang cháy. Cháy lên bởi lòng hận thù va vào nhau. Cháy lên bởi lòng tham không cùng tận. Cháy lên bởi những toan tính cho riêng mình. Thế gian này đang cháy, cháy lên để tồn tại, vì cuộc đời này tồn tại theo cách đó. Như những thanh củi chất lên nhau để duy trì ngọn lửa, những vui buồn hận thù thứ tha phụ bạc… đan vào nhau làm nên cuộc đời.
📝Lòng người như ngọn lửa. Lòng Từ như ngọn lửa, ấm trong những ngày bất an. Lòng Tham cũng như ngọn lửa, thiêu rụi hết mọi thứ, không bao nhiêu củi cho đủ với ngọn lửa tham, cả khu rừng không đủ, cả thế gian cũng không đủ. Nước biển ngoài kia cũng mặn như nước mắt người. Thế gian này đang cháy, cháy để ấm và cháy lên để mà hoại diệt.
Mong thế gian đừng là lửa dữ? Hay mong những thiện lành trong lòng đừng mong manh như cỏ khô?
Chỉ mong một ngày, những thiện lành trong lòng không còn mong manh như cỏ khô.
46 notes
·
View notes
Photo
17 KINH NGHIỆM VỀ ĐỐI NHÂN XỬ THẾ.
1- Người làm tổn thương ta, ta vẫn cứ mỉm cười bởi vì ta không thích so đo cùng người.
2- Người lừa gạt ta, khi ta biết rõ, nếu nhẹ nhàng thì hãy mỉm cười mà bỏ qua, nếu nặng thì ta tự giác rời xa.
3- Người bán đứng ta, hãy bảo trì quy tắc “một lần bất trung, trăm lần bất dụng”.
4- Người yêu thích ta, trong lòng ta luôn ghi nhớ và biết ơn người đã cho ta động lực.
5- Người trách mắng ta, ta cũng nên nhìn lại, nếu không đúng ta cũng đừng vì thế mà phá bỏ hình tượng của mình.
6- Người quan tâm đến ta, ta ghi nhớ hết thảy sự quan tâm này vào tận đáy lòng, có thể cái gì ta cũng không có nhưng tuyệt đối phải có lương tâm.
7- Người từng yêu ta, có đôi khi yêu lại là một loại tổn thương, nhớ kỹ tổn thương không phải là một phương thuốc hay.
8- Người bỏ rơi ta, ta sẽ không vì vậy mà hận họ bởi vì sẽ có ngày họ phát hiện ra người mà họ bỏ rơi là người mà yêu quý họ nhất!
9- Những người coi thường ta, ta không cần lưu tâm cũng không cần giữ lại trong lòng. Đôi khi giả vờ ngốc một chút cũng tốt, tự mình hiểu là được rồi.
10- Dùng tâm thái bình thản, ta sẽ nhìn thấy con người và mọi vật đều bình thản.
11- Người đối với ta luôn tính toán, khôn ngoan xảo trá, không có lương tâm, ta chỉ cần tránh xa là được.
12- Ta có thể bao dung hết thảy sai lầm của bạn bè, đừng nghĩ rằng tội lỗi kia là ta không chấp nhận được, hãy mở lòng ra, kỳ thực lòng bao dung là rất rộng lớn đấy!
13- Bất luận là lời thành tâm nào, ta cũng đều sẵn lòng nghe. Vậy ta cũng sẽ nói lời thành tâm với người để người sẵn lòng nghe ta!
14- Lúc ta buồn, bạn đến bên ta. Lúc ta vui ta muốn chia sẻ cùng bạn. Cho nên khi bạn buồn ta hãy đến bên bạn, khi bạn vui ta chia sẻ cùng bạn.
15- Phụ nữ đừng ỷ lại vào sắc đẹp, phụ nữ có tâm đẹp mới là đẹp nhất!
16- Đừng làm một người “tùy tiện” bởi vì “tùy tiện” là điều kiện tiên quyết để trở thành “thấp hèn”.
17- Đừng thành lập hạnh phúc của mình trên nỗi thống khổ của người khác, b���i vì “hạnh phúc” đó suy cho cùng cũng là một loại “thống khổ” mà bạn chưa nhận ra mà thôi! - st
300 notes
·
View notes
Photo
CÁI GÌ TRÓI BUỘC CON NGƯỜI
ĐÔI LỜI TÂM SỰ
Ngày xưa, có hai vợ chồng nọ làm nghề nông, trong nhà có nuôi một con trâu và một con chó. Con chó được ở trong nhà, còn con trâu phải ở riêng ngoài chuồng. Mỗi ngày, trâu ra đồng cày bừa từ sáng sớm đến chiều tối mới về, còn chó ta chỉ việc nằm phè ở nhà dòm chừng trong ngoài trước sau.
Một hôm, trâu đi cày về, thấy chó nằm dài trước cửa nhà, mắt nhắm lim dim trông thật nhàn hạ, thoải mái, sung sướng làm trâu ganh tị, tức tối, muốn điên lên, bèn nói lời mỉa mai rằng: “chú chó nhà mày thật hạnh phúc quá, ăn rồi chỉ đi loanh quanh, lẫn quẩn trong xó nhà, lúc nào làm biếng thì nằm phè ra đó. Mày thật là có phước nhất nhà này”.
Chó nhà ta nghe trâu nói lời hậm hực, nặng nhẹ mình thì buồn bã trong lòng, nghĩ rằng trâu tuy to xác nhưng không có chút trí tuệ nào, mới phát ra những lời lẽ không được văn hóa như thế. Chó bèn nói với trâu rằng: “này anh trâu ơi, anh không thể nào hiểu hết hoàn cảnh của tôi đâu, tôi nào có sung sướng hạnh phúc gì như anh tưởng. Anh tuy làm lụng vất vả, nhọc nhằn ngoài đồng ruộng, nhưng còn có thời gian để nghỉ ngơi. Còn tôi, tuy nằm canh cửa giữ nhà trông có vẻ nhàn hạ hơn anh, nhưng thật ra tôi rất mệt mỏi và căng thẳng lắm. Tôi tuy nằm lim dim mà trong lòng lúc nào cũng lo sợ phập phòng, cứ phải nơm nớp không yên vì sợ mất mát đồ đạc của ông bà chủ, không dám lơ là hay chểnh mảng một chút nào. Nếu ngủ quên hay sơ ý để xảy ra mất trộm, thì tôi khó mà sống được yên thân. Đêm đêm, trong khi mọi người yên giấc ngủ ngon lành, thì tôi có được nghỉ ngơi gì đâu, tôi phải vểnh lỗ tai lớn ra để nghe ngóng, dòm ngó động tĩnh trước sau, đề phòng kẻ gian, hễ nghe có tiếng động gì thì phải sủa to lên để báo cho chủ nhà hay biết. Hôm nào, hai vợ chồng chủ nhà vui vẻ thì tôi được cho ăn no đủ một tí, khi hai người giận nhau hay buồn bực chuyện gì, họ đều trút đổ lên đầu tôi hết. Họ đánh, họ đá, xua đuổi, chửi mắng tôi như là con chó ghẻ vậy đó. Mỗi khi gia đình, người thân của họ đến chơi mà tôi không biết, tôi sủa, họ chửi tôi là đồ ngu dốt, “bộ mày mắt đui hả? Bạn bè họ đến chơi thì không sao, còn bạn bè tôi đến chơi thì bị họ chửi rủa, đánh đập đuổi đi. Anh trâu à, anh thử suy nghĩ coi, anh và tôi ai sướng hơn ai?”.
Trâu nhà ta nghe nói vậy mới hiểu được hoàn cảnh khổ tâm của chó, nên trong lòng rất ăn năn và hối hận vô cùng, bởi những lời nói xổ sàng, trịch thượng của mình.
Trâu ta liền xin lỗi chó: “đúng là mày còn vất vả khổ sở hơn tao rất nhiều. Tao với mày tuy ở chung một nhà, mà chưa có một lần nào được trò chuyện tâm tình, nên mới hiểu lầm mà trách móc lẫn nhau. Bây giờ tao đã hiểu hết nỗi khổ niềm đau của mày rồi, tao nghe mày nói tao mới biết, cả hai chúng ta đều khổ cả, chẳng ai sung sướng gì đâu”.
Đang nói chuyện với chó, trâu bỗng nghe tiếng chim hót ríu rít trên cành cây cao, nó nhìn lên mà ước ao được như thế, rồi ngậm ngùi thương xót cho số phận của mình và chó, sao quá khổ sở nhọc nhằn, rồi tự than thở: “bọn chim trời, cá nước thật là diễm phúc và sung sướng làm sao. Chúng có thể tự do, tự tại bay lượn, bơi lội đó đây mà không bị ngăn ngại, không bị ai giam cầm, quản thúc, không phải làm việc nhọc nhằn, vất vả, không phải chịu nỗi khổ, niềm đau của kiếp làm tôi mọi cho con người. Giá mà chúng ta, có được cuộc sống vui vẻ như hai loài chim, cá thì vui sướng hạnh phúc biết chừng nào”.
Khi ấy, một chú chim nghe lời trâu than vãn, bèn đáp lên lưng trâu mà nói rằng: “bác trâu ơi, bác đâu có biết, chúng cháu cũng chả sung sướng gì như bác nghĩ đâu. Tuy loài chim chúng cháu không phải trông nhà giữ cửa, không phải đi cày ruộng, không phải chịu cảnh tù túng bó buộc kèm kẹp của con người, nhưng chúng cháu cũng có nỗi khổ, niềm đau riêng của mình, bác trâu ạ. Mạng sống chúng cháu luôn bị đe dọa từng ngày, chúng cháu lo sợ các chú chim lớn rình mò, chụp bắt đã đành, lại còn lo sợ những kẻ thợ săn có thể bắn chết chúng cháu bất cứ lúc nào không hay. Tổ của chúng cháu làm rất khó khăn, vất vả biết bao, chưa chắc đã ở được lâu ngày vì sự phá hoại của con người. Trứng chúng cháu sinh ra chưa kịp nở, thì đã bị con người lén lấy mất. Loài người lúc nào cũng biết thương yêu, chiều chuộng con cái của mình, nhưng nào biết thương hại các loài vật đâu. Các chú, các bác chỉ bị hành hạ làm lụng khổ sở nhọc nhằn đôi chút, còn chúng cháu lúc nào cũng sống trong lo âu sợ hãi, vì loài người hay tìm cách tước đoạt mạng sống của chúng cháu nữa. Các bác biết đó, đâu phải chết rồi là được yên thân, loài người tàn nhẫn hơn khi đem đi nhổ lông, vặt cánh, xẻ thịt, nấu nướng, làm đủ thứ các món thức ăn, thân thể chúng cháu bị tan nát rã rời. Loài người ỷ mạnh hiếp yếu, ỷ có trí khôn của mình nên mặc tình sát sinh, hại vật, nào có biết thương yêu, tôn trọng sự sống của muôn loài gì đâu. Các chú, các bác có cái khổ của các chú, các bác, còn chúng cháu cũng có cái khổ của chúng cháu, sống mà cứ phập phòng nơm nớp lo sợ trong từng phút giây, sống được ngày nào thì mừng cho ngày đó. Thật ra, trên cõi đời này không có loài vật nào được sung sướng cả, nếu có cũng phải trả một giá rất đắc đối với loài người vô liêm sỉ đó”.
Bầy cá đang ở dưới nước, nãy giờ nghe bác trâu nói mình sung sướng, thoải mái quá, nên cũng không đồng ý mà vội vàng phân bua rằng: “Dạ, xin thưa với các bác, loài cá chúng con cũng không sung sướng hạnh phúc gì lắm đâu. Nhà cá chúng con thường bị loài người giăng lưới đánh bắt, mỗi lần bị sát hại chết đến cả hàng ngàn, hàng vạn con không sao kể hết tội lỗi của loài người. Chúng con lúc nào cũng sống trong lo âu, sợ hãi. Loài người rất khôn ngoan và mưu ma chước quỷ. Nơi nào có chúng con ở là loài người dùng đủ mọi cách câu giăng, lưới bắt, tát cho bằng được. Cá lớn, cá nhỏ gì chúng đều lượm sạch ráo, chẳng tha con nào. Bắt bằng tay, bằng lưới không được thì loài người dùng điện chích, bỏ thuốc độc, để bắt cho được hết loài cá chúng con, các bác ạ”.
Trâu nghe chim và cá nói như vậy, mới cảm thấy thương hại cho các loài vật mà ngửa mặt lên trời, than oán thở dài: “Hóa ra các loài vật chúng ta ai cũng khổ hết. Tại sao thượng đế tạo ra nỗi bất công lớn lao thế này, chỉ có con người là được sống sung sướng, hạnh phúc nhất trên cõi đời này mà thôi”.
Nói như thế rồi trâu ta buồn bã bỏ đi vào chuồng, nằm suy nghĩ mông lung về thân phận của nó và các loài vật khác sao mà khốn khổ quá. Nó nghĩ mà tức giận thượng đế vô cùng. Tại sao ông ta quá bất công, tàn nhẫn, bất cứ loài vật nào cũng bị con người hiếp đáp, làm hại. Cho đến chúa tể sơn lâm hung dữ, ác độc lừng danh như loài cọp mà cũng bị loài người dùng trí khôn để khống chế. Trâu ta rống lên tiếng rống bi ai, não nuột: “Cuộc đời sao quá bất công, loài người được quyền ăn trên, ngồi trước, có tri thức, hiểu biết, mà tại sao tàn ác, nhẫn tâm đối xử tệ bạc với các loài vật thế này. Ấy vậy mà họ lại được ăn sung, mặc sướng, không phải chịu một sự đau khổ nào”.
Đang lúc đó, bỗng trâu nghe rõ ràng tiếng quăng chén, bát, đĩa, muỗng cùng nhiều thứ đồ đạc khác trong nhà vọng ra. Nó lắng tai nghe kỹ mới biết hai ông bà chủ đang lớn tiếng gây gỗ, cãi vã, chửi mắng lẫn nhau. Tiếng ông chủ gào lên trong cơn giận dữ: “Trời ơi, hãy ngó xuống mà coi, sao tôi phải chịu nhọc nhằn khổ sở đến như thế này, làm người gì mà không bằng con trâu, con chó trong nhà nữa. Con trâu đi cày còn có được thời gian để nghỉ ngơi, còn tôi suốt tháng quanh năm phải bận bịu, đa đoan với nhiều công việc, nào là phải lo nhà cửa, vợ con, cơm ăn, áo mặc, tiền bạc, đám tiệc, hội hè, đình đám, đủ thứ, làm quần quật suốt cả đêm ngày mà không có lúc nào rảnh rỗi, nghỉ ngơi. Tôi phải thức khuya, dậy sớm, đầu tắt mặt tối, làm lụng nhọc nhằn, vất vả khổ sở như vậy, là vì ai? Vậy mà bà vẫn không vừa ý, hài lòng, để cho tôi được yên thân một chút, hễ thấy mặt tôi là bà hạch sách, cằn nhằn, càm ràm, đủ thứ hết. Bà vừa phải thôi chứ, bà mà làm quá tôi sẽ cho cả nhà ra hết chuồng trâu mà ở, để cho vừa lòng hả dạ mấy người”.
Nghe ông chủ nhà nổi nóng, to tiếng quát tháo ầm ỉ lên, trâu ta bỗng giật mình, bất giác mà ngậm ngùi than thở rằng: “ Té ra, cuộc sống trên cõi đời này đâu có ai hoàn toàn được sung sướng mà dám bảo đảm rằng mình không bao giờ nhọc nhằn, khổ sở đâu? Từ con người cho đến muôn loài, muôn vật, ai cũng phải khổ hết, vì có thân này là có khổ”.
Trong cu���c sống, mỗi người có một hoàn cảnh, sự nghiệp khác nhau. Từ người lãnh đạo đất nước cho đến thứ dân bần cùng đều phải làm việc để lo cơm áo, gạo tiền và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội. Người nắm cán cân công lý thì chịu trách nhiệm chung lo duy trì hài hòa bảo đảm đời sống an vui, hạnh phúc cho toàn dân. Binh sĩ lo bảo vệ biên cương, bờ cõi, an ninh quốc gia. Thương nhân lo kinh doanh, buôn bán. Nông dân và công nhân tích cực lao động, sản xuất. Tu sĩ lo gìn giữ đạo đức tâm linh để giúp nhân loại chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay hiện tại và cho cả tương lai.
Chính vì thế, tu sĩ Phật giáo giữ vai trò rất quan trọng trong cuộc sống hiện tại. Họ không phải là những người lười biếng, ăn bám xã hội. Họ có trọng trách thiêng liêng, cao quý là giúp nhân loại chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Thế gian này, nếu con người sống không có nhân cách đạo đức tốt đẹp, không có luân thường đạo lý, thì xã hội sẽ là một bãi chiến trường đẫm máu, mà lịch sử loài người đã chứng minh thực tế rõ ràng. Từ mấy ngàn năm lịch sử, chiến tranh nhân loại xảy ra cũng vì lòng tham lam, ích kỷ của con người.
Nhưng nếu trong cuộc sống, ai cũng có ý thức sống bằng trái tim yêu thương và hiểu biết, mà cùng nhau chia vui, sớt khổ, hay làm những việc thiện lành, để đem lại an vui, hạnh phúc cho nhân loại, thì thế gian này sẽ tốt đẹp biết chừng nào. Ngược lại, con người sẽ chỉ làm khổ nhau, vì tâm tham lam, ích kỷ, hẹp hòi; vì tâm si mê, ganh ghét, tật đố, sân hận, muốn bảo vệ quyền lợi cho chủ nghĩa cá nhân. Đó là một lẽ thực trong cuộc sống hiện tại, nên Phật vì lòng từ bi, thương xót chúng sinh, mà khuyên nhủ chúng ta không nên giết hại, trộm cướp, tà dâm, nói dối hại người, và không dùng các chất độc hại, như rượu chè be bét, hút chích xì ke, ma túy, mà làm khổ đau cho nhau.
Song, nếu quán chiếu theo tuệ giác của Thế tôn, thì thế gian này khổ đau nhiều hơn hạnh phúc. Khổ và vui như hai mặt lật úp của một bàn tay, đan xen, chồng chéo nhau như một mạng lưới vô hình giăng bủa khắp cuộc đời chúng ta, không một ai có thể thoát được. Ngoại trừ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài đã vượt qua được mất, khen chê, tốt xấu lẫn khổ vui của cuộc đời, để thành tựu đạo quả giác ngộ, giải thoát dưới cội Bồ Đề. Ngài đã tìm ra chân lý kiếp người, và biết cách làm chủ bản thân, không bị lệ thuộc vào đấng thần linh, thượng đế ban phước, giáng họa.
Cuộc sống này người trẻ có những cái khổ của người trẻ, người già có những cái khổ của người già, người giàu có những cái khổ của người giàu, và người nghèo có những cái khổ của người nghèo. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều có những cái không được hài lòng, như ý. Ai cũng có những nỗi khổ về thân như nóng lạnh, bị muỗi mòng chích đốt. Trong gia đình, con người khổ vì phải sinh, già, bệnh, chết. Ngoài xã hội, con người khổ vì đấu tranh, giành giựt miếng ăn để sống, và đủ thứ nỗi khổ, niềm đau đến với con người: yêu thương, xa lìa nên khổ; lòng oán ghét mà ngày nào cũng gặp nhau là khổ; mong cầu mọi việc mà không được vừa ý cũng khổ. Khổ là một sự thật của muôn loài chúng sinh. Vậy, chúng ta muốn hết khổ thì phải làm cách nào?
Có ai sống mà không lo lắng, không hối tiếc, không trông mong, không nhớ nhung, không sầu khổ hay không nuối tiếc, hy vọng một điều gì đó? Có ai sống mà không biết phiền muộn khổ đau, thất chí nản lòng, bi quan yếm thế, chán chường trong cô đơn tuyệt vọng? Có ai dám bảo đảm rằng ta hoàn toàn khỏe mạnh, thoải mái cả hai về mặt thể xác lẫn tinh thần? Chắc chắn là không có ai, ngoài trừ các vị đại Bồ tát và chư Phật thị hiện vào đời để giáo hóa chúng sinh. Cho nên,
Biển cả mênh mông sóng ngập trời.
Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi
Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió
Nhìn lại, cùng trong biển khổ thôi.
Qua câu chuyện ngụ ngôn trên, sở dĩ con người và muôn loài vật phải chịu nhiều đau khổ trong đời, chính là do nhân ham muốn luyến ái dục lạc, mà chúng ta nỡ nhẫn tâm tàn sát, giết hại lẫn nhau. Loài vật vì ngu si, mê muội nên phải bị đọa lạc vào chỗ thấp hèn để trả quả xấu ác. Con người có phước hơn, vì có hiểu biết và nhận thức sáng suốt, nếu biết vận dụng theo chiều hướng thượng thì đem lại an vui, hạnh phúc cho tất cả chúng sinh; ngược lại, sẽ gieo đau thương, tang tóc cho muôn loài, thì phải chịu quả báu khổ đau, cùng cực.
Đạo Phật nói cuộc đời là biển khổ mênh mông không có ngày thôi dứt, vì nhân loại tranh giành, giết hại, ăn nuốt lẫn nhau, lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu. Thân đau khổ bởi sinh già bệnh chết, tâm đau khổ vì phiền não tham sân si; trong gia đình khổ vì phải lo cơm áo gạo tiền, rồi thương yêu, ái ân xa lìa khổ, ngoài xã hội lại khổ vì đấu tranh, giành giựt, hơn thua, phải trái, cứ như thế oán thù ngày thêm chồng chất; còn hoàn cảnh phải khổ về thiên tai, sóng thần, động đất, bão lụt, chiến tranh không có ngày cùng, vì sự ngu si, tham lam, mê muội của con người.
Những nỗi khổ, niềm đau của muôn loài không bao giờ chấm dứt, vì nhân tương tàn, tương sát lẫn nhau. Cho nên, ta phải biết khôn ngoan, sáng suốt, lựa chọn con đường hướng thượng, để rèn luyện nhân cách đạo đức. Ta biết cách làm chủ bản thân mà vươn lên, vượt qua cạm bẫy cuộc đời, nhờ giữ gìn năm giới của nhà Phật: không giết hại, trộm cướp, lường gạt, tà dâm, nói dối, và dùng các chất kích thích như rượu, xì ke ma túy, để làm tổn hại cho nhân loại.
Khi ta nhận biết cuộc đời là một trường đau khổ, và cái khổ sẽ tác động đến tất cả mọi người, từ vua chúa, quan quyền, cho đến dân đen, con đỏ. Những nỗi khổ, niềm đau trong kiếp người không biết bao giờ kể xiết, nó đeo đẳng chi phối đời sống của ta như bóng theo hình. Người nghèo phải khổ vì dãi nắng dầm mưa, đầu bán cho trời, lưng bán cho đất, nợ nần chồng chất, con cái thất học, bệnh tật đau yếu, vợ chồng ly tán. Người giàu phải khổ vì quyền cao chức trọng, sợ người tài giỏi hơn mình, luôn sống trong lo âu sợ hãi, sợ tiền tài bị mất mát, và nỗi khổ đau nhất là con cái bất hiếu, phá sản vì bê tha, nghiện ngập. Xét cho cùng, đã có thân này là có khổ; cho nên, ta cần phải cố gắng tu tâm dưỡng tánh, để biết cách làm chủ bản thân mà vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Bản thân chúng tôi đã trải qua một thời si mê, dại dột như thế, nên phải chịu nhiều đau thương, thống khổ cùng cực, do thấy biết sai lầm với quan niệm chết là hết, không có nhân quả, nghiệp báo, tội phước gì. Nhờ gặp Phật pháp, dưới sự chỉ dạy nhiệt tình của thầy tổ cùng chư huynh đệ thiện hữu tri thức, tôi dần hồi có tỉnh giác, để làm mới lại chính mình mà vươn lên, vượt qua số phận tối tăm.
Đức Phật vì lòng từ bi mà thương xót chúng sinh, nên đã chỉ ra nỗi khổ, niềm đau, chỉ dạy phương pháp dứt khổ, để chúng ta cùng được sống trong bình yên, hạnh phúc. Khổ là một sự thật. Chúng tôi kính mong mọi người hãy nên chín chắn, suy xét kỹ càng, kiểm soát chặt chẽ từ ý nghĩ, lời nói, cho đến hành động, để khi ta làm điều gì đều không làm tổn hại cho mình và người. Phần lớn, mọi người tìm đến chùa học hỏi, tu tập đều do gặp hoàn cảnh trắc trở, khổ đau trong đời sống hằng ngày. Mà khổ từ đâu ra? Từ sự chấp trước ham muốn luyến ái dục vọng mà ra cả.
Đôi lời tâm sự chân thành, xin được kết nối yêu thương cùng với tất cả mọi người qua đề tài “ Cái gì trói buộc con người.”
Kính ghi
Phong Trần Cuồng Nhân
Chúng tôi chú giải Kinh Pháp Cú không theo thứ tự từ trên xuống dưới, mà trích dẫn ngay phẩm ái dục, phân tích theo góc độ xưa và nay, để tự giúp mình tìm tòi, học hỏi và áp dụng tu tập, nhằm chuyển hóa thói quen thâm căn cố đế là ham muốn, đam mê luyến ái, khoái lạc tình dục. Chúng tôi không giải thích theo từng bài kệ một, mà phân tích thẳng vào sự tác hại của ái dục cùng dẫn chứng những câu chuyện Phật chỉ dạy cách diệt trừ ái dục. Kính mong tất cả chư huynh đệ pháp lữ gần xa đạt ý quên lời.
Bởi đây là thói quen si mê nặng nề nhất của chúng tôi. Trong hiện đời, nó đã làm cho tôi điên đảo, vọng động, rơi vào vòng tù tội, và xém chết nhiều lần. Mãi đến khi chúng tôi được đầy đủ phúc duyên xuất gia tu học tại Thiền Viện Thường Chiếu, tôi vẫn bị dục vọng ham muốn luyến ái nam nữ cuốn hút nặng nề, xuýt chút nữa là tôi bị rơi rớt khổ lụy, bởi vì “tình xưa nghĩa cũ”. Chính vì vậy, tôi chọn phẩm ái dục trong Kinh Pháp Cú chú giải trước.
Trong kinh diễn tả phẩm này như là chiếc lưới ái ân. Đức Phật thí dụ hình ảnh chiếc lưới để ví với sự mất tự do của một người khi bị vướng vào ái dục. Chữ lưới được lặp lại hai lần là lưới ái và lưới dục. Trong bài 12 lời nguyền trong sám hối sáu căn tại Thiền Viện Thường Chiếu, có 6 nguyền là lưới ái lìa buộc ràng. Qua đó, chúng ta thấy, ái là gốc của luân hồi sinh tử, hễ còn ái là còn khổ đau, dứt ái, lìa được ái, thì ta một đời thong dong, tự tại, an nhiên giải thoát, không bị sự trói buộc của nó làm ta vô minh, đắm say, mê muội.
Mới đọc qua bản kinh, chúng ta có cảm tưởng như bài kinh được dạy riêng cho người xuất gia, nhưng khi nghiên cứu kỹ, chúng ta thấy người cư sĩ tại gia cũng có thể áp dụng thực tập và hành trì. Những người tại gia, dù sống đời sống lứa đôi có tình yêu thương để duy trì giống nòi nhân loại, phải có vợ, có chồng, xây dựng hạnh phúc gia đình để phát triển tình yêu thương nhân loại, là chuyện đương nhiên trong đời sống xã hội, nhưng ta phải thương yêu như thế nào để không bị lưới ân ái hoàn toàn trói buộc, mà gây khổ đau và làm tan nát hạnh phúc gia đình.
Đứng về phương diện hành trì để chuyển hóa luyến ái nam nữ thì người xuất gia dễ dàng thực tập hơn người tại gia, vì người xuất gia sống trong môi trường rất thuận lợi về mọi mặt. Những vị xuất gia tại Thiền Viện Thường Chiếu phải tự lao động công ích, tự làm, tự nấu ăn, tự dọn dẹp, sắp đặt mọi thứ công việc mà không bị lệ thuộc các Phật tử bên ngoài như các chùa khác. Quý thầy không được xem truyền hình, không được đọc sách báo, tiểu thuyết tình cảm, nên không thấy những hình ảnh khêu gợi ái dục trong phim ảnh hay sách báo. Do đó, tâm luyến ái dục vọng cũng bị hạn chế, và lần theo thời gian để từng bước chuyển hóa ái dục.
Tuy có điều kiện thuận lợi trong việc tu học như vậy, nhưng lâu lâu quý thầy cũng bị cọp tha rồi ra đời lấy vợ, có ai hỏi thì đổ thừa tại nghiệp tôi nặng quá. Trên thực tế, một bên chịu, một bên không, thì làm sao có chuyện kết nối yêu thương; tại vì hai bên đều đồng ý thích thú nên mới cùng nắm tay nhau xây dựng tổ ấm gia đình. Ta thấy, luyến ái nam nữ là căn bệnh trầm kha từ vô thủy kiếp đến nay. Thế gian này thiếu nó thì không thể tồn tại, đời sống con người sẽ khô khan, cằn cỗi, chẳng ai thèm xây dựng đóng góp làm gì nữa. Chính tình yêu thương đó thúc đẩy con người sống, làm việc, phục vụ, để xây dựng hạnh phúc gia đình và bảo vệ nhau. Tình yêu tăng trưởng mãi thì chắc chắn sẽ đưa đến nhu cầu tình dục, và khi đi tới tình dục thì sẽ làm tan vỡ tất cả, nhất là đối với người xuất gia. Vì vậy, ta không thể coi thường, đừng tưởng là không sao, phải lo ngay mà đề phòng từ lúc ban đầu.
Nếu đó là tình thầy trò thì không sao, nhưng nếu nó có hơi hướm của luyến ái, yêu thương, thì mình phải biết rõ nó sẽ dẫn tới những khoái lạc dục tính. Chuyện này đã có xảy ra trong đại chúng. Một vị thầy với một Phật tử nữ, hai người đã thường xuyên tiếp xúc qua lại bằng điện thoại và sự gặp gỡ hàng tuần, hàng tháng, rồi cuối cùng rũ nhau ra đi, xây dựng tổ ấm yêu thương. Vì vậy, mình phải thấy cho rõ, đây có phải là tình thầy trò hay không? Nếu nó có màu sắc của ái dục thì ta phải cẩn thận, nếu để nó làm ta nhớ thương mỗi khi không được tiếp xúc, nói chuyện, thì đây là nguyên nhân sẽ đưa ta tới sự gần gũi. Mới đầu, ta chỉ gặp gỡ, trao đổi, thưa hỏi đạo lý tu tập với tình thầy trò, nhưng với thời gian, nước ái sẽ thấm dần vào trong trí não, nên ta phải nhớ mình đã xuất gia, mình đã có chí nguyện đi theo sự nghiệp của Đức Thế Tôn, nên mình phải biết khôn ngoan, sáng suốt chọn lựa. Muốn vượt qua sự luyến ái đó, chư huynh đệ phải biết quan tâm, khuyên nhủ, nhắc nhở lẫn nhau. Khi có ai nhắc nhở mình, thì mình phải chắp tay lại xin cám ơn người đó. Nếu làm được như thế, ta mới có năng lực làm chủ bản thân, vượt qua sự quyến rũ hấp dẫn của ái dục.
Trong khi đó, người tại gia sống ở ngoài đời, phải tiếp xúc chung đụng nhiều thứ, lại không có những giới luật ngăn cản và bảo hộ, nên những hạt giống của ái dục rất dễ thấm vào lòng mọi người. Do đó, Phật chế ra giới cho người tại gia là không được tà dâm, để giúp Phật tử sống hạnh phúc lứa đôi một vợ một chồng. Đứng về phương diện đó mà nói thì tu tại gia và tu chợ, khó hơn tu chùa rất nhiều, vì người tại gia phải tiếp xúc, gặp gỡ thuờng xuyên để giữ mối quan hệ gia đình, bè bạn và giao dịch làm ăn trong xã hội.
Con đường xuất gia vốn là con đường dễ dàng nhất để quý thầy cô có cơ hội chuyển hóa lưới ái dục. Tuy nói vậy, con đường chuyển hóa ái dục không đơn giản tí nào. Nếu không biết cách, nếu không quyết tâm dứt khoát xa lìa cội gốc luân hồi, sinh tử, thì sẽ trở thành con ma lơ lớ làm tổn hại nhiều người hơn, và làm mất đi giống nòi nhân loại, vì cái bệnh nam ái nam, nữ ái nữ. Đây là căn bệnh làm đau đầu thế giới loài người, nếu ở trong chùa mà như thế thì phá hủy đời người tu. Đây là loại ma của thời hiện đại, đang có chiều hướng gia tăng trong rất nhiều chùa. Quý thầy cô nếu không chịu nổi đời sống độc thân để tu hành, chuyển hóa ái dục, thì cứ ra đời lấy vợ, lấy chồng bình thường. Còn nếu ở trong chùa mà lơ lớ như thế thì tội lỗi biết chừng nào.
Đối với người tại gia, cuộc sống cần có tình yêu thương nam nữ để xây dựng hạnh phúc gia đình, nên Phật vì lòng từ bi, thương xót chúng ta mà chế ra giới không tà dâm, sống chung thủy một vợ một chồng để đảm bảo hạnh phúc lứa đôi. Ái không phải chỉ là tình cảm giữa nam và nữ, mà nó còn có ý nghĩa khác là lòng nhân ái, là tình yêu thương nhân loại, là tình người trong cuộc sống. Chữ ái không có nghĩa là vướng mắc mà có nghĩa là thương yêu.
Chữ dục đứng riêng có nghĩa là khao khát, thèm muốn, hay nói gọn lại là thèm khát. Khi hai chữ đứng riêng thì ta rất dễ hiểu, một bên là tình thương (ái) và một bên là ham muốn (dục). Nhưng khi gộp hai chữ lại thành chữ ái dục thì ta hơi khó hiểu, vì trong ái có dục, trong dục có ái.
Đức Phật khuyên dạy người xuất gia hãy nên diệt trừ nguồn gốc ái dục. Vì ái là yêu thích, thương yêu, mến tiếc, luyến ái, tham ái, bám víu. Dục là sự ham muốn hưởng thụ dục lạc. Ái dục là lòng ham muốn, luyến ái, bám víu, tham cầu hưởng thụ mọi sự sung sướng thường tình đối với tất cả chúng sinh trên thế gian này. Cho nên có ba loại ái dục:
1. Ái dục theo ngũ trần nhục dục: Là năm cảnh trần sắc, thanh, hương, vị, xúc. Trần là bụi dơ. Ngũ trần là năm cái có thể làm cho bụi dơ dính vào thân tâm ta. Mắt thấy sắc và bám vào đó rồi cho là đẹp xấu, dẫn đến thương yêu hay ghét bỏ, thích thì luyến ái tìm cách chiếm đoạt, ghét thì tìm cách hãm hại, hủy nhục nhau; tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như thế.
2. Ái dục bám víu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm chết là hết, nên ta không cần quan tâm đến thiện ác, tội phước, nhân quả nghiệp báo gì cả, mà cứ lo hưởng thụ mọi lạc thú vật chất và sự giàu có trong hiện tại.
3. Ái dục bám víu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm thường kiến nghĩ rằng, những lạc thú và tài sản sẽ còn mãi với mình, lâu dài, vĩnh cửu, trường tồn, dù có chết rồi tái sinh cũng lại như thế.
Kinh Pháp Cú Phật chỉ cho ta thấy rõ ái dục là nguồn gốc của mọi sự đau khổ trong đời, là sức mạnh hấp dẫn, thúc đẩy con người tìm sự thỏa mãn lòng ham muốn ích kỷ bằng mọi cách. Ái dục là cạm bẫy nguy hiểm nhất, vì khi được toại nguyện nó sẽ đem lại cảm giác khoái lạc, hay thỏa mãn đầy đủ cho con người. Chính vì vậy, lòng ham muốn ái dục của con người cứ thế tăng trưởng thêm mãi theo thời gian. Cho nên, không cần ai chỉ dạy mà ta vẫn bị ái dục lôi cuốn, hấp dẫn đến ngớ ngẩn người.
Trong nhà thiền có câu chuyện “ con cọp dễ thương”. Thuở xưa, tại một đồi núi hoang vắng, có một thiền sư sống ẩn dật, tu hành nơi đây. Trong lúc hóa duyên, sư tình cờ gặp đứa bé nằm bên bìa rừng, khóc thét lên từng hồi; động lòng thương xót nên sư đem đứa bé về nuôi dưỡng. Chú bé lớn lên nhờ sự chăm sóc của thiền sư giàu lòng nhân ái, sống giữa rừng núi hoang vu không một bóng người qua lại.
Thắm thoắt 18 năm đã trôi qua, chú bé giờ đây đã lớn khôn nhưng chưa bao giờ giáp mặt với con người. Bạn bè chú là những con thú rừng hiền lành như hươu, nai, khỉ, vượn, và các loài chim chóc khác. Tâm hồn chú trắng tinh như tờ giấy trắng với thiên nhiên đồi núi chập chùng, vui vẻ hài hòa với các loài thú yêu thương bé bỏng trong rừng sâu. Thiền sư thường nói với chú tiểu, ở trên đời này loài cọp là dữ hơn hết, chớ nên gần gũi nó, ai gần là bị nó nhai cho tan xương, nát thịt. Chú tiểu cũng hay hỏi chị em nhà hươu, nhà nai trong rừng loài nào là dữ nhất, cả hai đều đáp cọp là loài dữ nhất, nó chuyên ăn thịt các loài thú khác để bảo tồn mạng sống. Các loài thú trong rừng chỉ cần nghe hơi và tiếng rống của nó thôi, là sợ đến té đái cả bầy, anh hãy nên tránh xa nó ra.
Một hôm, được tin người bạn đồng tu trong cơn bệnh nặng khó qua khỏi, Thiền sư liền quảy túi xuống núi cùng với đệ tử của mình. Chú tiểu chưa bao giờ tiếp xúc với thế giới bên ngoài, hôm nay được dịp, chú ngắm nhìn đủ thứ màu sắc với nhiều hình ảnh đẹp trong thế giới con người. Trên đường trở về, hai thầy trò tình cờ gặp một thiếu nữ tuổi vừa trăng tròn, dáng người thon thả, xinh đẹp làm sao. Chú tiểu ngạc nhiên nhìn dáng vẻ xinh đẹp của người khác phái một cách say sưa, đắm đuối, đôi mắt chú cứ nhìn chăm chăm vào người con gái ấy như lạc vào mê hồn trận của cõi thần tiên. Thiền sư thấy thế bảo chú đệ tử đi nhanh về núi, kẻo trời tối.
Chú tiểu ngớ ngẫn cả người ra mà hỏi, “dạ thưa thầy, đây là con gì vậy?”
Thiền sư nhanh miệng nói, “cọp cái đó con, đi lẹ lên con ơi, kẻo cọp xơi bây giờ!”. Hai thầy trò cũng đã kịp về đến núi, trước khi trời tối.
Kể từ đêm hôm đó, chú tiểu bắt đầu thao thức, trăn trở không sao ngủ được, chẳng thiết gì đến việc ăn, việc uống. Chú cứ nhớ mãi về hình ảnh con cọp cái đó sao mà dễ thương, xinh đẹp vô ngần, nhất là khi cười để lộ hai hàm răng trắng đều như hạt bắp.
Bị sự dằn dặc bởi sức hấp dẫn lạ kỳ đó, chú tiểu không chịu nổi, cứ nhớ mãi hình ảnh và bóng dáng đó, làm con tim chú rung lên bần bật như muốn vỡ ra, chú ta đành đến thú thật với thiền sư: “Sư phụ ơi, sao con cứ nhớ đến con cọp cái đó quá chừng, thà con tìm gặp nó, để cho nó ăn thịt con cho rồi. Con thà chịu mất mạng, mà trong lòng cảm thấy an ổn, nhẹ nhàng. Từ nhỏ đến giờ, con chưa từng trải qua cảm giác nhớ nhung, thương yêu, trìu mến, lạ lùng đến thế kia. Dạ thưa sư phụ, con phải làm sao đây?”.
Chú tiểu kia đã bị tiếng sét ái tình làm rung động cả trái tim ngây thơ, hiền lành, chất phát của thuở nào.
Thiền sư chỉ ú ớ vài tiếng mà không nói nên lời. Thiền Viện Thường Chiếu bây giờ có trên 100 vị thầy tu trẻ như thế, ít ra cũng có vài thầy xin nạp mạng mình cho cọp nhai nát xương chơi. Câu chuyện được tạm dừng, xin mời chư huynh đệ pháp lữ gần xa tự tìm ra đáp án cho chính mình.
Chú tiểu đó có duyên ở núi tu hành, chưa từng biết con người là gì, ấy thế mà khi có duyên sự xuống núi cùng thầy, chỉ một lần thoáng thấy tuy chưa được tiếp xúc, đã ngớ ngẫn người như kẻ mất hồn. Chính vì vậy, ai dính mắc vào luyến ái, đam mê, tham muốn dục vọng, không biết chừng nào mới thoát ra được. Một khi đã nói đến sự luyến ái, tức là sự thèm khát và ham muốn về ái dục. Đã là con người, thật khó có thể thoát ly vĩnh viễn được ái dục, ngoài trừ các vị đại Bồ tát. Chính vì vậy, Phật đã đưa nhiều hình ảnh thí dụ sống động về sự tác hại của ái dục, mà khuyên người xuất gia phải cố gắng tu học cho tốt, để vươn lên, vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Vậy, Phật có yêu thương không? Phật yêu thương còn nhiều hơn nữa, bởi trái tim của Phật vốn có tình yêu thương bình đẳng không giới hạn. Cho nên, ta phải thấy rằng, hễ là con ngườì thì ai cũng có hạt giống của tình dục. Trong tình yêu lúc nào cũng có gốc rễ của tình dục, vì sự thèm khát và ham muốn, nên ta luyến ái, yêu thương, chấp trước, bám víu vào đó, để thỏa mãn được khát vọng của mình. Ta tu tập là để chuyển hóa sự luyến ái, ham muốn cho riêng mình thành tình yêu thương chân thật vì mọi người.
Khi ta đã chọn con đường xuất gia, con đường để chuyển hóa sự yêu thương, ích kỷ của riêng mình, thì ta phải khép lại cánh cửa ái ân, để mở rộng tình yêu thương rộng lớn cho tất cả chúng sinh. Như vậy không có nghĩa ta cho rằng ái ân là một tội ác. Ái ân là tình yêu thương của nhân loại, nhưng vì ta đã chọn cho mình một con đường để mở rộng tấm lòng nhân ái bằng tình yêu thương chân thật. Như chúng ta đã thấy, con đường thương yêu của Phật không hề bị hệ lụy, khổ đau, ràng buộc chi phối. Con đường này không làm cho ta phiền muộn khổ đau, nhờ ta biết đem lại bình yên, hạnh phúc cho nhân loại. Sau khi ta khôn ngoan, sáng suốt, lựa chọn con đường của Phật rồi, ta phải đóng kín lại cánh cửa ái ân, mở rộng cánh cửa bình đẳng yêu thương nhân loại.
Đôi lời tâm sự chân thành vì tôi cũng từng là một chúng sinh si mê vô độ, say đắm luyến ái sắc dục nam nữ như cục nam châm khi gặp sắt. Tuy có duyên xuất gia nhưng vẫn chưa đủ sức làm chủ bản thân mỗi khi gặp người khác phái. Tôi vẫn biết mình còn yếu kém, dở tệ như thế, nên với tâm hổ thẹn trình bày ra đây, để chúng ta cùng cảm thông và tha thứ cho nhau, cùng ráng gắng tu tập nhiều hơn, để vượt qua luyến ái buộc ràng.
Bản Kinh Pháp Cú do Tâm Minh - Ngô Tằng Giao chuyển dịch thơ phẩm “ái dục” gồm có 26 bài kệ. Chúng tôi chọn bản dịch này vì nghĩa lý đầy đủ, ý nghĩa sâu sắc theo lời Phật dạy để chú giải.
(334)
Sống đời say đắm buông lung
Thì lòng ái dục vô cùng tăng nhanh
Giống như giữa chốn rừng xanh
Dây leo, cỏ dại mặc tình tràn lan,
Đời người tiếp nối miên man
Khác gì khỉ, vượn đang tham quả rừng
Chuyền cây liên tục chẳng ngừng.
(335)
Nếu mà ở cõi trần gian
Bị điều ái dục buộc ràng vây quanh
Thời bao sầu khổ tăng nhanh
Như là cỏ dại thỏa tình hứng mưa.
(336)
Đời này nếu bản thân ta
Khi điều ái dục vượt qua chẳng màng
Thời bao sầu khổ lìa tan
Như mưa trơn tuột khỏi hàng lá sen.
(337)
Điều Như Lai dạy các ngươi:
"Lành thay cho kẻ họp nơi chốn này
Nhổ cho sạch gốc rễ ngay
Diệt trừ ái dục thẳng tay từ nguồn
Như là nhổ rễ cỏ hoang
Chớ nên để lũ Ma quân dục tình
Quẩn quanh phá hoại tâm mình
Như cơn nước lũ tung hoành bụi lau".
(338)
Đốn cây mà chẳng chịu đào
Hết luôn gốc rễ bám vào đất sâu
Thì cây lại mọc ra mau,
Đoạn trừ ái dục khác nào đốn cây
Đoạn cho căn gốc sạch ngay
Nếu không khổ não mãi quay trở về.
(339)
Người ham ái dục luôn luôn
Theo ba mươi sáu dòng tuôn bạo tàn
Cuốn vào cảnh dục dễ dàng.
Những người ái dục dâng tràn trong tâm
Bị dòng ái dục cuốn phăng.
(340)
Dòng sông ái dục dâng tràn
Như dây leo dại mọc lan khắp miền,
Thấy dây leo mới nhô lên
Dùng gươm trí tuệ diệt liền cho mau
Diệt trừ tận gốc thật sâu.
(341)
Người đời ái dục thích ham
Nên ưa rong ruổi theo làn sóng xô
Ngụp chìm biển dục vô bờ
Tuy cầu hạnh phúc khó mà thành công
Vẫn còn trong chốn trầm luân
Quẩn quanh sinh tử vẫy vùng thoát đâu.
(342)
Người mà ái dục bao trùm
Kinh hoàng như thỏ vẫy vùng lưới kia
Sa vào bẫy, sợ kể chi,
Não phiền, ��i dục chẳng lìa cho mau
Khổ đau càng chịu dài lâu.
(343)
Người mà ái dục bao trùm
Kinh hoàng như thỏ vẫy vùng lưới kia
Sa vào bẫy, sợ kể chi,
Tỳ Kheo ái dục gắng lìa cho mau
(344)
Người lìa ái dục, xuất gia
Sống vui ở chốn rừng già, núi sâu
Để rồi một sớm quay đầu
Xuôi dòng ái dục thương đau về nhà,
Kẻ hoàn tục đáng xót xa
Cởi ra rồi lại tự ta trói vào.
(345)
Với người trí tuệ mở mang
Dù cho trói buộc bằng phương tiện gì:
Dây gai, cây, sắt sá chi
Nào đâu vững chắc, chẳng hề bền lâu!
Riêng lòng luyến ái khát khao
Vợ con, châu báu quyện vào chẳng xa,
Trói này sao gỡ cho ra!
(346)
Những người có trí nói rằng:
"Dây này trói buộc ngày càng chắc thêm!"
Dây tuy mềm mại, êm đềm
Nhưng mà sao dễ nhận chìm người ta
Khó mà tháo gỡ cho ra
Thế nên người trí lìa xa dục tình
Cắt dây luyến ái cho nhanh
Tự mình giải thoát, tu hành bản thân.
(347)
Những người ái dục đắm chìm
Xuôi dòng ái dục vào miền khổ đau
Lọt vòng dây trói trước sau
Tựa như con nhện mắc vào lưới giăng.
Ai mà dứt mọi buộc ràng
Không còn ái dục, chẳng vương não phiền.
(348)
Mặc cho quá khứ trôi đi
Níu chi hiện tại, chờ gì tương lai
Rời mau bến thảm cuộc đời
Vượt qua bờ nọ là nơi tuyệt vời
Khi tâm đã giải thoát rồi
Đâu còn sinh lão nổi trôi xoay vần.
(349)
Người nào bị khuấy động nhiều
Bởi tâm xấu ác, bởi điều bất lương
Thường ham dục lạc vô cùng,
Người mà dục lạc cầu mong tăng nhiều
Tự mình một sớm một chiều
Trói mình thêm chặt vào theo não phiền.
(350)
Ai vui vì chẳng còn vương
Tư tưởng bất thiện, bất lương loại trừ,
Xác thân bất tịnh suy tư
Giữ gìn chánh niệm, thích ưa điều lành
Sẽ trừ ái dục vây quanh
Ma Vương ràng buộc phá nhanh dễ dàng.
(351)
Mục tiêu ai đạt tới nơi
Không còn sợ hãi. Xa rời nhiễm ô
Xa lìa ái dục êm ru
Cắt đi gai chướng nhỏ to trong đời
Mũi tên sinh tử nhổ rồi
Thân này là cuối, luân hồi còn đâu.
(352)
Xa lìa ái dục tầm thường
Không còn luyến tiếc vấn vương bận lòng
Bao nhiêu giáo pháp tinh thông
Lời văn, ý nghĩa vô cùng hiểu sâu
Là người trí tuệ hàng đầu
Vĩ nhân đáng kính, còn đâu luân hồi,
Thân này là cuối cùng rồi.
(353)
Như Lai vượt tất cả rồi
Lại còn thông suốt, sáng soi mọi bề
Bao nhiêu trói buộc dứt lìa
Thoát ly tất cả còn gì vấn vương
Chú tâm trọn vẹn một đường
Diệt đi ái dục tầm thường thế gian
Tự mình chứng ngộ đạo vàng
Ta còn xưng tụng ai làm thầy đây!
(354)
Coi như bố thí hàng đầu
Là đem Chân Lý nhiệm mầu tặng nhau,
Coi như hương vị tối cao
Hương vị Chân Lý ngọt ngào dài lâu
Coi như hoan hỷ hàng đầu
Niềm vui Chân Lý thấm sâu tuyệt vời,
Người nào ái dục diệt rồi
Vượt qua phiền não, xa rời khổ đau.
(355)
Giàu sang, tài sản dồi dào
Chỉ làm hại được kẻ nào ngu thôi,
Dễ gì hại được những người
Đang cầu giác ngộ hướng nơi Niết Bàn,
Chỉ vì ham muốn giàu sang
Kẻ ngu tự hại bản thân đã đành
Hại thêm cả kẻ xung quanh.
(356)
Cỏ hoang làm hại ruộng vườn
Tham lam gây hại nhiều hơn cho người,
Tham lam ai đã lìa rồi
Cúng dường vị ấy chẳng nơi nào bằng
Hưởng về phước báu vô vàn.
(357)
Cỏ hoang làm hại ruộng vườn
Lòng sân gây hại nhiều hơn cho người,
Ai lìa sân hận được rồi
Cúng dường vị ấy chẳng nơi nào bằng
Hưởng về phước báu vô vàn.
(358)
Cỏ hoang làm hại ruộng vườn
Si mê gây hại nhiều hơn cho người,
Si mê ai đã lìa rồi
Cúng dường vị ấy chẳng nơi nào bằng
Hưởng về phước báu vô vàn.
(359)
Cỏ hoang làm hại ruộng vườn
Ái dục gây hại nhiều hơn cho người,
Ai lìa ái dục được rồi
Cúng dường vị ấy chẳng nơi nào bằng
Hưởng về phước báu vô vàn.
Bây giờ chúng ta từng tự tìm hiểu nghĩa lý của các bài kệ trên Phật muốn chỉ dạy chúng ta những gì:
Nguyên nhân của khổ đau, luân hồi sinh tử là gì? Là sự chấp ngã bám víu vào sắc thân năm bảy chục ký lô này là ta, là của ta, do đó ta muốn chiếm hữu, cho nên từ đó ái dục bắt đầu phát sinh. Khi ta luyến ái, chấp trước, bám víu vào dục vọng, kể từ đó hạnh phúc hay đau khổ bắt đầu có mặt.
(334)
Sống đời say đắm buông lung
Thì lòng ái dục vô cùng tăng nhanh
Giống như giữa chốn rừng xanh
Dây leo, cỏ dại mặc tình tràn lan,
Đời người tiếp nối miên man
Khác gì khỉ, vượn đang tham quả rừng
Chuyền cây liên tục chẳng ngừng.
(335)
Nếu mà ở cõi trần gian
Bị điều ái dục buộc ràng vây quanh
Thời bao sầu khổ tăng nhanh
Như là cỏ dại thỏa tình hứng mưa.
(336)
Đời này nếu bản thân ta
Khi điều ái dục vượt qua chẳng màng
Thời bao sầu khổ lìa tan
Như mưa trơn tuột khỏi hàng lá sen.
(337)
Điều Như Lai dạy các ngươi:
"Lành thay cho kẻ họp nơi chốn này
Nhổ cho sạch gốc rễ ngay
Diệt trừ ái dục thẳng tay từ nguồn
Như là nhổ rễ cỏ hoang
Chớ nên để lũ Ma quân dục tình
Quẩn quanh phá hoại tâm mình
Như cơn nước lũ tung hoành bụi lau".
Khi tâm ý ta bám víu vào ái dục, thì cây ái dục sẽ đâm chồi, trổ nhánh rất mau. Tâm ý duyên theo đối tượng ái dục sẽ làm cho lòng ta rạo rực bừng cháy trong tim, khi ấy ta cảm thấy luyến tiếc, nhớ nhung, xao xuyến, bồn chồn. Người hay dính mắc vào ái dục giống như loài vượn khỉ, chuyền từ cành cây này, sang cành cây khác, để tìm quả trái mà ăn.
Ái dục buộc ta phải gánh chịu lấy nhiều khổ đau. Ái dục làm cho ta bị si mê, say đắm, dính mắc vào cuộc sống phàm tình ở thế gian này. Những lo lắng và sợ hãi do ái dục làm ta mê muội, tham đắm tăng trưởng theo ngày tháng, nó mọc kín, dày đặc như là các loài cỏ dại.
Nếu ai ở đời này bị ái ân làm mê hoặc, thì sớm muộn gì cũng sẽ dính mắc vào khoái lạc tính dục. Nó sẽ làm cho ta lo lắng ngày càng nhiều hơn, giống như dòng nước rỉ chảy từng giọt nhỏ, nhưng rỉ mãi cũng đầy hồ. Vì thế ta phải biết cách chuyển hóa luyến ái, ham muốn dục vọng, để nó không làm cho ta sầu khổ, như nước không bao giờ thấm vào được lá sen.
Người tu đạo muốn tâm ý được an ổn, nhẹ nhàng, thì phải quyết tâm dứt bỏ, xa lìa ái ân. Hết ân, hết ái thì không còn bị đọa lạc trong luân hồi sinh tử, không còn bị ái nhiễm mọi thứ dục vọng, thì ta sẽ thật sự bình yên, hạnh phúc.
Biết được sự tác hại của ái dục rất ghê gớm, nó làm cuộc đời ta có nhiều thứ phải lo lắng, sợ hãi và đau buồn, khổ sở. Nhưng đau buồn và khổ sở hơn hết là cái buồn rầu lo lắng do tham muốn ái dục đem lại. Ái nặng tình sâu, ân nghĩa không xa lìa đến khi gần chết; chung quanh người thân thuộc tiếc nhớ khóc thương, làm cho ta thêm lo lắng, sầu khổ, khó bề ra đi. Do đó, ta phải biết cách chuyển hóa, buông bỏ được luyến ái ham muốn dục vọng, thì ta mới yên chí vững lòng duỗi thẳng hai chân mà ngủ.
Ngay trong các bài kệ này, chúng ta đã thấy đây không phải là các bài kệ dành riêng cho người xuất gia. Người tại gia cũng có thể áp dụng tu tập được, vì người tại gia sống trong một hoàn cảnh có rất nhiều cơ hội bị quyến rũ dính mắc, đam mê vào ái ân, dục lạc. Sống trong chùa, mỗi thiền sinh đều được thầy tổ thương yêu, nhắc nhở, chỉ dạy, được thực tập hạnh buông xả luyến ái, vì có tăng thân bảo bọc, che chở. Đối với người tại gia, ta sống ngoài đời với bao nhiêu cám dỗ hấp dẫn của tiền tài, sắc đẹp, danh vọng. Hằng ngày, ta đi tới chỗ làm để giao tiếp, gặp gỡ người này, người kia, nên ta dễ dàng bị cuốn hút bởi các lực hấp dẫn đó. Dù ta đã có vợ, có chồng, có con rồi, nhưng ta vẫn bị sự chi phối mãnh liệt của ái dục, như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, nên ta có lúc cũng muốn bỏ bà xã để chạy theo người yêu, bỏ ông xã để đến với người tình.
Trong kinh, đức Phật dùng hình ảnh thí dụ rất hay, như con vượn chuyền từ cành này sang cành khác để tìm trái cây. Nó ăn một trái rồi, nhưng còn thèm khát, nên muốn tìm ăn một trái khác nữa. Ở ngoài đời, chuyện ngoại tình xảy ra rất nhiều. Sự thực tập đối với người tại gia còn khó hơn đối với người xuất gấp bội. Vì vậy, xuất gia là con đường dễ dàng nhất để ta từng bước chuyển hóa tâm dính mắc vào ái dục, ta không nên chờ cho đến già hết xí quách rồi mới xuất gia.
Chính vì để giúp cho người tại gia, Phật mới chế giới không được tà dâm, để người tại gia ý thức được sự khổ đau do sự phá hoại hạnh phúc gia đình của người khác, mà giữ trọn vẹn giới pháp, sống một lòng chung thủy, không làm tổn hại cho ai. Nhưng người tại gia giữ được giới này rất là khó, vì đó là lòng tham muốn của đa số người nam do sự đam mê, ham thích của lạ, nên nó là nguyên nhân của bao điều tội lỗi. Ngày xưa, trong thời đại phong kiến, với quan niệm chồng chúa vợ tôi, nên kiếp chồng chung là một điều rất đau khổ đối với người phụ nữ.
Từ khi đạo Phật có mặt trong cuộc đời, chuyện nam nữ bình đẳng về mọi phương diện đã lần hồi được thay đổi theo thời gian, nên việc xây dựng hạnh phúc gia đình hoàn toàn được tự do lựa chọn. Nhờ vậy, quan niệm chồng chúa vợ tôi hoặc theo tập cấp cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, vì áo làm sao mặc qua khỏi đầu, dần hồi được thay đổi theo thời gian.
Ngày xưa, đa số người nam không giữ được giới tà dâm, nên kiếp sống chung chồng của người con gái rất ư là khổ sở, từ đó tâm ganh ghét, ghen tuông, ích kỷ, tìm cách mưu hại lẫn nhau, chỉ vì không được thỏa mãn dục tính cho riêng mình, mà phải chịu chia sớt cho nhiều người. Đó là nổi khỗ, niềm đau của người sống kiếp chồng chung, còn tham luyến ái dục nặng nề.
(338)
Đốn cây mà chẳng chịu đào
Hết luôn gốc rễ bám vào đất sâu
Thì cây lại mọc ra mau,
Đoạn trừ ái dục khác nào đốn cây
Đoạn cho căn gốc sạch ngay
Nếu không khổ não mãi quay trở về.
(339)
Người ham ái dục luôn luôn
Theo ba mươi sáu dòng tuôn bạo tàn
Cuốn vào cảnh dục dễ dàng.
Những người ái dục dâng tràn trong tâm
Bị d��ng ái dục cuốn phăng.
(340)
Dòng sông ái dục dâng tràn
Như dây leo dại mọc lan khắp miền,
Thấy dây leo mới nhô lên
Dùng gươm trí tuệ diệt liền cho mau
Diệt trừ tận gốc thật sâu.
(341)
Người đời ái dục thích ham
Nên ưa rong ruổi theo làn sóng xô
Ngụp chìm biển dục vô bờ
Tuy cầu hạnh phúc khó mà thành công
Vẫn còn trong chốn trầm luân Quẩn quanh sinh tử vẫy vùng thoát đâu.
(342)
Người mà ái dục bao trùm
Kinh hoàng như thỏ vẫy vùng lưới kia
Sa vào bẫy, sợ kể chi,
Não phiền, ái dục chẳng lìa cho mau
Khổ đau càng chịu dài lâu.
(343)
Người mà ái dục bao trùm
Kinh hoàng như thỏ vẫy vùng lưới kia
Sa vào bẫy, sợ kể chi,
Tỳ Kheo ái dục gắng lìa cho mau
Niết Bàn giải thoát xa đâu.
Là người xuất gia tu theo đạo giác ngộ giải thoát, ta không nên bám víu vào ái dục. Ta phải tìm cách diệt trừ tận nguồn gốc của cây ái dục, để rễ của nó không còn có khả năng đâm chồi lên được. Nếu ta diệt dục như việc cắt cỏ dại, thì sau khi được cắt rồi, cỏ dại lại mọc lên nhanh, và ra nhiều hơn trước nữa.
Gốc cây ái dục sâu và vững, nó giống như một tập khí vậy. Tuy ta đã đốn ngang thân cây, nhưng lại không chịu đào bứng gốc, vì vậy cành lá tiếp tục nảy sinh ra trở lại. Tâm ái dục nếu chưa dứt trừ, thì cái khổ do ái dục đem tới vẫn còn nguyên như cũ, khi gặp duyên sẽ phát sinh luyến tiếc, nhớ thương, mà làm đau khổ cho ta.
Dòng suối tâm ý ấy cứ mặc tình trôi chảy, khiến cho những nút thắt ái dục đan kết lại với nhau chằng chịt. Chỉ có tuệ giác chân thực của Thế tôn mới có khả năng phân biệt và thấy rõ được đìều này và giúp cho ta đoạn trừ được căn nguyên của nó, phát xuất từ tâm ý.
Dòng suối ái dục thấm vào suy nghĩ, nhận thức của ta, phát triển mau chóng, lớn mạnh, quấn vào nhau, để ta khó bề rời xa. Nguồn suối ái dục như giếng sâu không đáy làm cho cái già và cái chết xảy đến nhanh chóng, nên các vị vua thời phong kiến ít có người nào chết già, sống thọ.
Những cành nhánh của cây ái dục cứ tiếp tục sinh trưởng không dừng nghỉ, cũng bởi vì chúng được nuôi dưỡng bằng các thực phẩm thêm lớn lòng ham muốn ái dục. Khi ta mê mờ bởi những thực phẩm này, chúng nuôi dưỡng thêm sự oán hận, chúng kết thành nhiều tấm lưới để ràng buộc chúng ta lại, làm ta chịu khổ đau từ đời này sang kiếp nọ, không có ngày thôi dứt. Người thiếu sáng suốt và trí tuệ thì cứ nôn nóng muốn đi về hướng ấy hoài, mà không biết làm cách nào để thoát ra, vì nó theo ta như hình với bóng.
(344)
Người lìa ái dục, xuất gia
Sống vui ở chốn rừng già, núi sâu
Để rồi một sớm quay đầu
Xuôi dòng ái dục thương đau về nhà,
Kẻ hoàn tục đáng xót xa
Cởi ra rồi lại tự ta trói vào.
(345)
Với người trí tuệ mở mang
Dù cho trói buộc bằng phương tiện gì:
Dây gai, cây, sắt sá chi
Nào đâu vững chắc, chẳng hề bền lâu!
Riêng lòng luyến ái khát khao
Vợ con, châu báu quyện vào chẳng xa,
Trói này sao gỡ cho ra!
(346)
Những người có trí nói rằng:
Dây này trói buộc ngày càng chắc thêm
Dây tuy mềm mại, êm đềm
Nhưng mà sao dễ nhận chìm người ta
Khó mà tháo gỡ cho ra
Thế nên người trí lìa xa dục tình
Cắt dây luyến ái cho nhanh
Tự mình giải thoát, tu hành bản thân.
Một chàng cư sĩ đã có vợ và con, ý thức được sự khổ não của đời sống gia đình, nên anh thỏa thuận với vợ để được xuất gia. Cô vợ đồng ý, anh ta được Phật tế độ và nhờ Phật chỉ dạy phương pháp diệt trừ ái dục. Sau đó, anh một mình tiến vào rừng sâu, thực hành hạnh buông xả suốt ba năm, nhưng không thành công, mà luôn khởi ý niệm thương nhớ về vợ con ngày càng mãnh liệt. Buồn quá, anh quyết định hoàn tục, trở về đời sống gia đình, vui vẻ sống bên con, bên vợ.
Phật biết điều này, nên Người dùng thần lực đến gặp và khéo léo phương tiện để giúp đệ tử mình vượt qua đam mê luyến ái dục vọng. Kẻ bị tù đày làm súc sinh, quỷ đói hoặc bị đọa địa ngục nhưng có ngày ra khỏi, người vô minh, mê muội, vướng vào tiền bạc nhà cửa, luyến ái vợ con, biết chừng nào mới hết khổ đau bởi luân hồi, sinh tử. Nói xong, Phật dùng kệ để nhắc lại phương pháp hành trì:
Như chặt cây mà không bứng rễ
Cành nhánh vẫn mọc lại bình thường
Muốn trừ ái dục si mê
Bứng ngay rễ ý an nhiên thanh nhàn.
Vị đệ tử sau khi nghe lời Phật dạy, thường xuyên quán chiếu tinh cần, nên một thời gian sau chứng quả giác ngộ giải thoát.
Tâm tham ái dục vọng là một dòng chảy miên man vô tận, bởi các thói quen lâu đời do ta đã huân tập. Chính nó đã ăn sâu vào tâm thức của chúng ta, và theo ta từ vô thủy kiếp đến nay, chỉ cần ý khởi lên là tâm niệm thèm khát trong ta sẽ trỗi dậy vô cùng mãnh liệt. Nếu ta lơ là, bất giác một chút, thì nó nhanh chóng cuốn ta nhớ về dĩ vãng, quá khứ chung đụng ái ân, như vị tỳ kheo trên. Do chấp ngã thấy thân này là thật, nên ta dễ sinh kiêu mạn, và bám víu vào đó, dính mắc, chấp trước. Những tư duy và nhận thức của ta đều có thể được tô điểm cho bản ngã lớn thêm, nên ta say mê, đắm đuối vào ái dục, không biết chừng nào mới thoát ra được. Phật dạy, ái dục từ tâm ý phát sinh, nó là đầu mối dẫn ta đi trong luân hồi sinh tử để chịu khổ đau. Muốn dứt trừ nó cũng không khó, chỉ cần ta chịu khó buông xả từng ý niệm khi nó phát sinh, và cứ như thế, ta cố gắng duy trì bền bỉ, chuyển hóa từng ý niệm.
Đặc điểm của kinh là đức Phật sử dụng rất nhiều hình ảnh tuyệt diệu. Một trong số đó là hình ảnh con tằm kéo cái kén làm thành tù ngục để tự giam hãm nó. Trong một bản dịch khác đã dùng hình ảnh con nhện với cái lưới của nó. Tuy nhiên cả hai hình ảnh đều cùng diễn tả một hành động của kẻ thiếu trí tuệ, đó là tự giam mình trong tù ngục của dâm dục, cái nhà tù do chính họ tự tạo ra mà không phải ai khác. Người trí thì có khả năng chấm dứt và buông bỏ, không đoái hoài tới sắc dục, nên có thể diệt trừ được tất cả khổ nạn.
Khi Phật còn tại thế, nhiều vị tỳ kheo đã chứng quả A La Hán nhờ quán về đề mục, “thân này gồm có 32 phần thể trược trong cơ thể”. Nhờ quán như vậy, nên ta bớt tham đắm vào sắc thân ô uế; do đó, ta không si mê, dính mắc, tham đắm vào ái dục. Chính ta tham muốn ái dục, nên chấp trước, bám víu vào đó, mà làm khổ đau cho nhau. Không một ai có thể phủ nhận sự hiện hữu của đau khổ trên cõi đời này. Đau khổ mà con người phải gánh chịu ngày hôm nay là hậu quả do chúng ta đã làm những nghiệp bất thiện trong quá khứ, chính lòng ham muốn ái dục là động cơ thúc đẩy ta hành động tạo nghiệp từ thân, miệng, ý. Cũng chính ái dục thúc đẩy con người luyến ái, bám víu, và dai dẳng đeo đuổi theo sự sống. Lòng khát khao ham muốn ấy lôi cuốn con người từ kiếp sống này đến kiếp sống khác, không có ngày thôi dứt.
(347)
Những người ái dục đắm chìm
Xuôi dòng ái dục vào miền khổ đau
Lọt vòng dây trói trước sau
Tựa như con nhện mắc vào lưới giăng.
Ai mà dứt mọi buộc ràng
Không còn ái dục, chẳng vương não phiền.
(348)
Mặc cho quá khứ trôi đi
Níu chi hiện tại, chờ gì tương lai
Rời mau bến thảm cuộc đời
Vượt qua bờ nọ là nơi tuyệt vời
Khi tâm đã giải thoát rồi
Đâu còn sinh lão nổi trôi xoay vần.
(349)
Người nào bị khuấy động nhiều
Bởi tâm xấu ác, bởi điều bất lương
Thường ham dục lạc vô cùng,
Người mà dục lạc cầu mong tăng nhiều
Tự mình một sớm một chiều
Trói mình thêm chặt vào theo não phiền.
(350)
Ai vui vì chẳng còn vương
Tư tưởng bất thiện, bất lương loại trừ,
Xác thân bất tịnh suy tư
Giữ gìn chánh niệm, thích ưa điều lành
Sẽ trừ ái dục vây quanh
Ma Vương ràng buộc phá nhanh dễ dàng.
Kẻ có tâm ý buông luông, phóng đãng, khi nhìn vào một người khác phái sẽ cho đó là một cái gì tinh khiết, nên ham muốn thèm khát ái dục. Họ không biết rằng, sự tăng trưởng lớn mạnh của ái ân, sẽ đem tới nhiều hệ lụy khổ đau ràng buộc, giống như người phạm tội bị giam cầm trong lao ngục.
Những ai biết vâng theo lời Phật dạy, thực tập chánh niệm tỉnh giác, sẽ có khả năng thấy được người khác phái kia là bất tịnh, không trong sạch; do đó, diệt trừ được tâm ham muốn, luyến ái, yêu thích, nên thoát khỏi tai ương của nhiều hệ lụy khổ đau.
Ai bị chìm đắm và tự quấn mình trong chiếc lưới ái ân, tự che mình bằng chiếc dù ái dục, sẽ giống như con cá tự chui vào lưới, bị cái lưới ấy xiết chặt, giam hãm, không có ngày thoát ra. Ai xa lìa được tham muốn dục vọng, không đi theo vết xe của ái ân, thì có thể vượt thoát ra ngoài chiếc lưới ràng buộc, vì đam mê, dính mắc ái dục, do đó không còn bị bất cứ một cái gì làm hại được nữa.
Khi Phật còn tại thế, gần thành Xá Vệ, có gia đình một ông trưởng rất giàu có, nhưng lại tham lam, bỏn sẻn, keo kiết, chẳng khi nào biết giúp đỡ một ai.
Một hôm ông thèm món thịt gà xé phay, mới bảo gia nhân bắt một gà trống thiến to béo, mập mạp. Sau khi làm xong, ông cho người đóng kín cửa lại để vợ con ông cùng thưởng thức món ăn khoái khẩu này. Phật biết ông là người có duyên được độ, nên dùng thần thông đi thẳng vào nhà. Ông nhà giàu thấy thế liền quát tháo ầm ĩ lên, “Sa môn tu hành gì mà chẳng biết xấu hổ, nhà của người ta mà tự nhiên đi vào chẳng thèm hỏi ai hết”.
Phật mới nói rằng, “tôi đi ăn xin đâu có gì là xấu hổ. Ông mới là người đáng xấu hổ, ăn thịt cha mình mà không hay, không biết”. Ông nhà giàu tức quá mới nói, “cha tôi chết đã lâu, tại sao Ngài dám nói bậy bạ như thế?” – “Con gà ông đang ăn là cha ruột của ông đó, vì si mê tham ái, luyến tiếc quá độ, mà sinh lại làm gà để cho ông và vợ con cùng làm thịt để ăn. Đến như vợ của ông bây giờ là mẹ của ông đời trước, vì yêu thương, ham thích ái ân, nên mới sinh lại làm vợ ông đó. Ông ngu si, mê muội, lấy cha làm oán thù, lấy mẹ làm ân ái vui vầy, mà không biết tu nhân tích đức, nên phải chịu nhiều hệ lụy khổ đau trong ba cõi sáu đường không có ngày thôi dứt”.
Khi nghe Phật nói, trong lòng ông ăn năn, hối hận vô cùng, bèn quỳ xuống xin Phật chỉ bày. Phật dùng thần lực để ông nhớ lại quá khứ, nhờ vậy, ông phát tâm quy y và lãnh thọ năm giới. Phật nói, “nhân quả nghiệp báo luôn theo ta như bóng với hình, dù trăm kiếp, ngàn đời vẫn không mất; khi hội đủ nhân duyên, quả báo hoàn tự hiện. Tham ái, yêu thương, luyến chấp, nên vợ chồng, cha mẹ, người thân cứ như thế mà tái sinh trở lại; khi thì làm cha mẹ, khi thì làm vợ con, rồi cứ thế mà ăn nuốt, giết hại lẫn nhau từ đời này sang kiếp khác”.
Như ông nhà giàu đó ăn thịt gà, mà không biết mình đang ăn thịt cha mình, bởi người cha ngày xưa vì thương yêu, luyến ái đứa con trai, nên bị sinh trở lại làm con gà trống thiến to béo, mập mạp. Rồi người mẹ của ông cũng vậy, vì yêu thương, luyến ái con, rốt cuộc sinh trở lại để làm vợ ông. Con người cứ như thế mà chịu khổ đau trong luân hồi sinh tử, từ đời này, sang kiếp nọ, mà không có ngày thôi dứt. Hạnh phúc thay! Gia đình ông trưởng giả nhờ có duyên gặp Phật mà thấy được nhân duyên các tiền kiếp trước, nhờ vậy, ông và gia đình phát tâm quy y Phật, làm người cư sĩ tại gia, giữ gìn năm giới pháp, quyết tâm ăn trường chay để tránh tội khổ giết hại, ăn nuốt lẫn nhau.
Ngư���i tại gia khó khăn hơn trong việc dứt trừ ái dục trọn vẹn, nên phải biết cách điều hòa, hạn chế lòng ham muốn. Tuy có gia đình, vợ chồng con cái, nhưng Phật chế ra năm giới để giúp người tại gia tránh bớt những lỗi đáng tiếc, mà cố gắng sống tốt, để làm tròn trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, người thân, phục vụ tốt cho xã hội và hộ trì cho Tam bảo.
Không giết hại mà còn hay giúp người, cứu vật, là mở rộng lòng từ thương yêu bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Không gian tham, trộm cướp, lường gạt của người khác, mà lại còn bố thí, cúng dường, giúp đỡ, sẻ chia; nhờ vậy, không có ai bị mất mát tiền bạc, tài sản, mà không phải lo lắng, sợ hãi. Vì không tà dâm nên vợ chồng sống vui vẻ, hạnh phúc, không phá hoại hạnh phúc gia đình của người khác. Vì không nói dối để dụ dỗ, lường gạt người, nên ta sống ở đâu cũng được mọi người giúp đỡ, thương tưởng. Không rượu chè be bét, say sưa, nghiệp ngập, xì ke ma túy, thì ta thông minh, sáng suốt, mà không gây khổ đau cho nhau.
Ái dục đối với người xuất gia thì phải dứt trừ, đối với người tại gia thì phải biết điều hòa chừng mực, không quá si mê, đắm đuối và ta phải luôn ý thức sự tác hại của nó còn hơn gông cùm, tù tội. Muốn ít, biết đủ, là phương pháp rèn luyện cho ta biết cách làm chủ ham muốn nhờ có trí tuệ sáng suốt mà vượt qua luới ái, lìa buộc ràng.
(351)
Mục tiêu ai đạt tới nơi
Không còn sợ hãi xa rời nhiễm ô
Xa lìa ái dục êm ru
Cắt đi gai chướng nhỏ to trong đời
Mũi tên sinh tử nhổ rồi
Thân này là cuối, luân hồi còn đâu.
(352)
Xa lìa ái dục tầm thường
Không còn luyến tiếc vấn vương bận lòng
Bao nhiêu giáo pháp tinh thông
Lời văn, ý nghĩa vô cùng hiểu sâu
Là người trí tuệ hàng đầu
Vĩ nhân đáng kính, còn đâu luân hồi,
Thân này là cuối cùng rồi.
(353)
Như Lai vượt tất cả rồi
Lại còn thông suốt, sáng soi mọi bề
Bao nhiêu trói buộc dứt lìa
Thoát ly tất cả còn gì vấn vương
Chú tâm trọn vẹn một đường
Diệt đi ái dục tầm thường thế gian
Tự mình chứng ngộ đạo vàng
Ta còn xưng tụng ai làm thầy đây!
Sau khi thành đạo, Phật nhớ lời thỉnh cầu của vua Tần Bà Sa La, nên trở về nước Ma Kiệt Đà độ vua và hoàng tộc quy y Tam bảo. Do đó, nhà vua phát tâm cúng dường Tịnh xá Trúc Lâm đầu tiên. Hoàng hậu Khema, một trang tuyệt sắc giai nhân vô cùng xinh đẹp, bà rất tự hào và kiêu hãnh về sắc đẹp nghiêng thành, đổ nước của mình, không một mỹ nhân nào có thể sánh bằng. Một hôm, do lòng hiếu kỳ, bà đến Tịnh xá Trúc Lâm để tham quan thắng cảnh. Bà vô cùng ngạc nhiên vì một sự thật quá ngỡ ngàng, bên cạnh Phật là một người con gái xinh đẹp, kiều diễm, trẻ trung như tiên nữ giáng trần; nhìn lại mình, bà cảm thấy tủi hổ khi so sánh với người con gái ấy.
Người si mê, tham ái, bị kẹt trong lưới ngũ dục như con cá bị vướng vào lưới, khó bề thoát ra. Khi ân ái đã sâu đậm, nhất là những người phụ nữ đẹp, luôn luôn bị dính mắc, nên lúc nào cũng trau chuốt và làm đẹp thân này. Tuy ái dục làm cho con người say mê, đắm đuối, và ràng buộc con người chặt chẽ, nhưng đối với người có ý chí, có nghị lực, vẫn có thể đối trị được dục ái, để được giải thoát và không còn bị phiền muộn, khổ đau chi phối.
Hoàng hậu Khema từ xưa nay chưa bao giờ thấy một người con gái nào xinh đẹp, kiều diễm đến thế, bà cứ đắm đuối nhìn người con gái ấy mãi không chán. Đức Phật biết được tâm ý của bà, nên dùng thần lực làm cho bà nhìn thấy cô gái xinh đẹp, duyên dáng, kiều diễm, trẻ trung, có sức hấp dẫn quyến rũ ấy, bỗng dần dà trở nên già cả xấu xí. Cuối cùng, cô ta chỉ còn là một túi da bọc xương trông thật ghê gớm. Qua đó, bà bừng ngộ ra rằng, sắc đẹp thể chất, hình hài này là không thật có, nhận ra tính cách vô thường tạm bợ của đời sống con người. Bà không ngờ, chỉ trong thoáng chốc mà người con gái xinh đẹp ấy trở thành già nua và chết chóc, trông chẳng khác nào con khỉ già khô đét.
Sau thời pháp, bà đến quỳ một bên, nhờ Phật khai thị nguyên lý vô thường, đổi thay của một con người. Phật nói, “này, hoàng hậu Khema, chúng sinh trong thế gian do đam mê, tham muốn ái dục, mà dòng sông tham ái phát sinh như giếng sâu không đáy, tham được thì càng thêm tham, nên cố tình tìm cách nắm giữ, ai làm mất mát đi thì sinh ra đau khổ. Nhưng nếu tham mà không được, thì sinh ra nóng giận, hờn mát, ghen tuông, thù ghét, nên tìm cách hủy diệt lẫn nhau. Từ đó, tâm si mê càng thêm dính mắc luyến ái vào đó, mà không có ngày vượt thoát ra khỏi, vì lưới ái càng buộc ràng hơn”. Khi bài pháp kết thúc, hoàng hậu Khema đã chứng quả Dự Lưu vào dòng Thánh.
Bà xin vua Tần Bà Sa La được xuất gia học đạo. Nhà vua là một Phật tử thuần thành, nên rất vui vẻ, chấp nhận cho bà ngay. Sau đó, ni Khema siêng năng, tinh cần tu tập, không bao lâu đã chứng quả A la hán. Bà là một trong những trưởng lão ni xuất sắc nhất trong thời kỳ đó, để lại tiếng thơm muôn đời cho đến ngày hôm nay.
Có người thắc mắc hỏi, “vì sao bà xuất gia” – “vì tôi đẹp, nên t��i mới xuất gia chứ!”.
Người con gái, hay còn gọi là phái đẹp, tức là người có nhan sắc mặn mà, dễ thương; tức là vẻ đẹp bề ngoài, vẻ đẹp có thể quyến rũ và làm mê hoặc nhiều đấng mày râu. Người xuất gia phải thường xuyên quán chiếu, xem xét, để phát sinh trí tuệ thấy biết đúng như thật, vướng vào sắc đẹp làm cho ta luyến ái, sầu khổ, không ngày thôi dứt.
Chúng ta thử đi vào thực tế cuộc đời, từ quảng cáo, sách báo, phim ảnh, đều tô son, điểm phấn cho cái đẹp của phụ nữ. Phụ nữ thích mang đồ trang sức và làm đẹp là thói quen từ bao đời kiếp đến nay. Nhờ vậy, các thẩm mỹ viện trang điểm sắc đẹp mọc lên như nấm. Sản phẩm làm đẹp cho phụ nữ và các đấng mày râu bán chạy như tôm tươi. Để thu hút đấng mày râu, các dịch dụ quảng cáo, quán xá, nhà hàng, khách sạn,ăn uống, cà phê, giải khát, đều phải tuyển các phụ nữ trẻ đẹp để kích thích lòng tham muốn ái dục. Khoa giải phẫu thẩm mỹ cũng đang rất thịnh hành, nhiều người phụ nữ đến đó bơm ngực, làm mặt cho trắng đẹp ra, nhờ mọi phương tiện thiện xảo để thay đổi, bù đắp những chỗ ta cho là không được đẹp trên thân thể.
Người nào cũng muốn trang điểm cho vẻ đẹp bên ngoài thêm hấp dẫn, nhất là phái nữ, nhưng bên trong thì không có gì là đẹp. Đó gọi là cái thấy không chân lý, bởi vì nó không có thật, mà ta cứ tưởng là thật, nên lúc nào ta cũng trau chuốt, tô điểm cho nó, vì sợ mọi người chê ta xấu. Đó là một lẽ thật mà ta cần phải thường xuyên thực tập, quán chiếu, xem xét về sự vô thường của thân này. Vô thường là một trong những phép quán quan trọng của đạo Phật, chúng ta cần phải thực tập sâu sắc để chuyển hóa được ngục tù của ái dục.
Hoàng hậu Khema nghĩ mình là hoa hậu thời bấy giờ, nên rất tự hào, hãnh diện về sắc đẹp nghiêng thành, đổ nước của mình. Bà cho rằng, toàn xứ Ấn độ chưa chắc có người con gái nào xinh đẹp như bà. Vừa là vợ vua, vừa là một trang tuyệt sắc giai nhân, sống một đời vương giả, quyền quý, cao sang, ai lại không ham, không thích sao được. Ấy thế mà, hôm nay, chính mắt bà nhìn thấy một người con gái đẹp đến nỗi không có chỗ nào chê được. Vậy mà trong phút chốc, từ một vẻ đẹp mỹ miều thay đổi, biến dạng, để trở thành một bà già xấu xí, một xác chết ruồi bu, kiến đậu, tanh hôi vô cùng. Nhờ vậy, bà thức tỉnh, ý thức được sự mong manh, vô thường của con người sao quá nhanh chóng. Bà giảm bớt kiêu khí tự hào, hãnh diện từ xưa nay, mà quỳ bên đức thế tôn xin Người chỉ dạy.
Phật nói một bài pháp sống, tác động đến tâm tư, trí não của bà, khiến bà sau đó liền quyết định xuất gia. Nhờ có nhân duyên nhiều đời với Phật pháp, cùng với sự siêng năng tu hành của mình, bà đã chứng được pháp giác ngộ, giải thoát. Bà là một tỳ kheo ni mẫu mực, xứng đáng cho đời tán thán, ca ngợi; nhất là các Phật tử nữ bây giờ, hãy bắt chước và học theo công hạnh của bà năm xưa.
(354)
Coi như bố thí hàng đầu
Là đem Chân Lý nhiệm mầu tặng nhau,
Coi như hương vị tối cao
Hương vị Chân Lý ngọt ngào dài lâu
Coi như hoan hỷ hàng đầu
Niềm vui Chân Lý thấm sâu tuyệt vời,
Người nào ái dục diệt rồi
Vượt qua phiền não, xa rời khổ đau.
(355)
Giàu sang, tài sản dồi dào
Chỉ làm hại được kẻ nào ngu thôi,
Dễ gì hại được những người
Đang cầu giác ngộ hướng nơi Niết Bàn,
Chỉ vì ham muốn giàu sang
Kẻ ngu tự hại bản thân đã đành
Hại thêm cả kẻ xung quanh.
(356)
Cỏ hoang làm hại ruộng vườn
Tham lam gây hại nhiều hơn cho người,
Tham lam ai đã lìa rồi
Cúng dường vị ấy chẳng nơi nào bằng
Hưởng về phước báu vô vàn.
(357)
Cỏ hoang làm hại ruộng vườn
Lòng sân gây hại nhiều hơn cho người,
Ai lìa sân hận được rồi
Cúng dường vị ấy chẳng nơi nào bằng
Hưởng về phước báu vô vàn.
(358)
Cỏ hoang làm hại ruộng vườn
Si mê gây hại nhiều hơn cho người,
Si mê ai đã lìa rồi
Cúng dường vị ấy chẳng nơi nào bằng
Hưởng về phước báu vô vàn.
(359)
Cỏ hoang làm hại ruộng vườn
Ái dục gây hại nhiều hơn cho người,
Ai lìa ái dục được rồi
Cúng dường vị ấy chẳng nơi nào bằng
Hưởng về phước báu vô vàn.
Trong các việc đóng góp, giúp đỡ, sẻ chia, làm phước, bố thí… cúng dường chánh pháp là một việc làm cao cả hơn hết. Trong các mùi hương, chỉ có hương đạo đức là tung bay ngược chiều gió, nên bao giờ cũng thơm hơn các thứ hương khác. Trong các thứ hạnh phúc, được thực tập và sống theo lời Phật dạy là an vui, hạnh phúc lớn nhất. Nhờ đó, ta có được bình yên, hạnh phúc thật sự, bằng cách chuyển hóa, đoạn trừ sự ham muốn, đam mê ái dục.
Người si mê, u tối, thường tham muốn quá đáng, nên tự trói mình trong ái dục trở lại, như con tằm làm kén, tự quấn mình vào trong. Đối với hàng Phật tử, ta cần phải có niền tin lớn đối với Tam bảo, biết tin sâu nhân quả, làm việc bố thí, cúng dường, giúp đỡ, sẻ chia, với tinh thần thương yêu, bình đẳng.
Ai chuyển hóa được đam mê, luyến ái dục vọng, thì không còn bất an, lo lắng, sợ hãi nữa, nên lúc nào cũng hoàn toàn được tự do và an lạc, thảnh thơi, vui vẻ sống trong dòng đời nghiệt ngã này.
CÁ NHẢY KHỎI LƯỚI
Người xuất gia tuy không còn gầy dựng hạnh phúc lứa đôi, không còn phải bận bịu việc vợ chồng, con cái, nhưng vẫn phải đương đầu với vấn đề tham luyến ái dục, vì người xuất gia đi ngược lại dòng đời, nên phải dùng tuệ giác thấy biết đúng như thật để chuyển hóa ái dục. Phật dạy, người xuất gia phải ý thức việc thoát ly sinh tử, mà cố gắng thực tập vững chãi các điều giới luật và oai nghi. Ta đừng để xảy ra sự chung đụng trái phép. Ta cũng đừng nên tự phụ quá đáng là mình đã giỏi, không cần quan tâm tới những chi tiết nhỏ nhặt của giới luật lẫn oai nghi. Vì vậy, chúng ta cần phải phát đại thệnguyện giống như đức Phật khi xưa dưới cội Bồ đề: “Ta dù thịt nát, xương tan, nếu không thành tựu đạo vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, quyết không rời khỏi chỗ này”.
Ai muốn xa lìa ái dục cũng phải như thế, phải có ý thức, phải có mục đích cao cả là lý tưởng giác ngộ giải thoát. Ta phải luôn thường xuyên quán chiếu, xem xét, để thấy rõ ràng những hệ lụy khổ đau do si mê, luyến ái sắc dục đem lại. Ai vướng vào sắc dục rồi, giống như con tằm làm kén tự quấn lấy mình, giống như con cá bị mắc vào lưới, càng vùng vẫy càng bị lưới xiết chặt, cũng như người khát n��ớc mà uống nước muối, càng uống càng khát. Ái dục cũng lại như thế.
Vì vậy, chiếc rễ đầu tiên của người tu là phải có niềm tin, niềm tin này không phải là tin vào một đấng thần linh, thượng đế, có khả năng ban phước, giáng họa, hay tin vào một người khác. Nếu ta tin vào một đấng thần linh mà ta không biết đích thực thần linh đó là ai, thì rất nguy hiểm cho ta sau này. Niềm tin đó không phải là chiếc rễ vững chắc, xứng đáng cho ta nương tựa. Ta phải tin vào một cái gì vững chắc và lâu dài hơn.
Vậy niềm tin đó là gì? Trước nhất, ta phải tin Tam Bảo, tức tin vào Phật, Pháp và Tăng. Phật là một con người giác ngộ, có tình thương yêu bình đẳng bằng trái tim hiểu biết, có trí tuệ, có từ bi với tất cả muôn loài chúng sinh. Vì thế, chúng ta gọi là Phật bảo. Ta phải tin rằng, nếu ta thực tập những lời dạy chân chính đó, ta sẽ mở rộng được sự hiểu biết, yêu thương, để tiếp nhận bình an, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Ta phải tin chính mình có Phật tính sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng, không lầm lẫn; tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như thế. Nếu ai không có niềm tin đó thì không bao giờ có đủ khả năng, để trên cầu thành Phật, dưới cứu độ tất cả chúng sinh.
Nếu con người có khả năng yêu thương bằng trái tim hiểu biết, sẽ dễ dàng tiếp nhận bình an, hạnh phúc thật sự ở cõi lòng, mà không hề có sự van xin, cầu cạnh từ bên ngoài. Niềm tin này không phải là sự mê tín, mà là niềm tin bằng sự giác ngộ do trí tuệ khai mở. Ta thấy trong mình có khả năng mở rộng sự hiểu biết, làm lớn thêm thương yêu, chuyển hóa tất cả mọi khổ đau và tạo dựng một đời sống bình yên, hạnh phúc. Đó là ta tin vào tính biết sáng suốt trong mỗi con người chúng ta. Niềm tin này không phải là niềm tin mù quáng bằng lý thuyết suông, mà là một thực t��i nhiệm mầu, có sự quán chiếu, xem xét rõ ràng. Nhờ vậy, ta thấy ai có hiểu biết, có yêu thương, có trí tuệ, có từ bi và làm lợi ích cho nhiều người, mà không bao giờ tính toán, so đo, thì ta biết người đó có bình yên và hạnh phúc thật sự.
Niềm tin của ta được trải nghiệm qua cuộc sống thực tế bằng cách tu học và dấn thân, chứ không phải ngồi không mà hưởng nhàn với quan niệm mình là thầy thiên hạ”. Khi ta có ý chí, có niềm tin, có lý tưởng vì lợi ích tha nhân bằng trái tim yêu thương và hiểu biết, thì ta sẽ có đủ sức mạnh để đi tới cho đến khi đạt được chí nguyện mới thôi. Lời nguyện chân chính luôn giúp ta đem lại rất nhiều năng lượng có ích, để ta không thất chí nản lòng, mà vững niêm tin hơn mỗi khi gặp chuyện không như ý. Người tu là người có chí nguyện cao cả vì lợi ích cho chính mình, và tất cả chúng sinh. Đó là tâm Bồ Đề kiên cố của những con người đi theo con đường hiểu biết và thương yêu để được chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.
Ta phải sống làm sao để chí nguyện của mình ngày thêm lớn mạnh, vững vàng. Ta càng lớn tuổi thì chí nguyện của ta càng bền bỉ, chắc thật, không bị mọi thế lực bên ngoài làm suy giảm. Nếu chí nguyện của ta bị lung lay bởi những danh vọng, lợi dưỡng, sắc đẹp, tiếng tăm chi phối, thì ta sẽ không thành công trên con đường tu tập mà có khi bỏ cuộc nửa chừng. Ta phải giữ vững ý chí, lập trường, theo đuổi chí nguyện không một giây phút lơ là trong hiện tại, và phải biết sử dụng những giây phút đó mà làm tròn ước nguyện của mình.
Thế gian này là một dòng đời nghiệt ngã với vô vàn đau khổ, bởi do ta tham đắm, luyến ái, thương tiếc, nhớ nhung vì yêu thương, xa lìa mà khổ; oán ghét mà gặp nhau cũng khổ, nên ta tu để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Ta học hỏi Phật pháp và tu tập, để giúp mọi người cùng sống có yêu thương bằng trái tim hiểu biết.
Tâm nguyện hay chí nguyện là một nguồn năng lượng rất lớn, không thể thiếu. Không có tâm nguyện, ta khó bề vượt qua cạm bẫy cuộc đời, bởi sự hấp dẫn của lợi dưỡng, danh vọng, sắc đẹp và sự cung kính. Ta hãy nên tự hỏi rằng, “mình có đủ sức mạnh và nguồn năng lượng đó hay chưa?”. Nếu chưa đủ, ta vẫn phải thường xuyên quán chiếu, xem xét từng ý nghĩ, lời nói và hành động; bằng không, chỉ cần một ngọn gió thổi tới, mình sẽ ngã quỵ như thường. Vậy chí nguyện của ta là gì? Ta có thật sự muốn đạt được những chí nguyện đó hay không? Nếu ta thật sự muốn hoàn thành chí nguyện lớn lao và cao cả đó, thì tại sao ta cứ dễ duôi buông trôi theo ngày tháng?
Ái dục như những gông cùm, xiềng xích, luôn khóa chặt lấy con người chúng ta. Những cái gông, những chiếc xích này, các bậc hiền Thánh thấy rằng, chúng còn nguy hiểm và kiên cố hơn cả những người bị phạm tội nhốt trong lao tù. Vì bị tù đày còn có ngày ra khỏi, còn dính mắc vào vòng luẩn quẩn của vợ con, quyến thuộc và tình cảm luyến ái, thì biết chừng nào mới thoát ra được. Khi một ai đó đã bị giam cầm bởi sắc đẹp, tiền tài, danh vọng, thì bao nhiêu ý chí, nghị lực, khí phách, đều bị tiêu tán hết. Chí nguyện cao cả ban đầu cũng bị mai một đi bởi si mê, ham muốn ái tình. Do đó, con đường giác ngộ giải thoát của ta cũng không thể nào đủ khả năng tiếp tục đi nữa.
Ta không dám nghĩ, ta không dám làm, vì nếu ta nghĩ, ta làm, thì ta sợ sẽ ảnh hưởng tới gia đình, người thân. Lúc đó, ta chẳng khác nào như đang bị còng tay và bó giò, bị trói chặt bởi những cái gông, sợi xích luyến ái, còn vững chắc hơn cả những cái gông bằng đồng, bằng sắt. Chính vì vậy, những người làm cách mạng thường sống độc thân để hoạt động, vì khi sống độc thân, họ có can đảm nói và làm những điều họ cho là đúng để đem lại tự do, hòa bình và an vui cho đất nước. Cuộc sống độc lập, tự do hạnh phúc sẽ cho phép họ sống thực sự là một người biết hy sinh vì lý tưởng cách mạng; tự do làm việc vì lợi ích chung mà không bị vướng bận bởi luyến ái vợ chồng, con cái cùng tình cảm riêng tư của gia đình, người thân.
Tôn giả Nan Đà là em cùng cha khác mẹ với Phật. Vào ngày thành hôn của ngài, vì thần lực của Phật quá mạnh, ngài bị nhiếp phục nên đã xuất gia ngay trong ngày đó. Phật xuất hiện đúng lúc ấy, nhờ người em Nan Đà cầm hộ bình bát, cứ như thế Phật đi về Tịnh xá. Vì thương yêu, tôn kính Phật, nên Nan Đà không dám nói gì, chỉ một bề lặng lẽ quảy bước theo sau. Người vợ yêu quý hối hả chạy theo, mặt đầm đìa nước mắt, gọi với theo trong vô vọng, “hỡi hoàng tử yêu quý của em, hãy mau quay trở về; không có anh chắc em sẽ chết mất, hỡi anh yêu dấu”.
Về đến Tịnh xá, Phật hỏi Nan Đà, “em thích xuất gia sống đời thánh thiện không?”. Nan Đà đồng ý. Xuất gia được mấy bữa, tôn giả nhớ người vợ yêu quý của mình quá mức, không thể nào chịu nổi nữa, nên Tôn giả liền đến gặp Phật thú thật, xin được hoàn tục. Biết em của mình luyến ái nặng nề, khó lòng thôi dứt, Phật dùng thần lực hiện ra vô số các tiên nữ xinh đẹp, kiều diễm, rồi quay sang hỏi Nan Đà, “các tiên nữ này có đẹp hơn người yêu dấu của em hay không?”
Tôn giả nói, “thật là xinh đẹp hơn rất nhiều Phật ạ”. Đánh trúng tâm lý háo sắc của đứa em, Phật mới chỉ một cung điện nguy nga, tráng lệ có rất nhiều tiên nữ. Con tim Nan Đà bắt đầu thổn thức, rung động, nên mới bước đến hỏi các nàng, “cung điện này của ai mà đẹp đẽ sáng ngời, oai phong lẫm liệt như vậy?”. Các tiên nữ đồng thanh trả lời, “cung điện này dành riêng cho Tôn giả Nan Đà dưới trần gian. Sau khi đắc đạo, người sẽ về đây cai quản và vui chơi hưởng thụ khoái lạc với 500 tiên nữ chúng em.”
Nhờ vậy, Nan Đà không còn nhớ người yêu bé nhỏ của mình ngày nào nữa, mà cố gắng tu tập cho được viên mãn, để sớm có chiếc vé đoàn tụ với các em tiên nữ xinh tươi.
Rồi một lần khác, Phật dùng thần lực để cho Nan Đà đi xuống cõi địa ngục. Tôn giả thấy vô số người bị hành hình trông rất thảm thương. Ngài đi ngang qua một chảo dầu to tướng, đang sôi ngùn ngụt, nhưng không có ai bị hành hình trong đó. Tôn giả mới ngạc nhiên hỏi chúa ngục, “cái chảo này làm gì mà để nước sôi ngùn ngụt đến thế vậy?”
Chúa ngục mới nói, “cái chảo này chỉ dành riêng cho Tôn giả Nan Đà, đệ tử Phật. Sau khi hưởng hết phước ở cõi trời với 500 tiên nữ, sẽ bị đọa xuống đây để chịu tội vô số kiếp không có ngày ra, vì mục đích tu hành của Nan Đà là để hưởng thụ khoái lạc, sắc đẹp, tình dục”. Nghe chúa ngục nói thế, Tôn giả sợ quá bèn đến gặp Phật xin sám hối và nhờ Phật chỉ dạy phương pháp rốt ráo thoát ly sinh tử. Kể từ đó, Tôn giả siêng năng, tinh cần tu tập; nhờ vậy, không bao lâu, ngài chứng được quả giác ngộ giải thoát.
Bây giờ. chúng ta thử quay lại cuộc đời của Thái tử Sĩ Đạt Ta chuyển hóa ái dục như thế nào? Theo sử liệu của Phật giáo Bắc tông, thái tử đi tu năm 19 tuổi, năm năm học đạo với hai vị thiền sư nổi tiếng, sáu năm tự tu khổ hạnh, thành đạo dưới cội Bồ đề, bốn mươi chín năm hoằng pháp độ sanh. Theo sử liệu Phật giáo Nam Tông, thái tử đi tu năm 29 tuổi, học đạo sáu năm và hoằng pháp suốt bốn mươi lăm năm.
Chúng ta thử lấy sử liệu Bắc tông làm y cứ. Thái tử đi tu khi mới 19 tuổi, bỏ lại đứa con trai đầu lòng và người đẹp hoa khôi xứ Ấn. Ở tuổi đời này, con người mạnh khỏe, tinh thần sáng suốt, có thể làm cho trời nghiêng, đất ngã, lại đang thừa hưởng một địa vị cao nhất thế gian là chuẩn bị làm vua. Đêm hôm đó, trước khi ra đi, thái tử quay lại phòng nhìn vợ con lần cuối, với tâm trạng thương tiếc, nhớ nhung thật sự, mặc dù trong lòng đã quyết định dứt khoát ra đi để tìm cầu chân lý.
Động cơ nào khiến Thái tử đủ sức mạnh để bỏ hết tất cả, vợ đẹp con xinh, tiền tài danh vọng, thần dân thiên hạ, và quyền hành cao nhất. Thái tử còn quá trẻ, nên năng lượng tình dục rất mạnh. Chính vì vậy, công chúa Da Du Đà La mới sinh cho chàng một đứa con trai bụ bẫm, kháu khỉnh, giống cha như khuôn đúc. Như chúng ta đã biết, Thái tử là con người bằng xương, bằng thịt như mọi người, đâu có bệnh hoạn gì mà nỡ đang tâm đành đoạn bỏ đi, trong khi chàng và nàng đang trong giai đoạn yêu thương cực kỳ mặn nồng, tha thiết nhất. Ở lứa tuổi mà con người hưng phấn, sung mãn nhất về tình dục, vậy mà Thái tử vẫn quyết tâm bỏ lại sau lưng hết tất cả, tuy rằng trong lòng vẫn còn luyến tiếc, nhớ thương.
Nhiều chàng thanh niên ước ao rằng, chỉ cần được ngủ một đêm với các người mẫu hay hoa hậu thôi, sáng mai dù có bị xử bắn cũng vẫn vui vẻ chấp nhận, bằng lòng. Con người ta ai cũng khát khao, thèm muốn tình dục, đây là một sự thật mà không một ai có thể chối bỏ được. Thế gian này, sở dĩ mọi người ra sức nỗ lực làm việc nhọc nhằn, vất vả, bất kể ngày đêm, cũng đều chỉ muốn được tiền tài, danh vọng, vợ đẹp, con ngoan. Đó là ước mơ chung của nhân loại, ít ai có thể đi ngược lại lòng ham muốn, luyến ái ấy.
Vậy mà Thái tử Sĩ Đạt Ta đã dũng mãnh, can đảm chấp nhận đau thương, dám hy sinh tình cảm cá nhân, để ra đi tìm cầu chân lý sáng ngời cho nhân loại. Luyến ái, ham muốn khoái lạc tình dục, một khi ai có cơ hội gần gũi nó rồi, thì khó lòng lìa bỏ được; như bản thân chúng tôi chẳng hạn, tôi sống ngu, chết dở, cũng vì nó. Năm nay tôi đã 53 tuổi, vậy mà trong lòng vẫn còn thèm khát thứ đó. Nó là cái gì mà làm cho cả thế giới loài người phải điêu đứng, vọng động, điên đảo, tranh hơn, tranh thua, để có được chút xíu đó thôi.
Thái tử chấp nhận bỏ hết tình riêng với tuổi đời đang còn hưng phấn mãnh liệt nhất về tình dục, thật ra cũng đắng cay chua xót lắm chứ, cái mà nhiều người mong muốn được như Ngài mà không bao giờ có được. Ngài đã vô lượng kiếp tu tâm từ rộng mở, muốn tìm ra nguồn gốc và thân phận của tất cả chúng sinh để tìm ra giải pháp giúp cho con người thoát ly sinh, già, bệnh, chết. Nhờ có lý tưởng cao cả và lập trường vững chắc đó, thái tử mới thoát ra được lưới ái, lìa buộc ràng, để ra đi tìm đạo giải thoát. Nếu Ngài không có tâm nguyện cao cả, lớn lao, để cứu khổ chúng sinh, thì cũng khó mà vượt qua khỏi chiếc lưới luyến ái vợ đẹp, con xinh.
Con người sống muốn làm được việc gì lớn lao, quan trọng cần phải có lý tưởng cao cả để phục vụ. Ta phải biết bỏ tình riêng để làm việc chung. Chính vì vậy, những người làm cách mạng thường sống độc thân để hoạt động, vì khi sống độc thân, họ có can đảm nói và làm những điều họ cho là đúng, để đem lại an vui, lợi ích cho đất nước. Cuộc sống độc lập đó cho phép họ sống thực sự là một người có bản lĩnh, dám chấp nhận xả thân, hy sinh để phục vụ, vì lợi ích đất nước, mà không bị vướng bận bởi sự đam mê luyến ái vợ chồng, con cái. Những người ngoài đời muốn làm cách mạng còn phải xa lìa ái dục như thế, huống hồ là người có chí hướng cao thượng như thái tử Sĩ Đạt Ta, đã phát tâm vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
Dưới cội Bồ Đề với đủ thứ loại ma uy hiếp, khủng bố tinh thần, nhưng thái tử vẫn bất động trước những hình thù quỷ quái nhất, cùng những lời hăm dọa khủng khiếp nhất. Ngay đến tuyệt chiêu cuối cùng của chúa ma là hóa hiện ra hình ảnh của các cung phi mỹ nữ và công chúa Da Du Đà La thật xinh đẹp đến trước mặt thái tử. Một trang tuyệt sắc giai nhân sà vào lòng chàng ôm khóc nức nở, trông hết sức tội nghiệp và đáng thương làm sao. Nếu giả sử lúc đó bạn là người đang trong hoàn cảnh như vậy, liệu bạn sẽ xử trí ra sao? Hay là bạn đành chấp nhận quay gót trở về theo tiếng gọi con tim, mà vùi dập lý trí.. Nước mắt đàn bà sắc đẹp nghiêng thành, đổ nước và những lời tỏ tình âu yếm, ngọt ngào thì khó ai mà chịu nổi bỏ qua. Vậy mà, đức Phật của ta vẫn bình tĩnh, sáng suốt, thấu rõ hết mọi vấn đề, nên vẫn như như bất động, mặc cho người đẹp khổ sở khóc lóc, van xin.
Một phàm phu bình thường sao có đủ can đảm ngoảnh mặt làm ngơ, khi người vợ yêu thương, đầu ấp tay gối thuở nào, nhất là bây giờ nàng lại xinh đẹp dễ thương hơn xưa rất nhiều, bởi sự biến hóa tài tình của ma vương. Giờ đây, nàng đang nằm gọn trong lòng chàng, kể lễ khóc thương tha thiết, “thiếp năn nỉ, van lạy chàng, hãy về sống với thiếp và con. Bao năm rồi, thiếp phòng the gối chiếc một mình, mòn mỏi trông ngóng đợi chờ chàng. Bao nhiêu vương công, tôn tử con nhà quý phái đến xin cầu hôn, thiếp đều một mực từ chối hết, vì thiếp hy vọng chàng sẽ là con người rộng mở trái tim yêu thương, quay về với thiếp và con. Chàng ơi, con mình nó cứ hỏi thiếp hoài “cha con đâu rồi mẹ?”, thiếp chỉ nói “cha con bận học đạo hiền Thánh, để giúp dân, cứu nước. Con yên chí đi, cha con sẽ về trong một ngày gần đây nhất con ạ”. Thiếp và con lúc nào cũng cần có tình yêu thương của chàng bên cạnh, để được chàng thương yêu, bảo bọc, chở che cho những tháng ngày còn lại. Chàng ơi, thiếp van lạy chàng mà, chàng hãy quay về với thiếp và con đi, hỡi chàng yêu dấu! Nếu chàng không chấp nhận đoái hoài đến thiếp thì cũng phải thương nhớ đến đứa con trai của chàng chứ. Giờ đây thiếp không còn thiết tha để sống nữa vì không có chàng bên cạnh, thiếp sẽ chết liền tức khắc cho chàng coi”.
Nói xong, nàng liền rút cây trâm trên đầu ra đưa thẳng vào tim. Lúc bấy giờ, không gian như ngưng đọng, vạn vật đều im lặng chờ xem thái tử giải quyết ra sao.
“Đi đi, ta không dùng đâu, đồ đãi da hôi thúi”.
Chỉ một câu nói nhẹ nhàng, tất cả lũ ma thảy đều biến mất.
Vậy lúc ấy, thái tử đã xử dụng độc chiêu gì để vượt qua luyến ái tình dục chứ? Ngài chỉ dùng cây cung thiền định, cùng lưỡi kiếm trí tuệ, để quét sạch mọi ma mị trong tâm, nên ma quỷ bên ngoài không thể nào xâm nhập nổi. Đó là phương pháp độc nhất vô nhị, có một không hai trên cõi đời này, để chuyển hóa ham muốn luyến ái tình dục.
Rồi có hai huynh đệ đang tiếp nối con đường của Phật. Họ thấy thế gian vui ít, khổ nhiều, nên sớm xuất gia học đạo. Trên đường tầm sư, hai người đi ngang qua một dòng sông, thấy người trên ghe đang kéo chiếc lưới lên, và một con cá nhảy vọt ra khỏi lưới.
Vị sư huynh thấy thế, liền vỗ tay khen, “hay quá, hay quá! Con cá giống người tu.
Tiểu sư đệ mới nói, “có gì đâu mà hay. Cá ở ngoài lưới mới hay”.
Vị sư huynh nói, “sư đệ chưa hiểu hết thâm ý của ta”.
Câu chuyện trên là bài học đạo lý sống thiết thực trong cuộc đời. Ta học chuyện xưa để cùng nhau suy ngẫm, thấy được sự đam mê luyến ái dục vọng làm ta buồn rầu, lo lắng, khổ đau. Ai trong cuộc đời chưa một lần nếm trải trái đắng của khổ đau? Vậy cá ở ngoài lưới mới hay, hay là cá bị mắc lưới mà nhảy ra được mới hay?
Nếu cá ở ngoài lưới thì còn gì để bàn cãi ở đây nữa, cá đã vào lưới mà còn biết cách nhảy ra được mới thật là hay. Đạo lý nhà Phật dạy cho chúng ta ngay nơi vòng lẫn quẩn của sự luyến ái buộc ràng, bởi vợ chồng, con cái, gia đình, người thân, mà ta thoát ra được quả là điều phi thường hiếm có. Ta đang sống trong sự cám dỗ của tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn sung, mặc sướng, bởi chiếc lưới ái ân và dục vọng; nó làm cho ta mê muội, đắm say, giống như cục nam châm gặp sắt tự động hít vào. Ái dục cũng lại như thế. Từ vô thủy kiếp đến nay, con người lúc nào cũng khao khát, thèm muốn, quyến luyến giống như dòng nước đã thấm ướt. Dù không ai chỉ dạy mà con người vẫn tự cảm biết, nên khi gặp người khác phái thì trái tim ta xao xuyến, rung động, thổn thức, làm ta rạo rực trong lòng dẫn đến hò hẹn yêu thương và kết tình chồng vợ. Cứ như thế, từ đời này sang kiếp nọ, nghiệp nhân tình ái luyến mến yêu thương được phát triển mạnh mẽ ngày thêm sâu kín, đậm đà, khó rời xa.
Phật dạy, trong đời này, có hai hạng người đáng được tán thán, ca ngợi và cung kính cúng dường. Hạng người thứ nhất từ nhỏ đến lớn chưa từng vi phạm lỗi lầm, lại hay thương yêu, bình đẳng, giúp đỡ mọi người. Hạng người thứ hai đam mê hưởng thụ dính mắc hay làm các điều xấu xa tội lỗi, để làm tổn hại cho người và vật. Nhưng họ nhờ gặp các thiện hữu tri thức hướng dẫn chỉ dạy, biết ăn năn sám hối chừa bỏ những thói quen tật xấu, mà làm mới lại chính mình, để vươn lên, vượt qua số phận tối tăm.
Hình ảnh cá nhảy khỏi lưới là chỉ cho hạng người thứ hai, đã vào lưới, mắc lưới rồi, mà còn nhảy ra được. Vậy không phải hay là gì?
Cũng như đức Phật của chúng ta trước khi thành tựu đạo pháp, Ngài đã có tất cả cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con ngoan, thần dân, thiên hạ, quyền hành cao nhất trong tay. Vậy mà Phật vẫn hiên ngang, dũng mãnh, vượt qua được lưới ái dục khi tuổi đời đang sung mãn và hưng phấn nhất. Chính vì vậy, ngày hôm nay ta tôn kính Phật, thờ Phật, lạy Phật suốt đời, suốt kiếp, để bắt chước, học hỏi, tu tập, cho được bằng Phật mới thôi. Thật ra, ta đi tu hiện giờ đâu có gì để buông xả, và dính mắc nặng nề như đức Phật ngày xưa. Nhất là các thầy tu trẻ đâu có gì để ôm giữ, chất chứa trong lòng. Vậy mà thầy tu như bông xoài, thấy thì dường như quá nhiều, nhưng đến khi thành trái xoài chẳng còn được mấy trái.
Ở đây, chúng ta đã thấy cũng đồng là cá, nhưng biết bao con cá khác khi bị dính vào lưới rồi thì chỉ nằm chờ chết, không khi nào đủ sức để vùng vẫy thoát ra. Riêng chú cá kia hiên ngang dũng mãnh nhảy ra khỏi lưới, quả thật là quá tuyệt vời. Như vậy không giống người tu là gì? Nếu mới sinh ra ai cũng là Thánh hết thì chúng ta đâu cần phải vào chùa tu làm gì cho mệt và uổng công vô ích. Hình ảnh con cá nhảy khỏi lưới và hình ảnh thái tử từ bỏ cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con ngoan nói lên việc chúng ta quyết tâm dứt khoát xa lìa ái ân khi biết được sự tác hại của nó. Đức Phật đã ví dụ sự si mê luyến ái, ham muốn khoái lạc ngũ dục, giống như chiếc lưới ái ân, chiếc lưới dục vọng, một khi ai đã dính vào lưới này, thì khó bề thoát ra.
Người thật tâm muốn vượt qua lưới ái buộc ràng, thì trước tiên phải có niềm tin vào Tam bảo, tin vào chính mình, có chí nguyện thoát ly sinh tử, có thầy lành, bạn tốt và gìn giữ giới luật oai nghi. Kế đến, họ phải điều phục ngay nơi tâm ý của mình để thanh lọc nội tâm, dẹp hết tâm ma bên trong thì tâm ma bên ngoài không thể xâm nhập nổi. Cũng như chú cá kia, khi bị mắc vào lưới mà nhảy ra khỏi lưới mới thật là hay.
Chúng tôi xin chân thành cầu chúc chư huynh đệ pháp lữ gần xa chút duyên lành có được ngày hôm nay, qua đề tài “Cái gì trói buộc con người”. Ai trói ta, ai buộc ta? - Ta tự trói, ta tự mở, không ai có thể mở dùm cho ta được, phải không các bạn.
- Thích Đạt Ma Phổ Giác
13 notes
·
View notes
Photo
< chuyện từ thiện >
** lại nói tôi có 1 vài người quen , điều kiện tốt , gia đình khá giả k phải lo toan gì . Thỉnh thoảng gặp nhau họ hay hỏi tôi : - này , thấy mày hay kêu gọi từ thiện , bao h có thì nhớ gọi nhé Tôi cũng gật gù. Sau đấy cũng có kêu gọi từ thiện mấy lần , cũng chẳng thấy họ đâu Tôi cũng kệ nghĩ cái chuyện này là tuỳ duyên.
Lần sau gặp nhau họ lại trách - Này sao dặn rồi mà từ thiện chả nói gì , lần sau có nhớ gọi nhé Cứ lặp đi lặp lại thế cho đến 1 lần khi nghe họ nói tôi k gật gù nữa , trong đầu bận đấu tranh suy nghĩ có nên rút giầy ra đập vào mặt họ hay k , tiếc rằng k có gan , lại k có võ , vậy nên k dám .
** lại nói tôi cũng có quen 1 chị , đang trên đà vỡ nợ phá sản . Chồng chị nghiện cờ b��c , đầu tiên chỉ thua ít , sau ham gỡ thì thành thua nhiều , sau gỡ ra k gỡ toàn gỡ vào thì thành phá sản . Hàng tháng chị vẫn qua tôi , ngồi nói chuyện để xem trong tháng có định hướng gì mới. Hàng đợt kêu gọi từ thiện chị vẫn gửi tôi tiền khi thì 1 vài chục , khi thì 1 vài trăm Lúc tôi bảo để e post dưới comment fb tag chị nhé. Chị bảo tôi : - thôi e ơi , chị chả có nhiều , đóng góp ít người ta lại nói nọ kia Nghe vậy tôi chỉ cười bảo - ô hay chị ơi , tâm mình thiện , sống thì tốt , lương tâm thảnh thơi , có gì mà phải xấu hổ ?
** Người có nghìn triệu , từ thiện 1 triệu , đó là bố thí . Ngươi có vài triệu , từ thiện 1 triệu , đó là chân tâm . Cùng là 1 triệu nhưng công đức và tình cảm trong đó là hoàn toàn khác nhau.
Mỗi người 1 cách sống , mỗi người 1 kiểu duy tâm . Bố thí hay chân tâm là lựa chọn của mỗi người . K phán xét tốt hay xấu vì , đã có cái tâm thiện nguyện , dù nhiều ít cũng là quý giá lắm rồi .
** nhiều người trong chúng ta làm từ thiện , mà quên mất rằng , cái gốc của việc từ thiện là từ lòng hảo tâm mong muốn sẻ chia với những cảnh đời bất hạnh . Chúng ta quá để ý đến phán xét của xã hội Người thì sợ bị chê bai dè bỉu tiền ít Người thì mải để ý truyền thông , xã hội tâng bốc tận mây xanh
Mải để ý sự phán xét của xã hội mà quên mất cái cảm giác tự cười 1 mình , tâm thái an nhiên khi nghĩ rằng hành động của mình - dù nhỏ - cũng đã giúp đc cho 1 người đang khó khăn cảm nhận đc tình người đậm sâu .
** người đã có cái tâm thiện nguyện - tức là đã có tấm lòng từ bi. Người đã có tấm lòng từ bi - tức là có cách sống hướng thiện . Hành động như thế , k có gì phải hổ thẹn lương tâm , k lấn cấn khi vấn lòng , dám ngẩng cổ lên nhìn trời xanh , lòng tự hảo mình đã sống có ích Vậy thì cần gì phải để ý việc thế gian phán xét
** Người ta vẫn hay nói về hiệu ứng bươm bướm , khi 1 cánh bướm đập ở trời đông có thể tạo ra cơn bão bùng nổ ở trời tây. Việc làm thiện nguyện cũng vậy
Ta làm từ thiện , trước là cho bản thân ta , sau là cho bản thân người cần giúp đỡ . Ta k làm vì thiên hạ phán xét Ta k làm vì những người chỉ biết dè bỉu chê bai . Ta làm để tâm thái thảnh thơi , để an nhiên yên ả , để góp chút sức , để góp chút lòng , để truy cầu 1 hiệu ứng bươm bươm nho nhỏ có thể thay đổi cuộc sống buồn khổ trên khắp nhân gian
Như thế là đã đủ rồi .
19 notes
·
View notes
Photo
CHÚ TIỂU NGỘ TÁNH – Ở ngôi làng nọ có một gia đình thật giàu có, đôi vợ chồng trẻ này đã kết hôn trên mười năm. Nhưng họ không thể sinh một đứa con để nối dỗi tông đường. Hai vợ chồng trẻ đi bác sĩ để tìm hiểu nguyên nhân, bác sĩ bảo rằng: “Hai người không có vấn đề gì trong quá trình sinh con”. Họ đem kết quả của bác sĩ thưa với bố mẹ, nhưng phía bên chồng phản đối. Bố mẹ chồng bảo rằng: Nếu con Hiền không sinh con được, thì phải cưới vợ bé cho thằng Lương, vì bố mẹ cũng đã chờ đợi mười năm rồi. Tuy nhiên người con dâu không buồn cha mẹ chồng, vì đó cũng là lỗi của mình, không thể trách ai được. Hằng ngày, Cô vẫn sống một cách vui vẻ, hiếu thảo bố mẹ chồng. Hiền là một người vợ luôn chung thủy đối với chồng.
– Vào một ngày đẹp trời, Hiền đi chùa lễ Phật. Trên đường đi gặp một cậu bé thật tướng hảo dễ thương. Cậu bé gặp cô liền chào hỏi: “Chào cô! Cô có thể cho cháu biết tên được không à? Nhà cô ở đâu? Sao cháu thấy tâm hồn của cô chứa đựng nhiều nỗi buồn lo lắng. Cô rất ngạc nhiên trước những câu hỏi dồn dập của cậu bé. Cô cảm thấy rất thân thiện, dễ mến giống như tình mẫu tử nhiều đời, nhiều kiếp giờ gặp nhau. Hiền rất vui mừng và trả lời: “Cháu à! Cô tên là Hiền, chồng của cô tên là Lương, gia đình cô sống trong ngôi làng này”. Sau đó cô Hiền đem sự việc kể cậu bé nghe trước hoàn cảnh khó khăn, nghe qua câu chuyện, cậu bé vô cùng cảm động. Cậu bé liền hỏi cô Hiền rằng: “Nếu có một ước mơ, thì Cô ước điều gì?”
– Cô Hiền trả lời: “Nếu có ước mơ, thì cô ao ước có một người con trai dễ thương, hiền hậu, tướng hảo y như cháu”. Cậu bé mỉm cười không nói một lời nào, cậu bé tạm biệt cô Hiền. Sau khi, chia tay cậu bé. Cô Hiền lên chùa lễ Phật. Cô gặp sư ông phương trượng Quảng Phước, cô được Sư ông giảng giải Phật pháp, cô được tắm mình trong dòng pháp nhũ của Phật đà. Giống như một lữ hành đi trên sa mạc đang khát nước được một người cho nước uống. Nhờ dòng pháp nhũ đó cô thấu rõ được nguồn gốc khổ đau, tâm hồn cô được cởi bỏ những ràng buộc phiền muộn, cảm thấy nội tâm rất an lạc. Sau đó cô bái chào Phương trượng ra về.
– Sau khi về nhà cô luôn ăn chay trường niệm Phật, tụng kinh, hành thiền mỗi ngày, với niềm tin mãnh liệt, xem đạo Phật như là một chìa khóa vạn năng để mở cửa giải thoát tâm hồn đang trói buộc, như là một nơi nương tựa vững chắc cho một tinh thần đang suy sụp,…Cô không còn nghĩ đến vấn đề sinh con, hay là cưới vợ bé cho chồng. Cô thản nhiên sống an lạc trong cuộc sống hiện tại, Cô hiểu được nhân duyên, nhân quả. Cái gì đến sẽ đến, cái gì không có duyên thì có đợi nó cũng không đến.
– Thời gian qua đi cách ba tháng sau, Cô cảm thấy trong người khác lạ, một dấu hiệu như mình sắp được làm mẹ. Cô rất vui mừng và cảm ơn trời Phật, đã cho cô hoàn thành ước mơ. Thời gian chín tháng mười ngày cô lâm bồn và hạ sinh được một bé trai thật kháu khỉnh dễ thương, có điều đặc biệt và đáng ngạc nhiên, cậu bé sinh ra không có khóc như những đứa trẻ khác. Cậu bé mở mắt chào đời và nhìn người mẹ với một ánh mắt trìu mến. Cậu bé được sinh ra và sống trong một gia đình giàu có, được hấp thụ tình thương ngọt ngào từ ông bà, và bố mẹ. Cậu bé được xem như là viên ngọc quý báu nên đặt tên là: “Bảo Châu”.
– Từ ngày sinh bé châu ra, gia đình vợ chồng trẻ được sống hạnh phúc bình an. Thời gian trôi đi thật nhanh bé Châu được mười tuổi. Một hôm người mẹ dẫn bé châu đi chùa lễ Phật, khi vào đến chùa bé châu nhìn thấy ngôi chùa thật trang nghiêm, thanh tịnh. Bé châu chắp tay đảnh lễ Phương Trượng. Bé Châu nhìn thấy khuôn mặt Sư ông đầy lòng từ bi, là bậc chân tu đắc đạo. Lúc bấy giờ Sư ông cho bé Châu một trái chuối, sau khi bé Châu ăn xong trái chuối.
– Sư ông hỏi: “Con ăn cảm thấy thế nào? Có ngon không”?
– Bé Châu trả lời: “Bạch Sư ông! Ngon à”
Mặc dù bé Châu tuy mới mười tuổi, nhưng rất thông minh, khôn khéo và lễ phép.
Bấy giờ bé Châu đặt câu hỏi với Sư ông:
– Bạch Sư ông! Thế nào gọi là đạo giải thoát?
Sư ông rất ngạc nhiên trước câu hỏi của bé Châu. Sư ông cầm trái chuối đưa bé Châu. Con hãy lột bỏ hết vỏ chuối, còn lại bên trong và hương vị ngọt ngào đó chính là đạo giải thoát. Nếu con không lột vỏ, thì không thể nào cảm nhận được hương vị bên trong của nó. Bé châu đã giác ngộ được điều Sư ông giải thích.
– Bé Châu đặt câu hỏi thứ hai: Bạch Sư ông! Thế nào là mục đích của người xuất gia? Tại sao Sư ông phải xuất gia?
– Sư ông tự tay mình cầm trái chuối lột vỏ ra ăn một nửa, còn nửa kia đưa cho mẹ bé Châu. Sư ông nói đó là mục đích của người xuất gia,
Sư ông nói: Con hỏi tại sao phải xuất gia ư? Sư ông lấy hai trái chuối đưa bé Châu, bảo rằng, con hãy lột vỏ ra ăn một trái, rồi trái kia mời mẹ của con.
– Bé Châu lại đặt câu hỏi thứ ba, thế nào gọi là Phật? Thế nào gọi là chúng sinh?
Sư ông đưa tay ra, rồi ngửa bàn tay lên, bảo thế này gọi là Phật. Sư ông úp bàn tay lại, bảo rằng đây gọi là chúng sinh.
– Bé châu hỏi câu thứ tư: Thế nào gọi là chánh đạo? Thế nào gọi là tà đạo?
Sư ông bấy giờ đưa tay phải ra, bảo đây gọi là chánh đạo. Sư ông đưa tay trái ra, bảo rằng đây gọi là tà đạo.
Sư ông nhìn khuôn mặt của bé Châu, biết bé Châu đã ngộ được với những gì ông đã khai thị.
– Bé Châu đặt câu hỏi cuối cùng. Bạch Sư ông! Thế nào gọi là “Tâm Chơn Như”? Bấy giờ sư Ông không trả lời, chỉ mỉm cười, bé Châu cũng ngộ được chân lý cũng cười theo.
Sau cuộc đàm thoại giữa Sư ông và bé Châu. Người mẹ đứng ngơ ngác không hiểu đư��c nội dung ý nghĩa sự màu nhi��m này. Sau đó người mẹ dẫn bé Châu vào chánh điện lạy Phật. Lạy Phật xong rồi hai mẹ con đảnh lễ Sư ông ra về. Khi chào Sư ông. Sư ông hỏi bé Châu rằng: Con còn trở lại thăm sư ông nữa không? Bé Châu trả lời: dạ bạch Sư ông! Con sẽ nhớ mãi hương vị của trái chuối, Con sẽ trở lại.
– Sau khi về đến nhà, những lời dạy của Sư ông về đạo lý đạo giải thoát đã đánh thức hạt giống Bồ Đề Tâm của bé Châu.Thế là trong bữa cơm gia đình có đầy đủ ông bà và bố mẹ. Bé Châu quỳ gối thưa rằng: “Thưa ông bà! Và bố mẹ con muốn đi xuất gia? “Con cuối xin ông bà, bố mẹ chấp thuận cho con được toại nguyện”.
– Ông bà nội phản đối bảo rằng: “Cháu không được đi xuất gia, vì gia đình chỉ có một mình cháu là con trai duy nhất. Cháu là cháu đích tôn, sau này phụng dưỡng cha mẹ, nối dỗi tông đường”, lo hương khối cho ông bà tổ tiên. Nếu cháu đi xuất gia, có ba tội bất hiếu rất lớn: Không phụng dưỡng cha mẹ tội bất hiếu thứ nhất Không có người nối dỗi tông đường, tội bất hiếu thứ hai Kkhông đi quân đội làm nhiệm vụ bảo vệ quốc gia, thiếu trách nhiệm của một người công dân đối với xã hội, đó là tội bất hiếu thứ 3.
– Nếu cháu giải thích sao cho hợp tình hợp lý, thì ông bà sẽ cho cháu đi xuất gia theo ước nguyện của cháu. Sau khi nghe ông bà nội chất vấn ba câu hỏi xong, trong lòng bé Châu rất mừng. Bé Châu quỳ gối vòng tay thưa rằng:
– Kính thưa ông bà, nếu thế gian này cho rằng đi tu không phụng dưỡng cha mẹ là bất hiếu, thì trải qua hơn hai nghìn năm trăm năm lịch sử. Thì tinh thần báo hiếu của Đạo Phật không đi vào lòng người và không bao giờ có lễ Vu Lan Báo Hiếu, và ngài Mục Liên Tôn Gỉa được xem như là một tấm gương hiếu hạnh để cho đời noi theo, và biết bao nhiêu người đều tôn kính Ngài. Ngài đi xuất gia đâu có phụng dưỡng mẹ già. Nhưng Ngài được người đời tôn xưng là hiếu hạnh đệ nhất. Ngài đã cứu mẹ của Ngài thoát khỏi cảnh địa ngục khổ đau. Đức Phật Thích Ca xuất gia tìm con đường giải thoát cho bản thân, sau đó Ngài trở về lại thành Kapilavasthu thuyết pháp cho thân phụ của Ngài là Suddhodana chứng quả Arhat không còn bị sinh tử luân hồi, Ngài lên cung trời Đao lợi thuyết pháp cho thân mẫu của Ngài là Maya cũng chứng quả Arhat. Đó là Ngài đã cứu vớt cha mẹ khỏi bị trầm luân sinh tử khổ đau. Nếu ông bà cha mẹ cho rằng, đi xuất gia không phụng dưỡng cha mẹ là bất hiếu, thì con nghĩ ngày nay tinh thần báo hiếu của Đạo Phật không tồn tại trên thế gian này. Nhưng ngược lại, Ngài được người đời kính lạy và tôn thờ khắp năm châu……Nơi nào có chúng sinh, nơi đó có Đạo Phật, cho nên cháu muốn noi gương hiếu hạnh của quý Ngài, muốn báo hiếu với ông bà, bố mẹ đã có công ơn sinh thành dưỡng dục cháu.
– Điều thứ hai, nếu cho rằng cháu đi xuất gia không có người nối dỗi tông đường sẽ mang tội bất hiếu. Nếu ông bà, bố mẹ đã quy y theo Đạo Phật phải có niềm tin những lời Phật dạy, trong quan niệm Phật Giáo cho rằng tất cả chúng sinh trong lục đạo luân hồi thay phiên nhau làm cha, làm mẹ, làm vợ làm chồng, làm con, làm cháu làm thân bằng quyến thuộc với nhau. Thì tại sao chỉ có cháu mới là người để nối dỗi tông đường.
– Điều thứ ba ông bà cho rằng cháu đi xuất gia, không làm tròn bổn phận của một người công dân đối với xã hội, thiếu trách nhiệm đối với quốc gia, cháu không nghĩ vậy. Thưa ông bà, Phật Giáo là một tôn giáo hòa bình, dốc sức cho hòa bình. Đức Thích-Ca Mâu-Ni là một sứ giả hòa bình, Ngài thông qua việc khắc phục sự bất an và giao động của nội tâm giải thoát tự do, trở thành người hạnh phúc và giác ngộ. Vì thế, hòa bình là giá trị cần thiết của nhân loại. Đức Phật đã thể hội sâu sắc điều đó. Ngài dạy lại cho đệ tử, cho chúng sinh biết làm thế nào để cho thế giới hòa bình và xã hội trở về chân thiện mỹ. Đức Phật dạy chúng ta: Vạn vật do nhân duyên hòa hợp mà sinh ra, thế giới như là một chỉnh thể các dạng quan hệ nằm trên sự tương tục nhân quả của thế gian, nương tựa lẫn nhau. Con người, sự vật đều tuân theo một quy luật nhân quả có tầng thứ nhất định. Vận mạng của cá thể và vận mạng của toàn thể tương liên chặt chẽ với nhau.
– Đức Phật dạy: “Sở hữu chúng sanh, giai hữu Phật tánh, nguyên bổn thanh khiết, nhất luật bình đẳng.” (Tất cả chúng sanh, đều có Phật tánh, nguồn gốc thanh khiết, hết thảy đều bình đẳng.) Bình đẳng ở đây không chỉ là không đồng quan điểm, không đồng quần thể, không đồng nhân chủng mà còn là siêu việt nhân loại, phổ quát tất cả chúng sanh trong vũ trụ. Vì thế, Phật giáo yêu cầu chúng ta trong quan hệ giữa chúng sanh, xã hội, tự nhiên, chúng ta nên giúp đỡ lẫn nhau, hòa bình cộng xứ, nên tùy duyên đại từ, đồng thể đại bi; nên thương người như thương mình, không tàn sát lẫn nhau; tôn trọng lẫn nhau, không nên coi thường nhau; bắt tay hòa khí, phá trừ tự ngã, vứt bỏ tự hiềm, mang tâm bình đẳng; cùng nhau liễu giải, không tự phong bế; nên “không làm các điều ác, gắng làm các việc lành”; không vì sự an lạc chỉ cho chính mình, mà luôn nguyện chúng sanh thoát ly khổ não; nên trang nghiêm quốc độ, lợi lạc hữu tình. Phật giáo phản đối chiến tranh, đề xướng hòa bình. Bởi lẽ, có chiến tranh là có sát hại. Phật giáo kịch liệt phản đối sát hại sinh mạng, bao gồm con người và cả động vật cấp thấp. Cho rằng, chúng sanh đều giống chúng ta vậy, đều ham sống sợ chết. Vì lẽ đó, lấy lòng ta mà suy ra lòng người để rồi đem đến cho họ lòng từ bi rộng lớn, lòng thông cảm vô biên. Ngày hôm nay, cháu đi theo con đường lý tưởng từ bi và hòa bình mà đức Phật đã để lại, cháu đi xuất gia là mang bức thông điệp hòa bình truyền bá chúng sinh, làm cho thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc, chiến tranh không còn, thế thì cháu đi nghĩa vụ quân sự để làm gì? Đó là cháu làm tròn bổn phận quốc gia của một người công dân, có công với mọi người, không phải là tội bất hiếu.
– Sau khi nghe bé Châu trả lời ba câu hỏi một cách thuyết phục, ông bà không thể nào ngăn cản và nuốt lời nên chấp nhận cho bé châu xuất gia theo như ý nguyện, bố mẹ nghe con mình trả lời như thế trong lòng rất vui mừng và chấp nhận cho bé Châu xuất gia.
– Ngày hôm sau, người mẹ dẫn bé Châu lên chùa để xuất gia, khi vừa đến trước công chùa đã gặp Phương trượng đang quét rác. Hai mẹ con đảnh lễ thưa chuyện cho bé Châu xuất gia.
– Ngày hôm sau, bé Châu xuống tóc trở thành một chú tiểu thật dễ thương. Phương Trượng đặt pháp danh cho bé Châu là “Ngộ Tánh” kể từ đó, tên bé “Bảo Châu” không còn gọi nữa. Hằng ngày hai thầy trò sống trong am cốc tu viện rất thanh tịnh, mỗi buổi sáng Ngộ Tánh thức dậy thật sớm đánh chuông, Phương trượng tụng kinh, sau khi đánh chuông xong chú Ngộ Tánh lo nấu nước pha trà cho Sư Phụ. Chú Ngộ Tánh đi quét rác, tưới hoa, những công việc hằng ngày trong bổn tự,
– Thời gian chỉ có một tháng, chú Ngộ Tánh đã thuộc hai thời công phu, và luật tỳ ni nhật dụng, biết tụng kinh, tinh thông Kinh, Luật Luận. Chú Ngộ tánh được sư phụ thương yêu.
– Thời gian trôi đi thật nhanh một năm sau, vào một ngày nọ có một gia đình thí chủ dẫn theo con gái đi chùa lễ Phật. Khi vào chùa đảnh lễ Phương trượng, vợ chồng thí chủ trò chuyện với Phương trượng, cô con gái đi dạo chơi xung quanh chùa, vô tình bé Tâm gặp chú tiểu Ngộ Tánh đang quét sân, cô bé chào chú Ngộ Tánh, chú chào lại bé Tâm. Bé Tâm nhìn khuôn mặt của chú Ngộ Tánh sao thật hiền hòa, và dễ thương, cô bé bắt đầu trò chuyện với chú:
– Thưa chú! Chú pháp danh gì vậy?
Mô phật! Phương trượng cho pháp danh là Ngộ Tánh
– Thưa chú! Ngộ Tánh nghĩa là gì à? chú Ngộ Tánh không trả lời chỉ dùng ngón tay chỉ lên mặt trời, bảo đó là ngộ tánh. (Tức là nhìn thấy được chân lý của các pháp)
– Thưa chú! Chú xuất gia bao lâu rồi?
Mô phật! không lâu cũng không mau, chú Ngộ Tánh cầm cây chổi đưa bé Tâm nói rằng: “Từ ngày Ngộ tánh biết quét chùa”. (Biết tu tập, diệt trừ phiền não)
– Thưa chú! Sao chú phải quét rác? Con thấy sân chùa trước giờ rất sạch sẽ không có rác sao chú vẫn cứ quét? (Ý bé Tâm nói: Người xuất gia rồi làm gì còn có phiền não để tiêu diệt)
– Mặc dù sân không thấy có rác, nhưng vẫn có bụi để quét, (ý nói mặc dù tâm phiền não thô đã diệt, nhưng vi tế phiền não vẫn còn)
– Thưa chú! sao Phương trượng không quét rác, mà chỉ một mình chú quét rác thôi?
– Mô Phật! Phương trượng quét rác mấy chục năm rồi không cần quét nữa, giờ đến Ngộ Tánh quét rác.
– Thưa chú! Sao chú phải đi xuất gia? Xuất gia mục đích gì?
– Mô Phật! Ngộ tánh xuất gia vì muốn học quét rác cho sạch sân chùa, mục đích quét chùa để mọi người thấy sạch sẽ trang nghiêm bắt chước theo đó mà quét, và để mọi người đi sạch sẽ. (Ý nói người xuất gia tu học giáo lý Phật để diệt trừ phiền não làm cho tâm thanh tịnh, và làm gương cho Phật tử nương theo đó mà tu tập)
– Mô phật thưa chú! Hằng ngày con nghe mẹ nói mẹ hay sinh phiền não, thế nào là tâm phiền não? Phiền não từ đâu mà có? Nhờ chú khai ngộ.
– Chú Ngộ Tánh không trả lời, chú dẫn bé Tâm ra hồ nước, nhìn mặt nước đang yên lặng trong sạch, nhìn thấy khuôn mặt của chú Ngộ Tánh và bé Tâm in dưới nước, bỗng dưng chú Ngộ Tánh dùng tay khuấy mặt nước, làm mặt nước chao động, những bùn dơ nổi lên, không còn nhìn thấy hình ảnh của chú và bé tâm nữa, chú bảo đó là tâm phiền não, phiền não đo đâu mà sinh. Lúc đó bé tâm được khai ngộ.
(Ý nói tâm sưa nay vốn thanh tịnh, yên như mặt nước. Nhưng do vọng tưởng nên sinh ra phiền não cấu uế) làm cho tâm bị nhiễm ô.
– Thưa chú: thế nào gọi là ái dục, và tác hại của nó ra sao?
– Chú Ngộ Tánh không trả lời, liền xô bé Tâm xuống hồ nước, bé Tâm hụp lặn dưới nước, sau đó chú Ngộ Tánh nhảy xuống nắm tay đưa bé Tâm lên bờ. Bé tâm giác ngộ và nở nụ cười thật tươi và cảm ơn những lời khai thị của chú. (Ý nói ái dụng như dòng nước sông, chính ái dục là cội gốc sinh tử luân hồi, nhấn chìm chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi.)
– Sau khi kéo bé Tâm lên bị ướt hết quần áo, chú Ngộ Tánh dẫn bé Tâm vào nhúm lửa sưởi ấm. Thì lúc đó có những con phù dung bay vào lửa chết, chú nói: đó là tác hại của ái dục, mặc dù loài phù dung nó biết đó là lửa nhưng vẫn bay vào, để rồi phải bị cảnh thiêu thân. (Ý nói, tất cả chúng sinh đều biết ái dục là nguồn gốc khổ đau sinh tử, thế nhưng con người vẫn chìm đắm mình trong ái dục).
– Rồi thời gian hoàng hôn đã ngã bóng chiều tà, chú Ngộ Tánh dẫn bé Tâm về để chuẩn bị cơm chiều và công phu tối. Đến giờ cơm tối, Phương trượng và bố mẹ của bé Tâm ăn xong, để phần cơm cho chú Ngộ Tánh và bé Tâm. Nhìn trên bàn chỉ thấy một bát cơm, một đĩa rau luộc, với một chén nước tương, bé Tâm ăn không quen chỉ dùng một chút ít cho vui, rồi ngồi nhìn chú Ngộ Tánh ăn một cách ngon lành, bé Tâm hỏi.
– Thưa chú! Gia đình của chú chắc nghèo lắm đúng không?
Hằng ngày bố mẹ cho ăn cơm rau luộc với nước tương, nên con nhìn chú ăn một cách ngon lành. Chú Ngộ Tánh trả lời:
– Mô phật: “Gia đình của Ngộ Tánh giàu có nhất ở ngôi làng này, hằng ngày bố mẹ cho ăn toàn những thứ cao lương mỹ vị, giờ xuất gia ăn cơm tương rau vẫn thấy ngon và sống an lạc. Mục đích là ăn để sống nuôi thân hành đạo, không phải mục đích sống để ăn.”
– Bé Tâm hỏi tiếp, sao gia đình của chú giàu có nhất ngôi làng này, chú lại từ bỏ đi xuất gia, không ở nhà hưởng kế thưà gia tài của bố mẹ. Chú Ngộ Tánh hỏi bé tâm rằng:
Tâm có biết về lịch sử đức Phật Thích Ca không?
– Dạ biết, thưa chú!
Ngài sinh ra trong hoàng cung, là một thái tử đông cung, Ngài có thể kế thừa ngai vàng của phụ vương, Ngài có cả cung vàng điện ngọc vợ đẹp con xinh, vàng bạc châu báu, biết bao nhiêu cung phi mỹ nữ hầu hạ, Ngài từ bỏ tất cả đi xuất gia tìm con đường giải thoát cho chính Ngài và tha nhân. Nếu Ngài sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, thì ngày nay, những ngoại đạo có thể bảo rằng: “Đạo Phật là đạo nghèo khổ, vì nghèo khổ không có cơm ăn mới đi xuất gia, chứ lý tưởng cao thượng giải thoát gì đâu”. Nếu Ngộ Tánh sinh ra trong một gia đình nghèo khổ đi xuất gia, có lẽ bây giờ bé Tâm cũng cho là Ngộ Tánh vì gia đình nghèo không nuôi con nổi nên cho đi ở chùa để kiếm cơm sống qua ngày, nói đến đây bé Tâm và Ngộ Tánh cười…Như là một sự thấu hiểu mục đích của người xuất gia.
– Sau khi dược thực xong, đến giờ công phu chú Ngộ Tánh mặc áo vàng trông thật dễ thương đi đánh chuông, chú đọc câu kệ:
Nguyện thử chung thinh siêu pháp giới, Thiết vi u ám tất giai văn. Văn trần thanh tịnh chứng viên thông, Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác” Bài kệ thứ hai: “Văn chung thanh phiền não khinh Trí Huệ trưởng bồ đề sinh Ly địa ngục xuất hỏa khinh Nguỵên thành Phật độ chúng sinh”
– Bé Tâm cùng bố mẹ quỳ lạy Phật với tâm thành kính, rồi ngồi nghe Phương trượng tụng kinh. Sau thời khóa tụng bé Tâm có nhiều thắc mắc hỏi chú Ngộ Tánh rằng.
– Thưa chú! Mục đích của tụng kinh là gì? Sao con thấy bố mẹ thường tụng kinh rồi cầu nguyện nhiều thứ? Cầu gia đình làm ăn giàu có, gia đình bình an, khỏi bệnh tật đau ốm…, Chú Ngộ tánh không trả lời, chú dùng ngón tay chi lên mặt trăng, bảo rằng; “Bé Tâm muốn thấy mặt trăng hãy nhìn theo ngón tay của Ngộ Tánh. Đó là mục đích ý nghĩa tụng kinh (ý nói nương vào phương tiện để đạt mục đích cứu cánh, tụng kinh là minh Phật chi lý)
– Bé tâm hỏi tiếp, thưa chú: Lúc nãy chú đánh chuông để làm gì? Mục đích của nó?
– Chú Ngộ tánh liền gõ lên tráng bé tâm một cái, hỏi bé tâm ngộ chưa?
(Ý nói đánh chuông để cảnh tỉnh tâm vô minh của con người, khỏi tạo nghiệp ác)
– Dạ thưa Tâm ngộ rồi ạ.
– Thưa chú! Tối thượng của đạo Phật là gì?
– Chú Ngộ tánh ban đầu đưa ra ba ngón tay. Nhưng cuối cùng chú chỉ đưa lên một ngón tay bảo rằng: Đây là mục đích tối thượng của đạo Phật. (ý nói vì căn cơ của chúng sinh có cao thấp, nên Phật mới Phân ra tam thừa: Thinh Văn Thừa, Duyên Gía Thừa, Bồ Tát Thừa. Nhưng cuối cùng mục đích rốt ráo của Đạo Phật chỉ còn lại Phật Thừa. Nên đức Phật dạy: Tất cả chúng sinh cuối cùng rồi sẽ thành Phật)
– Bé tâm hỏi thêm chú một vài câu hỏi nữa được không à? Chú Ngộ tánh mô Phật, xin cứ hỏi, điều gì biết Ngộ Tánh trả lời, điều gì không biết xin hỏi Phương trượng.
Bé Tâm thưa:
– Thưa chú! Thế nào là Phật tính?
– Phật tính ư? Chú Ngộ Tánh chỉ vào cái đèn đang thắp sáng trên bàn Phật bảo rằng ngọn đèn bên trong chính là Phật tính. (Ý nói trí tuệ sáng suốt vốn có trong tâm mỗi chúng sinh)
– Vậy thế nào gọi là vô minh?
– Chú Ngộ tánh liền thổi tắt đèn bảo như thế gọi là vô minh.
– Thế nào gọi là giới, định, tuệ và mối liên hệ của tam vô lậu học thế nào?
– Chú Ngộ tánh chỉ vào bòng đèn nói rằng đây là giới, ngọn đèn đứng yên đang cháy đó là định, ánh sáng ngọn đèn phát ra đó là tuệ. Nếu không có bóng đèn, thì ngọn đèn sẽ bị gió thổi tắt. Nó không thể cháy sáng gọi là: “Nhân giới sinh định, nhân định phát huệ”.
– Thế nào gọi là vọng tưởng?
– Chú Ngộ Tánh chỉ bóng của bé Tâm in trên bức tường bảo đó là vọng tưởng.
– Thưa chú! Phật và chúng sinh là hai hay một, giống nhau và khác nhau như thế nào?
– Chú Ngộ tánh chỉ vào hai cây đèn bảo rằng: Phật là ngọn đèn đã thắp sáng, chúng sinh là ngọn đèn chưa thắp sáng. Tướng thì có hai, nhưng chức năng của đèn là giống nhau, mục đích là thắp sáng, thế là chú Ngộ Tánh đốt cháy cây đèn đã tắt lên bảo bé Tâm xem kìa, Hai cây đèn cháy sáng như nhau.
– Thưa chú! Nếu chú nói Phật và chúng sinh tuy hai mà một? Hình tướng có hai nhưng thể tánh lại là một. Như vậy Phật có trước hay chúng sinh có trước?
– Chú Ngộ tánh đưa cho bé tâm một quả xoài bảo rằng, quả xoài có trước hay hột xoài có trước? Bé tâm không biết trả lời, chú Ngộ Tánh giải thích, trong quả xoài có hột xoài, trong hột xoài có quả xoài, cũng như trong con gà có trứng gà, trong trứng gà đã có con gà: đạo Phật gọi là nhân quả đồng thời, trùng trùng duyên khởi, không có cái nào có trước, không cái nào có sau, khi mê chúng sinh, khi ngộ là Phật, Phật Thích Ca từ thái tử Siddhatta mà thành, Thái tử Siddhatta chính là Phật Thích Ca.
Đã đến giờ chỉ tịnh, cho nên gia đình bé Tâm đảnh lễ Phương trượng và chú Ngộ tánh ra về, bé tâm cảm ơn chú Ngộ Tánh, ngày hôm nay đã khai ngộ cho bé tâm hiểu được nhiều Phật pháp.
Thời gian trôi đi thật nhanh 5 năm sau, chú Ngộ tánh vừa tròn 15 tuổi. Mỗi ngày càng tướng hảo và thông minh. Một hôm chú bạch Sư phụ cho về thăm ông bà và cha mẹ, Chú được Sư ông chấp thuận.
Trên đường về nhà, chú Ngộ Tánh tình cờ gặp vợ chồng ông bà lão độ tuổi bảy mươi đang trên đường đi lễ Phật. Ông lão hỏi chú: Chú pháp danh gì? Chú tu chùa nào? Chú Ngộ Tánh đáp:
– Mô Phật Phương trượng đặt cho pháp danh là Ngộ Tánh.
– Ngộ Tánh tu ở chùa Bửu thắng.
– Chú tu lâu chưa?
– Từ khi, Ngộ tánh biết cầm chuỗi niệm Phật
– Chú niệm Phật để làm gì?
– Chú Ngộ tánh không trả lời, đưa tay lên đầu, xoa đầu bảo rằng đó là mục đích niệm Phật (Ý nói niệm Phật là để tiêu trừ phiền não)
– Chú biết phương pháp nào để tu hành giải thoái không?
– Chú liền lấy dây chuỗi ra, mở dây chuỗi đưa cho ông lão từng hạt, từng hạt bảo rằng: đó là phương pháp tu tập để giải thoát. (Ý nói muốn giải thoát phải cởi trói phiền não trong tâm) Ông lão khen Chú quả thật là thông minh và rất am hiểu Phật pháp.
Bà lão chen vào hỏi chú Ngộ tánh:
– Chú đi tu rồi về nhà thấy thịt cá có thèm không?
– Chú Ngộ Tánh đáp: Thưa Bà! Bà cụ có biết ăn trầu không?
– Không à
– Bà cụ không biết ăn trầu, vậy khi Bà cụ nhìn thấy trầu có thèm không?
– Không à
– Ngộ tánh cũng thế.
Bà lão hỏi tiếp: Mục đích của Phật ra đời để làm gì?
Chú Ngộ Tánh lấy trong túi cái đèn pin ra, mở đèn pin sáng lên rồi tặng cho bà cụ bảo rằng: Khi về trời tối bà cụ nhớ mở đèn Pin lên đi. Mục đích của Phật ra đời cũng thế
Chú nói cao siêu quá, bà không hiểu. Ông lão chen vào nói: Ý Chú Ngộ Tánh bảo mục đích đức Phật ra đời là: “Khai thị chúng sinh, ngộ nhập Phật tri kiến”. Ông lão hỏi đúng không chú? Chú Ngộ Tánh cười.
Bà lão hỏi tiếp: Chú có biết bà cụ từ đâu đến không? Chết đi về đâu? Bà lão bảo chú giải thích rõ ràng, không được nói thiền khó hiểu quá.
Chú hỏi bà lão: bác sĩ thì đi đâu?
Bà lão trả lời: Thì đi tới bệnh viện chẳng lẽ tới chợ
Chú Ngộ Tánh cười, dạ đúng vậy
– Sau khi bác sĩ làm việc xong về đâu?
– Về nhà
– Học sinh thì đi đâu?
– Đến trường
– Học xong về đâu?
– Về nhà
– Bà bán cá đi đâu để bán?
– Đến chợ
– Bán xong về đâu?
– Về nhà
– Thầy tu đi đâu?
– Đi thuyết pháp,
– Thuyết Pháp xong về đâu?
– Thì về chùa
– Cũng vậy thưa bà sau khi chết tùy theo nghiệp lực mỗi người khác nhau, nên tái sinh vào những cảnh giới khác nhau. Do nghiệp lực dẫn dắt, làm thiện sinh về cảnh giới thiện, làm ác sinh về cảnh giới ác, cũng như Ngộ Tánh đã hỏi. Từ đó bà cụ suy ra. Bà cụ biết từ đâu đến, chết đi về đâu.
Bà cụ nói: Ôi trời Phật Pháp cao siêu khó hiểu quá
Chú Ngộ tánh nói với Bà cụ: Thưa bà! Phật Pháp không có cao, cũng không có thấp, do căn cơ mỗi chúng sinh, nên thấy có cao có thấp. Chú ví dụ cho bà hiểu:
Mô Phật! khi Ngộ Tánh học lớp một xem bài toán lớp 5 khó ơi là khó, xem vào không hiểu gì cả. Nhưng khi Ngộ Tánh lên lớp 6 rồi nhìn lại bài toán lớp năm quá dễ dàng. Khi còn ở địa vị phàm phu thấy giáo lý của Phật sao quá cao siêu, khi chứng thánh quả rồi không còn thấy cao thấp.
Ông lão chen vào hỏi: Theo quan điểm của Chú đời là khổ, hay hạnh phúc?
Chú Ngộ Tánh liền đưa cho ông cụ một đôi kiếng màu đen, bảo ông cụ đeo vào. Chú Ngộ Tánh hỏi:
– Ông nhìn thấy bầu trời thế nào?
– Toàn là màu đen
Chú Ngộ Tánh đưa tiếp ông cụ một đôi kiếng màu trắng, bảo ông cụ đeo vào. Chú Ngộ Tánh hỏi tiếp:
– Ông nhìn thấy bầu trời thế nào?
– Toàn màu trắng.
– Thưa ông! Vậy bầu trời đen hay trắng?
– Không đen, cũng không trắng
– Ngộ tánh nhìn đời cũng thế.
Bà lão đứng bên khen rằng: Chú tuy còn nhỏ tuổi sao thông minh và am hiểu Phật pháp thế nhỉ.
– Vậy thế nào là gọi là vô thường?
– Chú Ngộ Tánh chỉ lên đầu tóc bạc của bà lão bảo: Đó gọi là vô thường.
– Thế nào gọi là Pháp
– Chú ngộ tánh chỉ chiếc thuyền đang đậu trên sông. (Ý nói Pháp là phương tiện đưa chúng sinh từ bờ mê, đến bờ giác ngộ giải thoát)
Bà lão hỏi chú Ngộ Tánh tiếp: Nếu chú lớn lên, Chú có thích nữ sắc không?
– Chú Ngộ tánh trả lời: Quá khứ thì qua rồi, tương lai thì chưa đến, Ngộ Tánh chỉ biết hiện tại
– Thế nào gọi là hiện tại
– Mô Phật, hiện tại là giữa một hơi thở ra và chuẩn bị nhận một hơi thở vào.
Ông lão bảo: nếu chú tu thành Phật rồi chú sẽ làm gi?
– Mô Phật! Trước kia Ngộ tánh ở nhà muốn đến chùa. Khi đền chùa tu hành được rồi Ngộ tánh muốn về nhà.
– Ũa sao chú muốn về nhà? Bị Phương trượng đuổi à? Hay vì chán ở chùa rồi muốn về nhà?
– Mô Phật không phải. Đó là vì ước muốn của Ngộ Tánh muốn về nhà à.
– Chú nói sao lòng vòng Ông khó hiểu quá.
Bà lão chen vào: Ông này sao chậm hiểu quá vậy, ý chú Ngộ Tánh bảo rằng: Khi còn chúng sinh ao ước tu hành thành Bồ Tát, thành Phật. Khi thành rồi phải có bản nguyện trở lại độ sinh. Cũng giống như học sinh còn đi học ao ước trở thành thầy cô giáo. Khi thành thầy cô giáo rồi muốn trở lại trường dạy học sinh. Đơn giản vậy mà Ông không hiểu. Bà nói vậy đúng không Chú?
– Mô Phật thiện tai.
– Mô Phật trời cũng tối rồi, ông bà cũng cáo biệt Chú, để trở về nhà, cảm ơn chú đã cho vợ chồng già những bài pháp thật hay Sau khi chia tay ông bà lão. Chú Ngộ Tánh đi thêm một đoạn đường nữa thì gặp hai vợ chồng độ chừng 45 tuổi đang đi làm về. Chú Ngộ Tánh chấp tay chào: Mô Phật chào nhị vị thí chủ. Hai thí chủ vẫn khỏe chứ?
– Mô Phật vẫn khỏe
– Còn Chú ra sao? Cuộc sống ở chùa ra sao? Phương trượng vẫn khỏe chứ?
– Mô Phật! Phương trượng vẫn khỏe. Phương trượng gởi lời thăm hai vị thí chủ
– Kính gởi lời cảm ơn đến Phương trượng.
– Mô Phật
Sau đó hai vợ chồng mời Chú Ngộ Tánh vào quán nước bên đường, ngồi uống nước và đàm đạo
Sau khi vào quán dùng nước. Người nữ thí chủ mới hỏi đạo:
– Mục đích chính đức Phật nói pháp để làm gì?
– Mô Phật!
“Không làm các việc ác Thường làm các việc lành Giữ tâm ý trong sạch Đó là lời chư Phật dạy”
– Thế nào gọi niệm Phật nhất tâm bất loạn
– Niệm vô niệm niệm,
– Thế nào gọi là niệm vô niệm niệm
– Niệm khi nào không còn thấy mình niệm mới gọi là niệm.
– Vì sao thế? Chú giải thích thêm
– Vì niệm còn thấy mình niệm, đối tượng để niệm tức là còn chấp, còn ngã chấp, còn ngã chấp tức là còn vọng tưởng, thì làm sao nhất tâm bất loạn.
– Chú có thể nào cho một ví dụ dễ hiểu không?
– Mô Phật! Hằng ngày thí chủ muốn thức dậy 5 giờ sáng để đi làm, có bữa thí chủ thức dậy 4 giờ, có bữa thức dậy trễ 6 giờ. Tức là chưa nhất tâm. Thí chủ dùng đồng hồ báo thức canh đúng 5 giờ, thì mỗi ngày đúng 5 giờ. Đồng hồ báo thức sẽ đánh thức thí chủ dậy, đây vẫn còn chấp, vì còn sử dụng phương tiện đồng hồ báo thức. Nhưng trải qua một thời gian dài trở thành thói quen. Cứ mỗi ngày đến 5 giờ sáng là thí chủ sẽ thức dậy, không cần đến đồng hồ báo thức nữa. Dù thí chủ không muốn thức dậy, đến giờ đó thí chủ cũng sẽ thức dậy. Niệm Phật cũng thế, hằng ngày dùng chuỗi niệm Phật để trở thành thói quen, đến một giai đoạn nào đó mình không cần niệm, tâm mình vẫn cứ niệm thế gọi là nhất tâm bất loạn.
– Lúc trước đưa chú lên chùa lạy Phật: Chú hỏi Phương Trượng thế nào gọi là đạo giải thoát?
Phương trượng đưa cho chú một trái chuối, bảo chú lột hết vỏ rồi ăn mới cảm thấy hương vị ngon của nó. Phương trượng bảo đó là đạo giải thoát. Là ý nghĩa gì?
– Mô Phật ý Phương trượng bảo: Hãy cởi bỏ hết phiền não, thì mới cảm nhận được chân lý giải thoát an lạc
– Ồ thì ra là vậy.
Ngày hôm đó chú còn hỏi Phương Trượng: Thế nào là mục đích của người xuất gia? Tại sao Sư ông phải xuất gia? Sư ông tự tay cầm trái chuối lột vỏ ra, ăn một nửa, còn nửa kia đưa cho mẹ. Sư ông nói đó là mục đích của người xuất gia, là ý gì vậy?
– Mô Phật ý Sư ông bảo: Mục đích người xuất gia trước tiên tự giải thoát cho mình, sau đó giải thoát cho chúng sinh. Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn
– Những câu khác thì hiểu. Còn câu chú hỏi Sư Ông thế nào gọi là “Tâm Chơn Như”. Sư Ông mỉm cười không trả lời? Có phải Sư ông không biết nên không trả lời? đúng không?
– Mô Phật không phải! Ý Sư ông bảo: “Tâm Chơn Như là cái tâm tánh bất sanh bất diệt. Thể và Tướng nó to lớn bao trùm tất cả các pháp (nhứt pháp giới đại tổng tướng pháp môn thể). Sở dĩ các pháp sai khác là do vọng niệm; nếu rời vọng niệm thì không còn các cảnh tướng sai khác. Bởi thế nên tất cả pháp từ hồi nào đến giờ, không thể dùng danh tự để kêu gọi, không thể dùng lời nói luận bàn, không thể dùng tâm suy nghĩ được, không có biến đổi và cũng không phá hoại vì nó rốt ráo bình đẳng, chỉ có một “Tâm Chơn như” mà thôi” (Luận Đại Thừa Khởi Tín)
– Mô Phật! Bây giờ thì hiểu hết rồi.
– Đến lượt người đàn ông hỏi đạo: Thế nào gọi là vô minh?
– Chú Ngộ Tánh nhắm đôi mắt lại, bảo đó là vô minh.
– Sự tác hại của vô minh?
– Chú ngộ tánh nhắm mắt, rồi đứng dậy đi đụng phải cái ghế té ngã xuốg đất. Chú đứng dậy bảo đó là tác hại của vô minh.
– Thế nào là sự tham đắm của ái dục?
– Chú Ngộ tánh, lấy 1 ly nước bỏ muối vào, sau đó uống. Bảo rằng: Sự tham đắm ái dục cũng như thế.
– Trách nhiệm chính của chú là gì?
– Chú Ngộ Tánh dùng chiếc quẹt diêm dốt cây đèn này, mồi tiếp qua cây đèn khác, đó là trách nhiệm của cháu.
– Sao khó hiểu quá.
Người nữ thí chủ chen vào câu chuyện bảo: Trách nhiệm chính của người xuất gia là: “Truyền đăng tục diệm”. Nghĩa là luôn tiếp nối ngọn đèn chánh pháp của Như Lai đừng để ngọn đèn chánh Pháp của Như Lai tắt đi. Có đúng vậy không Chú?
– Mô Phật! lành thay nữ thí chủ đã hiểu đạo Mô Phật bây giờ trời đã gần tối rồi. Ngộ Tánh phải về chùa, lo công phu, lo việc chùa. Sau khi chia tay hai vị đại thí chủ. Chú Ngộ tánh về lại chùa. Chú Ngộ tánh vào đảnh lễ Phương trượng. Phương trượng hỏi
– Con về nhà có gặp ông bà, bố mẹ không?
– Bạch Thầy! Con có gặp ạ. Con gặp ông bà, bố mẹ ở giữa đường và quán nước.
– Phương trượng bảo: Ừ cũng thế! Tất cả ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc, giống như là những người bạn cùng đi trên một lộ trình, dừng chân nghỉ ngơi trên một quán trọ của của cuộc đời, gặp nhau rồi ai cũng phải chia tay nhau. Chú gặp họ tức có duyên, đã thuyết pháp cho họ hiểu. Họ không làm các điều ác. Thường làm các điều lành, giữ tâm ý trong sạch, không bị trôi lăn sinh tử luân hồi, chấm dứt khổ đau. Đó cũng là cách báo hiếu của người xuất gia đối với Ông bà cha mẹ. Chú đi đường mệt rồi, tắm rửa dùng cơm còn công phu nữa. Mô Phật.
*Nguồn: Blog Trí Giải
10 notes
·
View notes
Photo
Hồn Ma Nhà Ðạo Sĩ - Truyện Cổ Phật Giáo Nhật Bản ------------------------------- Nam Mô A Di Ðà Phật. Vị sư già đứng đó đã lâu nhưng chẳng ai để ý đến ông cả. Ðó là vị sư mình hạc, xương mai, khuôn mặc gầy gò, vàng bệch nhưng luôn luôn tươi cười, biểu lộ đức từ bi, bác ái. Cách mấy bước, gần đó là một nhà kiếm sĩ. Chàng ta cao lớn nhưng người khô đé . Nét mặt khắt khổ nhưng không giống vẻ khắc khổ của nhà tu. Ðó là vẻ khắc khổ của một kiếm sĩ hết thời, tài nghệ không còn nuôi sống nổi thân nên đành cắp kiếm đi giang hồ, rày nay mai đó. Kiếm sĩ vào quán một lần với nhà sư. Chàng thét gọi tửu bảo. Tên này chạy ra, lúng túng không biết nên tiếp ai trước giữa hai người. Nhà sư nói với tửu bảo: - Anh hãy dọn rượu thịt cho kiếm khách trước. Ông ấy đến trước ta và dáng chừng còn nhiều việc gấp. Nghe vậy,chàng kiếm sĩ vội xua tay: - Tửu bảo hãy tíếp nhà sư trước. Cần giữ lễ với một vị đạo cao đức trọng, còn kẻ giang hồ khốn khó, khỏi cần trọng đãi. Hai người cùng thi lễ – Kiếm sĩ tự giới thiệu: - Tôi làTa Mã Sum. Hai người cùng ngồi một bàn với nhau – thức ăn dọn ra chỉ có cơm trắng, măng kho vàngó sen luộc. Qua câu chuyện trao đổi , họ mới biết là cả hai cùng đang đến tỉnh Ki Ô Tô bằng con đường Tô cai Dô . Tại sao họ không cùng kết bạnvới nhau, cùng đi một lượt cho dặm dài đỡ vắng vì có bạn đồng hành ? saubữa cơm , hai người đã trở nên đôi bạn. Hành lý của họ không nhiều lắm. Ta Mã Sum chỉ có hai thanh kiếm , còn nhà đạo sĩ thì xách một cái bị vải trông rất nghèo nàn . Họ vừa đi vừa trò chuyện rất tương đắc. Nhà sư luôn kể chuyện hành đạo còn Ta Mã Sum thì kể chuyện những kinh nghiệm từng trảitrên bước đường giang hồ phiêu bạt của mình. Con đường Cai Tô Dô thật nhộn nhịp. Hành khách ngược xuôi, đủ mặt các nhà sư, Kiếm sĩ, những người hành hương đi viếng các đền chùa, cả những người hát dạo ,mãi võ, làm trò thủ thuật và rất nhiều hành khất đi xin ăn, đầu đội chiếcnón thật lớn, che kín mặt. Nhiều vị lãnh chúa, thượng hạng ngự trong kiệu , có quân lính theo hầu. Mỗi lần họ đi qua , dân chúng lại kính cẩn cúi mình rạp đất, tỏ sự chào mừng. Nếu cóvị lãnh chúa cùng đi chung một đường thì vị nào chức vị cao, bổng lộc hậusẽ được nhường đi trước. Người ta còn thấy trên đường Tô Cai Dô những văn nhân , thi sĩ đi ngắm cảnh, tìm vần thơ hoặc những họa sĩ đang say mê ghi lại phong cảnh hữu tình trên nền lụa. Ta Mã Sum kể cho nhà sư nghe về dĩ vãng của mình , đã theo học những ai để trở thànhkiếm sĩ, đã từng đụng độ bao nhiêu trận và giết được bao nhiêu người. Vị sư giàkhông chê trách gì Ta Mã Sum. Theo oÂng , ông là người đạo đức suốt đời không hề làm hại ai, không giết ai, không gây cho ai buồn rầu, đau đớn. Nhưng , Ta Mã Sum, chàng là kiếm sĩ mà kiếm sĩ thì phải đánh, phải giết.Ông không thể khuyên chàng hay chỉ trích những hành động đó. Mỗi người cómột số phận. Sau khi chết, họ sẽ đầu thai trở lại làm người hay làm thúvật tùy theo cái nhân mà họ gây ra . Ai cũng có thể gặp cơ duyên để trở nên tốt cả nếu họ chịu tu hành. Con người, súc vật, cây cỏ một ngày kia đều có thể thành Phật. Nhà sưluôn miệng “Nam Mô” và đem các điều đạo lý ra nói cho Ta Mã Sum nghe. Ôngkể chuyện Hoàng tử Ấn Ðộ bị Hoàng hậu độc ác móc mắt nhưng vẫn từ bi, tha thứ cho kẻ thù vì áp dụng câu : “ Lấy oán báo oán, oán oán chập chồng, lấy ân báo oán, oán ấy mới tiêu tan”. Sau mấy ngày làm bạn đồng hành , họ đã trở nên thân thiết. Nhà sư có điều gì đều nói hết cho kiếm sĩ nghe , không giấu một chuyện gì. Một hôm, ông trỏ cái bị vải đang đeo trên vai, nói với Ta Mã Sum: - Ông bạn có biết cái bị vải mà tôi đeo kè kè bên mình này đựng cái gì không? Ta MãSum lắc đầu: - Không biết được! có gì quý giá không, thưa đạo sĩ. - Quý lắm. - Chắc là một tượng Phật? - Không. - Hay là một cuốn kinh quý giá mang lời vàng ngọc của đức Như Lai? - Cũng không nốt. Ta Mã Sum nghĩ thầm: “ Hay là một chiếc răng của đức Phật”. Hắn định hỏi đùa thế nhưng không dám, đành tuyên bố chịu thua. Nhà sưthông thả đáp: - Trong chiếc bị nghèo nàn này có hai trăm nén bạc. Ta MãSum cười: Ðạo sĩ giỡn tôi làm chi, tội nghiệp! Nếu người có một số tiền lớn như vậy thì người đã chẳng đi khất thực như tôi đã gặp. Nếu quả thực là chiếc bị này đựng hai trăm nén bạc thì người phải mặc áo đẹp, trọ ở khách sạn sang trọng, mời tôi uống rượu quý, có đâu lại trọ ở cái quán nghèo nàn, nơi chúng ta gặp nhau. Gương mặt đạo sĩ sáng lên, hớn hở. - Không, bần đạo không đùa đâu. Bần đạo mang theo 200 nén bạc nhưng không phải để tiêu dùng cho mình. Bạn muốn biết để làm gì phải không? Ðã gọi là chỗ thân tình, tôi xin kể bạn nghe. Số là mộtngày nọ, tôi đi từ Ô Mô Ri đến đền I Kê Ga Ni. Có lẽ bạn biết vùng đó. (TaMã Sum gật đầu). Tôi chưa hề thấy cảnh sắc vùng nào đẹp hơn vùng ấy. Thời tiết êm dịu. Lòng tôi phơi phới , thanh thản. Thốt nhiên, tôi nghe tiếngchuông báo hiệu, mời tín đồ lại hành lễ tại đền thờ. Tiếng chuông thấm sâu trong lòng tôi và tôi cảm thấy mến yêu đức Thế Tôn vô vàn. Tôi nguyện rằng suốt đời phải làm sao đúc cho được một tượng Phật bằng đồng. Từ nhiều năm qua, tôi đã đi khắp nước Nhật để xin bố thí và để dành dụm được 200 nén bạc đựng trong cái bị này. Chuyến đi này đến Ki Ô Tô, tôi sẽ mướn một nhà điêu khắc lành nghề thực hiện giấc mộng mà bao lâu nay tôi ấp ủ. Ðôi mắt đạo sĩ rực sáng lên vì vui thích. Hình như ông đang hình dung trước mắt, pho tượng Phật hiện lên, kết quả của bao nhiêu năm ông đã chịu gian khổ ,dành dụm thực hiện điều mình ước nguyện. Ông saysưa nói tiếp: - Ðức Phật sẽ ngự trên một tòa sen, ngồi theo lối kiết già. Bàn tay mặt của Ngài sẽ đưa lên vai, lòng tay xoay ra ngoài để ban phước cho chúnh sanh, trên trán Ngài có dấu hiệu toàn trí , toàn năng và nụ cười của Ngài sẽ là nụ cười từ bi vô lượng. Ðó , bạn đã biết lý do vì sao tôi giữ gìn cẩn trọng cái bị này. Ôngcười đùa: - Ngườita nói rằng ai mang vàng bạc trong người sẽ đeo theo mối hiểm nguy nhưngvới một kẻ anh hùng mã thượng như ông bạn, tôi chẳng chút gì ái ngại haylo lắng cả. Ta Mã Sum nghiêng đầu một cách cung kính, tỏ lòng cám ơn mỹ ý của đạo sĩ nhưng trong lòng gã đang ngổn ngang trăm mối. Trán gã nhăn lại, cử chỉ gã mất phần tự nhiên. Gã nghĩ : - Suốt cả đời ta ngang dọc, tung hoành vào sinh ra tử , chưa bao giờ ta có được một phần mười số bạc mà lão sư già đang làm chủ. Ta đang đói rách, khốn khổ trong khi lão có 200 nén bạc lại nghĩ đến việc đúc tựơng Phật. Gã thở dài: Ta đã già rồi! Tuổi 40 là tuổi veà vườn , vô dụng. Kiếm sĩ đến tuổi đó còn hoạt động gì được nữa? Chẳng ai thu dụng ta. Với số bạc 200 nén của lão sư già chắc chắn ta sẽ sống một cuộc đời sung sướng. Nhưng có bao giờ lão cho ta một ít. Họa là điên mới làm thế vì xem ra, lão đang say mê chuyện đúc tựơng Phật và chẳng nghĩ gì khác nữa.... . . Lòng ghen tức bắt đầu giày vò tâm trí Ta Mã Sum. Ðôi lúc hắn mong cho vị sư giàđể quên đâu đó cái bị bạc và hắn sẽ chiếm lấy, trốn đi . Một ý nghĩ táo bạo đến với hắn . Hắn chép miệng ,nhủ thầm: “ Ðời chỉ là một cuộc phiêu lưu mà mục đích chỉ là tốt hay xấu mà thôi, gặp thời thế phải lợi dụng nó, có khi phải tự mình tạo ra thời thế. . .” Ban đầu,Ta Mã Sum cố xua đuổi những ý nghĩ bất chính, nhưng lần hồi lòng tham đãlàm mờ mịt lý trí của gã. Gã chỉ nghĩ cách làm sao đoạt cho được số bạc của sư già. Sư già thì chẳng hề để ý gì đến sự thay đổi của Ta Mã Sum.Ông luôn tin tưởng vào người mà ông đã nhận là bạn đồng hành. Hai người đến thị trấn Quản A. Ðường đi bi gián đoạn bởi một eo biển phảidùng thuyền mới qua được . Người lái thuyền chờ cho đủ 30 khách mới lái thuyền đi. Khi bước xuống thuyền , vị sư già loạng choạng thế nào xuýt té xuống nước. Trông thấy thế, Ta Mã Sum lòng mừng khấp khới. Hắn đã tìm ra cách thủ tiêu nhà sư để đoạt gói bạc. Hắn dìunhà sư đến ngồi sau lái, ở một chỗ vắng người. Gói bạc để ở giữa. Vờ trỏ cho nhà sư một con cá đang nhảy lên khỏi mặt nước, thừa lúc nhà sư nghiêng mình xuống xem, Ta Mã Sum bèn đẩy nhẹ một cái. Nhà sư té ngũm ngay xuống biển. Chờ cho thuyền chạy được một quãng, Ta Mã Sum mới làm bộ la lớn: - Trời ơi! Bạn tôi té xuống biển rồi, ngừng lại mau! Ngừng lại mau! Gió lúcđó đang thổi mạnh. Buồm căng gió đẩy con thuyền đi vùn vụt. Khi người láithuyền cố sức neo thuyền lại thì không còn thấy dấu vết nhà sư đâu nửa cả. Ta MãSum gào lên, nước mắt hắn giàn giụa: - Lão đạo sĩ đó là bạn thân thiết của tôi. Trời ơi, bây giờ ông chết đi bỏ tôi lại một mình, khổ sở thân tôi! Mọi người trên thuyền thấy vậy đều xúc động. Ta Mã Sum lau nước mắt, đoạn nói với mọi người: - Chúng ta phải trình vịệc này tới nhà chức trách địa phương,nhưng tôi nghĩ làm thế mất nhìều thì giờ khai báo, phiền đến quý vị sợchậm trễ công việc . Tôi cũng vậy, tôi cũng có việc gấp cần đi ngay. Vả lại, nếu khai báo, sợ bác lái thuyền bị nghi oan, tội nghiệp. Chi bằng tacứ tiếp tục hành trình, đến Ki Ô Tô, tự tôi sẽ đứng ra khai báo việc này, khỏi phiền đến quý vị. Mọi người, kể cả bác lái thuyền, thấy có lý, sợ phiền phức, liên lụy nên ai cũng đồng ý là giữ kín chuyện này và cứ tiếp tục hành trình. Khi thuyền cập bến, Ta Mã Sum cặp cái bị bạc, nhảy phóc lên bờ, trongchốc lát, không còn thấy hắn đâu nữa. Tối hôm đó, trong phòng riêng tại lữ quán, Ta Mã Sum mở bị bạc ra xem. Hắn lóa mắt khi đếm đúng 200 nén bạc nằm trong chiếc bị vải cũ kỹ, rách rưới đó. Bây giờ số bạc đó thuộc về hắn. Hắn vẽ ra trong đầu kế hoạch dùng số bạc đó làmvốn để mai này càng ngày, càng nẩy nở thêm ra. Từ đây, hắn đã thoát cơn nghèo đói. Hắn đến Ki Ô Tô, thay tên đổi họ, không còn là kiếm sĩ nữa mà trở nên một thương gia: Tô Cự Bi, thương gia mễ cốc. Haithanh kiếm võ sĩ đạo, hắn bọc vào trong túi gấm và cất kỹ vào một chiếc hòm. Bây giờ, công việc hằng ngày của hắn là giao dịch, bán buôn, làm ăncàng ngày càng phát đạt, Tô Cự Bi lấy vợ, đẻ con. Hắn thành đạt ngoài sức tưởng tượng. Tuy nhiên, đôi lúc hắn cảm thấy lương tâm cắn rứt. Hắn biết rõ cái sự nghiệp đồ sộ của hắn hôm nay là do tội ác mà nên. Ðể cố quên chuyện xấu xa và những ám ảnh ghê rợn, hắn lao đầu công việc làm ăn, mong nhờ những bận rộn hằng ngày xua đuổi những ý nghĩ giày vò tâm trí hắn. Từ lúchắn đến lập nghiệp ở Ki Ô Tô thắm thoát mà đã ba năm. Tô Cự Bi cảm thấy cần nghỉ ngơi đôi chút để dưỡng già. Hắn mua một biệt thự xinh đẹp, có một vườn hoa to rộng đầy anh đào, có thêm mấy cây tùng. Hôm ăntân gia, tuy được bạn bè thân thuộc chúc mừng nhưng Tô Cự Bi không khỏimột thoáng buồn rầu vì cái sản nghiệp hắn mới tậu thêm đây cũng do nơi tội ác của hắn ngày xưa mà có. Hắn cứ nguyền rủa mãi sự nghèo đói. Chính nghèo đói đã xui hắn làm bậy, tạo nên tội ác. Càng nghĩ đến nhà sư, hắn càng hối hận. Nhà sư từ bi, đạo đức bao nhiêu thì hắn độc ác, xấu xa, bẩn thỉu bấy nhiêu. Ðêm hômđó, nhân trời có trăng, Tô Cự Bi dạo trong hoa viên. Mắt hắn chợt để ý đếnmột cây tùng. Câng tùng lạ làm sao! Hình như có một cái bóng người mờ ảo đang hiện ra từ thân và cành của cây tùng. Thân cây là thân người,cành câylà tay, chân. Hình ảnh đó ban đầu lờ mờ, ảo ảo nhưng càng lúc càng hiện rõ ra. Ðó là hình dáng một người mình hạc, xương mai, đầu trọc lóc, đôi mắt sâu, má hóp, da dẻ tái xanh như một người chết trôi sông. Người chết đó, trời ơi, đang cử động. Lại cười nửa! Nụ cười thật khoan hòa, hỉ xả. . . Mồ hôi Tô Cự Bi vã ra như tắm . Hắn hốt hoảng hét lên: - Kìa, nhà sư! Thây macủa nhà sư từ từ đi về phía Tô Cự Bi, càng lúc càng lớn dần nên làm Tô Cự Bi hoảng sợ, chôn chặt chân một chỗ, không còn đủ sức chạy trốn. Thây mađạo sĩ đưa đôi tay khẳng khiu đã rửa hết thịt ra ôm choàng lấy Tô Cự Bi, kề bộ mặt buồn thảm sát dần, sát dần mặt tên trọc phú. Trướchình ảnh khiếp đảm đó, dầu là một kiếm sĩ đi nữa cũng phải kinh hoàng,chết giấc nhưng vì nguy hiểm đến kề bên mình nên Tô Cự Bi thấy máu anhhùng nổi lên. Hắn sực nhớ mình là một kiếm sĩ. Lập tức hắn chạy vào nhà lấy thanh kiếm ra. Hắn múa lên như gió bão, nhắm thây ma của nhà đạo sĩ màchém tới tấp. Hắn chém rất trúng nhưng lạ thay, thây ma đạo sĩ giống nhưsương khói, hết tan lại tụ, cứ sán lại, ôm choàng lấy tên cựu kiếm sĩ. Sốt ruột, Tô Cự Bi chém mạnh một kiếm, chiếc đầu của nhà sư bay tung lên. Nhưng kìa lạ lùng thay, chiếc đầu lại rơi xuống nối liền vào cổ và thây malại lạnh lùng tiến tới. Cuộcchiến đấu giữa người và ma cứ thế mà kéo dài suốt đêm. Ðến rạng sáng hồnma mới tan đi. Ðêm sau,rồi đêm sau nữa cũng vậy, thây ma của nhà sư xuất hiện từ cây tùng và cuộcchiến lại tái diễn làm Tô Cự Bi cảm thấy kiệt lực. Hắn ra lệnh đốn ngã cây tùng nhưng đêm đến, thây ma nhà sư lại hiện ra từ một cây tùng khác. Tô Cự Bi đâm ra sợ đêm tối. Cứ tắt mặt trời là hắn đã hoảng hốt, lo sợ. Cuối cùng, hắn đóng chặt của phòng, giam mình trong nhà, không dám ra ngoài vườn khi đêm đến. Nhưng lạ thay, vừa đóng cửa phòng, hắn đã thấy thây ma của nhà sư hiện lên trên đầu giường, trên cửa sổ. Tô Cự Bi phát bịnh nặng. Suốt ngày hắn vùi đầu trong chăn nệm, miệng luôn luôn nói sảng. Vợ hắntìm khắp mặt các lương y trong vùng, xin đơn, hốt thuốc nhưng bịnh tìnhcủa Tô Cự Bi vẫn không mảy may thuyên giảm. Bịnh tình kỳ lạ của nhà đại phú thong Tô Cự Bi đươïc loan truyền đi khắp vùng, ai nghe cũng lấy làm thắc mắc. Trong vùng đó có một nhà sư, nghe chuyện lạ thì tìm tới. Nhà sư này nổi tiếng là đạo đức, ai gặp việc gì khó khăn cũng tìm tơí ông chỉ dẫn. Con hầu của Tô Cự Bi, một hôm, đem chuyện nhà kỳ lạ của chủ nhân mình bạch với nhà sư. Nhà sư hỏi rõ ngọn nguồn, suy nghĩ một lát, đoạn bảo người tớ gái nhà đại phú. - Nếu đã uống đủ mọi thứ thuốc thang mà không lành thì làm lễ khấn nguỵên, xin Trời Phật hộ trì, may ra sẽ thuyên giảm chăng. Vợ Tô Cự Bi nghe vậy bèn rước nhà sư về nhà, kể lể đầu đuôi câu chuyện cho nhà sưbiết. Ðoạn, bà ta đưa nhà sư vào phòng của Tô Cự Bi. Vừa trông thấy nhà sư, bệnh tình của Tô Cự Bi bỗng gia tăng trầm trọng, Hắn chỉ tay vào nhà sư mà la hoảng: - Ðó. .. đó. . . Nhà sư. Rõ ràng không còn ai vào đó. Nhà sư ngày trước trở về báo thù ta. Bắt lấy hắn, bắt lấy hắn. Cứu tôi, trời ơi! Hắn runlên cằm cặp, vơ vội mền chiếu trùm kín lên người, che kín mặt như cố chạytrốn hình ảnh người đối diện. Nhà sư yêu cầu để ông ở lại một mình trong phòng, đoạn bước tới gần Tô Cự Bi, ôngnói: - Phải, tôi là nhà sư, bạn đồng hành của ông mấy năm về trước.Tôi chính là người đã bị ông xô xuống biển cách đây 3 năm qua. - Tô Cự Bi run lên. Tay chân hắn cử động như một thây ma củangười treo cổ bị gió đùa. Thây ma mọi hôm ở trong vườn không hề nói mộttiếng, tại sao hôm nay lại nói? Còn hình phạt khủng khiếp nào nữa đây? Có lẽ đoán được ý nghĩ của Tô Cự Bi, nhà sư thong thả nói: Tôi không phải là thây ma. Tôi là người sống. Tôi nhắc lại, tôi là nhà sưđã kết bạn cùng ông trên đoạn đường đến Ki Ô Tô. Tôi chính là người đã bịông xô xuống biển cho chết chìm. Cũng may từ nhỏ tôi đã tập bơi nên hôm đó, tôi bơi được vào bờ, thoát chết. Tôi đãtìm ông khắp chốn để xin lại số bạc hầu đúc cho được tượng Phật nhưngkhông tìm thấy ông đâu cả. Tôi bèn tiếp tục cuộc sống lanh thang, đi khắpbốn phương, khất thực, xin mọi người bố thí và tôi đã gom được số tiền đủ để đúc tượng Phật. Tượng Phật hiện đã hoàn thành. Sự tìnhcờ đưa tôi đến đây. Tôi đẵ hiểu vì đâu ông sinh bịnh. Ông đã phạm vào mộttội ác kinh khủng nhất đời, đó là tội sát nhơn. Tuy nhiên, tôi là kẻ tu hành, tôi tha thứ cho ông. Ðức Phật đã dạy : “ Lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan”. Phải chấm dứt thù oán và sẳn sàng tha thứ. Tôi không hề thù oán gì ông cả. Ông cứ yên tâm. Hãy nhìn tôi đây. . . Tô Cự Bi lấm lét nhìn nhà sư. Ông ta đang mỉm cười với hắn. Ôi, nụ cười đầy khoan dung, hiền hòa vô lượng, làm lòng hắn tự nhiên cảm thấy nhẹ nhàng. Cuốicùng hắn khóc nức lên, quỳ xuống chân nhà sư : - Tội lỗi tôi thật tày đình. Tôi đã xô Ngài xuống biển để đoạtlấy số bạc. Xin Ngài tha tội cho tôi, chỉ vì tôi quá khốn khổ . . . - Phải, con người sinh ra bản tính vốn thiện nhưng rồi cuộcđời làm cho vẩn đục. Nghèo khổ đẩy con người vào mê lầm, tội ác, nhưngbiết sám hối thì tội lỗi sẽ được nhẹ đi. . . - Thưa đạo sĩ, con hối hận vô cùng. Ðêm nào con cũng bị ám ảnhgiày vò, hành hạ không nguôi. Lương Tâm con không được yên ổn để hưởngcảnh giàu sang. - Phải rồi, khi mình làm điều ác thì lương tâm không yên ổn, chỉ một thoáng gió xao động cành cây cũng đủ giật mình. Nhà sưvà cựu kiếm sĩ nói chuyện với nhau y như ba năm trước họ gặp nhau trên conđường đến Ki Ô Tô vậy. Tô Cự Bi khẩn khoản xin trả cho nhà sư 400 nén bạc, tức gấp đôi số bạc mà hắn đã cướp của nhà sư, nhưng nhà sư khoát tay, từ chối: - Không, tôi không cần dùng đến số bạc đó nữa. Tôi đã đúc xong tượng Phật rồi. Tô Cự Bivan nài: - Nếu đạo sĩ không nhận tức là đạo sĩ chưa thật lòng tha thứcho đệ tử. Xin Ngài cứ nhận rồi bố thí lại cho chúng sinh nghèo khổ. - Nếu nhận để cho người nghèo khổ thì được, tôi nhận. Bây giờ, tôi xin phép cáo từ. Nếu ông bạn muốn tôi được vui lòng xin ông bạn hãydọn mình cho trong sạch, từ nay nên làm vịêc thịên. Cần tha thứ kẻ khác và lộng lượng với những kẻ khốn nghèo. Từ đó, nhà phú thương Tô Cự Bi hết bịnh, tâm hồn trở nên thư thái. Ông tỏ ra nhân đức, sẵn lòng cứu giúp mọi người. Cuộc đời về già của ông được dùng để làm toàn việc thiện. Người ta thường thấyông lim dim mắt và niệm: - Nam Mô A Di Ðà Phật. “Ở thế gian này, chẳng phải hận thù trừ được hận thù, chỉ có từ bi trừ được hận thù. Ðó là định luật của ngàn xưa”. -------------------- [Lời Phật Dạy]
5 notes
·
View notes
Photo
Sa-môn hỏi Phật: "Cái gì mạnh nhất? Cái gì sáng nhất?" Ðức Phật dạy: "Nhẫn nhục mạnh nhất, vì chẳng mang lòng ác, lại được thêm an kiện. Kẻ nhẫn nhục không ác, tất được người đời tôn kính. Cấu bẩn trong tâm diệt hết, sạch không còn vết dơ, đó là sáng nhất. Từ khi chưa có trời đất cho đến ngày nay, bao nhiêu sự vật trong mười phương, không có gì là chẳng thấy, không có gì là chẳng biết, không có gì là chẳng nghe. Ðược Nhất-thiết Trí có thể gọi là sáng vậy." -------------------- [Kinh 42 chương - Lời Phật Dạy]
5 notes
·
View notes
Photo
Dặn lòng ăn nói giữ lời Đừng gây phiền muộn cho người cho ta Những lời nói xấu buông ra Như dòng thác chảy vớt mà được đâu Như cơn mưa lạnh đêm sầu Xoáy mòn bờ bãi đục ngầu bóng đêm. Có khi lời nói lỡ thôi Miệng không kịp bụm vành môi giật mình Trái tim chẳng thiếu nghĩa tình Mà lời nói thốt vô minh xa vời Ngàn lời xin lỗi người ơi Xin buông hờn giận thả trôi muộn phiền. - St
6 notes
·
View notes
Photo
Phật dạy '10 không' giúp con người may mắn, hạnh phúc trọn đời Làm theo 10 nghiệp lành Đức Phật đã chỉ ra cho hàng Phật tử tại gia dưới đây sẽ giúp thọ nhận quả báo an vui, hạnh phúc: 1. Không sát sinh Là không giết người và các con vật lớn như trâu, bò, ngựa, chó... Phật dạy không sát sinh bởi nhiều lý do – Tôn trọng sự công bằng – Tôn trọng Phật tánh bình đẳng – Nuôi dưỡng lòng Từ Bi – Tránh nhân quả báo ứng, oán thù. Nếu biết vĩnh viễn từ bỏ sự giết hại, người Phật tử sẽ tăng trưởng lòng từvà những trạng thái tâm ác độc, hung dữ lần hồi sẽ lắng dịu. Tâm từ càng phát triển thì tâm sân, sát, hận, ưu sẽ không còn. 2. Không tà dâm Không tà dâm nghĩa là không chung sống với người không phải là vợ hay là chồng của mình. Những việc quan hệ nam, nữ không được pháp luật và xã hội thừa nhận đều được xem là tà dâm. Lạc thú của việc tà dâm là nhất thời nhưng quả báo của nó lại rất khủng khiếp. Một người có thể có mệnh phú quý nhưng nếu phạm tội tà dâm, có thể trở nên khốn khổ lao đao suốt cuộc đời. Một người có mệnh được hưởng phúc và thọ, nhưng nếu phạm tội tà dâm, có thể bị tật nguyền hay chết yểu... 3. Không trộm cắp Là không lấy vật không thuộc sở hữu của mình, mà không có sự ưng thuận hay cưỡng ép người ta ưng thuận bằng thế lực hay quyền hành của mình. Người không trộm cắp được quả báo giàu sang, an ổn. 4. Không nói dối Những lời nói dối đưa đến chém giết, hận thù, làm cho người tán gia, bại sản, phá vỡ bình yên, hạnh phúc của người khác, hay đưa đến ganh ghét, đố kỵ… đều chịu những quả báo rất cay đắng. Người Phật tử Quy Y Tam Bảo (Quy Y: quay về nương tựa, Tam Bảo: 3 ngôi báu Phật, Pháp, Tăng) nghĩa là thực hiện 5 giới cấm: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Nhiều người không dám Quy Y vì sợ không giữ được giới và sợ bị trừng phạt. Tuy nhiên đây là quan niệm sai lầm. Đức Phật là người thày, không phải thần thánh có thể ban phúc, giáng họa. Giống như người mẹ nghiêm khắc, cấm con nhỏ không sử dụng dao sắc nhọn hoặc không chơi với ổ điện, đồ điện... Đức Phật chế ra 5 giới cấm không phải để ràng buộc, trừng phạt mà đó là tấm lá chắn bảo vệ đệ tử. Nếu như người Phật tử tại gia Quy Y Tam Bảo giữ 5 giới thì người xuất gia (tu sĩ) phải thọ 250 giới đối với các vị tăng và 348 giới với vị ni. Chúng ta giữ 5 giới đã thấy khó khăn, vất vả, trong khi các vị xuất gia tu hành chân chính, giữ giới, sống đời phạm hạnh. Hiểu điều này, chúng ta phải có thái độ kính trọng, chuẩn mực với người tu. Như vậy, chúng ta mới có phước báu. 5. Không vu oan, vu cáo Lời nói dối, ban đầu, có thể do tham sân nhưng lên đến cấp độ vu oan, vu cáo thì tham sân đã mãnh hơn nhiều. Việc này khiến chúng ta trở nên mù quáng, đánh mất nhân tính, rời xa đạo đức, luân lý và lẽ phải ở đời. 6. Không nói thô ác Những lời nói rỗng không, nhảm nhí, tục tĩu, vô ích... lâu ngày thành thói quen, tích lũy thành nghiệp ác. Những lời nói bỡn cợt, ba lơn, ba láp, ba xàm; ban đầu tưởng là vô hại, nhưng lâu dần chúng trở thành cá tính khó rời; khiến ta thành kẻ không đứng đắn, thiếu tư cách, mất phẩm chất thật là uổng phí vậy. Khi mà đã trở thành như thế thì kẻ ấy dù có chân đứng, địa vị, danh vọng và sự nghiệp gì trên cuộc đời cũng sẽ bị người coi khinh, khi rẻ, nhạo báng, xem thường! Người có học thức, hiểu biết, có tu tập sẽ không nói những lời này. Người Phật tử phải dịu dàng, từ ái, khiêm tốn dễ nghe. 7. Không gian tham Lòng tham được thể hiện qua những thái độ sau: - Không bằng lòng, không vừa ý, không thỏa mãn với những gì mình đang có - Luôn cảm thấy thiếu thốn, muốn có thêm vật này, vật kia... - Luôn luôn dòm ngó của cải, tài sản của kẻ khác. - Luôn muốn vơ vét, chiếm đoạt, cướp giật của cải tài sản của người. Lòng tham khiến con người luôn cảm thấy bất an, đau khổ thậm chí là bất chấp làm mọi điều để thỏa mãn chính mình. Có thể nói lòng tham là nguyên nhân của mọi tỗi lội. Muốn chấm dứt các khổ đau, phiền não thì phải biết vĩnh viễn từ bỏ lòng tham này. 8. Không thâm thọc Người không nói điều thâm thọc mà hòa nhã giúp mọi người yêu thường, đoàn kết với nhau sẽ được mọi người yêu quý, kính trọng. 9. Không si mê Người không si mê là người biết phán đoán, nhận định một cách rõ ràng, đúng đắn, không biện minh che đậy sự mê mờ, dốt nát của mình và cũng không cố chấp vào kiến thức chủ quan của mình. Người không si mê là người có trí tuệ thông minh thấu suốt nhân quả, luân hồi nên không bao giờ tạo tội ác, và luôn luôn có những hành vi rất thiện, thường tu Thập Thiện và sẵn sàng mang lòng từ bi đến mọi người. 10. Không hận thù Sân hận có nhiều trạng thái, mức độ và biểu hiện khác nhau, ví dụ như: bực tức, giận hờn, nổi nóng, oán hận, căm thù… có khi biểu hiện qua nét mặt (nhíu mày, nhăn mặt, trợn mắt, nghiến răng…), thái độ, lời nói (la lối, quát tháo, gào thét, dọa nạt…), cử chỉ, hành động (quăng ném đồ đạc, hành hạ, giết chóc…), nhưng cũng có khi lại không biểu hiện ra mà được giữ kín trong lòng. Đức Phật xem sân hận là một loại độc tố có khả năng tàn phá tâm hồn và thể xác con người không chỉ trong đời này mà cả những đời sau. Trong kinh, Đức Phật thường gọi sân cùng với tham, si là ba độc. Đức Phật còn ví sân như lửa dữ, như giặc cướp, như rắn độc: “Sân hận còn hơn lửa dữ, thường phải đề phòng không cho nó xâm nhập. Giặc cướp công đức không gì hơn giận dữ". Người thực hiện được 10 nghiệp lành trên thì cửa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh sẽ vĩnh viễn đóng lại. Đời đời kiếp kiếp được sống hạnh phúc, vui vẻ, được sinh Thiên, đi đâu cũng gặp Phật pháp, thiện trí thức bằng hữu hoặc những duyên lành, phước lành. - st
12 notes
·
View notes
Photo
Tu là phá chấp sân si Tham lam cũng dứt thị phi không màng Tu là hết khổ an nhàn Dừng mọi nghiệp ác chuyển sang nghiệp lành Tu là phát nguyện vãng sanh Hướng về cực lạc đạo lành không xa Tu là lợi lạc trăm bề An nhàn tự tại chẳng hề khổ đau Tu là chia sẽ cho nhau Yêu thương cuộc sống đâm sâu nghĩa tình Tu là niệm Phật tụng kinh Quán tâm sửa tánh,giử gìn giới nghi... - st
11 notes
·
View notes
Photo
#Hạnh #phúc mênh mông chính là khi
Ta hiểu mình đang muốn gì
Những gì sai trái nên từ bỏ
Ung dung ta biết chọn đường đi.
Hạnh phúc bao la chỉ vì đâu
Bản ngã làm ta lắm khổ sầu
Hướng về vô ngã tìm ánh sáng
Có đạo từ bi rất nhiệm mầu.
Có những mùa xuân ai biết chăng
Chẳng phải vì hoa ngập nắng vàng
Mà bởi lòng người nhiều yêu mến
Tặng nhau đầm ấm đón xuân sang.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI #PHẬT
(TT. Thích Chân Quang)
xem thêm : https://lnkd.in/fHygpVb
7 notes
·
View notes
Photo
Ai cũng có số phận, nên mỗi người chỉ cần làm tốt phần mình là được
Chuyện ở đời, khi đã qua đi thì không nên hối tiếc. Dù đó là chuyện tốt hay xấu, cuối cùng cũng bất quá chỉ là một trải nghiệm. Những chuyện trước mắt mới là điều quan trọng.
1. Người càng có bản lĩnh thì càng không tức giận.Bản lĩnh của một người là được tổ hợp từ tố chất, tu dưỡng, kiềm chế, học thức, năng lực và tài lực. Vì thế người bản lĩnh sẽ không vì bất cứ một chuyện gì mà trở nên tức giận. Thông thường họ luôn biết cách kiềm chế bản thân, không để áp lực bên ngoài ảnh hưởng đến quyết định của chính mình.
2. Tín nhiệm giống như một trang giấy, khi đã bị nhàu thì cho dù có vuốt thế nào đi nữa, cũng không thể hồi phục lại như ban đầu.
3. Thành công căn bản không có bí quyết, nếu có thì cũng chỉ là 4 từ: “khiêm tốn” và “kiên trì”.
4. Có thể mở miệng nói ra nỗi oan khuất của mình, thì đó không còn là oan khuất nữa. Cũng vậy, người có thể bỏ bạn ra đi, thì đó chưa được tính là người yêu của bạn.
5. Đáng thương nhất của người phụ nữ, không phải là già đi theo năm tháng, mà là đánh mất phương hướng của mình. Đáng tiếc nhất của người phụ nữ, không phải là hồng nhan không còn nữa, mà là đánh mất tự tin.
Một người phụ nữ có tâm hồn, là người phụ nữ có sức hấp dẫn. Một người phụ nữ có tín ngưỡng, là người phụ nữ có năng lượng.
6. Chuyện đã qua không nên hối tiếc. Nếu tốt đẹp, thì đó là điều tuyệt vời; nếu tồi tệ, thì coi như đó là một trải nghiệm. Những chuyện trước mắt, hiện tại, mới là quan trọng.
7. Thuận lợi, chỉ là một kiểu cuộc đời không có gì đặc sắc.
8. Nếu một người con trai thật sự yêu bạn, họ sẽ luôn nỗ lực để chăm sóc tốt cho bạn. Còn nếu chuyện gì họ cũng so đo với bạn, nổi cáu vô cớ, vậy thì chỉ có thể nói rằng anh ta yêu chính bản thân mình, không phải yêu bạn.
9. Tâm thái không tốt, nói thẳng ra chính là vì bản thân mình còn nhỏ mọn. Khi tâm trí bạn cứ đặt vào những chuyện nhỏ nhoi thì liệu cuộc sống của bạn có thể đạt được điều gì to lớn? Chỉ có bạn mới có thể thay đổi được chính mình. Giữa người với người, là duyên phận; giữa tâm với tâm, là giao lưu; giữa yêu và yêu, chính là cảm tình; giữa tình với tình, là thành tâm; giữa sai và sai, là tha thứ.
Ai cũng có tự trọng, ai cũng có khổ tâm, cách nghĩ, cách làm và cách sống không giống nhau. Vì thế chúng ta không cần phải khổ sở để thay đổi người khác, chỉ cần làm tốt phần của mình là được rồi.
- st
23 notes
·
View notes
Photo
TU CHỈ LÀ SỬA ĐỔI THÔI MÀ..!
Đâu phải vào chùa cạo đầu, khoác áo mới là tu
Ăn chay niệm Phật cũng chưa phải tu
Đi chùa vái lạy cũng tu mù
Quán tâm sửa tính thật chân tu.
Tu thì phải sửa mới là tu
Sửa tính tham lam thành bố thí
Sửa tính ganh tị thành hoan hỷ
Sửa tính ích kỷ thành vị tha
Sửa tính vô tâm thành hòa nhã
Sửa tính cố chấp thành buông xả
Sửa tính khinh khi thành kính mến
Sửa tính cao ngạo thành khiêm tốn
Sửa tính hẹp hòi thành bao dung
Sửa tính gian lận thành thật thà
Sửa tính bi quan thành tích cực
Sửa tính lười biếng thành siêng năng
Sửa tính hơn thua thành nhẫn nhịn
Sửa tính si mê thành trí tuệ….
Sửa tất cả cái xấu thành cái tốt...
Tu chùa, Tu nhà, Tu chợ... Đâu đâu cũng là Tu. Tu với ai? Tu với Ông Bà Cha Mẹ của chúng ta, phải có lòng hiếu thảo. Tu với Anh Chị Em của chúng ta, phải biết yêu thương, nhường nhịn, kính trên bảo dưới, Tu với vợ chồng và con cái là phải sống tròn đạo nghĩa vợ chồng và trách nhiệm với con cái... Tu với những người xung quanh chúng ta, hoan hỷ hòa nhã, đối xử tốt với mọi người, Tu với công việc của chúng ta, hãy làm tốt công việc của mình dù là những việc nhỏ nhặt nhất…
Vậy nên có câu: Trước khi Tu Phật hãy Tu Nhân.
Ăn Chay Niệm phật không bằng tu tâm tính.
.Ngày xưa, có một đôi vợ chồng trẻ, người chồng hàng ngày đều chăm chú đọc sách còn người vợ một lòng hướng Phật nên cứ hàng ngày ăn xong thường ngồi trong phòng tụng kinh niệm Phật rất lâu...!
Một hôm, người chồng để ý thấy người vợ ngồi trong Phật đường không ngừng niệm:“Nam mô a di đà phật! Nam mô a di đà phật..!” Người vợ cứ chăm chú niệm câu này mãi, niệm đi niệm lại trong một khoảng thời gian rất lâu. Người chồng thấy vậy liền nghĩ cách đùa người vợ một chút.
Anh ta bèn đi vào phòng bên cạnh phòng mà người vợ đang niệm rồi bất ngờ gọi tên người vợ. Người vợ nghe thấy tiếng chồng gọi mình liền ngừng niệm và quay đầu sang phía người chồng hỏi:“Có việc gì vậy?”
Người chồng cười cười rồi nói:“Không có gì, không có gì!”
Người vợ lại tiếp tục quay lại vừa gõ vừa niệm. Một lát sau, người chồng lại gọi tên người vợ. Người vợ lại nhịn không được liền quay đầu ra hỏi chồng:“Rốt cuộc là anh có chuyện gì mà cứ gọi như vậy?”
Người chồng lại cười cười rồi nói: “Không có gì, không có gì cả.”
Người vợ lại tiếp tục niệm Phật. Nhưng chẳng được bao lâu người chồng lại gọi tên người vợ. Người vợ lúc này có vẻ rất bực tức cáu gắt quay sang la mắng người chồng:“Anh... rốt cuộc là có chuyện gì mà cứ gọi tôi mãi như thế hả? Anh cứ gọi như thế khiến tôi không thể tập trung tụng kinh niệm Phật được này.”
Người chồng lúc này mới đứng lên đi đến bên người vợ và nói:“Vợ ơi! Anh mới gọi tên em có ba lần mà em đã thấy mệt mỏi và bực tức rồi la lối rồi. Thế mà, ăn rồi em cả ngày không đi đâu mà ngày nào cũng niệm A di đà phật trong một thời gian lâu như vậy, không biết liệu ngài (Phật A-Di-Đà) có thấy phiền toái không?”
Lời bình: Chúng ta làm gì Thần Phật đều biết cả nên chúng ta đâu cần phải quá nặng về hình thức làm chi. Các vị Thần Phật sẽ nghĩ sao nếu con người không để thời gian thực hành hướng thiện, bác ái... mà cứ trong phòng niệm tên họ trong khi chả có chuyện gì cả! Nhiều người muốn thông qua hình thức tụng kinh niệm Phật để cho Thần Phật biết rõ lòng thành kính của mình đối với ngài. Nhưng lại không chú ý sửa đổi và tu luyện tâm tính của mình cho thật tốt với người xung quanh mà chỉ thể hiện ở hình thức bên ngoài. Như vậy, có khác nào trong lòng không thực sự thành kính Thần Phật? Như thế, thử hỏi Thần Phật có thể tiếp nhận hình thức “tụng kinh niệm Phật” của con người hay không?
Vì vậy mình xin khuyên bảo thẳng thắn như sau: Những người tu Phật nên gác lại bớt một ít thời gian chuyện tụng kinh niệm Phật để có thời gian cho những hoạt động thiết thực chẳng hạn như: Độ hoá chúng sanh, đọc kinh sách, làm việc thiện, sửa đổi và rèn luyện tâm tính và quan tâm yêu thương với người xung quanh như vậy việc tu sẽ thiết thực hơn.
Hơn nữa, giao tiếp tâm linh là qua ý nghĩ, qua tâm thức hoặc qua linh hồn, chứ không phải là qua lời nói. Vậy nên niệm Phật chỉ cần một ít thời gian hay chỉ cần thành tâm niệm trong đầu là Phật đã nghe thấy rồi, không cần phải suốt ngày cứ ngồi đó mà tụng kinh. Dù có tụng bao nhiêu thì Thần, Phật vẫn chỉ nhìn vào ý nghĩ và hành động của bạn mà thôi...!
- st
5 notes
·
View notes
Photo
SỰ KHÁC NHAU GIỮA HAI CÁCH NHẪN NHỤC
"... Các Phật tử để ý cái chỗ nhẫn nhục của người mà biết tu khác mà người không biết khác:
- Người không biết tu người ta chửi mình mình nóng lắm, mình “Thôi, nhẫn nhục, đè xuống một chút”, thở mấy hơi, uống ly nước đá đè nó xuống. Cái đó không phải nhẫn nhục, cái đó đè nén giận dữ.
- Còn cái nhẫn nhục thực sự tâm nó như hư không, nó không có một hạt bụi khởi lên khi mà người ta đụng tới mình. Khi người ta gọi cái tên mình ra người ta chửi mình thấy cái tên với cái tên mình nó không dính nhau, lòng mình nó không có khởi, nó vẫn tiếp tục nó rỗng như bình thường.
Cho nên nói là nhẫn nhục chứ mình thấy có gì đâu mà nhẫn nhục, có giận đâu, không có gì ở trong cả, cứ cười cười mình né một chút cho bớt giận lại nói chuyện lại bình thường không có gì hết. Đó là người biết tu..." ST
5 notes
·
View notes
Photo
TRẦM TĨNH SỐNG
Niềm vui dù quá lớn Sẽ dần dần trôi qua Và nỗi đau cùng cực Rồi cũng tìm phôi pha..
Biết thế đừng tự phụ Vì thành công hôm nay Cũng không sầu ủ rũ Lúc gặp điều không may..
Sao trẻ con hay khóc Mà hiếm khi chúng buồn? Người lớn năng cười cợt Giữa tiếng lòng lệ tuôn!
Trẻ thơ hôm nay giận Ngày mai ngồi với nhau Người lớn biết tha thứ Lại nhắc hoài mãi sau.
Thật hiếm khi tìm gặp Bình an ở bên ngoài An bình chỉ có thể Gặp trong lòng ta thôi!
Ngày mai ngày mới đến Người đi kẻ khác về Chỉ có tình thương mến Đọng lại cùng sơn khê.
- st
8 notes
·
View notes
Photo
10 ÁC NGHIỆP KHIẾN CHÚNG SINH BỊ QUẢ BÁO THUA KÉM NGƯỜI KHÁC
1.👉Sinh khởi tâm tật đố (tâm ích kỷ, đố kỵ).
2.👉Thấy người khác được lợi thì mình sinh #tâm phiền não.
3.👉Thấy người kia bất lợi thì mình sinh tâm hoan hỷ.
4.👉Thấy người khác được danh dự tốt thì ganh ghét.
5.👉Thấy người khác mất danh dự thì tâm sinh rất vui vẻ.
6.👉Thối thất tâm Bồ đề và phá huỷ hình tượng Phật.
7.👉Đối với cha mẹ của mình và Hiền Thành,không có tâm hầu hạ cung kính.
8.👉Chỉ khuyên người tu tập nghiệp uy thế yếu.
9.👉Làm chướng sự #nghiệp của bậc tu hành,có đạo cao đức trọng.
10.👉Thấy người uy thế yếu ,sinh tâm khinh chê.
➡️Do mười nghiệp trên khiến chúng sinh bị quả báo uy thế kém!
(kinh Nghiệp Báo Sai Biệt)
https://www.facebook.com/quantheambotat.vn/
3 notes
·
View notes
Photo
Ăn ít, uống ít, ngủ ít, nói ít Đạo tràng Tường Vân đã trải qua 6 năm và 74 khóa tu Một ngày an lạc. Hôm nay, Phật tử tập hợp về tu đông là tín hiệu đáng mừng cho Phật giáo. Vì tất cả Phật tử khắp cả miền Nam theo đuổi một khóa tu qua suốt thời gian dài rất khó. Nhưng quý vị đã kiên nhẫn theo học nơi đạo tràng này là điều đáng khen ngợi.Từ đầu, tôi đã nhắc thầy trụ trì nên giới hạn số người tu để tạo điều kiện an lạc, giải thoát cho Phật tử. Vì tâm an lạc đi theo thân giải thoát, nhưng đời sống vật chất thường đòi hỏi bức ngặt làm chúng ta khó giải thoát; đó là thực tế mà chúng ta phải công nhận.
Thật vậy, chúng ta cần một không gian có đủ không khí sạch để nuôi dưỡng thân. Tấm lòng của quý vị có thể cao, nhưng không gian tu học lại quá hẹp. Thực sự mỗi người theo quy định ít nhất phải có 2 mét vuông mới thoải mái, nhưng ở đây số người tham dự khóa tu quá đông, chắc chắn là vấn đề nan giải. Ngày nay, các nước văn minh nghĩ rằng không gian sống cho mỗi người ít nhất là 10 mét vuông mới có không khí trong sạch để thở, chưa nói đến vấn đề vệ sinh cá nhân. Nhưng không gian của chùa Tường Vân chứa đến 4.000 người. Vì vậy, tôi nghĩ rằng quý vị cũng kiên nhẫn lắm mới tu được và hưởng được hương vị giải thoát trong đạo Phật.
Tâm an lạc và thân giải thoát là chủ trương của Đức Phật. Nếu tâm không an lạc, thân sẽ khó giải thoát và sanh ra bệnh hoạn, mệt mỏi thì tâm cũng không thể an lạc. Thân và tâm tác động hỗ tương qua lại. Tuy hiểu như vậy, nhưng do tấm lòng từ bi của thầy trụ trì không nỡ từ chối số Phật tử muốn tham dự khóa tu. Vì vậy, quý vị ráng tiếp tục kiên nhẫn để tu, vì đã qua được 6 năm và 74 mùa tu, chắc chắn sẽ trưởng thành trên đường tu học theo Phật. Nếu không chịu nổi thì người nào bệnh cũng đã bệnh rồi, người nào chết thì cũng chết rồi, người nào phiền não cũng đã bỏ đi. Những người còn lại tiếp tục tu chứng tỏ đã được an lạc là điều đáng mừng.
Tôi xin gợi một số ý. Pháp môn tu của Phật, nếu đi theo chân thật môn thì không có môn. Nhưng theo phương tiện môn thì có nhiều cánh cửa vào đạo, thường gọi là 84.000 pháp môn để dung nhiếp tất cả phiền não, nghiệp chướng của chúng sanh.Nếu đi vào cửa phương tiện, quý vị phải mở rộng lòng để chấp nhận trần lao của các bạn đồng tu và xa hơn là xã hội chúng ta đang sống; nói chung là chúng ta chấp nhận chúng sanh thì phải chấp nhận nghiệp và phiền não của chúng sanh. Như vậy, quan trọng là phải hóa giải nghiệp và phiền não của bạn.
Phật nói người thực tu và tu có kết quả tốt đẹp thì ai gần họ, tâm được an, mới thấy được hằng sa chư Phật. Và thấy Phật, chúng ta sẽ quên thân tứ đại ngũ uẩn của mình, tức phá được cái chấp ngũ uẩn thì tâm chúng ta mới mở rộng, thấy được Phật, đó là lộ trình của chúng ta đi lên.
Đi vào chân thật môn, không phải ai cũng vào được, chỉ hàng thượng căn thượng trí mới vào cửa này được. Hàng thượng căn thượng trí có cơ thể đặc biệt, họ ăn cũng được, không ăn cũng khỏe, không uống nước cũng không sao, nghĩa là họ vượt trên người thường. Người thường phải uống 2 lít nước một ngày và thải ra 2 lít nước bẩn; cho nên xã hội chúng ta sống mỗi ngày bẩn thêm.
Dù bên ngoài con người trang điểm đủ cách, nhưng theo cái nhìn của Thiền sư, bên trong con người đáng sợ thiệt, vì mỗi người là một thùng phân biết đi, một túi da đựng toàn ô uế. Thấy sự thật như vậy thì không còn ham muốn cái mà người ta thường say đắm gọi là sắc đẹp của thân xác này. Và nghe nói con người là thùng phân biết đi, thấy kỳ, nhưng thử nghĩ nếu không phải là thùng phân thì tại sao lại xả ra phân. Ăn thức ăn sạch, nhưng thải ra đồ bẩn, chúng sanh là như thế và ta thấy thêm rằng nghiệp có thiện nghiệp và ác nghiệp. Phật dạy nếu chúng ta vào phương tiện môn, đầu tiên phải phá ác nghiệp và tăng trưởng thiện nghiệp; nói cách khác, phải tịnh hóa thân tâm chúng ta. Người nào tịnh hóa tâm một phần sẽ bớt được một phần phiền não, trần lao, nghiệp chướng. Nhìn vô thực tế cuộc sống của họ thì biết được họ có tiến bộ hay không.Người tu có tiến bộ, sức khỏe sẽ tốt hơn, tức trần lao giảm, phiền não bớt thì nét mặt họ hân hoan hơn, không bực tức, không u sầu, dù sống trong hoàn cảnh thiếu thốn vật chất mà quên khó khăn, được an lạc, giải thoát. Nếu không thực tập được pháp này, về đây tu mà than thở chật quá, nóng quá, khó thở quá, khó ăn quá… là đang sống với phiền não và từ đây tâm khó chịu tăng dần thì sẽ hiện ra nét mặt khó thương, không ai dám đến gần. Phải khẳng định rằng nếu ta tu được, mỗi ngày ta dễ thương hơn. Trái lại, tu sai, càng tu càng khó thương kéo theo thân bệnh hoạn.
Căn tánh, căn tu thuộc bậc thượng là Bồ-tát. Thanh văn xếp vô hàng hạ căn. Bồ-tát hay hiện thân làm Thiên vương, Chuyển luân Thánh vương, tiểu vương để hộ đạo. Thân của các vị này có sức chịu đựng cao, tâm của họ cũng có sức chịu đựng, vì không chịu đựng được thì không thể sống nổi với người xung quanh, cho đến lãnh đạo họ.
Trong lịch sử nước ta, Trần Hưng Đạo được tôn danh là Đức Thánh Trần, tức là Bồ-tát. Ông có tâm và cơ thể chịu đựng không ai bằng. Binh sĩ và người giỏi thương ông, hỗ trợ ông vì thân tâm ông phi thường. Sử sách ghi rằng khi đi hành quân tới sông sâu nước lớn, ông xuống ngựa lội qua trước và quân sĩ theo sau, thể hiện cơ thể ông khỏe đặc biệt. Và khi binh lính ăn đầy đủ, ông cũng chưa ăn cho thấy sức chịu đựng dẻo dai hơn người. Đối với người khó tánh, kỳ khôi nhất trong lịch sử, đặc biệt là hai tướng tài là Dã Tượng và Yết Kiêu đã rất nể phục Trần Hưng Đạo mà sống chết với ông, Bồ-tát là như vậy. Hòa thượng Trí Tịnh dạy rằng phải nhìn xa, không phải thấy ông là cư sĩ phải cúng dường mình. Nhưng phải thấy đó là Bồ-tát, không có họ hộ đạo thì Phật giáo không tồn tại và phát triển. Vì vậy, ta gọi đây là thượng căn, không phải xuất gia là thượng căn. Làm được việc lớn mà người thường không làm nổi, mới là thượng căn, hay siêu nhân. Điển hình là Đức Phật tu, nhịn đói đến da bụng dính với xương sườn mà không chết. Còn chúng ta nhịn đến 100 ngày cho là ghê gớm lắm, nhưng có đạt được điều gì quan trọng hay không. Quý vị tu, nếu an lạc thật, thử một ngày không ăn không thấy đói và không mệt mỏi. Nếu tập hợp được 100 người về đây tu, không ăn là thanh tịnh thật, chắc chắn thầy trụ trì không cần đội ngũ lo việc ăn uống, lo dọn dẹp, vệ sinh.
Theo kinh nghiệm tôi, không ăn uống thì không thải ra ô uế, kể cả không thải mồ hôi. Thực tập pháp này, lạy Phật, tôi không ra mồ hôi, trong khi người bạn lạy Phật, chỉ mới lạy được vài chục hồng danh Phật là áo thấm đẫm mồ hôi, ướt cả chân, vì uống nước nhiều, phải thải nhiều mồ hôi.
Nhưng chúng sanh có ác nghiệp nhiều, nghe tôi nói vậy mà không uống nước là chết, vì không uống nước không thải được chất độc, nên bác sĩ bắt uống 2 lít nước mỗi ngày.
Tu tập, bớt ăn uống, bớt ngủ, làm được như vậy, dễ được an lạc. Tôi có người bạn sợ đói, lúc nào cũng trữ sẵn hũ gạo. Tôi hỏi nếu chùa và dân không có gạo, thầy ăn gạo này được mấy ngày. Thầy này tâm luôn đói là không an lạc. Tu hành, có ăn cũng được, không ăn cũng không sao, ta tập nhịn cho quen.Và tiến tu, quý vị tập áp dụng Thiền thực và pháp thực. Nghĩa là phải cố gắng học pháp Phật càng nhiều càng tốt, tức cho trí tuệ ăn pháp. Thiền thực là giữ tâm cho yên tĩnh, vì tâm không yên thì không pháp huy được trí tuệ.
Riêng tôi, khi làm Phật sự, tôi thường hạn chế ăn uống để không gây trở ngại, cho thân được giải thoát, tâm mới theo đó được an lạc. Vì không ăn uống, bớt thải mồ hôi thì sẽ tránh tạo mồ hôi nghiệp của cộng đồng. Thử nghĩ xem mỗi người trong đạo tràng đều bốc mùi hôi chắc chắn là ngộp thở mất.
Vì vậy, ta bớt ăn uống, bớt thở thì được giải thoát ngay. Ba việc này gắn liền với nhau. Không biết điều chỉnh ăn, uống, thở, tu thiền khó đạt kết quả tốt. Vì ăn nhiều phải vận động nhiều cho dễ tiêu hóa và tâm sẽ theo đó động loạn hơn, hơi thở mạnh hơn khiến cho việc thải bẩn nhiều hơn. Thực tế lấy máu của Thiền sư đắc đạo sẽ không có máu đen, vì cơ thể họ không có chất bẩn và người không còn máu đen thì bớt uống nước được. Còn máu đen nhiều, phải uống nước nhiều để thải độc.
Tu chung, chúng ta phải có không gian để thở. Có thể chúng ta tu đông, nhưng được an lạc, nên không thải khí độc nhiều, nhờ đó bớt ngộp. Người ăn thịt, cá, ngũ vị tân nhiều thì hơi thở có mùi khó chịu.
Muốn an lạc, đầu tiên phải bớt ăn, bớt uống gắn liền với bớt nói. Trong đạo tràng tu, cấm nói chuyện. Đạo tràng thỉnh tôi giảng, bất đắc dĩ tôi phải nói, nhưng làm thinh vẫn tốt hơn, tức nói trong yên lặng là nói bằng tâm. Thuở nhỏ, tôi đọc thơ của Tổ Thiên Thai:
Sáng dạo chơi non Linh ThứuChiều viếng Phổ Đà sơnTối qua núi Cửu HoaKhuya trở về bổn độ.
Tức khéo vận dụng tâm để tu, tôi nhận ra tâm đi. Sử dụng tâm đi, tôi ở Việt Nam, nhưng hành hương ở Ấn Độ, khác với người đi hành hương Ấn Độ mà tâm không tới chỗ Phật. Họ tới Bồ Đề Đạo Tràng rồi đi nhanh đến chỗ khác cho kịp để về khách sạn ăn. Tôi thấy người hành hương thực sự đến Bồ Đề Đạo Tràng lạy Phật từ 5 giờ sáng mà họ lạy đến chiều tối. Hòa thượng Thiện Siêu nói tới Bồ Đề Đạo Tràng không muốn đi nữa và nước mắt tuôn trào muốn ở đó luôn. Hòa thượng Huệ Quang là Pháp chủ Giáo hội Tăng-già Nam Việt trước kia nói rằng về Bồ Đề Đạo Tràng chết cũng được, vì bác sĩ khuyên ngài đừng đi. Quả tình ngài đến đó và tịch ở đó.
Người thượng căn thượng trí có niềm tin và căn lành lớn, dễ dàng tiếp cận Phật, nên tu đạt kết quả cao, làm Phật, làm Tổ. Người tu đời đời vẫn là chúng sanh, vì cánh cửa tâm linh đóng kín, kẹt vật chất. Còn mở được tâm linh thì lại kẹt vọng thức cũng không giải thoát.
Muốn được an lạc, phải nhiếp tâm. Ta sợ nghèo, sợ khổ, nhưng thực sự chưa đến nỗi phải nghèo khổ, chỉ tại tâm cảm khổ mà thôi. Phật dạy rằng chúng sanh chưa khổ, nhưng sợ khổ, khác với Bồ-tát ở địa ngục vẫn không thấy khổ, chúng ta ở chỗ an lạc mà thấy khổ. Vì vậy, Phật giải thoát trong cảnh triền phược của chúng sanh, còn chúng sanh trói mình trong giải thoát của chư Phật. Thật vậy, chúng ta ngồi đây tu mà sợ đói, trong khi lát nữa chắc chắn có cơm ăn đầy đủ. Tại tánh con người hay lo sợ, buồn giận là phiền não, chúng ta sống quanh năm với phiền não này. Ý thức như vậy, cắt bỏ bốn thứ phiền não buồn giận, lo sợ, thì được an lạc tức khắc và ở đâu chúng ta cũng an lạc.Và nếu ta có niềm tin với Phật, kinh Pháp hoa nói rằng dù ở ngoài đồng trống, ở gốc cây, hay ở gò mả cũng có Phật. Thể hiện lý này, Phật Thích Ca ngồi ở Bồ Đề Đạo Tràng thấy mười phương Phật hiện ra, đó là nhờ căn lành và niềm tin của Ngài quá mãnh liệt nghĩ về chư Phật, mới thấy Phật A Di Đà ở phương Tây, Phật Dược Sư ở phương Đông… Còn tâm chúng ta không thanh tịnh, ngồi ở chánh điện mà nghĩ gì đâu.
Trên bước đường tu, cắt tâm phiền não, được an lạc, cắt một phần phiền não được một phần an lạc. Mỗi khóa tu, cắt phiền não nào là đạt được an lạc giải thoát ở đó và càng tu càng được an lạc, giải thoát nhiều hơn.
Người thượng căn thượng trí đi thẳng vào chân thật môn. Vì vậy, Phật Thích Ca ngồi ở Bồ Đề Đạo Tràng, tâm Ngài gắn liền với chư Phật mười phương, với chư Phật quá khứ. Nhờ đó, Tịnh độ của chư Phật và thế giới thanh tịnh của Phật Thích Ca hiện ra ngay ở Ta-bà. Kinh Duy Ma nói lý này, vì Xá Lợi Phất bảo mười phương Phật đều có Tịnh độ, cảnh nào cũng đẹp, nhưng trở lại Ta-bà của Phật Thích Ca sao thấy ô uế quá. Đó là Xá Lợi Phất suy nghĩ thế cho ta, không phải suy nghĩ thật của ngài.
Duy Ma trả lời rằng vì tâm ông ô uế, nên thấy thế giới của Phật Thích Ca ô uế. Còn Trời Đại Tự Tại thấy thế giới Ta-bà của Phật Thích Ca đẹp hơn cõi Trời Đại Tự Tại, mới đến đây nghe pháp. Nếu Ta-bà chỉ toàn là ham hố gai chông, thì các vị Trời này không tới đây làm gì.
Tóm lại, tâm an lạc, thế giới sẽ an lạc, tu hành hơn nhau ở cốt lõi này. Quý Phật tử có duyên về đây tu học, tôi mừng cho quý vị đã theo được 74 khóa tu an lạc nơi đạo tràng Tường Vân. Hãy tiếp tục suy nghĩ những gì tốt đẹp mà tôi đã chia sẻ để trang bị cho mình lần đi vào cửa giải thoát và luôn sống trong nhà giải thoát. Khi có đủ duyên lành, chúng ta sẽ gặp lại để sách tấn nhau tu hành.
HT. THÍCH TRÍ QUẢNG (Bài giảng tại tu viện Tường Vân, Bình Chánh, ngày 26-2-2017)
3 notes
·
View notes