#tiên tri thời mạt kiếp
Explore tagged Tumblr posts
Text
Nostradamus Tiên Tri Năm 2023: Thời Kỳ Đen Tối Xuất Hiện, Nhân Loại Không Thoát Khỏi Tai Hoạ? - TLCS
Nostradamus Tiên Tri Năm 2023: Thời Kỳ Đen Tối Xuất Hiện, Nhân Loại Không Thoát Khỏi Tai Hoạ? – TLCS
Năm 2022 đang tiến về những ngày cuối cùng, cắc hẳn trong tâm nhiều người chúng ta đang tự hỏi không biết điều gì sẽ xảy ra trong năm 2023 sắp tới? Phải chăng những lời dự ngôn của Nostradamus sẽ thành sự thật? Mời quý thính giả cùng Tâm linh Cuộc Sống tìm hiểu một vài góc nhìn của chuyên gia về tiên tri của Nostradamus trong năm 2023 ngay sau đây1 _______________ 🔔 Đăng ký #TamLinhCuocSong…
View On WordPress
#dự ngôn của nostradamus#Dự Ngôn Của Nostradamus Về 5 Điều Rất Quan Trọng#đại kiếp nạn#Năm 2023 Đen Tối Không Thoát Khỏi Tai Hoạ#nostradamus#nostradamus tiên tri#nostradamus tiên tri năm 2023#tâm linh c cuộc sống#Tâm Linh Cuộc Sống#thảm họa#thời kỳ đen tối#thư viện tâm linh#thuvientamlinh#tiên tri#tien tri moi nhat ve the gioi#tiên tri ngày tận thế#tiên tri thời mạt kiếp#tlcs
0 notes
Text
[ZHIHU] TRONG TẤT CẢ MỌI THỨ, GIA ĐÌNH LÀ ĐIỀU QUAN TRỌNG NHẤT
tiêu đề do người dịch đặt lại
_______________________
Dịch bởi: 鄧敦琉 | Bài viết thuộc quyền sở hữu của dịch giả và chỉ được đăng tải duy nhất trên Weibo Việt Nam, vui lòng không repost.
Chờ đợi ba năm, nhưng đám cưới chưa tới, thì ly hôn đã đến trước mất rồi….
Triệu Lệ Dĩnh và Phùng Thiệu Phong tuyên bố ly hôn
Họ kết hôn vào ngày 16 tháng 10 năm 2018 và ly hôn vào ngày 23 tháng 4 năm 2021. Cuộc hôn nhân của kéo dài chưa đầy 3 năm. Hãng phim của 2 người đã đưa ra những tuyên bố riêng biệt, 2 bức ảnh chụp màn hình lạnh lùng, để chấm dứt cuộc hôn nhân.
Bản thân Phùng Thiệu Phong đã phản hồi: Ngày tháng còn dài, quá khứ rất t���t đẹp, tôi hy vọng tương lai sẽ tốt đẹp hơn. Một lời chúc không đau không ngứa, không có dấu vết của tình cảm 100% đã qua. Ai cũng không thể tin được trước đây họ còn ngọt ngào tình cảm như vậy, nhưng tại sao bây giờ nói ly hôn là cứ ly hôn như vậy? Nhưng trên thực tế, tất cả nhữg chia tay đã được lên kế hoạch từ lâu, và đã sớm có những dấu hiệu bất đồng giữa hai người. Vào tháng 5 năm ngoái, Phùng Thiệu Phong đã xóa Weibo một cách rầm rộ, giống như anh đã xóa gần một nghìn Weibo khi chia tay Nghê Ni. Và bây giờ tìm kiếm trên Weibo của Triệu Lệ Dĩnh, không có nội dung nào về Phùng Thiệu Phong cả. Sau khi sinh con, Triệu Lệ Dĩnh đã sớm quay trở lại đóng phim, ánh mắt và nụ cười không còn rạng rỡ như trước, thậm chí còn có tin đồn cô bị trầm cảm sau sinh. Cả hai đã lâu không công khai tương tác, trước đây, mỗi lần Triệu Lệ Dĩnh xuất hiện, cô chỉ dẫn theo con trai, mà không có chồng bên cạnh.
------------------------------------------------
Đằng sau sự kiên cường độc lập của người phụ nữ, luôn hiện rõ sự thiếu tránh nhiệm trong thời gian dài của người đàn ông. Cảm giác thất vọng tích tụ từng ngày, vì vậy, những cuộc chia tay, đều đã có kế hoạch từ lâu. Thái Khang Vĩnh từng nói: “Mối quan hệ giữa con người với con người luôn cần có một tài khoản tình cảm. Mỗi lần khiến cho người đối diện vui vẻ, tức là đã nạp thêm vào tài khoản đó nhiều hơn một chút. Ngược lại, mỗi lần làm cho người đối diện buồn phiền, tức là đã nạp vào tài khoản đó ít hơn một chút.” Không có một ai thích cô đơn cả, cho nên chia tay chỉ là không thích thất vọng thêm, và điều đáng sợ hơn nữa đó chính là sự tổn thương. Thất vọng lĩnh đủ rồi, nhất định sẽ trở thành cảm giác tuyệt vọng.
Sương tuyết đâu phải chỉ trong một ngày giá lạnh mà có thể đóng thành băng, Lòng người cũng đâu phải chỉ trong một ngày lại trở nên lạnh nhạt. Suy cho cùng lí do khiến cho 2 người chia tay, chẳng qua cũng chỉ là muốn bảo vệ bản thân mình mà thôi.
Có thể hiểu rằng, cuộc sống hôn nhân giống như đánh cược một ván bài, tốt xấu, thắng thua khó có thể lường trước được. Đó là đích đến cuối cùng của mỗi người, và là quay về lý tưởng nhất. Người ta sẵn sàng đánh cược cuộc đời để được cảm nhận kiểm chứng mùi vị của một cuộc hôn nhân. Nếu thắng, sẽ luôn cảm thấy vui sướng, hạnh phúc mỹ mãn; Nếu thua, liền gục đầu chán nản, thở vắn than dài. Vậy điều gì duy trì một cuộc hôn nhân, và nguyên nhân nào khiến cuộc hôn nhân đó tan vỡ?
10 năm trước vì muốn có được tín chỉ, tôi bèn lựa chọn học mấy môn bên khoa Văn Sử. Có một lần, học môn Lịch sử văn học Trung Quốc thời cận đại, Thầy giáo đã dành thời gian 2 tuần lễ, để giảng giải cho chúng tôi nghe về cuộc đời của 4 nhà văn nổi tiếng, đặc biệt là phần hôn nhân của họ, Thầy lại giảng kĩ hơn.
Người đầu tiên là Quách Mạt Nhược
Thầy giáo nói rằng, cuộc đời của Nhà văn này có tất cả 3 người vợ, 1 người tình, nhưng ông ta không hề có một chút tinh thần trách nhiệm nào cả. Chỉ vì sự thích thú và sự nghiệp của bản thân, đã đối xử trước loạn sau bỏ với những người phụ nữ kia. Thậm chí còn đem những chuyện tình cảm xuất phát từ lòng ích kỉ của cá nhân, miêu tả thành “Hy sinh vì cách mạng”, nhằm tôn lên sự vĩ đại của chính mình. Cuối cùng 2 trong 4 người phụ nữa kia phải thắt cổ tự vẫn, 2 người còn lại cũng chịu cảnh ôm hận suốt đời. Ngoài ra, ông ta còn có mười mấy đứa con, tuy nhiên, hầu hết đều từ chối nhận ông ấy làm cha. Những năm tháng cuối đời, Quách Mạt Nhược cô đơn một mình, say mê trong việc viết và sao chép cuốn nhật ký của những đứa đã mất, hoàn cảnh có thể nói vô cùng thê lương bi đát.
Khi Thầy giáo kể câu chuyện này, giọng điệu lạnh lùng và không có cảm xúc.
Người thứ 2 là Lão Xá
Thầy giáo phải dành khá nhiều thời gian để nói về Nhà văn này.
Hồi còn trẻ, gia cảnh của Lão Xá vô cùng nghèo khó, may có 1 vị thiện nhân họ Lưu đã phát tâm nhận đỡ đầu kẻ mồ côi mẹ như Lão Xá, thậm chí còn cho Lão Xá đi du học ở nước ngoài. Thời điểm đó, Lão Xá đem lòng yêu thương người con gái của vị thiện nhân họ Lưu kia. Nhưng khi Lão Xá hoàn thành việc học quay trở về nước, cũng là lúc vị thiện nhân họ Lưu kia đã tán gia bại sản, sau đó đi xuất gia tu hành, không lâu sau đã qua đời, cô con gái vì gia cảnh sa sút, đành phải đi làm việc hạ đẳng gái mại dâm. Những việc này khiến Lão Xá luôn cảm thấy canh cánh trong lòng, cuối cùng ông ta đã chuyển viết thành 2 bài tiểu thuyết có tên là Vô Đề và Vi Thần, để tưởng nhớ mối tình đầu của mình. Mãi cho đến năm 34 tuổi, thông qua những lời giới thiệu của bạn bè, ông ta mới đồng ý kết hôn. Vợ của ông ta cũng là một cô gái còn khá trẻ, lại làm việc ở mảng văn hoá xã hội, vì thế trong nhưng thời điểm khó khăn nhất, luôn hết lòng ủng hộ Lão Xá hết mình. Theo lý mà nói, mối quan hệ như này cũng được xem là lý tưởng rồi, nhưng trong vấn đề hôn nhân gia đình, Lão Xá lại thiếu đi sự nhiệt tình. Dăm ba bài văm viết cho vợ, cũng chỉ xuất phát từ lòng hổ thẹn, chứ không phải từ những cơn sóng xuất phát từ tận đáy lòng. Hồi còn ở Tây Nam Liên Đại, ông ta từng gặp một người hồng nhan tri kỉ, nhưng bị vợ bắt quả tang, cuối cùng không dám đập nồi dìm thuyền, vứt nhà bỏ vợ như cái cách Quách Mạt Nhược đã làm.
Người ngoài nhìn vào, có lẽ sẽ cảm thấy đây cũng được xem là một đôi vợ chồng khá tốt, nhưng lại không biết được, thời điểm cách mạng văn hoá xảy ra, người vợ kia đã từng xuất bản tấm áp phích nhằm vạch trần tố giác Lão Xá. Đối với cá nhân Lão Xá, vì không chịu được những dằn vặt trong tâm và những lời đả kích bên ngoài, cuối cùng đã chọn cái chết (tự vẫn ở hồ Thái Bình) để giải thoát đi tất cả. Có người bảo rằng, họ đã từng nhìn thấy vợ của Lão Xá, nghe cô ta nói những lời cay nghiệt, phẫn nộ về Lão Xá.
Lúc Thầy giáo nói đến câu chuyện này, giọng điệu bắt đầu xuất hiện cảm giác vô cùng đáng tiếc.
Người thứ 3 là Thẩm Tùng Văn
Câu chuyện này khá nhạt nhẽo.
Đại ý nói về một cậu bé sống ở vùng nông thôn, tên là Thẩm Tùng Văn, vì mối tình sét đánh với tiểu thư đài các Trương Triệu Hoà, mà đã từng viết ra mấy trăm bức thư tình, một con số có thể khiến người ta nghĩ đến việc biên tập và xuất bản thành sách.
Hồi mới bắt đầu, Trương Triệu Hoà luôn cho rằng ông ta không biết trời cao đất dày, nhưng dần dần cũng bị sự tận tâm về chuyện tình cảm và tài năng văn chương của ông ta làm cho rung động. Dưới bàn tay làm mối của Hồ Thích với những người bạn, đã giúp cho Thẩm Tùng Văn kết thành duyên vợ chồng. Kể từ sau khi kết hôn, do hoàn cảnh giữa hai người có quá nhiều khác biệt, dẫn đến nhiều lần chia nhau ra ở riêng. Mặc dù vậy, trải qua những lần giảng hoà làm lành với nhau, tình cảm của 2 người cuối cùng cũng đã được cải thiện và tốt hơn rất nhiều. Triệu Hoà trở về sống chung với Tùng Văn, trong những vấn đề then chốt cũng đánh thức được tấm lòng của Tùng Văn, khiến ông ta buông bỏ công việc viết văn, chuyển qua làm nghiên cứu lịch sử, đồng thời đem những cổ vật của nhà vợ khuyên góp cho chính phủ, giúp cho gia đình nhỏ ấy tránh được kiếp nạn 10 năm của cuộc cải cách văn hoá.
Có thể nói Trương Triệu Hoà tận tình trách nhiệm với Thẩm Tùng Văn, nhưng lại không hề cảm thông, thấu hiểu ông ta, và cứ như thế đến hết cuộc đời. Mãi cho đến khi chồng qua đời, bà ta mới bỗng nhiên hiểu ra được tình cảm sâu đậm của hai người. Do đó, đã tự tay khắc lên tấm bia trước mộ chồng 2 dòng chữ, tóm tắt hết một đời của Thẩm Tùng Văn.
Nguyên văn:
「不折不從,星斗其文;亦慈亦讓,赤子其人。」
Phiên âm:
Bất triết bất tùng, tinh đẩu kỳ văn; diệc từ diệc nhượng, xích tử kỳ nhân.
Tạm dịch:
Không khuất phục cũng không đi theo,
Văn anh viết sáng mãi giữa trời đêm;
Biết yêu thương cũng biết cúi nhường,
Một đời tươi đẹp như trẻ thơ.
Lúc giảng đến câu chuyện này, trên gương mặt thầy xuất hiện vẻ đồng cảm, xen kẽ đâu đó một chút an ủi.
Người thứ 4 là Tiền Chung Thư
Nhắc đến câu chuyện của Tiền Chung Thư với Dương Giáng, chắc có lẽ mọi người đều đã nghe nhiều nên biết hết rồi. Cho nên những điều Thầy kể cũng không có gì khác so với những người đã từng viết bài về chuyện tình cảm của 2 người đó.
Chỉ có một điều khiên tôi nhớ mãi, đó là kể về 2 người bọn học làm giáo dục trong thời kỳ cách mạng văn hoá, nhưng vẫn bảo vệ và giúp đỡ lẫn nhau vô cùng chu đáo, thậm chí khi 2 vợ chồng có mâu thuẫn với người khác, vì muốn bảo vệ cho một nửa của mình, cho nên những việc như túm tóc, tát tai người khác, họ đều đã trải qua. Tình tiết này, đến tận bây giờ vẫn khiến tôi cảm thấy tình yêu của 2 người bọn họ thật là thuần tuý. Không chỉ không để ý đến những sở thích của bản thân, hoặc những thứ vật chất trong cuộc sống, thậm chí danh lợi, sĩ diện, họ đều không để ý tới, bâng khuâng không bàn luận thế nhân, mà chỉ tìm cầu tấm lòng của thuở ban đầu mà thôi.
Nói đến đoạn này, ngữ khí của Thầy giáo tràn đầy sự hâm mộ đối với tình cảm của Tiền Chung Thư và Dương Giáng.
Câu chuyện vừa mới nói xong, cũng đúng lúc tan học. Tuy nhiên, Thầy giáo vẫn cố gắng nói thêm đôi lời.
Tôi có một lời khuyên chân thành, muốn nói cho các bạn nghe:
Chuyện tình hôn nhân của Quách Mạt Nhược không có đạo đức, cho nên kết cục của ông ta là thê lương bi đát nhất.
Chuyện tình hôn nhân của Lão Xá có đạo đức nhưng không có tình , ngày thường còn có thể chống đỡ được, nhưng một khi gặp những biến cố khó khăn, vợ chồng lại dễ dàng chia tay nhau, thậm chí vì muốn bảo vệ cho bản thân, mà cố tình làm tổn thương lẫn nhau.
Chuyện tình hôn nhân của Thẩm Tùng Văn có đạo đức cũng có tình cảm, nhưng lại thiếu đi sự thấu hiểu và thông cảm cho nhau. Kiểu hôn nhân này nhìn có vẻ ổn định, nhưng đâu đó thiếu đi niềm vui hoặc không cam lòng.
Chuyện tình hôn nhân của Tiền Chung Thư, mới thật sự bao hàm toàn bộ đạo đức, tình cảm và niềm vui, vì thể họ trở thành người bạn trong linh hồn của nhau, đại diện cho những tình yêu đẹp nhất.
Con người sống ở đời, hôn nhân là chuyện vô cùng quan trọng. Thầy mong các em sau này thật sự nghiêm túc cư xử với vấn đề này. Không cần đạt đến mức như Tiền Chung Thư với Dương Giáng, nhưng ít nhất cũng phải học tập Thẩm Tùng Văn, nắm chặt 2 điểm mấu chốt của đạo đức và tình cảm.
Cuộc đời của một con người là 7-80 năm, thực ra nó dài hơn những dự liệu toan tính của các em. Sống trong một khoảng thời gian dài như thế, mà không hề gặp bất kỳ biến cố nào, đó là điều không hề có. Cho nên, một cuộc tình hôn nhân có đạo đức và tình cảm, cũng giống như chiếc neo đã được cắm xuống đáy biển, khi đã có được nó rồi, sóng gió dù có lớn đến chừng nào đi chăng nữa, thì các em vẫn luôn luôn đứng vững và sẽ không bao giờ bị lật đổ. Bởi vì các em biết bản thân vẫn còn người mà mình muốn gặp, vẫn còn trách nhiệm mà mình phải hoàn thành. Sức mạnh của kiểu suy nghĩ này tương đương với niềm tin.
Thời điểm đó, tôi vẫn còn nhớ ánh mắt của mình, lần đầu tiên rời khỏi mấy cuốn truyện tranh, chuyển đến hình dáng của Thầy giáo. Thầy vẫn còn trẻ, từ giọng nói có thể đoán được là người Bắc Kinh, cách ăn mặc và phong thái đều bộc lộ vẻ của người không thành công. Tuy nhiên, khi ông ấy nói ra câu chuyện trên, khí chất dâng trào, tuyên truyền những điều giác ngộ, phảng phất đâu đó hình bóng của Khổng Tử. Không chỉ mình tôi, ngay trong giảng đường còn có mười mấy thằng bạn đang còn độc thân, dường như đều dừng lại việc chơi điện thoại, đôi mắt tròn xoe chăm chú nghe Thầy giáo giảng.
Những lời mà Thầy nói, tôi luôn ghi nhớ và áp dụng vào trong cuộc sống sau này của tôi.
Tôi từng có một ông chủ người Nhật Bản, tính ra cũng là ông chủ của 1 công ty lớn. Tuổi đời cũng tầm khoảng hơn 50 rồi, đã có 1 lần ly hôn, người vợ trước với hai đứa con gái đã cắt đứt hết tất cả mối quan hệ với ông ta. Ở một mình được vài năm cuối cùng ông ta cũng tìm được 1 người vợ mới, vợ chồng sống với nhau hoàn thuận cho đến bây giờ.
Khi tôi đi công tác ở Nhật Bản, tận mắt nhìn thấy ông ta đi bộ trở về biệt thự của mình ở Roppongi sau khi tan sở lúc 9 giờ tối, và chạy đến một cửa hàng tiện lợi để mua thịt và rau ở bên đường. Ngày hôm sau, tôi tò mò đến hỏi ông ta. Ông ấy nói: "Trong nhà tôi, mỗi tuần có hai ngày mua rau về làm cơm. Dù có bận rộn đến đâu, tôi vẫn luôn cố gắng giữ đúng theo quy tắc này."
Ở Nhật Bản, địa vị của phụ nữ cực kỳ thấp. Là một ông lớn trong ngành được mọi người kính trọng, tôi nghĩ cách cư xử của anh ấy hơi kỳ quái, nhưng cuối cùng tôi cũng không hỏi nhiều.Mãi về sau, khi công ty đóng cửa, anh ấy mới đến thực tập cùng với tôi, tôi mới hỏi: "Khi đi công tác trong nước, tối nào anh cũng về khách sạn sớm, hoặc khi đi KTV nói chuyện làm ăn thì cư xử đúng mực, thường về nhà nấu cơm cho vợ. Điều này hoàn toàn khác với những gì mà tôi tưởng tượng về những ông chủ quản lý người Nhật. "
Nghe tôi nói xong, ông ta cười ra mấy tiếng, xong nghiêm mặt nói với tôi: "Một người đàn ông cần phải biết cách hiểu và kiểm soát ham muốn của mình. Khi còn trẻ tôi đã phạm những sai lầm lớn, vì thế hiện nay mới hiểu cách đối xử tử tế với gia đình mình". Trước khi rời đi, anh ấy còn nhấn mạnh thêm một lần nữa: "Hạnh phúc của một người đàn ông đến từ việc anh ta biết kiểm soát bản thân. Đùa giỡn với gia đình mình có thể không thành vấn đề khi bạn đang suôn sẻ, nhưng nếu bạn đang ở tận cùng đáy sâu của cuộc đời, khi mất đi gia đình, bạn sẽ thực sự chẳng còn gì nữa. Bạn phải nhớ kĩ câu này."
Xét theo lý mà nói, vào thời điểm đó, khó có thể hiểu được những điều ông ấy nói, nhưng không hiểu sao, nghe xong tôi lại hiểu được nó.
Cuộc hôn nhân của tôi và vợ tôi, có lẽ thuộc vào kiểu của Thẩm Tùng Văn. Chúng tôi yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên, nhưng phải thừa nhận rằng chúng tôi đã không đủ hiểu nhau cho đến khi kết hôn. Theo quan điểm của vợ tôi, người bạn đời lý tưởng của cô ấy phải là người tích cực và yêu đời, không có quá nhiều suy nghĩ phiến diện, khỏe mạnh và thích chơi thể thao, làm một người đàng hoàng, giỏi duy trì mối quan hệ với người khác.
Nhưng đối với tôi thì hoàn toàn ngược lại. Tôi không chỉ âm trầm nhu nhược, thích suy nghĩ linh tinh và ghét chơi thể thao, mà còn ngưỡng mộ phong cách trí thức chua ngoa, hư hỏng, cố hết sức lẩn tránh các mối quan hệ giữa người với người. Vì vậy, trạng thái cuộc sống của chúng tôi là như thế này: Cảm xúc khiến chúng tôi háo hức muốn ôm nhau bất cứ lúc nào, nhưng nhiều khúc mắc về Tam quan (sự nghiệp, công tác, chính trị) khiến chúng tôi cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Tôi đã từng có những suy nghĩ khá đáng tiếc, rằng có lẽ cả cuộc đời của chúng tôi sẽ đơn giản và cứ tẻ nhạt như vậy. Sau đó, tôi chọn đến Đan Mạch và trở thành giám đốc quản lý sản phẩm, trong khi vợ tôi chọn ở lại Thượng Hải để phát triển một mình. Do không thích hợp với thời tiết Đan Mạch, cũng như sự không thân thiện của một số đồng nghiệp và không hiểu rõ về thị trường toàn cầu, đã khiến tôi cảm thấy rất chán nản và suy sụp, thậm chí đến mức phải uống thuốc để duy trì tâm trạng. Vợ tôi lờ mờ nhận thấy điều gì đó lạ lùng, nhưng quãng đường xa hơn 6.000 km, chẳng lẽ có thể lấp đầy bằng một sợi cáp mạng ư? Tôi cứ nói rằng tôi không sao, nhưng thực ra trái tim tôi dường như muốn sụp đổ rồi.
Một ngày nọ, khi tôi dùng dao cạo râu cắt đi mái tóc chưa cắt trong sáu tháng, xới ra phía sau đầu của mình một mảng hói rộng 2 cm và dài 4 cm. Khi nói chuyện facetime với vợ tôi, cô ấy đột nhiên yêu cầu tôi quay đầu lại và để cô ấy xem. Sau khi tôi làm như vậy, cô ấy nghi ngờ tôi trúng phải triệu chứng tà ma quỷ quái gì đó, thế rồi cô ấy cứ vừa khóc vừa cười. Một tháng sau, cô ấy nghỉ việc và qua Đan Mạch để đi sống chung với tôi. Sau một thời gian dài, cô ấy nói với tôi lí do cô ấy đến Đan Mạch:
Bởi vì khi cô ấy nhìn thấy kiểu tóc của tôi, cô ấy đột nhiên cảm thấy rằng nếu cô ấy không đi cùng tôi nữa, có lẽ tôi sẽ chết, vì vậy cô ấy đã từ bỏ mọi thứ để đến Đan Mạch. Nước mắt tôi cứ thế tuôn rơi, trong lòng tràn ngập sự ấm áp chưa từng có. Chẳng bao lâu sau khi vợ tôi đến, cô ấy đã có thai, sau đó chúng tôi cùng nhau trải qua thời kỳ sinh đẻ của cô ấy. Vợ tôi sau khi sinh ra máu rất nhiều, trong khoảng mười lăm phút, lần đầu tiên tôi nhận ra nỗi day dứt khi mất cô ấy, cảm giác đó khó tả vô cùng, vì mỗi khi tôi bắt đầu nghĩ về hướng đó thì lại có một luồng điện làm tê liệt bộ não của tôi. Về sau tôi mới biết hiện tượng này được gọi là chống stress, lý do là sau khi đánh giá hệ thống thần kinh của mình, tôi cảm thấy mình không thể chấp nhận được kết cục như vậy nên buộc tôi không nghĩ đến nó. Lý do khiến tôi miễn cưỡng chấp nhận có lẽ là vì tình yêu sẽ mãnh liệt hơn khi mất đi, giống như việc Trương Triệu Hoà từ sau cái chết của Thẩm Tùng Văn, đột ngột phá vỡ những điều bí mật. Từ đây tôi cũng hiểu ra một sự thật:
Người dỗ dành bạn bằng những lời nói ngon ngọt cả ngày, có thể không thực sự yêu bạn, nhưng những lúc nguy cấp, đau thấu tim gan, người sẵn sàng bỏ hết tất cả để cứu bạn, đó mới là người yêu đủ tiêu chuẩn. Giá trị của hôn nhân đối với những người bình thường không khiến bạn hạnh phúc mỗi ngày, cũng không cho phép bạn trải nghiệm tình yêu và đam mê mọi lúc.
Nhiều lúc, hôn nhân thậm chí sẽ ngược lại, nó trói tay chân bạn bằng sợi tơ hồng, trói buộc rất nhiều cô ba, bà sáu không liên quan trên đời lại với nhau. Nó khiến bạn mệt mỏi và khiến bạn nghi ngờ ý nghĩa của tất cả những điều này. Nhưng nếu bạn đã trải nghiệm đủ nhiều, một ngày nào đó bạn sẽ hiểu: Giá trị đích thực của hôn nhân, bản chất của nó giờ là mặt tối của cuộc sống. Khi bạn cô đơn, có một người đến bên cạnh bạn, lắng nghe bạn nói, và ở bên bạn không chịu làm gì cả. Khi bạn trống rỗng, trong lòng bất chợt xuất hiện một ánh mắt, khiến bạn cảm thấy cần phải thay đổi điều gì đó. Khi bạn bị đánh gục nằm vật trên mặt đất, một cánh cửa vẫn mở cho bạn, những người bên trong sẽ không những không chỉ trích bạn mà còn cố gắng chữa lành vết thương và cảm thấy buồn về nỗi đau của bạn.
Tôi nhớ rằng trong bữa tiệc cưới của mình, ông chủ cũ người Nhật của tôi đã thực sự gửi một video chúc phúc từ Tokyo xa xôi. Có lẽ trước đây tôi chưa làm điều này bao giờ. Ông già trong video rất mất tự nhiên, ông chúc tôi một đám cưới vui vẻ bằng giọng điệu cứng nhắc và yêu cầu tôi đưa vợ đi Tokyo chơi trong thời gian tới. Có lẽ do tôi nghĩ video này quá tệ, và sau đó anh ấy đã gửi thêm một email, nhắc nhở tôi một lần nữa: Trong tất cả mọi thứ, gia đình là điều quan trọng nhất.
Gần 60 tuổi, ông ta từng ăn miếng trả miếng với Bill Gates trong cuộc đàm phán tập hợp kéo dài 72 giờ, nhận được khoản đầu tư thiên thần từ Tôn Chí Nghĩa và từng được một người giàu nhất Trung Quốc coi là cây rơm cứu mạng. Tuy nhiên, ông ta cảm thấy trong 60 năm kinh nghiệm sống, thứ xứng đáng nhất để truyền lại cho mình thực sự là 2 chữ gia đình.
Điều gì duy trì gia đình và hôn nhân?
Tôi nhớ đến lời cảnh báo của Thầy giáo trước kia:
“Mong rằng sau này các em hãy coi trọng hôn nhân, không cần phải đạt đến mức như Tiền Chung Thư và Dương Giáng, nhưng ít nhất phải học hỏi Thẩm Tùng Văn, nắm thật chặt 2 điểm mấu chốt của đạo đức và tình cảm. Cuộc đời của một con người là 7-80 năm, thực ra nó dài hơn những dự liệu toan tính của các em. Sống trong một khoảng thời gian dài như thế, mà không hề gặp bất kỳ biến cố nào, đó là điều không hề có. Cho nên, một cuộc tình hôn nhân có đạo đức và tình cảm, cũng giống như chiếc neo đã được cắm xuống đáy biển, khi đã có được nó rồi, sóng gió dù có lớn đến chừng nào đi chăng nữa, thì các em vẫn luôn luôn đứng vững và sẽ không bao giờ bị lật đổ. Bởi vì các em biết bản thân vẫn còn người mà mình muốn gặp, vẫn còn trách nhiệm mà mình phải hoàn thành. Sức mạnh của kiểu suy nghĩ này tương đương với niềm tin.”
Điều gì đã gây ra sự đổ vỡ trong hôn nhân gia đình?
Không kiểm soát kịp thời ham muốn của mình, thế rồi, tôi lại nhớ đến lời khuyên của ông chủ người Nhật:
"Hạnh phúc của một người đàn ông đến từ việc anh ta biết kiểm soát bản thân. Đùa giỡn với gia đình mình có thể không thành vấn đề khi bạn đang suôn sẻ, nhưng nếu bạn đang ở tận cùng đáy sâu của cuộc đời, khi mất đi gia đình, bạn sẽ thực sự chẳng còn gì nữa."
Tôi nghĩ câu này không chỉ áp dụng cho đàn ông, mà còn áp dụng với cả phụ nữ.
Không chỉ áp dụng cho trước khi kết hôn, mà còn áp dụng cho cả sau khi kết hôn.
_______________________
Nguồn:https://mp.weixin.qq.com/s/RY-ThbGwrQl6zqdeRKbrAw
3 notes
·
View notes
Photo
CHỐN PHÙ HOA !!!. Ta Bà cõi tạm, chốn phù hoa Thế Nhân gian dối lắm điêu ngoa Mưu mô lường gạt Người khờ dại Nghiệp quả trả vay, khổ khổ đa !. Ham danh mê lợi mãi vọng Tà Nghiệp chướng gây tạo hằng hà sa Quy Luật Nhân Quả không hiểu biết Tam Đồ Lục Đạo cứ vào ra !. Vật chất, Linh thiêng cõi Ta Bà Ma Vương cai quản khó thoát ra Tình tiền danh lợi, háo địa vị "Sắc thọ tưởng hành... ngũ ấm ma” !. Luân Hồi Sanh Tử do chấp ngã Thân Ta, mọi thứ thuộc về Ta Vô minh che lấp nên mê muội Suy nghĩ hành động nghiệp tạo ra !. Thời gian cứ thắm thoát trôi qua Bình minh ló dạng, bóng xế tà Kiếp sống Con Người như điện chớp Chào đời mới đó, nay đã già !. Nhân Gian say đắm chốn phù hoa Phù phiếm lợi danh, thích xa hoa Vạn sự trên đời là mộng huyễn Lìa trần, trơ trọi chỉ mình Ta !. Tỷ đời triệu kiếp khóc oa oa Nhà Lửa vô thường đốt Thân Ta Muốn dứt Luân Hồi, dừng Sanh Tử Cố gắng lãnh hội “Ý” Phật Đà !. Mục đích hoài bão Phật Thích Ca Truyền dạy Chúng Sanh cõi Ta Bà Pháp Môn Như Lai Thiền Thanh Tịnh Giác Ngộ Giải Thoát trở về Nhà !. Như Lai truyền Thiền Tổ Ma Ha Ca Diếp, đầu tiên “ngộ” Liên Hoa Nhận ra Tánh Thấy “nơi” Phật Tánh Kệ Thiền thanh tịnh lưu xuất ra !. Chư Tổ truyền nhau Pháp Phật Đà Thời Mạt Thượng Pháp phổ biến ra Huyền Ký Thích Ca được công bố Năm Châu Thế Giới nhận Tinh Hoa !. Đại phúc ! Đất Rồng nở Thiền Hoa Khai mở Dân Trí Việt Nam ta Hiểu biết Nhân Sinh và Vũ Trụ Chùa Thơ Tân Diệu xóa mê tà !. Sống đời lương thiện tánh thật thà Yêu thương muôn Loại, biết vị tha Học hành thấu đáo lời Phật dạy Vô trụ vật chất, bỏ chấp Ta !. Thực thi bổn phận với Quốc Gia Làm con hiếu thuận với Mẹ Cha Chia sẻ đùm bọc Người khốn khó Gia đình, Xã hội, sống chan hòa !. Đường về Phật Giới thênh thang quá Không luận nam nữ hoặc trẻ già Biết tạo Công Đức, thuộc công thức Hết duyên, chắc chắn được về Nhà !. Tri ân Công Đức Phật Thích Ca Chư Tổ... Quý Thầy phổ biến ra Pháp Môn Thứ Sáu dạy thành Phật Chúng con truyền mãi cõi Ta Bà !!! ./. NAM MÔ GIÁO CHỦ TA BÀ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT CANADA, ngày 20-10-2020 Phật Gia Châu Đạo Đức. https://www.instagram.com/p/CcZgYYlP97H/?igshid=NGJjMDIxMWI=
0 notes
Text
Những dự ngôn có thể khiến Tập Cận Bình đau đầu (P.1): Sự sụp đổ của chính quyền Trung Quốc
Trong khi chính quyền Trung Quốc đang phải đối mặt với những cơn bão lớn, ông Tập Cận Bình sẽ đối phó như thế nào với cục diện lịch sử, mở ra thời đại chính trị mới hay chuẩn bị cho sự diệt vong của chính thể đã tắm quá nhiều máu người dân? Trước những nguy cơ, cơ hội, những toan tính chồng chéo của phe phái nội bộ cho tới các chính phủ nước ngoài, những dự ngôn về tương lai chính quyền Trung Quốc và bản thân ông Tập có thể khiến ông càng thêm đau đầu phiền toái. Nhưng nếu còn tin rằng, người tính không bằng Trời tính, thì những dự ngôn từ hàng trăm năm trước cũng có thể là một gợi ý đánh thức lương tâm dành cho ông Tập. Bài viết dưới đây thử mạn đàm, phân tích các dự ngôn về thời điểm sụp đổ của chính quyền Trung Quốc và một số sự kiện lớn xảy ra trước và sau khi chính quyền này sụp đổ. Sự sụp đổ Trong Kim lăng tháp bi văn của Lưu Bá Ôn, Mã tiền khóa của Gia Cát Lượng, Thôi Bối Đồ của Lý Thuần Phong và Viên Thiên Cang đều dự ngôn Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) sẽ kết thúc bởi một người trong tên họ có chữ Bạch (白). Trong Kim lăng tháp bi văn còn chỉ rõ tên một người có chữ Bình (平). Hai dự ngôn đầu tiên còn dự đoán ĐCSTQ sẽ bắt đầu suy bại vào năm thứ 67 sau khi nắm quyền lực hoặc năm Dậu (2017). Tuy nhiên những dự ngôn này đều không chỉ ra chính xác thời gian diệt vong. Tuy vậy, có một lời tiên tri của Lưu Bá Ôn đã miêu tả rõ ràng về thời gian ngày tháng chấm dứt của chính thể này. Tương truyền vào cuối thời Nguyên trước khi Lưu Bá Ôn xuất đạo, ông cùng Hoa Sơn theo học mệnh lý huyền cơ của Thiết Quan đạo nhân. Các cuộc đối thoại của ông với Thiết Quan đạo nhân đã được ghi thành sách tên gọi Thấu Thiên huyền cơ sau đổi thành Thiết Quan số lưu truyền trong dân gian. Trong phần cuối cuốn sách, Lưu Bá Ôn có hỏi vấn đề về một vị thánh nhân “Tử Vi” cuối cùng sẽ cứu rỗi thế nhân trong đại tai nạn. Trước khi ông hỏi vấn đề này, Thiết Quan đạo nhân đã dự ngôn về số mệnh của chính quền Trung Quốc là: “Lục thập niên quang nhất đán hưu” (六十年光一旦休), vậy câu dự ngôn này có nghĩa là gì? Niên (年) ở đây có ý chỉ 10 năm. Vậy, lục thập niên là chỉ năm thứ 60 đến năm thứ 69 của một niên đại. Quang (光) là hết, sạch, tận cùng, cuối cùng hoặc vừa trải qua. “Lục thập niên quang” nghĩa là muốn ám chỉ khi những ngày cuối cùng của thập kỷ 60 qua đi, thiên hạ phân biệt rõ ràng tốt và xấu như ban ngày. Tức cuối năm thứ 69 hoặc năm thứ 70. Đán (旦) nghĩa là buổi sáng sớm khi mặt trời mọc, cũng có nghĩa ‘thiên hạ đại bạch’ tức trời sáng tỏ như ban ngày, bạch (白) ở đây cũng chính là muốn chỉ rõ, có một vị mang họ tên có chữ “bạch” sẽ xuất hiện. Hưu (休) là kết cuộc, cuối cùng. Chính quyền Trung Quốc “lục thập niên quang nhất đán hưu” có nghĩa là năm thứ 69 hoặc năm thứ 70 từ khi chính quyền này thành lập, Trung Quốc truyền thống sẽ bước sang kỷ nguyên mới. Điều này ám chỉ cuối năm Kỷ Hợi hoặc năm Canh Tý, tức cuối năm 2019 hoặc năm 2020 chính quyền ĐCSTQ sẽ kết thúc bởi một người trong tên họ có chứa chữ “bạch” nghĩa là trắng. Tên của ông Tập tiếng Trung chính thể là 習近平, trong họ có chữ “bạch” (白). Nếu tin vào sự sắp đặt đã được tiết lộ qua các dự ngôn từ lịch sử xa xưa, bất kể ông Tập có cố gắng tìm cách cầm cự chính quyền ĐCSTQ như thế nào, tất cả đều là uổng công, kết cục của nó sẽ hoàn toàn là trái ngược.
Đại Kỷ Nguyên minh họa. Các sự kiện lớn trước và sau sự sụp đổ của chính quyền Trung Quốc: đảo chính, thanh toán lẫn nhau và “đại tai nạn” Có hai loại dự ngôn trong lịch sử Trung Quốc: Loại đầu tiên là được viết bởi các bậc cao nhân, ví dụ như Mã Tiền Khóa của Gia Cát Lượng, Thôi Bối Đồ của Viên Thiên Cang và Lý Thuần Phong, Kim lăng tháp bi văn của Lưu Bá Ôn… Loại thứ hai là những lời dự ngôn được lưu truyền bởi những người tín phụng Thần Phật, ví dụ như Ngũ Công kinh được lưu truyền của Ngũ Công Bồ Tát trong Phật giáo, Thái thượng động uyên thần chú kinh của Thái thượng đạo quân của Đạo gia… Những dự ngôn của phương Tây cũng tương tự như vậy, ví dụ lời tiên tri của Nostradamus, một nhà triết học người Pháp nổi tiếng thế kỷ 16, Thánh Kinh, Khải Huyền… Trong lời tiên tri đầu tiên được viết bởi các nhà tiên tri Trung Quốc, có hai sự kiện được mô tả nhiều nhất trước khi xảy ra sự tiêu vong của chính thể Trung Quốc. Sự kiện đầu tiên xảy ra trước sự sụp đổ là chính quyền này dường như đã phát động mọi nỗ lực mưu đồ đoạt lấy chính quyền nhưng kết cục cuối cùng phải thất bại. Câu khắc trên bia đá Kim lăng tháp bi văn âm Hán Việt là: “Mã bất điểm đầu thạch trầm để, hồng hoa khai tận bạch hoa khai”, dịch nghĩa là: “Ngựa không gật đầu đá chìm xuống tận đáy, hoa đỏ nở hết thì hoa vàng nở”. Tạm giải: Nếu cuộc bức hại không kết thúc vào năm Ngựa, hòn đá màu đỏ sẽ trầm xuống. “Hồng hoa khai tận” chỉ màu đỏ truyền thống của ĐCSTQ sẽ chết mà không thể hồi sinh. Tượng thứ 37 của Thôi Bối Đồ viết: “Đông biên môn lý phục kim kiếm, dũng sĩ hậu môn nhập đế cung”, tạm dịch: “Hướng Đông cửa ngõ phục bảo kiếm, Dũng sĩ cổng sau nhập Đế cung”. Hay “Cung môn bạt kiếm trừ gian nịnh, bạch đầu biến tác xích đầu nhân” trong Chư cát vũ hầu kê văn có thể đều là ẩn ý miêu tả về cục diện chính trị hiện nay. Trong đó tượng thứ 37 của Thôi Bối Đồ 一, 人, 弓 nghĩa là: Nhất, Nhân, Cung. Ba chữ này vừa khéo hợp thành chữ ‘夷’ âm Hán Việt là Di tức là chỉ nước ngoài. Quân nhân (軍人) âm nghĩa là quân đội, quân nhân. Đều ám chỉ cuộc đảo chính có liên quan tới quân đội, quân nhân. Sự kiện thứ hai trong các dự ngôn loại thứ hai, những lời dự ngôn Thần Truyền, cũng miêu tả chi tiết về thời gian, biểu hiện chủ yếu, hậu quả trước sau, và cách tránh khỏi “Đại tai nạn” khi thời khắc diệt vong của ĐCSTQ tới gần. Trên thực tế, tất cả các loại dự ngôn đều dự đoán rằng loài người sẽ trải qua một thảm họa chưa từng có. Trong “thảm họa thảm khốc” kéo dài trong nhiều năm, thế giới sẽ xuất hiện những thiên tai, đại dịch, thảm họa tàn phá cuộc sống của nhân loại với các quy mô khác nhau. Cao trào và kết thúc của vở kịch lịch sử lần này của nhân loại hoàn toàn đều xoay quanh “Đại tai nạn” này.
Lý Thuần Phong và Viên Thiên Cang tác giả cuốn tiên tri Thôi Bối Đồ (ảnh: Shohu). Phạm vi thời gian của “Đại tai nạn” Có nhiều lời dự ngôn trong lịch sử đều dự đoán “Đại tai nạn” sẽ xảy ra vào thời gian sụp đổ của ĐCSTQ, nhưng không có nhiều lời tiên tri thực sự mô tả thời điểm cụ thể xảy ra. Một số dù mô tả thời điểm cụ thể, nhưng sử dụng phương pháp cung hoàng đạo Can Chi truyền thống của Trung Quốc, rất khó xác định rõ ràng sự đối ứng với thời gian trên lịch phương Tây. Trong các dự ngôn lịch sử, một trong những lời tiên tri có thể chỉ ra rõ ràng thời điểm cụ thể của đại tai nạn tương ứng với lịch của phương Tây đó là dự ngôn Ngũ Công Kinh của Phật gia. Theo miêu tả, đại tai nạn sẽ xảy ra vào “Hạ nguyên giáp tử luân hồi mạt kiếp”. Một nguyên giáp tử là 180 năm. Trong Can Chi năm truyền thống, thượng nguyên là 60 năm, trung nguyên 60 năm, hạ nguyên 60 năm, chúng ta đang ở thời kỳ hạ nguyên, mạt kiếp hạ nguyên giáp tử là khoảng thời gian từ năm 1984 – 2043. Ví dụ, trong dự ngôn Thái thượng động uyên thần chú kinh của Đạo giáo, thời gian sự kiện tại nạn đầu tiên là ôn dịch xảy ra vào năm Nhâm Ngọ, Quý Mùi. Năm Nhâm Ngọ và Quý Mùi tương ứng trong khoảng thời gian từ năm 1984 – 2043 đối ứng là năm 2002 và 2003. Theo dự ngôn ngày, bệnh dịch được đề cập xảy ra giữa năm 2002 và 2003 chính là dịch bệnh SARS ở Trung Quốc. Trên thực tế, mô tả về dịch bệnh trong Thái thượng động uyên thần chú kinh của Đạo giáo cũng phù hợp với mô tả của y học hiện đại về các triệu chứng của bệnh này (hội chứng hô hấp cấp tính nặng). Tuy nhiên, đại tai nạn được dự đoán đề cập đến một giai đoạn đặc biệt trong “Mạt kiếp hạ nguyên giáp tử”, trong đó dự ngôn thời gian xảy ra thảm khốc nhất, tập trung nhất và kéo dài nhất theo các dự ngôn có liên quan, là vào khoảng từ giữa năm 2018 và 2043. Theo The Epochtimes / dkn.tv Read the full article
0 notes
Text
HOÀNG MẪU HUẤN TỬ THẬP GIỚI (TÓM TẮT)
Đạo là con đường, có đường mới có lối đi. Nhưng sẽ có sự khác biết, đường gần, đường xa, đường tối, đường sáng. Đi theo con đường chính là Thiên Đạo, được trở về Vô Cực Lý Thiên, tức Thiên đàng. Đạo có ngàn vạn, nhưng đều không phải là con đường chính đưa đến lối giải thoát. Nay Lão Mẫu giáng một sơi dây kim quang ( kim là vàng, tính chất của vàng không đổi cũng giống như Đạo của Thượng Đế, xưa nay không bao giờ đổi) để về Tiên Thiên.
Giới cáo thứ 1, lúc Trời Đất chưa phân chia, còn mù mịt chưa rõ ràng, không có người chỉ là một khối hư linh, có cả thảy chín mươi sáu ức Nguyên Phật Tử cùng đoàn tụ ở TIên Thiên, vô ưu vô lo, không phiền não, tự tại an nhiên luôn theo chân Lão Mẫu. Là nơi Vô Cực, không có âm dương, không đối đãi, nơi cảnh Trời hoàn thiện nhất, tuy thanh tịnh nhưng lại ứng thông, nguồn gốc vạn hóa vạn loại. Từ hội Tý khí số đến, Lão Mẫu lệnh cho Thất Phật trị thế, lo liệu mọi thứ trong càn khôn. Sau một vạn tám năm, khí số định, bầu trời thành tựu, chờ đến hội Sửu mãn, địa hoàn thành. Thanh khí thăng lên thành Thiên bàn, bố trí nhật nguyệt tinh tú, trươc khí giáng xuống, ngưng tụ thành Địa, kết thành hồ hải núi sông. Cho đến hội Dần, trời đất tương giao, nhật nguyệt được hợp chiếu, âm dương tương hội, uyên ương tương hợp, vạn loại đều được sinh ra. Vô Cực là tĩnh, Thái Cực là động, Hoàng Cực tức là càn khôn. Đạo tức lý, lý tức là Đạo. Đạo sinh Nhất, Nhất sinh Nhị, Nhị sinh Tam, nhất bản tán vạn thù, từ không đến có. Nơi Đông Thổ, không có loài người còn thiếu nam nữ nên Lão Mẫu sai Nguyên Phật Tử đi xuống Đông Thổ trị thế, nhưng một lần đi là một lần vê. Bất đắc dĩ, chế ra huyết tửu ( rượu quỳnh tương pha lẫn nước mắt của Lão Mẫu) gạt cho say hết nơi Tam Sơn Pha, lập ra ao tiên, nhân dịp đó thu hồi hết giày Tiên áo Tiên, hẹn khi nào cuối Tam Kỳ Phổ Độ thì sẽ độ các Nguyên Phật Tử trở về, Kể từ lúc đó, các Nguyên Phật Tử mới chịu bôn ba Đông thổ, trị vì thế giới, làm nam làm nữ mà dựng lập nên loài người, ị chiên xào nấu trong hồng trần, Nay thời đã ứng vận, lênh cho Tam Phật thâu viên (Nhiên Đăng Cổ Phật, Thích Ca Mâu Ni Văn Phật và Di Lặc Vương Tôn Phật), chỉ mong Phật tử cầu Thiên Đạo để trở về, còn không tỉnh ngộ, vĩnh viễn bị trụy lạc, khó được trở thân.
Giới cáo thứ 2, đương vốn là Tam Kỳ kiếp nạn, khổ đau không hình dung được. trời sắp già, đất sắp tàn, khí số sắp tận. Nên khai văn vận, rải xuống con đường kim tuyến, xiển dương Thiên Đạo, xưng danh Nhất Quán, truyền đi khắp tận càn khôn. Lão Mẫu sai Phật Di Lặc (Đại Đỗ) chấp chưởng Thiên Bàn, Thiên Nhiên Cổ Phật( Đức Linh Diệu), Trung Hoa Thánh Mẫu ( Hoạt Phật Sư Tôn, Nguyệt Tuệ Bồ Tát) chấp chưởng Đạo bàn. Tại nơi Tiên Thiên, không lưu giữ Tiên Phật Thần Thánh nào cả, cùng đầu thai xuống phàm trần để mượn cơ giáng bút, thay Trời tuyên hóa. Trên độ Thiên thần, dưới độ quỷ hồn u minh, giữa độ thiện nam tín nữ. Thu ngàn bàng môn lẫn vạn giáo đồng quy chính căn. Kì mạt hậu truyền cho Chân Đạo, Minh Sư nhất chỉ, khai mở khóa vàng, được xuất thân kim cang, truyền Hợp Đồng, nguyên chứng trở về Linh Sơn, truyền vô tự chân kinh, chính là Thông Thiên Thần chú, Động niệm chân kinh, được Tiên Phật Thánh đến hộ trì. Cầu Chân Đạo được Thiên bảng ghi danh, địa phủ xóa tên, sắc thân giả tạm này cũng chứng được kim thân, mùa đông không cứng mùa hè không thối, dung nhan tươi tốt. Còn có Đạo thống, là bất nhị pháp môn, Tổ Tổ truyền tiếp đến ngày nay. Người tu tại gia hay xuất gia đều được thành đạo chứng quả, khắp các nơi đều hiện lên sự màu nhiệm để thức tỉnh mê muội của con người, ở trong khổ hải chèo lái pháp thuyền đề cứu vớt chín mươi hai nguyên linh. Việc của Tam Thiên, tại nhân gian Trời phải mượn nhờ người, vì Trời Đất không thể lên tiếng, duy chỉ có người mới có thể thay Trời tuyên hóa. Tu Đạo tất yếu, phải lập chí hướng, lòng phát đại nguyện xung Thiên, khổ khẩu bà tâm, phát lòng từ bi, chỉ dẫn người không mệt mỏi để cùng lên pháp thuyền. Nguyện đã lập là phải hành, chánh kỉ rồi mới hóa người, chỉ mang hư danh, không thực sự làm thì khó trở về cõi Cực Lạc. Hoặc mang bộ mặt giả, biểu diễn khoa trương thì tới phút sau cùng cũng bị trụy lạc khổ hải trầm luân, lúc làm lúc ngưng, nửa đường phế bỏ thì đánh tan linh quang, nén dưới Âm sơn vĩnh viễn khó trở lại thân người. Là lãnh tụ hay đàn chủ đều có trách nhiệm trọng đại, một người ngu thì làm vạn người trụy, hại mình hại người. Nếu là một người minh lý, trí tuệ bao la có thể dẫn Hiền, hóa độ đại chúng, dìu dắt vạn người thành Chân. Mỗi người cần phải phát lòng cương nghị, siêng năng hơn nữa tìm mọi phương pháp độ được người rời mê lên bở giác, dùng mọi phương pháp có thể thôi thúc chúng sanh cùng phát đạo tâm. Tâm phải tựa như mây, tùy lúc biến hóa; ý như nước chảy mọi địa hình. Tùy theo cao thấp, tùy lúc vuông tròn, có thể co có thể duỗi. Hòa theo trào lưu, đời thường của thế gian là một lỗi lớn phải nhận lý thực tu. Quét bỏ tham sân, đoạn diệt si ai để cho thanh tịnh pháp thân. Đạo cao một thước, thì ma cao một trượng, công trình càng cao thì càng nguy hiểm, lúc nào cũng phải cẩn thận. Lên tới cực đỉnh mà trụy lạc xuống là rơi vạn trượng vực sâu, leo càng cao thì té càng đau. Tôn kính Tam Úy ( Thiên Mệnh, Đại Nhân, lời nói của Thánh Nhân), suy nghĩ Cửu Tư (nhìn phải rõ, nghe phải hiểu, sắc mặt phải ôn hòa, diện mạo phải cung kính, lời nói phải trung thực, cẩn thận với việc làm, có nghi vấn thì phải hỏi, lúc giận thì nên nghĩ đến bộ mặt khó nhìn, thấy việc lợi thì nên nghĩ đến chữ nghĩa), tuân hành Tam Tỉnh (làm người có lòng trung thành chăng, kết giao với bạn bè có giữ chữ tín chăng, những gì thầy dạy có ôn lại chăng), thường giữ Tứ vật (việc không hợp lý không nhìn, không hợp lý không nghe, không hợp lý không nói, không hợp lý không làm) thế mới gọi là Hiền Chân.
Giới cáo thứ 3, lãnh ngộ Chân lý hiểu Chân Thiên Đạo, chân không nhưng lại bất không. Hữu tức là vô, vô tứ là hữu, hữu vô vốn là một thể. Săc tức là không, không tức là sắc, nhưng chẳng phải sắc chẳng phải không. Lúc ban sơ, khí chưa phân chia, hỗn độn chưa rõ ràng, vô cực động tức xuất hiện Thái cưc, êm dương mới được định ra chia tam tài, phân tứ tượng, hóa ngũ hành, phân ra lục hậu (năm ngày là một hậu, một tháng có 6 hậu, một năm 72 hậu), liệt ra thất chánh (nhật, nguyệt, kim, mộc, thủy, hỏa, thổ), cùng với cửu cung bát quái, chia ra thuận nghịch, xuất hiện tròn khuyết, sanh ra muôn loại vạn vật. Cổ linh quang (huyền quang khiếu) chính là Chân lý, huyên diệu chí thanh chí hư, không có âm dương, không có đối đãi, không tăng không giảm, không có hình, không tượng nhưng chẳng phải không trống không, không xanh đỏ, không nóng lạnh, không tĩnh không động. Là nguồn gốc vạn hóa, chân huyền cơ thì đều ẩn tại đó, tồn tại ẩn hình, vô sắc vô tướng, nhìn thì chẳng thấy, lắng chẳng nghe, hòa lẫn bao la sắc Không, không có biến động, không có hiển chương, vô vi mà sinh vạn hóa. Là Chân chúa tể, là Đại trung tâm của sự tiến hóa vạn linh, cao vô thượng siêu chín tầng trời, vượt ra ngoài sắc không, sâu vô đáy, bao quát địa phủ, luôn cả Thập Điện U Minh. Quán xuyến cả càn khôn, quán xuyến tam giới, không chỗ nào không quán. Trời cùng với Đất, hợp với vạn loại, rời Lý là trở thành không, miễn cưỡng nói Đạo xưng Chân Nhất để vãn hóa được vũ trụ. Đây mới chính là chân thật căn nguyện, vô cực xưa nay không thay đổi. Đạo ở nơi Trời, nên Trời trong thanh, bố trí tinh tú, vận hành nhật nguyệt, đều do Nhất khí lưu hành. Đạo ở tại Đất, nên Đất ngưng kết, bao quát thành núi sông, sanh ra muôn loài, trưởng dưỡng vạn vật. Đạo ở nơi người, nên người mới đươc sanh, và có tri giác vận động. Người vốn có đạo, nhưng không biết có nên khó được siêu sanh. Lý của Tam giáo vốn không có hai, đều do Lão Mẫu giáng xuống, Lão gọi Kim Đan, Phật gọi Xá Lợi, Nho gọi là Thiên Tánh. Cái linh quang này tuy khác danh nhưng cùng lý, ngàn xưa đến nay không có hai pháp, đạo cũng không có hai đạo. Hiểu được một pháp là biết vạn pháp, mọi pháp đều được thấu hiểu. Từ khi Tam Thánh trở về Lý Thiên, tức là đã ngừng độ, đường kim tuyến bị đứt chỉ tồn giáo ở phương Đông đên nay đã ba nghìn năm. Trời mở hội khoa thi để tuyển bạt anh hào dự hội Long Hoa, Đạo tuy là không, nhưng chẳng phải không, vạn cái có đều thành không. Kiếp sống con người tựa như hạt bắp, lênh đênh giữ lòng biển cả, theo thủy triều lên xuống, bị tửu sắc tài khí làm mê mờ đi nguyên lai Phật tánh. Nhiễm mãi thất tình lục dục che lấp bổn linh, tham vinh hoa phú quý, mắc vòng danh lợi, đâu biết cõi hồng trần là giả tạm, nhận lấy cái khổ lại cho là sướng. Sanh lão bệnh tử, mấy ai có thể thoát khỏi, từ hội Dần cho đến nay đã mấy vạn năm, vòng khổ luân hồi, mãi chuyển không ngừng, xuất ra khiếu này nhập vào khiếu kia, chỉ là thay nhà đổi chỗ.
Giới cáo thứ 4, trong chân có giả giả có chân, nơi hồng trần này là nơi khổ hải, sóng gió mênh mông không ngừng. Kiếp sống con người như phù du, sanh sinh ra chiều chết đi, mấy ai thoát khỏi Địa Ngục Diêm Vương Thập Điện. Dù cho có công danh sự nghiệp, giàu sang phú quý, vợ đẹp con khôn thì thời gian trăm năm như giấc mộng thoáng chốc trôi qua, đường xuống suối vàng cũng biệt ly. Chỉ đáng thương, thế nhân mê muội trong kiếp sống ngũ trược này, Trời và vực phân chia hai đường, đều do một niệm quyết định. Nếu như nhất thời mà tâm niệm sai là vĩnh viễn chịu bi thương. Nỗi đau thống khổ ở nơi địa phủ không sao kể cho hết. Tới Nghiệt Kính Đài, chiếu một cái lộ hết mọi tội ương. Cửu huyền thất tổ đang mong chờ con cháu mình hành công lập đức, thay trời tuyên hóa để trở về Lý Thiên. Nếu bị đè dưới Âm Sơn, đến sáu vạn năm, phải đợi đến nguyên hội sau mà không chắc được thân người cầu được Đại Đạo hoặc không chắc còn thời kì phổ độ.
Giới cáo thứ 5, tam tai bát nạn khắp cõi Diêm Phù Đề, Thời mạt kiếp Đạo kiếp cùng giáng, trời đất, sơn hà đổi thay. Tại sao đạo kiếp cùng giáng? Vì thời Nghiêu Thuấn Vũ thịnh trị, lòng người ngay, lòng Trời thuận không có kiếp giáng. Lòng người ta, chiêu cảm ác nghiệt, phong tục ngày càng ô hạ, lễ kỷ cương của Thánh hiền không ai noi theo, học gian tham quỷ quyệt, lường gạt dối trá. Nhân luân bại, cang cường hoại, thế phong suy đồi, chồng không ra chồng, vợ không ra vợ, con không ra con, tình bạn bè không giữ chữ tín, ngũ luân suy, bát đức phế, kẻ sĩ chỉ nói xuông không hành theo lý. Người làm nông không hiểu lý, như si như dại. Kẻ làm công không cần mẫn, mất đi thực chất. Thương gia bán hàng giả, lường gạt người ngu. Người tu Phật, không giữ tam quy ngũ giới. Kẻ tu TIên bỏ chân pháp đi đường tà. Nho sĩ chưa hiểu lý tự xung là Thánh. Thời buổi này nếu không có đại kiếp hạ giáng thì khó tìm được người hiền lương. Chín chín kiếp, tám mươi mốt giáng khắp toàn cầu, sai ngũ đại ma đại náo Đông Thổ. Dùng vạn pháp, liên hoàn kế thu hết tà ác. Sáu vạn năm, đại thanh toán ứng tại nhân gian. Ngọc và đá cùng phân chia rõ ràng. Khắp bốn bề, nổi yêu phong không nơi yên tĩnh. Mất mùa, hạn hán, cướp bóc chưa đáng sợ bằng nước gió lửa quét sạch toàn cầu, bốn chín ngày đen tối, trời trăng không sáng. Mở cửa địa phủ để thả quỷ hồn đi tìm oán thù, kiếp cang phong quét càn khôn, phá hoại vũ trụ, quét khí tượng, rửa tam giới, biến đổi thế gian. Lão Mẫu không đành nỡ nhìn ngọc đá cùng hủy, cho nên đã giáng một đường dây kim tuyến xuống khuyên người mau thức tỉnh linh tánh, bái Minh Sư cầu Chân Đạo, nhanh chân hành công lập đức, độ hóa mọi người cùng lên pháp thuyền, không nên ba lòng hai ý. Mau lập công quả, tỉnh ngộ để trở về Vô Cực.
Giới cáo thứ 6, Lão Mẫu phê huấn “Thâp giới” răn dạy thiện nam tín nữ máu giác ngộ, thoát cảnh trần lao. Ở trên đời, trăm chữ thiện, chữ Hiếu đứng đầu, phát lòng thành, là hiếu tử. Lập mục tiêu tinh tiến tu Đạo. Trong bốn bể đều là huynh đệ, phải ra sức cứu giúp. Đầu tiên chánh kỷ trước, thành người sau, độ hóa chúng sinh. Tự lập trước, lập người sau, là điều căn bản. Tự đạt trước, lại đạt người, cảnh tỉnh người mê. Người giác trước, giác người sau, cùng đăng giác lộ. Đã kéo người phải kéo cho đến nơi đến chốn, cứu người là phải cứu đến cùng, độ một người, một người thành. Thiên thời khẩn cấp, mau lập công bồi đức, xiển dương Đại Đạo. Tu Thiên Đạo, không phân biệt nghèo hèn hay giàu sang phú quý, không phân biệt nam nữ, đều phải siêng lao. Bần xả thân, giàu xả tài, tài pháp song thí, cùng được thanh hồng song tước (thanh phúc là phúc khí trên trời, hồng phúc là phúc dưới trần gian). Khiếu về văn, dùng lời văn thay Trời hành Đạo, giỏi võ ra sức lực không ngại công lao. Vào thời này, lập công quả, vạn tám thánh nghiệp, dù thí mệnh cũng phải tu, ý chí kiên lao. Lập Phật đường, độ chúng sinh là một việc đại thiện hoặc khai hoang hạ chủng lập đại công lao. Nếu tuân theo lời khai hoang gieo giống, Lão Mẫu sẽ sai Tiên Phật hỗ trợ thành công. Tùy thời thế, tùy cơ duyên cẩn thận hành sự. Chân Thiên Đạo đang ngầm tuyển chọn hiền lương, ba nghìn sáu Thánh cùng bốn vạn tám Hiền. Người đến chậm tất đến sau sẽ khóc than.
Giới cáo thứ 7, mau nghe Lão Mẫu khuyên tu thân lập mệnh, thể hiện lòng Mẹ nhớ ơn Thầy. Người tu hành nếu trái ý vi phạn Sư mệnh sẽ bị Trời trách phạt, ngũ lôi khiển, cửu tổ khóc than. Học quân tử, sắc mặt vui vẻ, hòa nhã khiêm cung, hành lễ nghĩa, giữ cang thường, nghiêm nghị chính trung. Nam tuân đạo ngũ luân, bát đức; nữ giữ đạo tam tòng tứ đức. Học trung tín hành nhân nghĩa, lập công đức, xem đạo hữu như tay chân, cùng một Mẹ sinh ra không phân biệt, khen chê kẻ hiền người ngốc. Bậc lãnh tụ độ lượng lớn bao núi chứa biển, thưởng chỉ đạo hậu học, cùng nhau khai Đạo. Chí nam nhi phải nhẫn nại, co duỗi như ý vượt sông núi chịu gió sương, không nao núng, nghe công sợ, nghe lỗi mừng, có lỗi biết sửa. Thế mới là hào kiệt, nhân tài. Là hậu học kính tiền nhân, là tiền nhân thương hậu học dìu dắt hướng dẫn. Thiên thời khẩn cấp, nỗ lực hướng thượng. Đã là người đều có lỗi thì phải biết sửa, biết lỗi mà không sửa thì khó mà về Diêu Đài. Trước hành công sau lầm lỗi thì công trước không tính, trước có lỗi sau có công thì công lỗi tiêu trừ. Nếu như biết sửa lỗi trước, tái lập công quả thì công ghi công. Công đức nhiều, tội lỗi ít Thiên Bàn ghi rõ; lỗi lầm nhiều, công đức nhỏ, chịu họa mắc tai. Chưa hành công mà sửa lỗi trước mới là anh tài. Từ xưa đến nay tu Thiên Đạo không phải là chuyện dễ dàng, nhưng này là thời phổ độ do Lão Mẫu an bài, từ bi, cùng độ càn khôn nên Phật quy rộng rãi đã giảm khảo giảm ma. Thời nay tu Thiên Đạo dễ không gặp chịu nạn, chịu tai tuy chịu cực, phí tâm sức bôn ba Nam Bắc độ Phật tử về Cố hương. Tuy là chịu cực, trải phong sương, dầm mưa dãi năng nhưng một phần khổ, một phần công rực rỡ vinh quang. Tuy bị người chế nhạo, hủy báng, bị chịu oan, hiểu lầm, ngậm đắng nuốt cay nhưng Trời không phụ công lao đều ghi chép rõ ràng. Không tranh cường, so dài ngắn cũng không hiếu thắng, tồn tâm dưỡng tính, dưỡng hạo nhiên thì Bồ Đề nở hoa. Tuy gặp ma khảo tâm tính có nghịch có thuận nhưng nếu không chịu ma khảo thì không thể thành Phật. Từ xưa đến nay tu Đại Đạo đều có ma hại, đạo cao một thước thì ma cao một trượng. Người không căn thì không ngồi được ngàn lá đài sen, người bạc phước, căn không hậu tâm tính không vững tuy đắc Đạo nhưng vẫn thối chí. Như tam giáo Thánh nhân khai hóa lập giáo, chịu vạn khổ hưởng hồng thanh vĩnh viễn không suy nhưng sao sanh bằng thời kỳ phổ độ đại khai, ba nghìn sáu Thánh chùa chiền uy vũ, bốn vạn tám hiền tề hưởng hồng thanh, rạng tổ tông, ấm con cháy, thiện đức trường tồn. Năng phụng hành, chứng thượng phẩm trái ngược thì trụy.
Giới cáo thứ 8, chúng nhi nữ còn mê lạc nhận giả làm vui chịu chân khổ, ngày đêm lao lực. Đối với Chân Đạo ứng phó qua loa, tham cảnh phàm, bội lý quên thánh. Nhiều người sợ ma khảo, tâm chí không bên. Có Chân Đạo tất có chân khảo, điều này là lý bất biến như luyện kim dũa ngọc. Ngọc không giũa không thành khí. Ở người phải chịu đả kích, chịu mài dũa thì trí tuệ mới khai mở, không khảo trừng sao phân biệt được kẻ ngụy người chân. Ngày xưa, Khương Thái Công phải câu cá nơi sông Vi, bán gàu dai, bán bột mì ở ngoài chợ nhưng không nơi nào thành, chịu ma khảo, luyện tâm tính, ý chí cương quyết. Châu Văn Vương bị gian thầm làm hại giam ở Dữu Lý bảy năm trời. Khổng Tử cũng bị nguy nan, bị vây khốn ở biên giới hai nước Trần Thái bảy ngày không có lương thực. Kẻ phàm phu đều cho rằng thánh nhân ngu dại. Khưu Trường Xuân lúc tu Đạo bị ma khảo nhiều nhất, bị tiên đoán chết đói nhưng nhờ ý chí kiên quyết không sờn lòng đắc quả vị Tiên Thiên Trạng Nguyên. Diệu Thiện công chúa vì tu Đạo , bị trảm đao nhưng nửa đường đao gãy chính là Quan Thế Âm Bồ Tát. Tôn Bất Nhị vì học đạo nên lấy vạc dầu hủy hoại dung nhan của mình. Lấy cảnh khảo thời hiện tại so sánh với cảnh khổ là đã ít đáng kể, nhẹ trăm bề. Qua cơn khổ mới thấy rõ được căn cơ cao hay thấp, có ma luyện thì tự tính Phật mới tỏa hào quang. Ma và khảo là bậc thang để thành Tiên Phật Thánh, hiểu thấu được cảnh giả tạo sẽ đạt Niết Bàn. Không chỉ tu Thiên Đạo mới có khảo nghiệm mà muốn đắc nhân tước ở hồng trần cũng phải trải qua mười năm sách đèn. Vì không nhận rõ khảo nên mới thối chí, làm đau lòng Lão Mẫu. Nhiều lần đã viết huyết thư nay lại dặn dò sao không thức tỉnh, nếu chấp mê sẽ bị áp âm sơn. Mau sớm rõ tâm tính, mặc ngàn ma vạn khảo, lòng vẫn không nao núng, Đạo tâm vững ý chí bền trước sau không đổi. Lòng chí thành, ma khảo dứt, tâm như thái hư. Từ ngàn xưa, người tu Đạo, lội sông vượt núi, rời bỏ gia đình, bỏ tài sản để đi khắp chân trời, vượt ngàn núi, lội vạn sông, khó mà gặp chân pháp. Giầy sát mòn vẫn không gặp được Minh Sư, chịu ma khảo, lòng chí thành mới cảm động được các bậc Chân Nhân, rồi lại gặp thử nghiệm tấm lòng thành, mới được truyền pháp tìm hang động tu luyện Thánh thai. Phải lập đủ ba ngàn công tám trăm quả mới đắc thành chánh quả cũng chỉ đạt được Khí Thiên tạm hưởng vinh hoa, hương khói của nhân gian. Hiện tại, tu Thiên Đạo thật quá dễ dãi, thọ điểm trước tu hành sau độ hóa trần sa, hợp thời thế, ứng thời vận, Thiên cơ mới lộ. Lão Mẫu khai ơn, người tu hành nửa Tiên nửa phàm, trong lúc này Thiên thời khẩn cấp nên trọng thánh khinh phàm, phải ân cần, thực tiễn không nên vui nhàn.
Giới cáo thứ 9, đương thời hạ bàng môn vạn giáo để truyền sách trước để khóa tâm vượn, ý mã (ví tâm con người như vượn, ý người như ngựa, không bao giờ yên). Đợi đến thời, truyền Chân Thiên Đạo để thu viên phổ độ, vạn giáo quy căn, hóa tam thiên, lấy tên Nhất Quán. Tam giáo quy về Nhất lý, Nhất quy về Đạo, từ nhất bản tán vạn thù, Nhất là căn nguyên. Muốn tu Đạo, cẩn phải hiểu con đường nguồn cội. Nho quá Nhất, Thích quy Nhất, thủ Nhất đạo Tiên. Minh tâm tính, quan tự tại là đạo lý nhà Phật đã giảng. Tồn tâm tính, khắc phục công là công phu đạo Nho. Tu tâm tính, để phục mệnh là pháp của lão Đạo. Tâm tính này là thực thể, chí hư chí linh. Tu đạo Tiên, thường thanh tĩnh, tâm phẩm nhất lý. Phật giáo nói không và tĩnh chỉ là một thể, Lý của tam giáo, quy một lý tính hợp Vô Cực. Nhà Phật giảng tam quy ngũ giới. Đạo Tiên giảng tụ tam hoa (tinh, khí, thần), ngũ khí triều nguyên (luyện hậu thiên ngũ hành thành tiên thiên ngũ nguyên: nguyên tình, nguyên tính, nguyên tinh, nguyên thần, nguyên khí). Lễ của Nho giáo là hành tam cương giữ ngũ thường. Tam giáo là một nhà, không sát sanh, nhân ái, khí mộc phản bản; không trộm cắp, giữ trung nghĩa, khi kim tụ ngưng; không tà dâm, giữ lễ tiết, chân hỏa luyện tính; không uống rượu, có trí tuệ, chân thủy hợp hòa; không vọng ngữ, giữ chữ tín, thổ khí quy bản. Ngũ khí triều, ngũ giới thanh, ngũ thường tụ tề. Luận tam giáo, không ngoài một lý, nếu hai lý tức ngoại đạo bàng môn. Từ lúc Phục Hy vẽ bát quái, chân dịch xuất hiện, là lúc Đại Đạo giáng trong thời sơ khai. Hội Thanh Dương kỳ, Nhiên Đăng Cổ Phật hạ phàm giáng thế độ hai ức nguyên Phật tử trở về Thiên Đàng, đến thời Hồng Dương Kỳ, Thích Ca Mâu Ni Phật độ thêm hai ức nguyên Phật tử trở về Tây Phương. Nay Bạch Dư��ng kỳ, Đại Đạo triển, Di Lặc ứng vận, Thiên Nhiên Cổ Phật chưởng Đạo Bàn độ hóa Trung Tây độ hết chín mươi hai ức còn lại. Nơi Tiên Thiên không giữ Tiên Phật Thần Thánh, đều đầu thai cùng hóa thế trọ giúp Thánh cơ. Trước độ bần, kế độ người giàu có, sau độ khanh tướng, vương hầu, vạn quốc cùng lên Niết Bàn. Nay đang lúc Thiên thời khẩn cấp, cùng nỗ lực cố gắng lòng thành, chí cương nghị tuyên hóa kẻ mê. Nếu tuân theo lời trong huấn, thực tâm hành Đạo, bàn Đạo, Lão Mẫu sai chư Tiên Phật trợ giúp bình an. Trong tương lai sẽ có nhiều việc trọng đại, Thiên thời đến, hiến hóa chân cơ, ngàn bàng môn cùng vạn giáo đều đồng thời xuất hiện. Niệm phù chú, hô phong vũ, đá chạy cát bay, chỉ Trời mở, chỉ đất lở, dời núi lật biển, ngồi trên ghế, bay lên Trời, yêu pháp lạ kỳ, thuật âm dương, độn ngũ hành, đằng vân giá vũ, đầy đủ các loại yêu ma thuật; chớ nên chạy theo kẻo mất linh quang thì sẽ chịu thê lương. Số trời định, đến tam kỳ thì vạn giáo xuất hiện. Đến thời kỳ, thì Lão Mẫu ra lệnh, pháp thuật đều tan, Di Lặc, Tế Công hiển sức thần thông cầm cờ hạnh hoàng không trung vùng vẫy. Hô một tiếng, chư Thân thối, tất cả quy ban, không còn pháp thuật, Thần Thánh không giúp, chỉ còn lại hai tay trắng cùng bái DI Lặc đồng quy chính lý, giúp Tế Công hiện Phật quang, đạo quán thập phương. Người giàu có quay ngược lại lạy người nghèo khổ. Đạo đức triển khắp toàn cầu, Trung ngoại như nhau. Người thông minh có trí tuệ sớm sớm tu Đạo, chớ đợi thuyền đã thủng lỗ chạy giữa lòng sông.
Giới cáo thứ 10, cửa Vân Thành (Nam Thiên Môn) mở rộng, đáp trúng tam bảo là Nguyên Hoàng. Bát Đại Kim Cang uy nghiêm hiện lên, khẩu lệnh không đúng sẽ xuống suối vàng. Đạo Tam Cực (Vô Cực, Thái Cực, Hoàng Cực) truyền một lý trở về bến ngộ. Kháp thiên hạ, khắp toàn cầu đều trổ liên hoa. Luận Đại Đạo chia tam thừa: Lý là Thượng, Khí là Trung, Tượng là Hạ thừa. Ngoài nơi Trời còn có Trời, Lý Vô Cực, Khí Thái Cực, Hoàng Cực càn khôn. Cảnh Vô Cực là Thánh vực, cực lạc thanh tĩnh, cảnh Thái Cực là Hiền quan, thường chuyển pháp luân, nơi Hoàng Cực là cõi phàm gồm động thực vật. Từ tam thừa mới phân biệt được Thánh Hiền phàm phu. Tu nguyên thần, luyện tính lý, thượng thừa chí diệu (Thượng thừa là tu tính. Phật là minh tâm kiến tính; Nho là tồn tâm dưỡng tính; Tiên là tu tâm luyện tính. Tính tức là lý. Ngộ lý tức là Thánh, Tiên, Phật). Giáng long hổ chuyển pháp luân, tham thiền trung thừa (là tu mệnh, đó là phương pháp luyện khí, vẫn chỉ nằm trong vòng Thái cực, chưa thoát được luân hồi). Còn hạ thừa chấp hình chấp tướng chỉ gõ mõ tụng kinh thì khó siêu thoát phàm. Thời mạt pháp giáng hạ mạt hậu trước, nhất thập bát tiểu nhi đồng, Trung Châu trấn giữ, nổ phích lích đánh thức tỉnh càn khôn đại địa. Khắp vạn quốc lẫn cửu châu đều cùng độ tân, ngàn Thần Thánh vạn Tiên Phật cùng tụ Trung Nguyên chờ hội tam tào tính toán sẽ định vị. Sẽ quét sạch kẻ ác nghiệt, giữ lại người hiền lương, đem bể khổ của thế gian hóa thành Liên Hoa bảo quốc. Cõi Đông Thổ sẽ biến thành tịnh thổ Tây Thiên. Thế giới Phật sẽ khoái lạc vô tận 40 năm, dứt hết sát nghiệp, quy nẻo thiện, mệnh vật an toàn. Cảnh thái hòa đến thế gian, Lân Phụng xuất hiện. sóng gió yên, vui thanh bình, không còn tranh đấu, sống thời trời Nghiêu (thanh bình nhất trong lịch sử Trung Hoa) Chư Tiên Phật hết lời nguyền độ hết chúng sinh, Tổ Di Lặc lên bảo đài điểm Tướng phong Tiên. Con của Lão Mẫu sẽ rời bể khổ cùng về bến giác. Phật Thiên Nhiên dẫn nguyên nhân cùng tham kiến Lão Mẫu. Người khai hoang trước tài ba xuất chúng, người lập kỳ công đoạt chức khôi nguyên, người tài pháp song thí thăng chức thượng phẩm, người xả thân mình thì phẩm vị tôn nghiêm, người lập Phật đường được chứng Kim Tiên, người tuyên hóa Đạo được ngồi tòa sen, người tận hết lòng chứng quả Tiên, người ân cần được thăng thưởng vô biên. Đến lúc đó, chia tam thừa, vị liệt cửu phẩm. Người Phật tử còn tại thế, ngoại vương nội thánh (tu thân là nội thánh, hóa người là ngoại vương, nội thánh là tu huệ, ngoại vương là tu phúc) được hưởng vinh hoa phú quý, tự tại an nhiên. Chúng Phật tử đã Niết Bàn trở về Tịnh Thổ, thoát phàm thai thành Thánh thể trở thành Đại La Kim Tiên, mặc áo Tiên, cắm bông vàng, đội mũ Tiên, giày mây trổ sen bái kiến Lão Mẫu. Kể từ đó, không sau xuống Đông Thổ để chịu cảnh gian lao đời ngũ trược, cùng ăn Tiên đào, Tiên quả, quỳnh tương nước ngọc, không còn bị trời đất, âm dương chi phối, đi du hành khắp tam thiên đại thiên thế giới. Cửu huyền Thất tổ cùng thoát khổ về phẩm vị đều được sắc phong. Quần Phật tử ở cung Vô Cực thiết lập yến tiệc, hội Long Hoa tụ Phật Thánh Thánh Thần Tiên cùng yết kiến Hoàng Mẫu, cùng uống ly rượu Bồ Đề đoàn viên.
Huấn thư hoàn tất trấn Trung Hoa, quảng bá tuyên hóa độ người hiền lương cùng lên Bồ Đề ngạn, nhi nữ công thành ngồi Liên hoa. Tuân lời Lão Mẫu dặn thiết thực hành, đánh thức người si khỏi cảnh mê. Tiên Phật cứu thế giáng cõi Đông, bốn ức cùng nhau hạ phàm giới, minh tâm kiến tính thấy cố chủ, gà vàng tam xướng Đại Đạo hoành. Chép xong thư mau ấn loát phổ biến lưu truyền, khuyên hóa độ chúng lập công đức, cứu rỗi chúng sinh rời vực sâu.Thiên Đàng hay Địa Ngục tùy chọn, biếng nhác chênh mảng xuống vực sâu.
0 notes
Photo
CÔNG NĂNG CỦA THẦN CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM
(Trích trong Kinh Lăng Nghiêm, quyển 7)
Như hàng Hữu Học chưa thoát khỏi Luân Hồi, có Tâm chí thành cầu tu chứng quả vị A La Hán. Nếu ở trong Đạo Trường, không trì bài Chú này thì thân tâm của Hành Giả khó có thể tránh thoát khỏi được sự quấy nhiễu của Tà Ma.
Nếu có chúng sinh tùy theo vật dụng có được trong nước mình cư ngụ như: Vỏ cây hoa, lá cây Bối, giấy trắng, nhung trắng… đem viết bài Chú này vào rồi đựng trong một cái túi thơm. Như người ấy ngu muội chẳng thể tụng nhớ được thì ở trên thân mình hoặc để trong nhà thì trọn đời người ấy chẳng bị các thứ độc làm hại.
Bài chú Lăng Nghiêm hay cứu chúng sinh thoát khỏi mọi sự sợ hãi và giúp cho chúng sinh tu thành Trí Tuệ xuất Thế Gian.
Trong thời Mạt Pháp. Nếu có người trì tụng hoặc dạy người khác trì tụng Thần Chú Lăng Nghiêm thì kẻ ấy không bị các nạn: Lửa đốt, nước cuốn trôi, độc hại… cho đến tất cả Chú Ngữ độc ác của các hàng Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Yêu Tinh, Ma, Mỵ… đều chẳng thể hại được. Khi trì tụng bài Chú này mà Tâm được chính định rồi thì hết thảy mọi thứ bùa chú, nọc độc, thuốc độc, các hơi độc ở vàng, bạc, cỏ cây, rắn, rết, sâu bọ và các loài khác… nếu lọt vào trong miệng người ấy cũng đều hóa thành vị Cam Lộ. Tất cả các vị Hung Tinh, Ác Quỷ, Ác Thần dù có Tâm ác hãm hại người cũng không dám khởi Tâm làm hại Người Trì Chú ấy. Các loài Tần Na Dạ Ca và chúa Quỷ ác cùng với quyến thuộc đã thọ ân sâu của Phật Pháp thường đến ủng hộ những người trì tụng Chú ấy.
Bài Chú Lăng Nghiêm thường có tám vạn bốn ngàn vô số Chủng Tộc Bồ Tát Kim Cương Tạng Vương, mỗi mỗi vị đều có quyến thuộc ngày đêm hộ vệ. Nếu có chúng sinh, Tâm còn tán loạn chẳng thể vào Tam Ma Địa được mà kẻ ấy: Tâm trì, miệng tụng bài Chú Lăng Nghiêm thì các vị Kim Cương thường theo ủng hộ kẻ ấy huống chi là người có Tâm quyết định vào Đạo Bồ Đề. Các vị Kim Cương này thường đem sức thần ủng hộ khiến cho người ấy tinh tiến thân tâm, phát khởi Thần Thức, ngay đó nhớ lại những việc từ tám vạn bốn ngàn hằng hà sa số kiếp cho đến nay, mỗi mỗi đều rõ ràng, chẳng có nghi hoặc. Kể từ lúc mới tu học là Kiếp thứ nhất cho đến khi thành Phật là Kiếp cuối cùng, dù phải trải qua bao nhiêu Kiếp nữa thì chẳng khi nào phải sinh làm Quỷ Dạ Xoa, Quỷ La Sát, Quỷ bệnh tật, Quỷ ung thối, Quỷ Yểm Mỵ, Quỷ hút tinh khí, cùng các loài Ngạ Quỷ có hình vô hình, có tưởng vô tưởng và những xứ ác độc.
Bậc Thiện Tri Thức ấy hoặc đọc tụng hoặc đeo giữ và cúng dường Tâm Chú này thì kiếp kiếp chẳng sinh vào những chốn nghèo nàn hèn hạ và những nơi chẳng an lành. Các chúng sinh này dù cho tự thân chẳng làm Phước Nghiệp thì mười phương Như Lai cũng ban công đức cho họ, do đó trong vô số kiếp thường sinh đồng một chỗ với chư Phật, liên kết chặt chẽ vô lượng vô số công đức để cùng tu tập tại một nơi với nhau.
Cho nên Tâm chú này khiến cho người đã Phá Giới lại được Giới Căn trong sạch, người chưa đắc Giới khiến cho đắc Giới, người chưa tinh tiến khiến cho tinh tiến, người không có Trí Tuệ khiến cho được Trí Tuệ, người chẳng thanh tịnh khiến cho mau chóng thanh tịnh, người chưa giữ được Trai Giới khiến cho giữ được Trai Giới.
Kẻ Thiện Nam Tử ấy. Giả sử trước kia có phạm Giới Cấm thì sau khi trì Chú, các tội Phá Giới chẳng kể nặng nhẹ đều được tiêu diệt. Dù cho đã uống rượu, ăn ngũ tân và các thứ Bất Tịnh thì tất cả chư Phật, Bồ Tát, Kim Cương, Thiên Tiên, Quỷ Thần cũng chẳng cho là có lỗi mà bắt tội nữa. Dù cho có mặc quần áo rách rưới bẩn thỉu, khi đi đứng trì niệm Thần Chú cũng vẫn được coi như người thanh tịnh. Dù chẳng lập Đàn, chẳng vào Đạo Trường cũng chẳng hành Đạo mà trì tụng Chú này thì cũng được công đức đầy đủ như là người lập Đạo Trường hành Đạo.
Nếu những kẻ trước kia đã tạo ra năm tội Nghịch và cái tội nặng đáng đọa vào Địa Ngục Vô Gián, hoặc các Tăng Ni đã phạm tội Tứ Khí, Bát Khí, tuy trong các đời trước chưa kịp sám hối. Nay biết đọc tụng, biên chép bài Chú này, đeo giữ trên mình hoặc để ở nơi cư ngụ thì những Nghiệp tích chứa từ trước đều tiêu tan hết, chẳng bao lâu sẽ được Vô Sinh Nhẫn.
Như người phụ nữ chưa có con. Nếu muốn cầu con mà hay chí Tâm tưởng niệm hoặc đeo Chú này thì sẽ sinh được những đứa con trai, con gái có phước đức Trí Tuệ. Kẻ nào cầu sống lâu được sống lâu, cầu Phước Báo được Phước Báo, cho đến cầu thân thể xinh đẹp khỏe mạnh sẽ đều được như thế. Sau khi chết, tùy Nguyện vãng sinh trong mười phương Quốc Độ, chắc chắn chẳng sinh vào nơi biên địa, giòng tộc hạ tiện và không phải mang những thân hình uế tạp.
Nếu có các Quốc Độ, châu huyện, làng xóm bị nạn đói kém, ôn dịch hoặc những nơi bị binh loạn, giặc cướp đánh nhau và tất cả những nơi có tai nạn khác… thì cứ viết bài Chú này dán ở bốn cửa thành, các Tháp Miếu hoặc viết lên ngọn cờ, cây phướng và khiến chúng sinh nơi ấy thừa phụng bài Chú này, cung kính lễ bái, nhất tâm cúng dường đồng thời khiến mỗi người dân đeo bài Chú trên mình hoặc để ở nơi cư ngụ thì tất cả tai nạn thảy đều tiêu diệt.
Nếu có chúng ở các Quốc Độ. Hễ chỗ nào có bài Chú này thì Trời Rồng vui mừng, mưa gió thuận hòa, ngũ cốc được mùa, dân chúng an vui. Những tai chướng do tất cả Ác Tinh biến quái ở mọi nơi đều chẳng thể khởi sinh, người chẳng chết yểu, gông cùm xiềng xích chẳng dính vào thân, ngày đêm ngủ yên thường chẳng gặp mộng ác.
Cõi Ta Bà này có tám vạn bốn ngàn tai biến do Ác Tinh, do 28 Ác Tinh làm Thượng Thủ. Lại có 8 Đại Ác Tinh làm chủ hay xuất hiện trên đời với nhiều hình dạng hay gây các tai họa kỳ lạ cho chúng sinh, hễ có bài Chú này thì hết thảy đều bị tiêu diệt. Trong phạm vi 12 Do Tuần, các tai biến hung dữ trọng chẳng thể xâm phạm.
Đức Như Lai nói bài Chú này để bảo hộ cho người tu hành mới vào Đạo trong khi tu Thiền Định, thân tâm được như thái an ổn không bị những Tà Ma, Quỷ Thần, Tiền Oan Nghiệp Chướng, nợ nần tích lũy từ đời vô thủy đến quấy phá hãm hại.
Nếu người tu hành y theo Pháp, Trì Giới trong Đạo Trường lại được vị Thầy Truyền Giới trong sạch. Đối với Tâm Chú này chẳng sinh nghi hoặc thì ngay tại thân máu thịt do cha mẹ sinh này sẽ được Tâm sáng suốt. Nếu chẳng được như vậy thì mười phương Như Lai đều nói lời hư vọng.
Dòng Mật Pháp Vajrapani
Nhóm Kim Cang Tử Đời Chữ Nhật
5 notes
·
View notes
Text
‘Một người có Đạo đức chính là người có con đường đi tới sự tốt đẹp’
Từ nhỏ, tôi đã thần tượng gia đình Ingal trong bộ phim “Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên”. Tôi nghĩ rằng con người nên sống như thế, bất kể là nghèo hay giàu thì đều có thể hạnh phúc. Tuy vậy, những điều diễn ra quanh tôi dường như là hoàn toàn ngược lại.
Tôi có một tuổi thơ không êm đềm, bố tôi ốm bệnh liên miên nên ông không giúp gì được mẹ. Thời đi học, ông vốn dĩ rất thông minh, tài hoa và nổi tiếng trong trường. Ông từng rất tự hào về bản thân mình, nhưng bệnh tật và sự thiếu kiên trì đã quật ngã ông; ông bỏ dở học hành và không nghề nghiệp, thích phiêu du lang bạt nay bãi vàng, mai bãi đá đỏ. Lần nào trở về, ông cũng tiều tụy và bệnh tật. M�� tôi phải gồng mình để nuôi sống cả gia đình với 4 miệng ăn. Lương giáo viên ít ỏi nên mẹ đã bỏ nghề để đi buôn. Tôi biết bố tôi thương mẹ, nhưng có lẽ áp lực cuộc sống và bệnh tật, khổ sở cả về thể chất và tinh thần khiến ông trở nên khó tính, cáu bẳn, ghen tuông và thường xuyên đánh mẹ. Ngày đó, tôi chỉ mong bố mẹ chia tay nhau để được yên ổn.
Nhờ có sự giúp đỡ của những người thân trong gia đình, bố mẹ tôi cũng bớt cơ cực hơn khi bố tôi tìm được việc làm, bớt bệnh và mẹ quay trở lại với nghề giáo viên. Tôi ra trường và đi làm. Nhưng yên ấm chẳng được bao lâu, sau chưa đầy 1 năm, bố tôi mắc bạo bệnh rồi qua đời. Chứng kiến sự thống khổ của ông những ngày cuối đời khi bệnh tật giày vò, mẹ và tôi khóc cạn nước mắt. Khi đó, em trai tôi mới vào lớp 10 – lần đầu tiên trong đời, em phải trải nghiệm sự thống khổ khi mất người thân.
Cũng có chút an ủi là, tôi học hành không tệ, luôn là con ngoan trò giỏi của gia đình và thầy cô. Nhưng đồng hành với ưu điểm đó thì trong tôi lại hình thành tính tự phụ, thường tự cho mình là đúng, và độc đoán. Tôi đặt nặng danh lợi, nếu có điều gì đó không tốt tổn hại tới danh dự, uy tín của tôi, dù do tôi gây ra hay hoàn cảnh đem lại, tôi đều sẽ mất ăn mất ngủ, bất an và lo lắng. Cộng thêm sự đố kỵ không biết từ bao giờ đã lớn lên trong tôi, tôi thường xuyên so sánh sự yếu kém của mình với sự thuận lợi bạn bè xung quanh, điều ấy khiến tôi trở nên mệt mỏi.
Sau này, tôi lập gia đình, giữa tôi và chồng tôi lại có một vấn đề rất lớn. Tôi đòi hỏi một người chồng mạnh mẽ, một “nam tử hán đại trượng phu”, nhưng tôi lại hoàn toàn không phải là một “yểu điệu thục nữ”. Lúc nào tôi cũng tỏ ra mình mạnh mẽ, có thể tự quyết mọi việc, thậm chí còn luôn thấy mình tháo vát nhanh nhẹn hơn chồng. Không may, vào những năm 2010-2012, chúng tôi đầu tư chứng khoán nhưng thất bại. Không giống bạn bè xung quanh - dường như họ chẳng phải lo lắng gì về vật chất - tôi mới lập gia đình thì đã mang trên đầu một cục nợ không nhỏ, lo toan bộn bề. Những mất mát về lợi ích vật chất và cuộc sống lúc nào cũng không như ý muốn khiến tôi luôn cảm thấy căng thẳng, cô đơn, như thể kiếp số của tôi là phải gồng mình chịu đựng những đau khổ trong cuộc sống.
Giữa năm 2014 tôi thấy một cô bạn trong nhóm thời đại học của tôi có đăng lên Facebook của cô ấy một điều gì đó về tu luyện. Người bạn này vốn dĩ rất có uy tín với tôi bởi cô rất thông minh, là con gái Hà Nội gốc với gia đình tri thức và rất nề nếp, bố mẹ đều là các nhà khoa học tôi từng ngưỡng mộ. Vì vậy, khi tôi hỏi bạn tôi: “Mày tu cái gì thế, cho tao tu với” – thì cô gửi cho tôi link cuốn sách Chuyển Pháp Luân và website Chánh Kiến.
Cảm giác đầu tiên sau khi tôi đọc xong cuốn sách là: kỳ lạ! Tôi chưa từng đọc một cuốn sách nào như thế này, có rất nhiều điều tôi như được khai sáng nhưng lại có quá nhiều điều tôi không hiểu. Tôi tự nhủ, phải đọc thêm vài lần nữa mới được. Tôi đọc đi đọc lại cuốn sách và những điều tôi thắc mắc bấy lâu dần sáng tỏ. Rốt cuộc, tôi đã hiểu về nguồn gốc thiêng liêng và cao quý của sinh mệnh con người, con người sống là vì điều gì? Thần, Phật họ là ai? Không ít lần nước mắt tôi trào ra và thực sự chấn động. Nhưng khi mới đọc xong sách, tôi không có ý định bước vào tu luyện, tôi vẫn nghĩ rằng người tu luyện cần thanh tịnh và trong sạch hơn tôi mới tu được, tôi còn đầy rẫy những thứ xấu, tiêu chuẩn của người tu luyện quá cao, chắc tôi không làm nổi.
Nhưng đột nhiên, sau đó sức khoẻ tôi yếu kém tệ hại, tới thở cũng khó khăn. Lúc đó con tôi còn quá nhỏ, tôi bắt đầu nghĩ quẩn: “Lỡ mình chết thì con mình sẽ ra sao? Và còn bao nhiêu điều về cuộc sống, mình còn muốn tu luyện nữa làm sao đây?” Vậy nên tôi quyết định: “Thôi, nếu còn sống ngày nào thì sẽ tu luyện ngày đấy”. Tôi tự mình luyện công mặc dù chỉ khoảng 20 phút mỗi ngày, và đọc sách một cách đều đặn. Tôi không ngờ rằng chỉ sau một ngày, tôi bị nôn thốc tháo như bị cảm kèm theo những cơn đau đầu dữ dội. Sau đó, tôi hồi phục hoàn toàn, thân thể của tôi bỗng nhẹ nhàng bay bổng như một sợi lông vũ vậy. Tôi bước đi mà không cảm giác mình đang bước đi trong khi tôi chưa động tới một viên thuốc nào. Tôi chưa từng cảm nhận được trạng thái như thế này trong đời. Tôi hiểu đó chính là trạng thái “tịnh hoá thân thể” được giảng trong sách.
Dần dần, tôi trải nghiệm và hiểu ra nhiều điều nữa được miêu tả trong cuốn sách Chuyển Pháp Luân, vì vậy tôi tin rằng mình đã được tính là người tu luyện.
Người ta nói rằng “Giang sơn dễ đổi, bản tính kh�� dời”, nhưng Pháp Luân Đại Pháp đã khiến tôi thay đổi được cái thứ gọi là “bản tính” đó, bởi vì tôi hiểu sâu sắc rằng: bản tính chân chính của con người thật sự là đồng hoá với Chân Thiện Nhẫn.
Chân: Trong thời đại ngày nay, nhiều người cho rằng khó mà trở nên chân thật, hoặc nhiều tình huống nói dối là tốt hơn, nhưng cái giá phải trả để có được cái lợi trước mắt là quá lớn. Trước mắt là mất uy tín; con người thiếu Chân sẽ luôn sống trong sự thiếu tin tưởng, nghi ngờ lẫn nhau, lúc nào cũng phải đề phòng, tạo thành hoàn cảnh sống rất căng thẳng. Ngược lại, một người thực sự chân thành đối đãi với những người xung quanh thì sẽ cảm thấy rất an toàn, bởi vì họ không sợ được - mất, hơn - thua.
Thiện: Thiện có sức mạnh rất to lớn có thể hoá giải mọi mâu thuẫn. Khi có thể tha thứ cho người khác, thiện với người khác, bạn mới có thể thực sự tha thứ cho chính mình, vì thế mới có được một tâm hồn thanh thản.
Nhẫn: Còn Nhẫn sẽ giúp bạn vượt qua được những tình huống khó khăn và khai phá năng lực của bản thân trong nghịch cảnh.
Chân – Thiện – Nhẫn có thể hoá giải những ác duyên, mang lại những điều tốt đẹp cho người thực hành được chúng. Tôi từng tưởng rằng mình cũng khá lương thiện, nhưng tôi hay nhầm lẫn sự cả nể và lợi ích nhóm là tính lương thiện. Có những lúc đối diện với cái sai của người xung quanh, tôi không chỉ ra cho họ một cách thiện ý để họ sửa đổi mà né tránh nó do ngại va chạm. Bản chất là lo cho sự an toàn của bản thân mà mặc kệ họ. Tôi cũng nhầm lẫn cho rằng mạnh mẽ là có thể lớn tiếng quát nạt người khác, giận dữ mà không thèm để ý tới hậu quả; mà không hiểu rằng đó là biểu hiện của một kẻ yếu đuối không thể kiểm soát được bản thân mình. Giờ tôi đã có thể bớt nổi cáu và bất bình, oán trách hay chỉ trích người khác.
Tôi nhớ câu nói đó trong một cuốn sách. Quả đúng là như thế, cuộc sống của tôi cũng thay đổi hoàn toàn khi thực hành theo Chân Thiện Nhẫn, vợ chồng tôi sống hoà thuận và bình an bên cạnh con gái nhỏ và mẹ. Tôi cũng nhớ có câu danh ngôn dành cho phụ nữ là: “Khi bạn hành xử giống như một quý cô hơn, thì anh ấy cũng hành xử giống như một quý ông hơn”. Nếu chúng ta chỉ muốn áp đặt cho người khác mà không sửa đổi bản thân mình thì hậu quả sẽ chỉ chuốc lấy sự thất bại.
Dù làm việc trong môi trường ngân hàng áp lực và bận rộn, nhưng từ khi có Pháp lý Chân Thiện Nhẫn trong tâm, tôi bớt chỉ trích lỗi sai của đồng nghiệp và tập trung vào tìm giải pháp. Thay vì che giấu những lỗi lầm của bản thân vì sợ mất mặt, đánh giá thì tôi sẵn sàng phơi bày ra với cấp trên để họ giúp tôi tháo gỡ. Khi bạn trở nên thẳng thắn và chân thành, không ai nỡ từ chối tha thứ cho bạn, bởi vì bản tính con người là hướng thiện.
Không còn lo lắng vụn vặt về danh lợi cá nhân, tôi làm việc vô tư và chân thành. Tôi cảm nhận là, chính vì thế đầu óc cũng trở nên sáng suốt hơn. Tôi coi mỗi ngày đi làm giống như đi học và luôn tìm thấy niềm vui trong công việc. Hàng ngày, tôi phải làm việc từ 9-10 tiếng đồng hồ thậm chí còn nhiều hơn, nhưng tôi không còn thấy mệt mỏi nữa.
Phật Pháp vĩ đại đã thay đổi hoàn toàn con người tôi mặc dù việc tu luyện cũng không dễ dàng gì. Việc sửa đổi bản thân là rất khó khăn, nhưng trong tâm tôi đã có sức mạnh từ đức tin chân chính. Tu luyện không phải điều gì đó quá xa vời, nó đơn giản là bạn sửa đổi mình mỗi ngày theo Chân Thiện Nhẫn, gột bỏ đi những điều không tốt ở trong tâm. Chứng kiến sự thay đổi của tôi và sự kiên tín vào Pháp Luân Đại Pháp, chồng tôi cũng bước vào tu luyện. Người bạn đời của tôi cũng đã tìm thấy sự thanh thản và bình an, cùng đồng hành với tôi trên đoạn đường đời ngắn ngủi này.
Vì nhiều lý do mà tới thời kỳ Mạt Pháp, lời của Thánh nhân xưa đã mai một dần theo thời gian sau hàng nghìn năm truyền lại. Con người không còn tin và hiểu được những điều cổ nhân đã dạy nên đức tin mờ nhạt dần và nó không đủ mạnh để chống lại sự trượt dốc của nhân loại.
Tôi nhớ có một nghiên cứu chỉ ra rằng, chỉ cần 10% các cá thể trong một quần thể thay đổi theo cùng một hướng tích cực, thì dần dần sẽ đem đến sự thay đổi cho 90% quần thể còn lại. Chỉ cần 10% loài người quay trở lại với Đạo Đức chân chính, thì sẽ giống như hương thơm lan tỏa tới cộng đồng. Tôi tin rằng nếu không vì cuộc bức hại với Pháp Luân Công đang diễn ra tại Trung Quốc, khiến cho rất nhiều thông tin sai lệch, bóp méo sự thật được xuất khẩu từ Trung Quốc, từ đó khiến nhiều người mất đi cơ duyên đến với Đại Pháp; thì ngày phục hưng của nhân loại chắc chắn sẽ không bị cản trở. Nhưng tôi tin, ngày tốt đẹp đó rồi cũng sẽ đến. Bởi đức tin chân chính hoàn toàn không phải sự mù quáng sùng bái thần tượng hay cảm tình nhất thời, mà thực sự là cái gốc trong mỗi con người.
Vân Hồng - Giám đốc phòng Thu hồi nợ Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam (VIB) Khối quản trị rủi ro
from Đại Kỷ Nguyên - Feed - https://www.dkn.tv/van-hoa/mot-nguoi-co-dao-duc-chinh-la-nguoi-co-con-duong-di-toi-su-tot-dep.html via https://www.dkn.tv/van-hoa/mot-nguoi-co-dao-duc-chinh-la-nguoi-co-con-duong-di-toi-su-tot-dep.html https://www.dkn.tv from Đại Kỷ Nguyên https://daikynguyen.tumblr.com/post/183283532398 via IFTTT
0 notes
Text
‘Một người có Đạo đức chính là người có con đường đi tới sự tốt đẹp’
Từ nhỏ, tôi đã thần tượng gia đình Ingal trong bộ phim “Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên”. Tôi nghĩ rằng con người nên sống như thế, bất kể là nghèo hay giàu thì đều có thể hạnh phúc. Tuy vậy, những điều diễn ra quanh tôi dường như là hoàn toàn ngược lại.
Tôi có một tuổi thơ không êm đềm, bố tôi ốm bệnh liên miên nên ông không giúp gì được mẹ. Thời đi học, ông vốn dĩ rất thông minh, tài hoa và nổi tiếng trong trường. Ông từng rất tự hào về bản thân mình, nhưng bệnh tật và sự thiếu kiên trì đã quật ngã ông; ông bỏ dở học hành và không nghề nghiệp, thích phiêu du lang bạt nay bãi vàng, mai bãi đá đỏ. Lần nào trở về, ông cũng tiều tụy và bệnh tật. Mẹ tôi phải gồng mình để nuôi sống cả gia đình với 4 miệng ăn. Lương giáo viên ít ỏi nên mẹ đã bỏ nghề để đi buôn. Tôi biết bố tôi thương mẹ, nhưng có lẽ áp lực cuộc sống và bệnh tật, khổ sở cả về thể chất và tinh thần khiến ông trở nên khó tính, cáu bẳn, ghen tuông và thường xuyên đánh mẹ. Ngày đó, tôi chỉ mong bố mẹ chia tay nhau để được yên ổn.
Nhờ có sự giúp đỡ của những người thân trong gia đình, bố mẹ tôi cũng bớt cơ cực hơn khi bố tôi tìm được việc làm, bớt bệnh và mẹ quay trở lại với nghề giáo viên. Tôi ra trường và đi làm. Nhưng yên ấm chẳng được bao lâu, sau chưa đầy 1 năm, bố tôi mắc bạo bệnh rồi qua đời. Chứng kiến sự thống khổ của ông những ngày cuối đời khi bệnh tật giày vò, mẹ và tôi khóc cạn nước mắt. Khi đó, em trai tôi mới vào lớp 10 – lần đầu tiên trong đời, em phải trải nghiệm sự thống khổ khi mất người thân.
Cũng có chút an ủi là, tôi học hành không tệ, luôn là con ngoan trò giỏi của gia đình và thầy cô. Nhưng đồng hành với ưu điểm đó thì trong tôi lại hình thành tính tự phụ, thường tự cho mình là đúng, và độc đoán. Tôi đặt nặng danh lợi, nếu có điều gì đó không tốt tổn hại tới danh dự, uy tín của tôi, dù do tôi gây ra hay hoàn cảnh đem lại, tôi đều sẽ mất ăn mất ngủ, bất an và lo lắng. Cộng thêm sự đố kỵ không biết từ bao giờ đã lớn lên trong tôi, tôi thường xuyên so sánh sự yếu kém của mình với sự thuận lợi bạn bè xung quanh, điều ấy khiến tôi trở nên mệt mỏi.
Sau này, tôi lập gia đình, giữa tôi và chồng tôi lại có một vấn đề rất lớn. Tôi đòi hỏi một người chồng mạnh mẽ, một “nam tử hán đại trượng phu”, nhưng tôi lại hoàn toàn không phải là một “yểu điệu thục nữ”. Lúc nào tôi cũng tỏ ra mình mạnh mẽ, có thể tự quyết mọi việc, thậm chí còn luôn thấy mình tháo vát nhanh nhẹn hơn chồng. Không may, vào những năm 2010-2012, chúng tôi đầu tư chứng khoán nhưng thất bại. Không giống bạn bè xung quanh - dường như họ chẳng phải lo lắng gì về vật chất - tôi mới lập gia đình thì đã mang trên đầu một cục nợ không nhỏ, lo toan bộn bề. Những mất mát về lợi ích vật chất và cuộc sống lúc nào cũng không như ý muốn khiến tôi luôn cảm thấy căng thẳng, cô đơn, như thể kiếp số của tôi là phải gồng mình chịu đựng những đau khổ trong cuộc sống.
Giữa năm 2014 tôi thấy một cô bạn trong nhóm thời đại học của tôi có đăng lên Facebook của cô ấy một điều gì đó về tu luyện. Người bạn này vốn dĩ rất có uy tín với tôi bởi cô rất thông minh, là con gái Hà Nội gốc với gia đình tri thức và rất nề nếp, bố mẹ đều là các nhà khoa học tôi từng ngưỡng mộ. Vì vậy, khi tôi hỏi bạn tôi: “Mày tu cái gì thế, cho tao tu với” – thì cô gửi cho tôi link cuốn sách Chuyển Pháp Luân và website Chánh Kiến.
Cảm giác đầu tiên sau khi tôi đọc xong cuốn sách là: kỳ lạ! Tôi chưa từng đọc một cuốn sách nào như thế này, có rất nhiều điều tôi như được khai sáng nhưng lại có quá nhiều điều tôi không hiểu. Tôi tự nhủ, phải đọc thêm vài lần nữa mới được. Tôi đọc đi đọc lại cuốn sách và những điều tôi thắc mắc bấy lâu dần sáng tỏ. Rốt cuộc, tôi đã hiểu về nguồn gốc thiêng liêng và cao quý của sinh mệnh con người, con người sống là vì điều gì? Thần, Phật họ là ai? Không ít lần nước mắt tôi trào ra và thực sự chấn động. Nhưng khi mới đọc xong sách, tôi không có ý định bước vào tu luyện, tôi vẫn nghĩ rằng người tu luyện cần thanh tịnh và trong sạch hơn tôi mới tu được, tôi còn đầy rẫy những thứ xấu, tiêu chuẩn của người tu luyện quá cao, chắc tôi không làm nổi.
Nhưng đột nhiên, sau đó sức khoẻ tôi yếu kém tệ hại, tới thở cũng khó khăn. Lúc đó con tôi còn quá nhỏ, tôi bắt đầu nghĩ quẩn: “Lỡ mình chết thì con mình sẽ ra sao? Và còn bao nhiêu điều về cuộc sống, mình còn muốn tu luyện nữa làm sao đây?” Vậy nên tôi quyết định: “Thôi, nếu còn sống ngày nào thì sẽ tu luyện ngày đấy”. Tôi tự mình luyện công mặc dù chỉ khoảng 20 phút mỗi ngày, và đọc sách một cách đều đặn. Tôi không ngờ rằng chỉ sau một ngày, tôi bị nôn thốc tháo như bị cảm kèm theo những cơn đau đầu dữ dội. Sau đó, tôi hồi phục hoàn toàn, thân thể của tôi bỗng nhẹ nhàng bay bổng như một sợi lông vũ vậy. Tôi bước đi mà không cảm giác mình đang bước đi trong khi tôi chưa động tới một viên thuốc nào. Tôi chưa từng cảm nhận được trạng thái như thế này trong đời. Tôi hiểu đó chính là trạng thái "tịnh hoá thân thể" được giảng trong sách.
Dần dần, tôi trải nghiệm và hiểu ra nhiều điều nữa được miêu tả trong cuốn sách Chuyển Pháp Luân, vì vậy tôi tin rằng mình đã được tính là người tu luyện.
Người ta nói rằng “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”, nhưng Pháp Luân Đại Pháp đã khiến tôi thay đổi được cái thứ gọi là “bản tính” đó, bởi vì tôi hiểu sâu sắc rằng: bản tính chân chính của con người thật sự là đồng hoá với Chân Thiện Nhẫn.
Chân: Trong thời đại ngày nay, nhiều người cho rằng khó mà trở nên chân thật, hoặc nhiều tình huống nói dối là tốt hơn, nhưng cái giá phải trả để có được cái lợi trước mắt là quá lớn. Trước mắt là mất uy tín; con người thiếu Chân sẽ luôn sống trong sự thiếu tin tưởng, nghi ngờ lẫn nhau, lúc nào cũng phải đề phòng, tạo thành hoàn cảnh sống rất căng thẳng. Ngược lại, một người thực sự chân thành đối đãi với những người xung quanh thì sẽ cảm thấy rất an toàn, bởi vì họ không sợ được - mất, hơn - thua.
Thiện: Thiện có sức mạnh rất to lớn có thể hoá giải mọi mâu thuẫn. Khi có thể tha thứ cho người khác, thiện với người khác, bạn mới có thể thực sự tha thứ cho chính mình, vì thế mới có được một tâm hồn thanh thản.
Nhẫn: Còn Nhẫn sẽ giúp bạn vượt qua được những tình huống khó khăn và khai phá năng lực của bản thân trong nghịch cảnh.
Chân – Thiện – Nhẫn có thể hoá giải những ác duyên, mang lại những điều tốt đẹp cho người thực hành được chúng. Tôi từng tưởng rằng mình cũng khá lương thiện, nhưng tôi hay nhầm lẫn sự cả nể và lợi ích nhóm là tính lương thiện. Có những lúc đối diện với cái sai của người xung quanh, tôi không chỉ ra cho họ một cách thiện ý để họ sửa đổi mà né tránh nó do ngại va chạm. Bản chất là lo cho sự an toàn của bản thân mà mặc kệ họ. Tôi cũng nhầm lẫn cho rằng mạnh mẽ là có thể lớn tiếng quát nạt người khác, giận dữ mà không thèm để ý tới hậu quả; mà không hiểu rằng đó là biểu hiện của một kẻ yếu đuối không thể kiểm soát được bản thân mình. Giờ tôi đã có thể bớt nổi cáu và bất bình, oán trách hay chỉ trích người khác.
Tôi nhớ câu nói đó trong một cuốn sách. Quả đúng là như thế, cuộc sống của tôi cũng thay đổi hoàn toàn khi thực hành theo Chân Thiện Nhẫn, vợ chồng tôi sống hoà thuận và bình an bên cạnh con gái nhỏ và mẹ. Tôi cũng nhớ có câu danh ngôn dành cho phụ nữ là: “Khi bạn hành xử giống như một quý cô hơn, thì anh ấy cũng hành xử giống như một quý ông hơn”. Nếu chúng ta chỉ muốn áp đặt cho người khác mà không sửa đổi bản thân mình thì hậu quả sẽ chỉ chuốc lấy sự thất bại.
Dù làm việc trong môi trường ngân hàng áp lực và bận rộn, nhưng từ khi có Pháp lý Chân Thiện Nhẫn trong tâm, tôi bớt chỉ trích lỗi sai của đồng nghiệp và tập trung vào tìm giải pháp. Thay vì che giấu những lỗi lầm của bản thân vì sợ mất mặt, đánh giá thì tôi sẵn sàng phơi bày ra với cấp trên để họ giúp tôi tháo gỡ. Khi bạn trở nên thẳng thắn và chân thành, không ai nỡ từ chối tha thứ cho bạn, bởi vì bản tính con người là hướng thiện.
Không còn lo lắng vụn vặt về danh lợi cá nhân, tôi làm việc vô tư và chân thành. Tôi cảm nhận là, chính vì thế đầu óc cũng trở nên sáng suốt hơn. Tôi coi mỗi ngày đi làm giống như đi học và luôn tìm thấy niềm vui trong công việc. Hàng ngày, tôi phải làm việc từ 9-10 tiếng đồng hồ thậm chí còn nhiều hơn, nhưng tôi không còn thấy mệt mỏi nữa.
Phật Pháp vĩ đại đã thay đổi hoàn toàn con người tôi mặc dù việc tu luyện cũng không dễ dàng gì. Việc sửa đổi bản thân là rất khó khăn, nhưng trong tâm tôi đã có sức mạnh từ đức tin chân chính. Tu luyện không phải điều gì đó quá xa vời, nó đơn giản là bạn sửa đổi mình mỗi ngày theo Chân Thiện Nhẫn, gột bỏ đi những điều không tốt ở trong tâm. Chứng kiến sự thay đổi của tôi và sự kiên tín vào Pháp Luân Đại Pháp, chồng tôi cũng bước vào tu luyện. Người bạn đời của tôi cũng đã tìm thấy sự thanh thản và bình an, cùng đồng hành với tôi trên đoạn đường đời ngắn ngủi này.
Vì nhiều lý do mà tới thời kỳ Mạt Pháp, lời của Thánh nhân xưa đã mai một dần theo thời gian sau hàng nghìn năm truyền lại. Con người không còn tin và hiểu được những điều cổ nhân đã dạy nên đức tin mờ nhạt dần và nó không đủ mạnh để chống lại sự trượt dốc của nhân loại.
Tôi nhớ có một nghiên cứu chỉ ra rằng, chỉ cần 10% các cá thể trong một quần thể thay đổi theo cùng một hướng tích cực, thì dần dần sẽ đem đến sự thay đổi cho 90% quần thể còn lại. Chỉ cần 10% loài người quay trở lại với Đạo Đức chân chính, thì sẽ giống như hương thơm lan tỏa tới cộng đồng. Tôi tin rằng nếu không vì cuộc bức hại với Pháp Luân Công đang diễn ra tại Trung Quốc, khiến cho rất nhiều thông tin sai lệch, bóp méo sự thật được xuất khẩu từ Trung Quốc, từ đó khiến nhiều người mất đi cơ duyên đến với Đại Pháp; thì ngày phục hưng của nhân loại chắc chắn sẽ không bị cản trở. Nhưng tôi tin, ngày tốt đẹp đó rồi cũng sẽ đến. Bởi đức tin chân chính hoàn toàn không phải sự mù quáng sùng bái thần tượng hay cảm tình nhất thời, mà thực sự là cái gốc trong mỗi con người.
Vân Hồng - Giám đốc phòng Thu hồi nợ Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam (VIB) Khối quản trị rủi ro
from Đại Kỷ Nguyên - Feed - https://www.dkn.tv/van-hoa/mot-nguoi-co-dao-duc-chinh-la-nguoi-co-con-duong-di-toi-su-tot-dep.html via https://www.dkn.tv/van-hoa/mot-nguoi-co-dao-duc-chinh-la-nguoi-co-con-duong-di-toi-su-tot-dep.html https://www.dkn.tv
0 notes
Text
Tiên Tri Cuối Cùng Thời Mạt Kiếp: Đại Chiến Chính Tà Đang Diễn Ra Ở Phương Đông - Tâm Linh Cuộc Sống
Tiên Tri Cuối Cùng Thời Mạt Kiếp: Đại Chiến Chính Tà Đang Diễn Ra Ở Phương Đông – Tâm Linh Cuộc Sống
Từ xa xưa, Trung Quốc được mệnh danh là lễ quốc chi bang, có nghĩa là quốc gia giàu lễ nghi và truyền thống. Nhưng ngày nay, khi nhắc đ���n Trung Quốc người ta đều nghĩ ngay đến hàng giả, hàng nhái, thực phẩm độc hại, mổ cướp nội tạng v.v. đa phần mọi người không có cái nhìn thiện cảm về Trung Quốc. vậy rốt cuộc vì đâu Trung Quốc trở nên xấu xa đến như thế? Hai nhà tiên tri nổi tiếng của nước Mỹ có…
View On WordPress
#cập nhật tiên tri nga ukraine mới nhất#dự ngôn bí ẩn về trung quốc#dự ngôn tiên tri#đại chiến chính tà#kiếp nạn ở trung quốc#nhà tiên tri vanga#Tâm Linh Cuộc Sống#than dong tien tri an do#thiên tai nhân họa#thư viện tâm linh#thuvientamlinh#tiên tri 2023#tiên tri mới nhất#tiên tri năm 2022#tiên tri ngày tận thế#tiên tri nostradamus#tiên tri thời mạt kiếp#tiên tri về tận thế#tiên tri về trung quốc#tlcs
0 notes
Text
Phật Di Lặc tương lai trong Phật gia và Chúa Cứu Thế của Cơ Đốc giáo là cùng một người?
Trong Kinh Thánh có lời tiên tri rằng, vào thời khắc tối hậu của nhân loại, sau khi người Israel phục quốc, Cứu Thế Chủ Messiah sẽ tới nhân gian. Còn Kinh Phật ở phương Đông nói rằng khi hoa Ưu Đàm Bà La khai nở, Phật Di Lặc tương lai sẽ hạ thế phổ độ chúng sinh. Hiện tại, những sự việc được tiên tri đã lần lượt xuất hiện, Cứu Thế Chủ của cả Đông và Tây phương phải chăng đã tới ngay bên cạnh chúng ta?
Phật là gì? Từ “Phật” trong Phật giáo thường dùng để chỉ một nhân vật có thật trong lịch sử, một đấng toàn năng đã truyền bá các Pháp lý của mình ở Ấn Độ tên là Tất Đạt Đa. Những giáo lý của Ngài chính là nền tảng khai sinh ra Phật giáo hiện nay.
Chữ Phật (Buddha) được phiên âm thành “Phù Đồ” (浮屠) hay “Phật Đà” (佛陀) là tiếng Phạn, tiếng Ấn Độ cổ. Trong quá trình Phật giáo lưu truyền về sau, người ta đã lược bớt đi chữ “Đà” và gọi Đức Thích Ca Mâu Ni là “Phật”. Do đó, ý nghĩa chân chính của chữ “Phật” chính là Giác Giả, là người đã giác ngộ, người đã thông qua tu hành mà giác ngộ. Danh từ “Chúa” ở phương Tây và “Phật” ở phương Đông là dùng để chỉ người đã giác ngộ.
Mỗi thời kỳ của lịch sử sẽ xuất hiện những vị Phật, vị Thánh Nhân xuống thế gian truyền, thuyết giảng rộng Pháp Lý cứu độ chúng sinh. Trong thời kỳ văn minh của nhân loại lần này, quá khứ khoảng hơn 2500 năm trước trên thế gian đã lần lượt xuất hiện Phật Thích Ca Mâu Ni, Chúa Jesus và những Thánh Nhân như Lão Tử, Khổng Tử…truyền dạy đạo lý cho con người và cứu độ chúng sinh. Tương lai Phật Di Lặc sẽ hạ thế độ nhân vào thời kỳ mạt pháp, thời kỳ mà đạo đức con người đã trở nên bại hoại và không còn tâm pháp để câu thúc bản thân.
Cả Kinh Phật và Kinh Thánh đều đề cập tới nhân loại thời mạt kiếp ắt sẽ có Cứu Thế Chủ giáng thế cứu vãn chúng sinh. Kinh Phật cho rằng thời mạt pháp sẽ có vị Phật tương lai là Di Lặc hạ thế cứu độ chúng sinh, còn Kinh Thánh tin rằng khi thời mạt kiếp tới, tất sẽ có Cứu Thế Chủ Messiah giáng thế cứu vãn chúng sinh. Nếu như Kinh Phật và Kinh Thánh là đáng tin cậy, thì như vậy nhân loại nhất định sẽ xuất hiện hai Cứu Thế Chủ, ngoại trừ trường hợp Di Lặc trong Kinh Phật chính là Messiah trong Kinh Thánh.
Phật Di Lặc và Messiah là cùng một người?
Cố học giả của nền giáo dục Trung Quốc, nhà Phật học, nhà phiên dịch Quý Tiện Lâm và các đồ đệ của ông đã có một cống hiến quan trọng, đó là phát hiện mối liên hệ giữa Phật gia và Cơ Đốc giáo, ấy chính là “Vị lai Phật Di Lặc của Phật gia và Cứu Thế Chủ Messiah của Cơ Đốc giáo là cùng một người”.
Theo nghiên cứu của Đại học Phục Đán Thượng Hải, vào khoảng năm 1.000 TCN, trong một vùng rộng lớn bao gồm Tây Á, Bắc Phi, Tiểu Á, lưu vực Lưỡng Hà và Ai Cập, có một thứ tín ngưỡng thịnh hành về Cứu Thế Chủ của tương lai, và Messiah trong Đạo của Chúa Jesus chính là một loại tín ngưỡng có tính đại biểu nhất. Thực ra loại tín ngưỡng này đã có mặt ngay trong kinh Cựu Ước. Tín ngưỡng Di Lặc của Ấn Độ, theo xác nhận của giới học thuật, là có tương quan mật thiết với tín ngưỡng Cứu Thế Chủ trên phạm vi toàn thế giới; do vậy xét về ảnh hưởng, tín ngưỡng Di Lặc của Ấn Độ chính là một bộ phận hợp thành của tín ngưỡng Cứu Thế Chủ. Nếu dùng ngôn ngữ đơn giản nhất mà diễn đạt, thì Di Lặc chính là Vị lai Phật, là Cứu Thế Chủ tương lai. Nguồn gốc ở Ấn Độ và phạm vi lưu truyền rộng lớn thời cổ đại của tín ngưỡng này chính là một bộ phận của tín ngưỡng vào Messiah.
Hai chữ “Di Lặc” (弥勒) trong tiếng Hán từ đâu mà đến? Thực ra, điều này liên quan đến một trong những bí mật lớn nhất của văn minh nhân loại lần này.
Theo khảo cứu từ «Quý Tiện Lâm văn tập», quyển thứ 12 “Mai Lợi Da và Di Lặc”, thì đa số nguyên bản Kinh Phật thời kỳ đầu đều là “Hồ bản”, tức dùng văn tự của ngôn ngữ Trung Á và Tân Cương cổ đại để viết, chứ không phải là chữ Phạn của Ấn Độ. Do đó, hai chữ “Di Lặc” rất có thể đến từ thứ tiếng Tocharian của Tân Cương, là dịch âm trực tiếp từ chữ “Metrak” hoặc “Maitrak”; chữ này rất có quan hệ với chữ “maitri” (từ bi, từ ái) trong tiếng Phạn, do đó “Di Lặc” dịch ý thì chính là “Từ Thị” (người có lòng từ). Vì vậy, ngay từ thời hậu Hán và Tam Quốc ở Trung Quốc, trong một lượng lớn tư liệu Phật đi��n dịch tiếng Hán đều xuất hiện đồng thời “Di Lặc” và “Từ Thị” (Bồ Tát).
Nếu quả thực như vậy, khái niệm Di Lặc xét về thời gian và bề rộng thì vượt khỏi phạm trù Phật giáo. Tại Trung Quốc, tín ngưỡng sớm nhất của dân chúng không phải là Quan Thế Âm Bồ Tát, cũng không phải là A Di Đà Phật, mà là Di Lặc Bồ Tát. Người ta phát hiện rằng, tín ngưỡng Di Lặc ngay từ đầu đã là đúc kết tinh hoa văn hóa của toàn bộ nền văn minh thế giới, chứ không chỉ hạn cuộc trong Phật giáo, ngoại trừ khái niệm về Bồ Tát ảnh hưởng sâu rộng đến văn hóa nhân loại.
Di Lặc, trong tiếng Sanskrit gọi là “Maitreya”, tiếng Pali gọi là “Metteya”, và gần như không có quan hệ gì về phát âm với hai chữ “Di Lặc” trong tiếng Hoa. Pháp sư Huyền Trang của Đại Đường trong khi phiên dịch đã phát hiện thấy điểm này, bởi vậy Huyền Trang mới nói là dịch sai, và lẽ ra nên phiên dịch thành “Mai Lợi Da”. Tuy nhiên người ta không tiếp thụ ý kiến của vị cao tăng đáng kính Huyền Trang, lại còn cố định gọi thành “Di Lặc”, và “Mai Lợi Da” đã trở thành phát minh cá nhân của pháp sư Huyền Trang.
Vị Thần mà người Tây phương chờ đợi gọi là “Messiah” trong tiếng Anh, tiếng Hán phiên thành “Di Trại Á”, và bắt nguồn từ chữ “Masiah” trong tiếng Hebrew (có lúc viết thành “Mashiach”). Tiếng Hy Lạp phiên dịch thành “Christos”, bởi vậy mới có chữ “Christ” (Cơ Đốc). “Messiah” và “Christ” về cơ bản là có nghĩa tương đương, và Tân Ước coi Chúa Cứu Thế tương đồng với Messiah của Do Thái giáo.
Hai chữ “Maitreya” và “Masiah” có âm rất gần. Trên thực tế, “Di Lặc” nguyên từ tiếng Tocharian của Tân Cương và “Messiah” nguyên từ tiếng Hebrew của Israel là một từ đồng nhất, chẳng qua ở Tây phương đọc là “Messiah”, ở Ấn Độ đọc là “Maitreya”, còn ở Trung Quốc đọc là “Di Lặc”. Tình huống ngôn ngữ này cũng rất hay gặp trong lịch sử văn minh nhân loại.
Tạo hình tượng Phật trong chùa Labrang ở Cam Túc ẩn chứa huyền cơ
Theo Kinh Phật ghi lại, Di Lặc là Phật hiệu của “vạn vương chi Vương” khi hạ xuống từ tầng tối cao vào thời mạt thế, còn Pháp Luân Thánh Vương là Pháp hiệu của “vạn vương chi Vương” khi hạ xuống Pháp giới (nhân gian gọi là Chuyển Luân Thánh Vương), do đó Phật Thích Ca Mâu Ni mới nói với các đệ tử của Ngài rằng: Pháp Luân Thánh Vương cũng được gọi là Di Lặc.
Từ bi, chói sáng, hy vọng là nội hàm tinh thần của Phật Di Lặc tương lai. Trong chùa Labrang (Lạp Bặc Lăng) thuộc huyện Hạ Hà, châu tự trị dân tộc Tạng ở miền nam Cam Túc, Trung Quốc có một vài bức tượng tiết lộ huyền cơ về Phật Di Lặc hạ thế độ nhân.
Chùa Labrang được xây vào những năm Khang Hy của triều Thanh (năm 1709), là một trong lục đại tông chủ của Cách Lỗ phái (Hoàng giáo) trong Phật giáo Tây Tạng. Nguyên tên của chùa Lạp Bặc Lăng rất dài, gọi tắt là chùa Trát Tây Kỳ, ý tiếng Hán là “chùa Cát Tường”.
Bởi vì đời thứ nhất và đời thứ hai chủ xây chùa này đều là các Phật sống thâm hiểu thiên cơ, nên cách tạo tượng của chùa Labrang cũng ẩn chứa huyền cơ, đặc biệt tạo tượng lưỡng tôn Di Lặc Đại Phật trong chùa có ý vị rất thâm thúy.
Tại hậu điện phía Tây, bên cạnh đại sảnh đường trong tự viện thờ cúng một tượng đồng Đại Phật Di Lặc mạ vàng tư thế nửa ngồi nửa đứng, hai tay Phật đặt trước ngực. Theo lời giải đáp của vị Lạt-ma hướng dẫn khách du lịch khi được hỏi về tư thế tay của Phật thì: “Đây là Di Lặc Phật đang hướng về thế gian chuyển Pháp Luân! Ngài nửa đứng nửa ngồi, ám chỉ Di Lặc Phật sắp đem Pháp Luân tới nhân gian cứu độ thế nhân”. Nghe nói nguyên danh Trát Tây Kỳ của chùa Labrang (ý Cát Tường) chính là có hàm nghĩa Pháp Luân chuyển động hiện Cát Tường.
Ở chính giữa Đại Kim Ngõa Điện thờ cúng Đại Phật Di Lặc là một tượng đồng mạ vàng từ hơn 200 năm trước, do hai đời chủ chùa này đặc biệt mời thợ thủ công từ Nepal đúc thành, tượng Phật cao 10 mét. Ngay bên dưới, phía trước mặt tượng Phật Di Lặc là một pho tượng Phật nhỏ bằng đồng thờ Phật Thích Ca Mâu Ni. Cách bài trí tượng hai vị tôn Phật, một trước một sau, một lớn một nhỏ, một cao một thấp trong cùng một tế đàn này quả thực là hiếm thấy.
Theo giải thích của vị Lạt-ma hướng dẫn khách tham quan thì: “Các bức tiểu Phật ở phía trước là Phật Thích Ca Mâu Ni và đệ tử của Ngài, còn Phật Di Lặc ở đằng sau, tay cầm Pháp Luân. Ngài là vị Như Lai có thần thông tối quảng đại, với năng lực lớn nhất trong vũ trụ; Ngài mang Pháp Luân tới cứu độ chúng sinh trong vũ trụ, tức Ngài là Đấng Cứu Thế duy nhất của chúng sinh toàn vũ trụ”. Không khó để phát hiện, cách tạo tượng đột nhiên hiện rõ Phật Di Lặc (Chuyển Luân Thánh Vương) với tầng thứ cực cao, Pháp lực cực lớn, mang theo từ bi hồng đại tới cứu độ toàn nhân loại. Cũng không phải ngẫu nhiên mà trong ngôi chùa này, điện đường thờ cúng Phật Thích Ca Mâu Ni được gọi là Tiểu Kim Ngõa Điện, còn Di Lặc Phật Điện được gọi là Đại Kim Ngõa Điện.
Thần tại cõi người
Trong Kinh Thánh, cho dù là Tân Ước hay Cựu Ước, đều tiên tri rằng Cứu Thế Chủ Messiah sẽ tới vào thời khắc cuối cùng của nhân loại. Theo truyền thuyết tôn giáo thì trước khi Cứu Thế Chủ Messiah tới nhân gian, một dấu hiệu là người Israel phục quốc, sau đó người ta có thể nhìn thấy Cứu Thế Chủ Messiah.
Sau khi đại chiến thế giới thứ II kết thúc, người Israel sau khi trải qua mấy nghìn năm lưu lạc trên thế giới cuối cùng đã phục quốc. Ngày 13 tháng 5 năm 1948, trong đại hội Do Thái, Jerusalem đã tuyên bố bản tuyên ngôn về “Israel phục quốc”. Tuy xã hội chủ lưu Tây phương là Cơ Đốc giáo, Thiên Chúa giáo, v.v. nhưng Israel là Do Thái giáo, bởi vậy nhằm khống chế Jerusalem (một điều kiện để Thần trở lại), trong hơn nửa thế kỷ qua, xã hội chủ lưu Tây phương đã một mực duy trì giúp đỡ Israel. Về điểm này, họ đã hoàn toàn gác sang một bên sự phân tranh tôn giáo trong lịch sử.
Tại Đông phương cũng có ghi chép về một tín hiệu trọng đại báo hiệu Phật Di Lặc tương lai (Chuyển Luân Thánh Vương) hạ thế. Quyển 8 Kinh Phật «Huệ Lâm Âm Nghĩa» ghi rõ: “Ưu Đàm Bà La hoa là loài hoa linh dị mang điềm lành, tức Thiên hoa, trên thế gian không có. Khi Như Lai hạ thế, Kim Luân Vương xuất hiện ở thế gian, thì nhờ đại phúc đức của Ngài mà xuất hiện loài hoa này”.
Kinh Phật «Vô Lượng Thọ» cũng ghi lại như sau: “Ưu Đàm Bà La hoa là dấu hiệu báo điềm lành”. Còn theo quyển 4 kinh «Pháp Hoa Văn Cú» thì: “Ưu Đàm hoa, có nghĩa là may mắn linh thiêng. Ba nghìn năm mới nở một lần, khi nở là Kim Luân Vương xuất hiện”.
Kể từ năm 1992, tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan, Hồng Kông, Malaysia, Singapore, Australia, các tiểu bang nước Mỹ, Canada, các tỉnh Trung Quốc, người ta liên tục phát hiện hoa Ưu Đàm Bà La thánh khiết khai nở. Chúng ta có thể tìm thấy trên mạng và chiêm ngưỡng phong thái cao quý thánh khiết của loài hoa này. Hoa Ưu Đàm không có rễ, không có lá, không có nước, không có đất; có thể mọc trên thủy tinh, sắt thép, tượng Phật, lá cây, hộp giấy và cả băng keo, có hoa mọc hơn 1 năm nhưng vẫn sinh cơ bừng bừng. Từ xưa tới nay chưa gặp bao giờ, nay các nhà thực vật học đã tận mắt chứng kiến. Năm nay (2011), theo Phật ký là năm 3038, hoa Ưu Đàm Bà La đã thịnh khai tại các nơi trên thế giới, thực đúng là thiên thượng ban tặng.
Cách tạo tượng dân gian và dự ngôn hiển rõ thiên cơ
Trong dân gian Trung Quốc bảo lưu một phương thức tạo hình Di Lặc, một pho tượng Phật cười ngạo nghễ, vây quanh có 18 tiểu hài tử, nô đùa muôn hình muôn vẻ, được gọi là “Thập bát tử Di Lặc”. Thế nhưng “Thập bát tử” (十八子) hợp thành một chữ “Lý” (李), tức báo trước Phật Di Lặc hạ thế truyền Pháp độ nhân vào thời mạt kiếp với phàm thân có họ là “Lý”. Truyền thuyết và cách tạo tượng Di Lặc thập bát tử này đã lưu truyền mãi cho đến ngày nay.
Dự ngôn «Cách Am Di Lục» của Hàn Quốc tiên tri: “Hà vi Thánh nhân, Mộc Tử tính thị” (“Thánh nhân là ai, họ là Mộc Tử”; “Mộc Tử” (木子) ghép thành chữ “Lý” (李)), thuộc Thỏ, tháng Tư xuất sinh tại phía Bắc tam bát cấp (vĩ tuyến 38 độ Bắc phân chia Nam-Bắc Triều Tiên), Tam Thần sơn hạ (dưới chân núi Tam Thần sơn, tức Công Chủ Lĩnh dưới chân núi Trường Bạch)… Vị Thánh nhân này là “vương trung chi Vương” (Vua của các vua) trên thiên thượng, tức Pháp Luân Thánh Vương, lần này hạ phàm nhân gian gọi là Di Lặc Phật.
Lưu Bá Ôn cũng từng tiên tri trong dự ngôn «Thôi Bi Đồ» rằng: “Lúc ấy Di Lặc Phật thấu hư đến Nam Hạp Phù Đề thế giới trung thiên tại Trung Quốc Kim Kê mục, phụng Ngọc Thanh thời niên kiếp tận, Long Hoa hội Hổ, Thỏ chi niên đến trung thiên, nhận Mộc Tử vi tính”. Nghĩa là Phật Di Lặc tương lai sẽ chuyển sinh đến “trung thiên Trung Quốc” vào năm Thỏ, cụ thể là giáng sinh tại vị trí “mắt Gà Vàng” (Kim Kê mục) trên bản đồ Trung Quốc (chỉ tỉnh Cát Lâm), lấy “Mộc Tử” (Lý) làm họ.
Ngày 13 tháng 5 năm 1951, tức ngày mùng 8 tháng Tư theo Nông lịch, người sáng lập Pháp Luân Công, ông Lý Hồng Chí đản sinh tại thành phố Công Chủ Lĩnh, tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc, thuộc Thỏ, ngày này chính là “Lễ Phật đản” trong Phật giáo. Đồng thời ngày này cũng chính là ngày thứ 50 tính từ Lễ Phục Sinh năm 1951, gần như là “Lễ Thánh Linh giáng lâm” trong Cơ Đốc giáo. Tới đây, một số người thông hiểu thiên cơ đã biết được vì sao “Lễ Phục Sinh”, một ngày lễ trọng yếu của tôn giáo Tây phương lại được gọi là “Easter”, tức “người phương Đông”. Đồng thời, cũng hiểu vì sao người ta vẫn duy trì tập tục cổ xưa là Thỏ Phục Sinh (Thánh nhân thuộc Thỏ) và trứng Phục Sinh (có quan hệ với Kim Kê Trung Quốc) để kỷ niệm hoạt động này. Vào Lễ Giáng Sinh ở phương Tây, nhà nào cũng chuẩn bị và trang trí một cây thông Noel (thuộc Mộc), còn ám chỉ Thần ý huyền diệu khiến người ta kinh ngạc hơn nữa.
Nostradamus người Pháp trong tác phẩm «Các Thế Kỷ» đã tiên tri chính xác rất nhiều nhân vật và sự kiện trọng đại phát sinh tại các nơi trên thế giới mấy trăm năm qua, trong đó Các Thế Kỷ II, Khổ 29 đã dự ngôn minh xác về Cứu Thế Chủ cứu độ chúng sinh tại nhân loại vào thời mạt thế.
Các Thế Kỷ II, Khổ 29
Người phương Đông sẽ rời chỗ của Ngài, Vượt qua dãy núi Apennine để trông thấy nước Pháp: Ngài sẽ bay vượt qua bầu trời, nước và tuyết, Đánh thức mọi người bằng cây gậy Thần của Ngài.
Bài thơ này chính là tiên tri người sáng lập Pháp Luân Công, ông Lý Hồng Chí, sau khi kết thúc truyền Pháp tại Trung Quốc Đại Lục sẽ sang Tây phương và truyền Pháp tại rất nhiều quốc gia Tây phương, khiến Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền toàn thế giới. Trong Các Thế Kỷ X, Khổ 75, Nostradamus cũng đề cập đến “Thần Hermes vĩ đại” để hình dung người sáng lập Pháp Luân Công hồng truyền Đại Pháp chính là giảng và truyền Đạo vũ trụ của Thần Phật cho nhân loại. Mà “Thần Hermes vĩ đại” có một cây thần trượng, dùng để đánh thức người đời, do đó câu thứ tư bài thơ trên mới nói “Đánh thức mọi người bằng cây gậy Thần của Ngài”. Khi Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền, mỗi cá nhân trên thế giới đều bị đánh động, và thái độ của họ đối với Đại Pháp sẽ quyết định tương lai của chính họ.
Theo Kinh Phật ghi lại, Chuyển Luân Thánh Vương cũng như Đức Phật, có 32 tướng, 7 bảo; Ngài không dùng vũ lực, mà dùng chính nghĩa để xoay chuyển bánh xe Chính Pháp, cuối cùng trở thành vị Vua lý tưởng của thế giới. Bất kể theo Phật giáo, Cơ Đốc giáo, Nho giáo, chỉ cần khoan dung với mọi người, thì đều có thể có duyên gặp Chuyển Luân Thánh Vương. Thế nhưng việc tốt hay gặp trắc trở, Thần đến thật rồi, mà con người vẫn nghi hoặc không tin.
Thế nhân trong mê bất tỉnh
Theo tục truyền, Bố Đại hòa thượng là hóa thân thế tục của Phật Di Lặc. Vào ngày 2 tháng 3 năm Trinh Minh thứ 2 triều Hậu Lương (năm 916 SCN), trước khi tạ thế, ông lưu lại bài kệ khắc trên bia đá trong chùa Nhạc Lâm như sau: “Di Lặc chân Di Lặc, Phân thân thiên bách ức, Thời thời thị thời nhân, Thời nhân tự bất thức” (Di Lặc ấy là Di Lặc thật, Phân thân hàng trăm nghìn vạn, Lúc nào cũng thị hiện người đời, Chỉ bởi người không tự biết).
Bài kệ trước khi viên tịch của Bố Đại hòa thượng đã nói với người đời rằng, khi Phật Di Lặc tương lai hạ thế độ nhân, bất chấp chân tướng không ngừng triển hiện, thế nhân vẫn không thể đối diện với hiện thực.
“Phúc âm John” trong Kinh Thánh viết (1:10–11): “Ngài đã vào thế gian, thế gian đã được tạo nên bởi Ngài, nhưng thế gian chẳng nhận biết Ngài. Ngài đã đến với dân Ngài, nhưng dân Ngài không tin nhận Ngài”. Kinh Thánh còn nói khi Cứu Thế Chủ giáng thế cứu người, ánh sáng của Ngài sẽ chiếu rọi thế giới trong nháy mắt, tựa như tia chớp từ trời tỏa sáng không trung. Thế nhưng người đời không nhận Ngài là Đấng Cứu Thế, lại để Ngài phải chịu khổ không ít, thậm chí còn bị thế nhân không rõ chân tướng gièm pha.
Trong «Các Thế Kỷ» có một bài thơ nổi tiếng minh xác về thời gian, đó là Các Thế Kỷ X, Khổ 72 tiên tri về đại sự kiện:
Vào năm 1999, tháng 7, Để Đại vương Angoulmois phục sinh, Đại vương Khủng bố sẽ từ trên trời xuống, Đến thời trước và sau khi Mars thống trị thiên hạ, Nói là để có cuộc sống hạnh phúc cho mọi người.
Ngày 20 tháng 7 xác thực là một ngày đặc thù, được «Các Thế Kỷ» tiên tri là Giang Trạch Dân, kẻ chống Chúa, sẽ phát động cuộc đàn áp toàn diện đối với những người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp. Cuộc đàn áp gây bao đổ máu, phỉ báng lừa dối, tạo ma nạn tại Trung Nguyên, mê hoặc thế nhân khiến họ phạm tội. Đây chính là trận đại chiến Chính-tà tối hậu Armageddon giữa Chiên Con và thú mà “Khải Huyền” nhắc tới, đến nay đã 12 năm. Đối diện với ma nạn, vô số Thánh đồ đã kiên nhẫn giảng rõ sự thật để thực hiện sứ mệnh cứu độ chúng sinh. Đảng Cộng sản Trung Quốc ngang nhiên chống lại Phật Pháp “Chân-Thiện-Nhẫn” của vũ trụ, đã rơi vào vũng bùn trong cuộc đọ sức Chính-tà này. Câu sấm “Cửu thập cửu niên thành đại thác” (Năm 99 thành sai lầm lớn) của dự ngôn «Thôi Bối Đồ» triều Đường đã trở thành sự thực.
Xem thêm: Khi đức Phật hạ thế, làm cách nào để nhận ra Ngài?
Cuối cùng hướng về Thần
Kinh «Trường A Hàm», quyển 18 viết: “Chuyển Luân Thánh Vương xuất thế… thời các tiểu vương tại Đông phương thấy Đại Vương, đều dâng châu báu quy thuận. Ngoài ba phương Nam, Tây, Bắc đều như vậy”.
“Khải Huyền” của Kinh Thánh viết (7:9–10): “Sau những việc đó, kìa, tôi thấy một đám đông rất lớn, không ai có thể đếm được, từ mọi quốc gia, bộ lạc, dân tộc, và ngôn ngữ đứng trước ngai và trước Chiên Con; ai nấy đều mặc áo choàng trắng và tay cầm cành thiên tuế. Họ cùng nhau cất tiếng hô vang rằng, ‘Ơn cứu rỗi thuộc về Đức Chúa Trời chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và thuộc về Chiên Con’.”
Cho dù phải trải qua bao nhiêu ma nạn, cuối cùng con người cũng đều hướng về Thần; những người này đến từ các phương, các nước, các dân tộc. Kinh Phật và Kinh Thánh đều nhất trí khi miêu tả điểm này.
Tân Thiên, tân Địa, tân nhân loại
Sau khi Cứu Chủ giáng thế cứu vãn chúng sinh, nhân gian sẽ nghênh đón tân Thiên, tân Địa, tân nhân loại.
Kinh «Di Lặc Hạ Sinh» viết: “Quốc thổ đều phú thịnh, vô phạt vô tai ách; nam nữ đều do thiện nghiệp sinh. Đất không cây gai, chỉ sinh cỏ xanh, thuận theo gót chân, mềm như tơ tằm. Tự nhiên xuất lúa thơm, mỹ vị đều sung túc. Cây cối sinh y phục, màu sắc đều trang nghiêm; cây cao ba tòa nhà, hoa quả thường dư dật. Lúc ấy người trong nước, đều thọ tám vạn năm, không có khổ bệnh tật, đầu óc thường an lạc.”
“Isaiah” của Kinh Thánh viết (65:19–20): “Tiếng than khóc sẽ không còn nghe trong thành ấy; Tiếng khóc than sẽ vĩnh viễn không còn. Trong thành ấy trẻ thơ sẽ không chết yểu; Không người già nào không hưởng trọn tuổi thọ của mình; Vì ai trăm tuổi mà qua đời sẽ bị xem là chết yểu; Người chưa được bách niên mà phải lìa đời sẽ bị xem là bị nguyền rủa”. “Isaiah” (65:23–25): “Chúng sẽ không lao động một cách luống công; Chúng sinh con ra chẳng phải để chuốc lấy âu sầu, Vì con cháu chúng sẽ là dòng dõi của những người được CHÚA ban phước, Và dòng dõi của chúng tiếp theo chúng nữa. … Chúng sẽ không gây tổn hại hay phá hoại trong khắp núi thánh của Ta,’ CHÚA phán vậy”. “Khải Huyền” của Kinh Thánh cũng miêu tả tân Thiên, tân Địa như sau (22:2): “Giữa quảng trường của thành, nơi rẽ ra của hai nhánh sông, có một cây sự sống sinh trái mười hai đợt, mỗi tháng một đợt, và lá của cây ấy được dùng để chữa lành các dân”.
Bởi vậy, sau khi trải qua trận đại chiến Chính-tà này, những người có đạo nghĩa, duy hộ Phật Pháp sẽ được lưu lại và có phúc. Họ sẽ trường thọ an lạc, vô phạt vô tai, hoa quả sung túc, mỹ vị phong phú, chung sống hòa thuận, không tranh không đấu, nhân loại từ đó tiến nhập vào kỷ nguyên mới.
Theo Pure Insight Quý Khải
Có thể bạn quan tâm:
Originally published at www.dkn.tv.
from Stories by Đại Kỷ Nguyên ĐKN on Medium https://ift.tt/2M2tCJ2 via IFTTT
0 notes
Text
Tiểu sử Đại thi hào Nguyễn Du
Coi bài nguyên văn tại : Tiểu sử Đại thi hào Nguyễn Du
Nguyễn Du là nhà thơ nhân đạo lỗi lạc với tấm lòng sâu sắc, bao dung, đồng thời ông đã dùng ngòi bút phê phán hiện thực mạnh mẽ, sắc bén. Những sáng tác của Nguyễn Du là sự kết tinh những thành tựu chữ Hán và chữ Nôm của dân tộc, tổng hợp tinh hoa của nhiều thể loại văn học để sáng tác Truyện Kiều. Nguyễn Du đã có công lớn trong việc đưa ngôn ngữ văn học Tiếng Việt lên trình độ điêu luyện, cổ điển. Từ đó ông đáng được suy tôn danh hiệu Đại thi hào dân tộc và Danh nhân văn hóa thế giới.
Tiểu sử Đại thi hào Nguyễn Du
Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, sinh ngày mồng 3 tháng 1 năm (1766) tức ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tại phường Bích Câu - Thăng Long. Quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình quý tộc, nhiều đời làm quan to dưới triều vua Lê, chúa Trịnh. Đó là một gia đình có truyền thống yêu chuộng văn chương và nghệ thuật.
Cha là ông là Nguyễn Nghiễm, sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên tự Hy Di, hiệu Nghi Hiên, có biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tức Thượng thư bộ hộ triều Lê. Mẹ là bà Trần Thị Tần (1740 - 1778), con gái một người làm chức Câu kế, quê làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông Ngàn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, bà có tài hát xướng. Năm Đinh Hợi (1767), khi Nguyễn Du mới một tuổi, Nguyễn Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo, Hàm tòng nhất phẩm, tức Xuân Quận công nên Nguyễn Du thời đó sống trong giầu sang phú quý.
[caption id="attachment_11084" align="aligncenter" width="400"] Đại thi hào Nguyễn Du.[/caption]
Cuộc đời Đại thi hào Nguyễn Du
Dòng tộc của Nguyễn Du có truyền thống khoa hoạn nhiều đời, nổi bật nhất là ở thời Lê mạt. Cuộc đời của thi hào họ Nguyễn trải qua nhiều thăng trầm, thời gian giàu sang phú quý “chẳng tày gang”, ông đã phải chịu kiếp đời gian truân lưu lạc. Mồ côi cả cha lẫn mẹ khi chỉ mới 13 tuổi là một mất mát lớn về tinh thần đối với Nguyễn Du. Những biến chuyển dữ dội của xã hội nửa phong kiến nửa cuối thế kỷ XVIII đã làm mất đi gốc rễ quý tộc của gia đình Nguyễn Du. Ông bắt đầu cuộc sống nương tựa này đây mai đó sau khi chứng kiến hoàn cảnh ly tán của gia đình.
Cũng từ đây, Nguyễn Du bắt đầu từ bỏ phẩm chất quý tộc, bước chân vào lối sống bình dân cơ cực, từ bỏ tư tưởng lập công danh và rời xa con đường hoạn lộ. Tuy nhiên, mong muốn sống cuộc sống ẩn dật, nhàn hạ của Nguyễn Du khép lại sau khi ông đỗ kỳ thi Hương vào năm 1783. Nguyễn Du lấy vợ là con gái của Đoàn Nguyễn Thục, đồng thời được tập ấm chức Chánh thủ hiệu từ người cha nuôi họ Hà. Từ đây, con đường hoạn lộ của Nguyễn Du vô cùng hanh thông khi liên tiếp giữ các chức quan: tri huyện, tri phủ, Đông các đại học sĩ (ngũ phẩm), tước Du Đức hầu, Cai bạ (tứ phẩm), Cần chánh điện học sĩ (chính tam phẩm), Hữa tham tri bộ Lễ (tòng nhị phẩm).
Năm Giáp Ngọ (1774), cha Nguyễn Du được phong chức Tể tướng, cùng Hoàng Ngũ Phúc đi đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Từ thời gian này Nguyễn Du chịu nhiều mất mát: Năm 1775 anh trai cùng mẹ là Nguyễn Trụ (sinh 1757) qua đời, Năm 1776 (Bính Thân) cha Nguyễn Du qua đời, Năm 1778 (Mậu Tuất) bà Trần Thị Tần, mẹ Nguyễn Du qua đời. Cũng trong năm này, anh thứ hai của Nguyễn Du là Nguyễn Điều (sinh năm 1745) được bổ làm Trấn thủ Hưng Hóa.
Năm Canh Tý (1780), Nguyễn Khản là anh cả của Nguyễn Du đang làm Trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu loạn trong Vụ án năm Canh Tý, bị bãi chức và bị giam ở nhà Châu Quận công. Lúc này Nguyễn Du được một người thân của Nguyễn Nghiễm là Đoàn Nguyễn Tuấn đón về Sơn Nam Hạ (Nam Định) nuôi ăn học. Năm Nhâm Dần (1782) Trịnh Sâm mất, Kiêu binh phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa. Hai anh của Nguyễn Du là Nguyễn Khản được làm Thượng thư bộ Lại ( tức Toản Quận công), còn Nguyễn Điều làm Trấn thủ Sơn Tây.
Năm Quý Mão (1783) Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu Tam trường (Tú tài). Ông lấy vợ là con gái Đoàn Nguyễn Thục và ông được tập ấm chức Chánh thủ hiệu quân hùng hậu của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên. Cũng trong năm này anh cùng mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Đề (sinh 1761) đỗ đầu kỳ thi Hương ở điện Phụng Thiên (cử Nhân) và Nguyễn Khản đầu năm thăng chức Thiếu Bảo, cuối năm thăng chức Tham tụng. Tháng 2 năm (1784), kiêu binh nổi dậy đưa hoàng tôn Lê Duy Kỳ lên làm thái tử. Tư dinh của Nguyễn Khản ở phường Bích Câu, Thăng Long bị phá, Nguyễn Khản phải trốn lên ở với em là Nguyễn Điều đang là trấn thủ Sơn Tây. Đến năm 1786 thì Nguyễn Khản bị mắc bệnh rồi chết ở Thăng Long. Năm 1789 Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Đoàn Nguyễn Tuấn hợp tác với nhà Tây Sơn, giữ chức Thị lang bộ Lại. Lúc này Nguyễn Du về ở quê vợ (Quỳnh Côi, Thái Bình).
Tháng mười, năm Tân Hợi (1791), anh thứ tư cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh do chống Tây Sơn nên bị bắt và bị giết, dinh cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền Hà Tĩnh bị Tây Sơn phá hủy. Năm 1793 Quý Sửu, Nguyễn Du về thăm quê Tiên Điền và đến cuối năm ông vào kinh đô Phú Xuân thăm anh là Nguyễn Đề đang làm thái tử ở viện cơ mật và anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn. Năm 1794 Giáp Dần, Nguyễn Đề được thăng Tả phụng nghi bộ Binh và vào Quy Nhơn giữ chức Hiệp tán nhung vụ. Đến năm 1795 Nguyễn Đề đi sứ sang Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long nhà Thanh, đến năm 1796 trở về được thăng chức Tả Đồng Nghị Trung Thư Sảnh.
Mùa Đông năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du trốn vào Gia Định theo Nguyễn Ánh, nhưng bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An. Sau khi được tha ông về sống ở Tiên Điền. Trong thời gian bị giam ông có làm thơ My trung mạn hứng (Cảm hứng trong tù). Mùa thu năm Nhâm Tuất (1802), Vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn. Nguyễn Du ra làm quan Tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Mấy tháng sau thăng Tri Phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng ( nay thuộc Hà Nội ). Năm 1803, Nguyễn Du được cử lên ải Nam Quan tiếp sứ nhà Thanh sang phong sắc cho vua Gia Long. Năm 1805 Ất Sửu ông được thăng Đông Các Đại Học Sĩ (hàm Ngũ phẩm), tức Du Đức hầu và vào nhận chức ở kinh đô Phú Xuân. Năm 1807 được cử làm giám khảo kỳ thi Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm 1808 ông xin về quê nghỉ. Năm 1809 ông được bổ chức Cai bạ ( hàm Tứ phẩm ) ở Quảng Bình. Năm Quý Dậu 1813 ông được thăng Cần chánh điện học sĩ và được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh. Năm 1814 ông đi sứ về, được thăng Hữu tham chi bộ Lễ (hàm Tam phẩm). Năm Bính Tý (1816), anh rể Nguyễn Du là Vũ Trinh vì liên quan đến vụ án cha con Tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày vào Quảng Nam.
Năm 1820 (Canh Thìn) Gia Long qua đời Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong, nhưng chưa kịp đi thì ông bị bệnh dịch chết ngày mồng 10 tháng 8 năm Canh Thìn (18-9-1820) thọ 54 tuổi. Mộ ông nguyên táng tại làng An Ninh, huyện Hư��ng Trà ( gần sau chùa Thiện Mụ). Năm Giáp Thân (1824), người ta cải táng ông và đưa về quê nhà Tiên Điền, Hà Tĩnh.
Năm 1965 ông được Hội đồng hòa bình thế giới của UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới và quyết định kỉ niệm trọng thể nhân dịp 200 năm năm sinh của ông.
Nguyễn Du đã sống một cuộc đời bi kịch. Xuất thân trong một gia đình quý tộc giàu sang, thế mà cơn lốc lịch sử đã hất đổ hết lầu son gác tía, đẩy ông vào cuộc đời sống lay lắt, lưu lạc, tha hương. Nhưng bi kịch lớn nhất là từng khao khát một sự nghiệp vẫy vùng cho phỉ chí, mà rút cuộc phải chấp nhận cuộc đời triền miên buồn chán, không có một hoạt động say sưa và nhất quán vì lý tưởng nào cả. Nguyễn Du đã sống như một người dân thường giữa thế gian và nhờ thế ông thông cảm sâu xa với mọi kiếp người bị đầy đọa. Nguyễn Du nhìn đời với con mắt của một người đứng giữa dông tố cuộc đời và điều đó khiến tác phẩm của ông chứa một chiều sâu chưa từng có trong văn học Việt Nam trung đại.
Tác phẩm Đại thi hào Nguyễn Du
Nguyễn Du đã để lại một di sản văn chương đồ sộ với những tác phẩm kiệt xuất, ở thể loại nào ông cũng đạt được sự hoàn thiện ở trình độ cổ điển.
Có thể nói Đại thi hào Nguyễn Du được tạo nên từ nhiều yếu tố từ gia đình, hoàn cảnh sống và cả chính bản thân ông. Gia đình với cội rễ quý tộc với truyền thống làm quan và sáng tác văn chương phần nào đã nuôi lớn hồn thơ trong ông. Với trái tim nhân hậu, khi chứng kiến hoàn cảnh loạn lạc của xã hội giữa các cuộc chiến tranh của các tập đoàn phong kiến, ông dành cho nhân dân sự đồng cảm và thương xót sâu sắc gửi vào những tác phẩm văn học, vừa để phản ánh thực trạng, vừa thể hiện tấm lòng bao la của Nguyễn Du. Quan trọng hơn hết, chính trái tim giàu cảm xúc và tài năng thiên bẩm đã tạo nên một thi hào lớn của dân tộc vang danh sử sách nước nhà và thế giới.
Thơ chữ Hán: Nguyễn Du có 3 tập thơ: Thanh Hiên thi tập gồm: 78 bài làm lúc ông đang sống lẩn tránh ở quê vợ và quê nhà Nghi Xuân ( 1786 – 1804). Nam trung tạp ngâm gồm: 40 bài là tập thơ sáng tác lúc ra làm quan với triều Nguyễn (1805 – 1813). Bắc hành tạp lục gồm: 132 bài làm lúc phụng mệnh vua dẫn đầu đoàn đi sứ Trung Quốc ( 1813 – 1814), tổng cộng 250 bài. Thơ chữ Hán có những kiệt tác như: Đọc Tiểu Thanh kí, Bài ca những điều trông thấy ( Sở kiến hành), Bài ca người gảy đàn đất Long Thành ( Long Thành cầm giả ca), Người hát rong ở Thái Bình ( Thái Bình mại ca giả), Chống lại bài “ Chiêu hồn” ( Phản “chiêu hồn”)…
Thơ chữ Nôm: Nguyễn Du có hai kiệt tác Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) gồm 3254 câu thơ lục bát và Văn tế thập loại chúng sinh gồm 184 câu viết theo thể song thất lục bát. Ngoài ra, ông còn có một số tác phẩm đậm chất dân gian như Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu và bài vè Thác lời trai phường nón.
Nguồn: Tổng hợp lại từ Wiki
0 notes
Photo
ĐẠI SỰ NHÂN DUYÊN !!!. Âm Dương Vật Lý cõi Ta Bà Suy nghĩ việc làm “nghiệp” tạo ra Thiện nghiệp, Ác nghiệp còn Luân Chuyển Địa Ngục, Thiên Đàng... bởi chấp Ta !. Huyễn Thân “Ngũ Đại” mãi kêu ca Đói khát, nóng lạnh... khổ khổ đa Tánh Người tham, tưởng... gieo Nhân Quả Vô minh che lấp mãi vọng Tà !. Tỷ đời triệu kiếp khóc oa oa Sanh lão bệnh tử “định luật” mà Nghiệp quả trả vay không đoạn dứt Quy Luật Vật Lý chẳng buông tha !. Mỗi mười ngàn năm Phật “hiện” ra Chỉ dạy phương cách trở về Nhà Y Pháp Như Lai Thiền Thanh Tịnh Vượt ngoài Tam Giới, thoát Ta Bà !. Huyền Ký Giáo Lý Phật Thích Ca Chùa Thơ Tân Diệu phổ truyền ra Sỹ Hiền hoan hỷ đồng chào đón Cốt Tủy Thiền, Đạo Phật Tinh Hoa !. Diệu Pháp Liên Hoa “Phẩm” đầu tiên Phật ra đời “Đại Sự Nhân Duyên” Khai Thị Ngộ Nhập Phật Tri Kiến Giúp “Người” khai mở Trí Tự Nhiên !. Thời Mạt Thượng Pháp phổ Đạo Thiền Giúp cho Nhân Loại hết đảo điên Học hành thấu đáo Thiền Tông Học Rõ thông Công Thức thoát Trần Miền !. Vạn sự trên đời cứ tùy duyên Vô trụ danh lợi sắc tình tiền Tổ quốc, Gia đình tròn bổn phận Ông Bà, Cha Mẹ “hiếu vi tiên” !. Nước Việt Nam hữu phúc đại duyên Vua Trần Nhân Tông Ngộ Đạo Thiền Pháp Loa, Huyền Quang đều lãnh hội Tam Tổ Trúc Lâm mãi lưu truyền !. Truyền Đăng tục diện Pháp Diệu Huyền Quyết chí mãnh liệt chớ ngã nghiêng Tri ân Phật, Tổ...Thầy truyền Đạo Giác Ngộ Giải Thoát, Nhứt Tự Thiền !!! ./. NAM MÔ GIÁO CHỦ TA BÀ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT CANADA, ngày 06-08-2020 Phật Gia Châu Đạo Đức. https://www.instagram.com/p/CbFHSVTrlIJ/?utm_medium=tumblr
0 notes
Text
Bí ẩn lời tiên tri kỳ lạ của đại sư Tây Tạng hơn 1000 năm trước về tương lai nhân loại
Hơn 1000 năm trước đây, một đại sư của Ấn Độ và của Mật giáo Tây Tạng đã thấy trước những sự kiện sẽ diễn ra trong thời đại ngày nay, như: Thiên tai xảy ra khắp nơi, nạn đói và dịch bệnh tràn lan, cuộc xâm lăng Tây Tạng, đền chùa và tượng Phật bị phá hủy, các tu sĩ bị sát hại... Đối chiếu với ngày nay, có thể thấy đó đều là những dự ngôn chuẩn xác lạ thường.
Trước khi Đức Phật Thích Ca nhập niết bàn tại Thánh địa Kushinagar, ngài đã nói với các đệ tử của mình rằng:
“Trong thế gian vô thường này chúng sinh không thể tránh được cái chết, giờ đã tới lúc ta phải ra đi. Nhưng đừng than khóc nữa, vì 12 năm sau khi ta lìa thế gian, tại hồ Dhanakosha ở góc tây bắc của xứ Urgyan, sẽ có một đấng thông thái và đầy quyền năng sinh ra trong một đóa hoa sen. Người đó sẽ được gọi là Liên Hoa Sinh và truyền bá Mật giáo”.
Đấng thông thái mà Phật Thích Ca Mâu Ni nhắc đến chính là Đại sư Liên Hoa Sinh, người truyền bá Phật giáo sang Tây Tạng và được các đệ tử tôn kính gọi là “Đức Phật thứ hai”.
[caption id="attachment_214341" align="alignnone" width="678"] Đại sư Liên Hoa Sinh. (Ảnh: Wikipedia)[/caption]
Truyền thuyết về Đại sư Liên Hoa Sinh
Tương truyền, Đại sư Liên Hoa Sinh là một hóa thân của Phật A Di Đà. Ngài sinh ra trong một đóa sen ở giữa Hồ Ngọc (hồ Dhanakosha) thuộc xứ Urgyan, phía tây của Bodhgaya (tức Bồ Đề Đạo Tràng). Ngay từ khi sinh ra, Liên Hoa Sinh đã mang thần thái của một đấng giác ngộ, sớm thông tuệ các giáo lý Phật Pháp. Ngài đã được vua Indrabodhi nhận làm con trai và trao quyền kế vị vương quốc.
Thế nhưng, khi đã đạt tới đỉnh cao của quyền lực thế gian, Liên Hoa Sinh nhận ra rằng vạn vật trong cõi vô thường chỉ là hư ảo. Ngài đã quyết định từ bỏ ngai vàng để xuất gia tu hành. Cũng trong những năm tháng ấy, đại sư đã nhiều lần sử dụng thần thông, nhiếp phục ma quái, và đẩy lùi thiên tai, để lại nhiều truyện thần thoại cho đời sau. Vì vậy mà người ta còn gọi ngài là "Đạo sư quý báu", “Quỹ Phạm Sư Bảo”, hay “Sư Tôn Bảo”.
Điều đặc biệt là tất cả những lời dạy của Đại sư Liên Hoa Sinh đã được một đệ tử của ngài là Đức bà Yeshe Tsogyal, người có trí nhớ kỳ diệu, chi chép lại trong Kinh Dakini. Cuốn sách này đã được cất giấu và chỉ được hậu thế tìm ra cách nay khoảng 500 năm. Đoạn trích dẫn trong ngoặc kép dưới đây là lời tiên tri về thời mạt pháp, tức thời đại ngày nay của chúng ta:
Dự ngôn về thời mạt pháp
Khi vị vua bảo hộ Mật giáo ở Tây Tạng tên là Trisondetsen hỏi đức Liên Hoa Sinh về thời Mạt pháp, ngài đã trả lời rằng:
Sư tăng vô đạo
“Khi thời mạt pháp đi dần tới nạn lửa cuối cùng, tuổi thọ của kiếp người giảm và bóng tối dày đặc hơn, nhưng con đường sa đọa vẫn còn được kiềm chế khi người ta vẫn còn nghe lời Phật và vẫn còn theo Đạo Pháp.
Vào khoảng cuối thời hắc ám này, khi tuổi thọ giảm từ 65 xuống 55, còn tính vị kỷ của người ta tăng mà không giảm, thì những tình trạng xấu sẽ thắng thế, báo trước sự hủy hoại của Đại Bảo Tháp (Đại Bảo Tháp là một hình ảnh ẩn dụ, có thể hiểu nôm na là tín tâm của nhân loại đối với Phật Pháp - NV), đó là:
Người tại gia đến ở đầy chùa và đánh nhau trước bàn thờ. Đền chùa được dùng làm lò sát sinh. Các vị ẩn tu trong hang núi trở về cày ruộng. Các Thiền giả sẽ đi buôn. Bọn trộm cướp thì có của cải và gia súc. Tu sĩ trở thành người tại gia. Còn các sư trưởng thì trở thành giặc cướp, trộm đạo.
Trật tự trở thành hỗn loạn, biến thành hốt hoảng lan nhanh như lửa cháy rừng. Người hư hỏng và vị kỷ trở thành lãnh tụ, còn các sư trưởng trở thành sĩ quan quân đội chỉ huy các tu sĩ quân nhân của họ. Các nữ tu giết con hoang của mình. Có những người phải chứng kiến cảnh cơ nghiệp và gia sản của mình bị cướp đoạt. Bọn mị dân ác độc và thô lỗ trở thành các lãnh đạo địa phương, còn các cô gái thì dạy trẻ con ở các trường học. Phù thủy Bon lớn tiếng đến nỗi Thiền giả trong am thất cũng nghe thấy, và các đền chùa bị cướp bóc.
Kinh sách của chư Phật, tượng Phật, tranh ảnh và các Tháp bị xâm phạm, bị đánh cắp và mua bán với giá ngoài chợ, không ai nhớ tới giá trị thật của những vật này. Đền chùa trở thành chuồng trâu, chuồng ngựa phủ đầy phân”.
[caption id="attachment_157479" align="alignnone" width="685"] Đập phá chùa chiền và đốt tượng Phật trong thời Đại Cách Mạng Văn Hoá bên Trung Quốc. (Ảnh: wikipedia)[/caption]
Nhân tâm suy đồi
“Khi người ta quên bổn phận tôn giáo thì ma quỷ, vốn bị kiềm chế bằng các nghi lễ, sẽ được thả lỏng, làm loạn và điều khiển tâm trí của người nào mà chúng nhập. Ma thù địch nhập vào các tu sĩ. Ma vị kỷ độc ác nhập vào các hành giả Mật chú và các phù thủy. Ma bệnh tật nhập vào các đạo sĩ Bon. Ma gây bệnh nhập vào đàn ông. Ma cãi cọ nhập vào đàn bà. Ma lả lơi nhập vào các cô gái. Ma hư hỏng nhập vào các nữ tu. Ma phá rối nhập vào trẻ con. Mọi người đàn ông, đàn bà, trẻ con trong xứ đều bị lực lượng hắc ám được thả lỏng nhập vào.
Dấu hiệu của thời này là kiểu y phục mới, kỳ lạ: kiểu quần áo cũ kỹ bị bỏ quên. Các tu sĩ mặc kiểu áo mới lạ, còn các nữ tu thì sửa sang trước tấm gương. Mọi người đều phải mang gươm để tự vệ và ai cũng canh chừng để thức ăn của mình không bị bỏ thuốc độc. Sư trưởng và thầy làm ô nhiễm tâm trí các đệ tử của họ. Nhà cầm quyền và các pháp quan không đồng ý với nhau.
Đàn ông trở nên thô tục, buông thả. Đàn bà không còn trong sạch nữa. Các tu sĩ không giữ giới và đức hạnh. Các hành giả Mật chú vi phạm lời thệ nguyện. Khi sự hoành hành của các ma độc ác, vị kỷ, thù hận và tàn bạo gia tăng, thì những tin đồn hoảng hốt cũng gia tăng và kiểu y phục thay đổi thường xuyên hơn”.
[caption id="attachment_160204" align="alignnone" width="618"] "Mọi người đều phải mang gươm để tự vệ và ai cũng canh chừng để thức ăn của mình không bị bỏ thuốc độc...", ngày nay thức ăn, hoa quả đều rất độc hại. (Ảnh qua: Dân Trí)[/caption]
Chính giáo và tà giáo
“Bọn say rượu thuyết giảng về sự cứu rỗi. Bọn mị dân được người ta nghe theo. Các vị thầy giả mạo truyền tâm ấn giả dối. Bọn lừa bịp khoe là có thần thông. Tài hùng biện được coi là trí huệ. Bọn kiêu ngạo đề cao phàm tục. Bọn hạ tiện cai trị vương quốc. Các vua chúa trở thành người nghèo. Bọn đồ tể và bọn giết người trở thành thủ lãnh. Bọn tham vọng tiến thân thô lỗ leo lên vị trí cao.
Các vị Thầy của nghi quỹ cao cấp chạy rông như chó ngoài đường, còn các đệ tử của họ thì không có tín tâm cũng đi lang thang như sư tử trong rừng. Những người hiện thân của độc ác và vị kỷ được kính trọng như các vị thầy, trong khi sự thành tựu của các vị thầy Mật giáo thì bị nói xấu, lời dạy của Đạo Sư Bí Mật bị coi là tà đạo, giáo lý của Đức Phật bị bỏ quên, lời khuyên của các Thiền giả và các Thánh nhân bị làm ngơ.
Bọn ngu ngốc và bọn gian tà mặc áo Tu sĩ, còn các Tu sĩ mặc y phục của ngoại nhân; bọn sát nhân cũng mặc áo cà sa. Những người tìm ma thuật học Mật chú vì mục đích vị kỷ. Tu sĩ chế thuốc độc để bức bách người khác và để trục lợi. Giáo lý tà ngụy được tạo ra từ lời Phật và các vị thầy diễn giải kinh điển để tự đề cao.
Người ta đi theo những con đường nguy hiểm chưa được biết trước đây. Nhiều lối tu hành gian tà lan rộng. Những hành vi vốn được coi là xấu xa thì lại được dung dưỡng; những tư tưởng mới trái ngược với phong tục cũ, những tục lệ tốt bị từ bỏ, những lối sống mới đáng khinh làm hư hỏng con người, tài sản của đền chùa bị cướp đoạt và bị những người đã thọ giới tiêu phí. Đi theo đường tà, con người bị kẹt trong chính những hành động xấu của họ. Những người bảo hộ giáo lý thuần túy thì lại tham lam, giả dối, không làm tròn bổn phận của họ nữa”.
Thiên tai nhân họa, bệnh tật tràn lan
“Thiên lý bị đảo lộn, gây ra dịch bệnh, nạn đói và chiến tranh để làm khủng hoảng đời sống thế gian. Các tinh tú hỗn loạn, những ngôi sao rơi khỏi các chòm sao; những ngôi sao lớn bốc cháy xuất hiện mang lại tai họa không thể lường trước được. Mưa rơi không đúng mùa, mà trái mùa; các thung lũng bị ngập lụt. Nạn đói, sương giá và mưa đá gây mất mùa nhiều năm.
Bọn nữ quỷ dữ tợn và mười hai nữ hộ pháp không được cúng tế nữa nên nổi giận thả lỏng các bệnh tật cùng các bệnh dịch khủng khiếp lan tràn như lửa cháy rừng, làm hại cả người lẫn gia súc. Những trận động đất gây nạn lụt bất ngờ, trong khi lửa, bão và gió lốc tàn phá đền chùa, tháp và các thành phố trong khoảnh khắc.”
[caption id="attachment_185418" align="alignnone" width="660"] Thiên lý đảo lộn, động đất, hạn hán, lũ lụt, sóng thần, v.v. xảy ra khắp nơi... (Ảnh: youtube)[/caption]
“Trong cảnh đen tối này, Pháp luân ở Vajrasana (Bồ đề đạo tràng) không hoạt động nữa; chiến tranh tàn phá Nepal trong nhiều năm; Ấn Độ gặp nạn đói; thung lũng Kathmandu bị bệnh dịch hoành hành; động đất tiêu diệt dân xứ Ngari Thượng ở miền tây Tây Tạng; bệnh dịch hủy diệt dân miền trung Tây Tạng; quận Thung lũng Kyi của thủ đô Lhasa vẫn tồn tại; các đỉnh của Hy Mã Lạp Sơn ở biên giới xứ Mon bị đổ xuống các thung lũng.
Ba đồn phòng thủ được xây trên núi Năm Đỉnh; các Thiền giả tụ họp nơi thung lũng Hang Gấu ở Mon; hai mặt trời mọc ở tỉnh Kham về hướng đông; Hoàng đế trung Hoa chết đột ngột; bốn đạo quân tràn xuống miền trung Tây Tạng từ biên giới; quân Hồi giáo chiếm Ấn Độ; quân Garlok diệt giáo pháp ở Kashmir; người Mông cổ chiếm Tây Tạng; quân Jang tiến vào Kham; chùa Hộ Pháp Rasa Trulnang bị đe dọa; chùa Samye danh tiếng bị xâm phạm; các tháp ở Bhutan bị nghiêng và Pháp luân bị hỏng”.
“Các chùa lớn ở xứ này bị bỏ hoang và tiếng ợ của đạo sĩ Bon vang trong các am thất yên tĩnh; các vị lãnh đạo khôn ngoan hay chất phác của các tu viện bị đầu độc làm cho việc diễn giải và tu hành truyền thống bị phân tán hay mai một; những người bảo tồn truyền thống bị chết đột ngột. Bọn giả dối lừa gạt người dân và những bóng ma đen ám ảnh xứ sở này.
Nút chỉ tơ thiêng liêng trói buộc các lực lượng ma quỷ bị tháo ra và sợi dây tín tâm giữ tâm trí con người hòa hợp bị cắt đứt. Luật lệ của vua bị phá và sức mạnh của sự hợp nhất xã hội bị diệt; phong tục của dân bị chối bỏ và biển an lạc bị khô cạn; đạo đức con người bị bỏ quên và ca áo khiêm tốn bị liệng bỏ”.
“Người đức hạnh thì bất lực và bị hạ nhục, chịu sự sai khiến của những người cai trị thô lỗ, kiêu ngạo, đáng sợ. Các tu sĩ và thầy giáo trở thành sĩ quan quân đội, còn kẻ ngu dốt thì lại hướng dẫn người có đạo tâm, thuyết giảng giáo lý và truyền tâm ấn. Tín đồ nói xấu người khác để tự biện minh, trong khi đồ tể và voi hoang dẫn dắt người ta.
Các đèo, các thung lũng và các đường mòn đều bị các bọn cướp vô liêm sỉ quấy phá. Lo sợ, vô pháp luật và không có người hướng dẫn, dân chúng đánh lẫn nhau và hành động một cách vị kỷ. Tây Tạng trở nên bại hoại và ô nhiễm. Đây là tình trạng chính yếu trong khoảng giữa thời Mạt pháp, khi tuổi thọ của con người là năm mươi năm”.
"…chiến tranh sẽ bộc phát như một cơn bão thổi qua Tây Tạng và Trung Hoa, sự phi nhân của tai họa này sẽ làm tăng gấp ba lực hắc ám, nạn đói và bệnh tật sẽ đưa chúng sinh vào địa ngục khủng khiếp. Từ biên giới Trung Hoa ở cao nguyên Đông bắc, một đạo quân đông bằng năm lượng hạt cải trắng sẽ xâm lăng Tây Tạng và tiếng kêu khủng khiếp sẽ vang như sấm trong nhiều năm. Một đạo quân đông bằng chín lượng hạt cải trắng sẽ tiến qua vùng bình nguyên miền nam xâm lăng Tây Tạng và tiếng kêu kinh hoàng sẽ vang như là một con rồng lửa.
Các đạo quân sẽ tiến qua những thung lũng như chớp nhoáng xâm chiếm miền tây Tây Tạng. Lực lượng cao nguyên sẽ xâm lăng Trung Hoa, cướp phá cho tới khi chiến thắng. Một nửa dân Tây Tạng sẽ bị giết, các đền chùa đều bị phá hủy, các bức tượng bị xâm phạm, kinh sách bị chà đạp dưới đất, các tu sĩ bị sát hại. Những ngôi làng bị tàn phá và trở nên hoang vắng vì những người sống sót trong tai họa này sẽ trốn sang Sikkim, Bhutan, Nepal và Ấn Độ như những người tỵ nạn, và đến các thung lũng bí mật của Hy Mã Lạp Sơn. Những người ở lại vì còn tiếc ruộng đất và của cải, sẽ bị bọn man rợ chống giáo pháp tàn sát cùng với gia súc của họ”.
[caption id="attachment_171822" align="alignnone" width="800"] "Một nửa dân Tây Tạng sẽ bị giết, các đền chùa đều bị phá hủy, các bức tượng bị xâm phạm, kinh sách bị chà đạp dưới đất, các tu sĩ bị sát hại." (Ảnh: worldreligionnews.com)[/caption]
Sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế
“Ngài có trí lực lớn và sẽ thấy rõ những gì mình sẽ làm trong đời. Do nhận thức bí ẩn hay rõ rệt trong các kiếp từ khi Ngài phát nguyện, Ngài sẽ tái sinh với tín tâm coi Tam Bảo là An Lạc Vĩnh Hằng, tôn kính trách vụ của giáo hội, và thành tâm với sự thiêng liêng của thân, khẩu, ý. Là người Đại thừa, Ngài có tâm từ bi đối với loài người cũng như các sinh vật và sự bố thí của Ngài về thân, khẩu, ý là vô tận. Với trí huệ về chân không an lạc của bản thể các pháp, Ngài quán thông Phật Hạnh bạo động và sự biểu lộ hung dữ của các hộ pháp phẫn nộ.”
“Nguyện giải trừ sự thống khổ này, vị Tulku, với lục an lạc của ta, với tâm từ bi đối với chúng sinh, không nghĩ tới thể xác, sự sống và hạnh phúc của riêng mình, khôi phục dũng mãnh bằng sự phẫn nộ thiêng liêng, ngài hướng dẫn và củng cố sức mạnh cần thiết cho người dân ở các xứ biên giới. Khi tiếng nói đức hạnh của những người lưu vong đã hợp nhất, thì những người bạn của Vĩ nhân này bắt đầu cùng nhau ra sức phục hồi Đại Bảo Tháp.
[caption id="attachment_214632" align="aligncenter" width="627"] Cứu Thế Chủ, vị thần tối cao sẽ đến vào giờ phút cuối cùng của nhân loại. (Ảnh: Falunart)[/caption]
Nhưng những quyền lực hắc ám quái đản đã dụ dỗ mọi người làm những điều tội lỗi; chỉ có ít người tôn sùng và tin tưởng vị Tulku, những người này ít như sao buổi sáng. Tuy nhiên, Vĩ nhân này cũng có một trăm ba mươi ngàn tín đồ đạo hạnh, một trăm lẻ sáu Đạo sư uyên thâm, tám mươi tám Thiền giả thành tâm trì giới, tám mươi thí chủ rộng rãi, không keo kiệt, hai mươi ba nhà tiên tri, tám Giáo sư hóa thân của tám Bồ Tát, hai mươi lăm đệ tử sùng tín, năm Dakini (nữ thần) hóa thân, và hai mươi lăm thiếu nữ thuộc các gia đình cao quý. Tiếp xúc với họ, Ngài thanh lọc tâm trí ô nhiễm của họ và dọn sạch mọi chướng ngại trên đường đạo của họ.”
“Tất cả những người nào ra tay phục hồi Đại Bảo Tháp, sau ba lần tái thức tỉnh, sẽ tái sinh làm người hay thần, thanh tịnh để nhận cam lộ Giáo pháp, và rốt cuộc sẽ đắc Phật quả ở cõi Tây Phương Cực Lạc (...) Tất cả những người nào cùng với Đấng Vĩ Đại, thi hành việc phục hồi Đại Bảo Tháp, dù có ý thức về Ngài hay không, dù tin tưởng và tôn sùng hay không, đều sẽ đạt thành tựu tối thượng và quyền năng tâm linh vào cuối kiếp làm người thế gian”.
Cuối cùng, xin được kết thúc bài viết này bằng một dự ngôn khác. Đạo sư Liên Hoa Sinh cũng có lời tiên tri giống với lời giảng của Đức Phật Thích Ca 2500 năm trước đây, rằng: Khi Đấng Cứu Thế xuất hiện thì hoa Ưu Đàm Bà La sẽ khai nở. Lời tiên tri trong kinh Phật đã ứng nghiệm rồi, những bông hoa Ưu Đàm Bà La hiện giờ đã khai nở khắp nơi, phải chăng Đấng Cứu Thế đã có mặt tại nhân gian và đang cứu độ chúng sinh rồi?
(Dựa theo các ghi chép của Đức bà Yeshe Tsogyal trong phần “truyền thuyết về Đạo sư Liên Hoa Sinh” và “Huyền thoại Đại Bảo Tháp Bodha”)
from Đại Kỷ Nguyên - Feed - https://ift.tt/34OzW0B via IFTTT
0 notes
Link
Phật Mẫu Chuẩn Đề trong các truyền thống Phật giáo
Mật Tông rất tôn sùng Phật Mẫu Chuẩn Đề, Ngài được xếp một tôn vị trong Quán Âm bộ. Theo phái Đông Mật của Phật giáo Nhật Bản thì Chuẩn Đề là một trong sáu danh hiệu của Quán Âm, thuộc Liên Hoa bộ.
Sáu danh hiệu này là:
Thiên Thủ Quán Âm
Thánh Quán Âm
Mã Đầu Quán Âm
Thập Nhất Diện Quán Âm
Chuẩn Đề Quán Âm
Như Ý Luân Quán Âm.
Như vậy, Chuẩn Đề hay Chuẩn Đề Quan Âm chính là một trong những danh hiệu của Bồ Tát Quán Âm.
Tuy nhiên, phái Thai Mật của Phật giáo Nhật Bản lại xếp Chuẩn Đề vào một tôn vị trong Phật bộ, gọi là Phật Mẫu.
Theo kinh Thất Câu Chi Phật Mẫu sở thuyết Chuẩn Đề Đà La Ni thì thân Bồ tát Chuẩn Đề màu vàng nhạt, ngồi kiết già trên đài sen, có hào quang tỏa sáng xung quanh. Bồ tát mặc thiên y hoặc lụa trắng mỏng, trên đầu đội mũ ngọc anh lạc, có 3 mắt. Đặc biệt 18 cánh tay đều đeo vòng xuyến. Hai tay trên cùng bắt ấn Thuyết pháp.
Tay thứ hai bên phải kiết ấn Thí vô úy, bên trái cầm cây phướn báu như ý
Tay thứ ba bên phải cầm kiếm, bên trái cầm hoa sen hồng hé nở
Tay thứ tư bên phải cầm tràng hoa báu, bên trái cầm cái bình
Trên lòng bàn tay thứ năm bên phải để trái câu duyên, bên trái cầm dải lụa
Tay thứ sáu bên phải cầm búa, bên trái cầm bánh xe pháp
Tay thứ bảy bên phải cầm móc, bên trái cầm vỏ ốc
Tay thứ tám bên phải cầm chày kim cang, bên trái cầm hiền bình, trên lòng bàn tay thứ chín để hộp kinh Bát Nhã chữ Phạn.
Ngoài ra, còn có tượng Bồ Tát Chuẩn Đề 16 tay, 6 tay, 4 tay theo các truyền thống Phật giáo Tây Tạng, Tích Lan.
Hạnh nguyện của Phật Mẫu Chuẩn Đề
Theo kinh Chuẩn Đề Đại Minh Đà La Ni, Bồ tát Chuẩn Đề là hóa thân của Đức Quán Thế Âm, thị hiện vào trong sáu đường sanh tử để hóa độ chúng sanh. Ngài là vị Bồ tát có thệ nguyện hộ trì Phật pháp và hộ mạng cho những chúng sanh nào trí tuệ kém cỏi, nghiệp chướng sâu dày, thân nhiều tật bệnh, thọ mạng ngắn ngủi…
Chuẩn Đề, Phạn ngữ là Cundi, dịch nghĩa Năng hành, Thành thực hay Thanh tịnh. Năng hành nghĩa là Bồ tát có thệ nguyện rộng lớn, trí tuệ sâu xa, đầy đủ mọi năng lực để làm bất cứ việc gì cũng đều đem đến sự lợi ích cho chúng sanh; Thành thực có nghĩa Bồ tát có công năng vi diệu, từ nơi pháp Không tưởng quán ra pháp Giả, khiến chứng đắc cảnh giới Niết bàn, bạt trừ mọi vọng huyễn sanh tử; Thanh tịnh nghĩa là Bồ tát đã chứng đắc được bản tâm, khéo an trụ trong tự tánh thanh tịnh. Chuẩn Đề gọi đủ là Thất câu chi Phật mẫu Chuẩn Đề. Theo Nhị khóa hiệp giải thì Câu chi nghĩa là trăm ức, Thất câu chi là bảy trăm ức, Phật mẫu là mẹ sanh ra chư Phật. Danh hiệu Thất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề có nghĩa thời quá khứ đã có bảy trăm ức Bồ tát do tu pháp môn Chuẩn Đề tam muội mà chứng quả Vô thượng Bồ đề và chúng sanh đời sau muốn thành tựu Phật quả cũng phải nương vào pháp môn này để tu hành.
Bồ tát vì thương tưởng chúng sanh trong thời mạt pháp vốn nhiều chướng nạn như thân đa tật bịnh, trí tuệ kém cỏi hoặc lỡ đã tạo các ác nghiệp sâu dày… nên Ngài đối trước Phật tuyên nói thần chú, để giải trừ các hoặc nghiệp cho chúng sanh. Kinh Chuẩn Đề có nói: “Bấy giờ Đức Phật trụ tại vườn cây của hai ông Kỳ Đà, Tu Bạt, được bốn chúng và tám bộ cung kính vi nhiễu, lúc đó Bồ tát Chuẩn Đề vì thương tưởng đến chúng sanh thời mạt pháp nghiệp dày phước mỏng, nên Ngài vào định Chuẩn Đề tam muội, rồi thuyết pháp, thuật lại thần chú này là chỗ bảy trăm ức Đức Phật đã nói: Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đà, câu tri nẫm đát điệt tha. Án chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề ta bà ha”.
Tu tập theo pháp môn tu hành của vị Bồ Tát này là trì tụng thần chú: “Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đà câu chi nẫm, đát diệt tha. Án, chiết lệ chủ lệ Chuẩn-đề, ta bà ha”. Nếu ai chí thành trì tụng thần chú trên thì sẽ tiêu trừ tai họa, dứt hết bệnh tật, đạt được thông minh…, tiêu tan tội chướng, thọ mạng lâu dài, tăng trưởng phước đức đồng thời được chư Phật, Bồ Tát gia bị, đời đời kiếp kiếp xa lìa ác thú, mau chóng chứng đắc Vô Thượng Bồ Đề.
Oai lực của thần chú Chuẩn Đề là bất khả tư nghì, như đã nói, bảy trăm ức Đức Phật quá khứ nhờ trì niệm thần chú này mà thành tựu Phật đạo. Cũng theo kinh Chuẩn Đề: “Người trì tụng thần chú này đủ chín mươi muôn biến, có thể diệt được các tội thập ác, tứ trọng và ngũ nghịch. Nhẫn đến các nhà thế tục nào bất luận tịnh hay uế, chỉ cần chí tâm trì tụng thần chú, liền được tiêu trừ tai nạn, bệnh hoạn và tăng nhiều phước thọ. Tụng đủ bốn mươi chín ngày, liền được Bồ tát sai hai vị Thánh giả để thường phò hộ người ấy trong những lúc đi đứng nằm ngồi”.
Xem thêm ý nghĩa của thần chú tại: Thần chú Phật Mẫu Chuẩn Đề – Om Cale Cule Cundi Soha
————————————-
Tổng hợp từ giacngo.vn, daibi.vn
Bài viết Hạnh nguyện của Phật Mẫu Chuẩn Đề đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Tượng Phật Quảng Đại.
via Tượng Phật Quảng Đại
0 notes
Text
Lời cảnh tỉnh của các Đại Giác Giả
Phật Thích Ca Mâu Ni và Chúa Jesus, tôn danh của hai vị Đại Giác Giả này có thể nói là nhà nhà đều biết. Họ lần lượt sáng lập Phật giáo và Cơ Đốc giáo, hồng truyền rộng rãi trong xã hội nhân loại. Sự truyền bá của tôn giáo chính là giáo hóa nhân loại không được tự cao tự đại, phải tin vào sự tồn tại của Thần Phật; ngoài ra, tôn giáo cũng dạy con người minh bạch thế nào là tu luyện và mục đích của tu luyện, giúp con người tu đức hướng thiện, phản bổn quy chân, hoặc lên Thiên Đường, đồng thời duy trì đạo đức và ổn định trong xã hội nhân loại.
Khi hai vị Đại Giác Giả này truyền Pháp tại thế gian, các Ngài đều đã thấy trước đại sự kiện sẽ phát sinh vào thời mạt của nhân loại lần này. Xuất phát từ lòng từ bi với con người, các Ngài hoặc nói thẳng hoặc ẩn dụ, đưa thiên cơ trọng yếu này vào các dự ngôn minh xác, lấy đó khải thị người đời sau phải sáng suốt để tự cứu, thoát khỏi kiếp nạn, và hướng về kỷ nguyên mới của lịch sử. Tuy nhiên, khi thời gian trôi đi, đặc biệt là thế kỷ vừa qua, khi tà thuyết “vô thần luận” họa loạn thế gian, phần đông nhân loại và rất nhiều người Trung Quốc đã làm ngơ trước lời cảnh tỉnh từ sớm của các Đại Giác Giả. Họ dường như đã quên mất hay thờ ơ lãnh đạm. I. Phật Thích Ca Mâu Ni căn dặn thế nhân: “Chuyển Luân Thánh Vương” hạ thế truyền Pháp cứu độ chúng sinh Chùa Pháp Môn tại huyện Phù Phong, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc là ngôi chùa hoàng gia thờ xá lợi ngón tay của Phật Thích Ca Mâu Ni. Kể từ khi Đường Ý Tông phong bế bảo tháp tại địa cung, xá lợi ngón tay Phật trong địa cung đã nằm yên trong hơn 1.000 năm. Năm 1981, bảo tháp trong chùa không tu sửa mà tự dưng đổ sụp xuống, trong 6 năm không có ai hỏi han tới, đến năm 1987 mới bắt đầu được trùng tu. Khi dọn dẹp nền tháp, vào ngày 8 tháng 4 Âm lịch, người ta tình cờ phát hiện địa cung dưới lòng đất, bởi vậy xá lợi ngón tay Phật một lần nữa xuất hiện trên thế gian, trở thành một việc mừng chấn động giới Phật giáo. Xá lợi ngón tay Phật một lần nữa xuất hiện, tuyệt không phải để Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) vốn phỉ báng Phật, làm hại Phật khoe khoang, mà để chứng thực sự tồn tại chân thực của Thần Phật, phá trừ “vô thần luận” hoang đường, càng không phải để người ta lễ bái, cung phụng, hương khói cho chùa Phật. Như vậy huyền cơ nằm ở đâu? Đây chính là triển hiện dự ngôn và lời căn dặn của Phật Thích Ca Mâu Ni từ 2.500 năm trước, và cũng để hướng sự chú ý của người ta tới ngày 8 tháng 4 Âm lịch này. Theo kinh Phật ghi lại, đến thời kỳ mạt pháp (cũng là ngày nay, khi đạo đức nhân loại đã bại hoại), nhân loại tất sẽ có đại kiếp nạn. Phật Thích Ca Mâu Ni nói rằng vào thời mạt pháp, tăng nhân trong chùa tự độ đã là rất khó. Cũng là nói Pháp của Ngài đến thời này đã không thể cứu độ con người được nữa. Phật Thích Ca Mâu Ni khi giảng Pháp năm xưa đã từng nói đến “Chuyển Luân Thánh Vương” (trên thiên thượng gọi là “Pháp Luân Thánh Vương”, cũng xưng là “Di Lặc”), một vị Như Lai với thần thông tối quảng đại, năng lực lớn nhất trong vũ trụ, rồi sẽ hạ thế truyền Pháp độ nhân. Kinh Phật cũng ghi lại rằng, Ưu Đàm Bà La hoa là một loài hoa rất hy hữu, 3.000 năm mới nở một lần. Phật Thích Ca Mâu Ni năm xưa đã từng giảng qua: Ưu Đàm Bà La hoa khai nở, ý là “Chuyển Luân Thánh Vương” đã hạ thế. Đầu năm 2005, các bức tượng Phật tại chùa Thanh Khê, chùa Long Châu ở núi Quan Nhạc, am Luyến Chủ, thiền viện Tu Di Sơn tại Hàn Quốc đua nhau xuất hiện kỳ quan Ưu Đàm Bà La hoa khai nở, khiến dân chúng Hàn Quốc mừng rỡ, cũng gây tiếng vang lớn trong giới Phật giáo. Từ năm 1987 xá lợi ngón tay Phật tái hiện tại chùa Pháp Môn, đến năm 1992 Pháp Luân Đại Pháp khai truyền, rồi tới năm 2005 Ưu Đàm Bà La hoa khai nở, theo thời gian biểu chặt chẽ này, cộng thêm ngày 8 tháng 4 Âm lịch là sinh nhật của Đại sư Lý Hồng Chí — người sáng lập Pháp Luân Công, thì chúng ta có thể minh xác thiên cơ mà Phật Thích Ca Mâu Ni căn dặn chúng sinh: “Chuyển Luân Thánh Vương” hiện đang truyền Pháp, cứu độ thế nhân tại cõi người. Trải qua gần 20 năm Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền, không chỉ có 70 triệu người Trung Quốc Đại Lục đắc Pháp, mà dưới cuộc đàn áp diệt tuyệt nhân tính của ĐCSTQ, Pháp Luân Đại Pháp vẫn hồng truyền tới 114 quốc gia và vùng lãnh thổ, với tổng số người tu luyện hơn 100 triệu người. Sách của Đại Pháp đã được phiên dịch sang hơn 30 thứ tiếng, xuất bản phát hành tại các nơi trên thế giới. Từ năm 2000, ông Lý Hồng Chí đã liên tục 4 năm được đề cử giải Nobel Hòa bình; chính phủ các nước, các tổ chức đoàn thể đã trao tặng gần 3.000 bằng khen, nghị quyết và thư ủng hộ đối với Đại Pháp và người sáng lập. Sự hồng truyền của Pháp Luân Đại Pháp trên thế giới đã làm chứng cho dự ngôn của Phật Thích Ca Mâu Ni năm xưa — sự huy hoàng và vĩ đại của “Chuyển Luân Thánh Vương” khi hạ thế truyền Pháp độ nhân. II. Chúa Jesus căn dặn thế nhân: “Trời diệt Trung Cộng” và đại đào thải Tại bờ biển miền Nam bang Victoria, Australia có cụm đá “12 tông đồ” cao chót vót, hình dạng rất giống 12 tông đồ của Chúa Jesus. Sau khi chờ đợi hơn 2.000 năm, vào năm 2004, cụm đá bỗng sụp đổ ầm ầm, khiến người ta chấn động. Chưa được bao lâu, ngay sau Lễ Giáng Sinh ngày 25 tháng 12, vào ngày 26 tháng 12 năm 2004, trận sóng thần tại Nam Á phát sinh và cướp đi sinh mạng của mấy trăm nghìn người. Trong nỗi bàng hoàng, người ta dần dần ngộ ra rằng: Chúa Jesus đã dùng hai sự kiện kinh thiên động địa này để cảnh tỉnh thế nhân, lời tiên tri trong «Khải Huyền» đã trở thành hiện thực rồi! Đồng thời, nó cũng nhắc nhở người ta rằng đại đào thải của nhân loại là có quan hệ với ĐCSTQ (bởi vì sóng thần Nam Á phát sinh vào ngày 26 tháng 12, chính là ngày sinh nhật của Mao Trạch Đông, thủ lĩnh ĐCSTQ). Trong số các lời tiên tri cổ kim trong và ngoài Trung Quốc, không lời tiên tri nào có thể sánh với «Khải Huyền» về mức độ kinh tâm động phách và được nhiều người biết đến. Bởi vì «Khải Huyền» dùng rất nhiều dị tượng đặc sắc để phác họa một hiện thực mà nhân loại nhất định sẽ phải đối mặt: thiên tai, khủng bố, ôn dịch, đại chiến chính-tà, và phán xét cuối cùng của Thần. Hết thảy những điều này là cực kỳ khiếp hãi với tà ác, và cũng là cú đánh trí mạng với cả thế giới. Tuy nhiên, «Khải Huyền» cũng tỏ rõ hy vọng cuối cùng của toàn nhân loại: chính nghĩa cuối cùng sẽ đánh bại hoàn toàn ác quỷ Sa-tăng, vũ trụ sau khi đổi mới sẽ trở thành thiện lương, và những người trung thành với tín ngưỡng rồi cuối cùng sẽ được lên Thiên quốc vĩnh hằng. Bất chấp vô số giải thích khác nhau của người đời đối với những gì ẩn chứa trong «Khải Huyền», rất nhiều người đã nhận ra sự thực này: lịch sử chính đang trong thời kỳ đại chiến chính-tà, và thời khắc Trời diệt Trung Cộng đang đến gần. 1. Đại biểu cho thế lực tà ác — ĐCSTQ «Khải Huyền» dùng “con rồng đỏ” (còn gọi là Ác quỷ, hay Sa-tăng) để ám chỉ ĐCSTQ, lại dùng “con thú” để ám chỉ các lãnh đạo ĐCSTQ. “Con thú từ dưới biển lên” chính là chỉ Giang Trạch Dân từ Thượng Hải leo lên Bắc Kinh. “Con thú” được “con rồng” ban cho năng lực, ngai vàng và quyền bính, lại có cái miệng nói lời xúc phạm Thần và được phép tranh chiến với các Thánh đồ. Đại chiến chính-tà chính là cuộc chiến giữa Pháp Luân Công — đại diện cho lực lượng chính nghĩa, và ĐCSTQ — đại biểu của thế lực tà ác. “Con rồng” và “con thú” khống chế nghiêm ngặt những người tin theo nó, “Nó bắt mọi người, nhỏ và lớn, giàu và nghèo, tự do và nô lệ, phải có một dấu nơi tay phải hoặc trên trán“. Đây là ám chỉ những người gia nhập các loại tổ chức của ĐCSTQ (đảng, đoàn, đội) khi tuyên thệ bị đánh ấn ký của con thú. «Khải Huyền» dùng “đại dâm phụ” (thành Babylon lớn) để ám chỉ Bắc Kinh, trung tâm quyền lực của ĐCSTQ. “Vì mọi quốc gia đã uống rượu gian dâm cuồng loạn của nó, Các vua trên đất đã phạm tội gian dâm với nó, Các thương gia trên đất đã trở nên giàu có nhờ của cải xa xỉ của nó“. Đây là ẩn dụ chính quyền Bắc Kinh bán rẻ lãnh thổ, bán rẻ lợi ích dân tộc và dùng tiền hối lộ, v.v. khiến rất nhiều quốc gia thỏa hiệp về vấn đề nhân quyền, tín ngưỡng, để tiến hành giao dịch dơ bẩn. Bởi vậy chính quyền Bắc Kinh cũng giống như một kỹ nữ dâm đãng nhất. Thị trường rộng lớn của nó, sức lao động rẻ mạt của nó, sự hy sinh tài nguyên và môi trường của nó, khiến Trung Quốc trở thành “thiên đường” của các nhà đầu tư mạo hiểm trên thế giới, giúp các tập đoàn tài chính và thương mại ở nước ngoài phát tài. Khi miêu tả sự thống trị tàn bạo của chính quyền Bắc Kinh đối với nhân dân, cũng như các cuộc tàn sát đẫm máu của nó đối với tín ngưỡng tôn giáo (bao gồm cả Pháp Luân Công), «Khải Huyền» viết: “Tôi thấy người đàn bà đó uống máu các Thánh đồ và máu các nhân chứng của Đức Chúa Jesus. Khi tôi thấy bà ấy, tôi lấy làm kinh ngạc vô cùng!“. 2. Thẩm phán tối hậu của Thần — Trời diệt Trung Cộng Về đại thẩm phán tối hậu của Thần, «Khải Huyền» đã dùng một lượng trang lớn để miêu tả quá trình “Trời diệt Trung Cộng”. Dùng bảy tiếng kèn hiệu lệnh của bảy vị thiên sứ và bảy bát thịnh nộ của Thần đổ trên mặt đất để miêu tả cảnh tượng tương lai khiến người ta rùng mình, lấy đó để hình dung sự trừng phạt nghiêm khắc của Thần đối với ĐCSTQ và tai họa kinh tâm mà nhân loại sẽ phải đối diện. “Đã sụp đổ rồi! Ba-by-lon lớn đã sụp đổ rồi! Nó đã trở nên chỗ ở của các quỷ, Nơi giam giữ mọi tà linh ô uế, Nơi giam giữ mọi loài chim không thanh sạch và gớm ghiếc“. Đây là ám chỉ sự sụp đổ hoàn toàn của chính quyền Bắc Kinh và kết cục bi thảm của tất cả những người bị chôn theo ĐCSTQ — những ai hành ác, xúc phạm Thần Phật, ‘trợ Trụ vi ngược’. Thực ra, «Cửu Bình» chính là giấy khởi tố trước đại thẩm phán đối với ĐCSTQ, còn “tàng tự thạch” mang sáu chữ “Trung Quốc cộng sản đảng vong” tìm thấy tại huyện Bình Đường, tỉnh Quý Châu chính là phán quyết của Thần đối với ĐCSTQ, và cũng là ấn chứng cho «Khải Huyền». «Khải Huyền» đặc biệt miêu tả chi tiết trừng phạt đối với những người bị nhận ấn thú. “Ai thờ phượng Con Thú và hình tượng nó, nhận lấy dấu của nó trên trán hay trên tay mình, kẻ ấy phải uống rượu thịnh nộ của Đức Chúa Trời, được rót vào chén thịnh nộ của Ngài với nguyên nồng độ. Kẻ ấy sẽ bị lửa và lưu huỳnh hành hạ trước mặt các vị thiên sứ thánh và trước mặt Chiên Con. Khói khổ hình của chúng sẽ bay lên đời đời vô cùng. Những kẻ thờ phượng Con Thú và hình tượng nó, và bất cứ ai nhận lấy dấu của danh nó sẽ không được an nghỉ cả ngày lẫn đêm“. 3. Lời khuyên bảo từ bi của Thần «Khải Huyền» dùng sự sụp đổ của “thành Babylon lớn” để báo trước sự sụp đổ hoàn toàn của chính quyền ĐCSTQ, đồng thời cảnh cáo thế nhân: “Hỡi dân Ta, hãy ra khỏi nó, Để các ngươi không dự phần vào những tội lỗi của nó, Và để các ngươi không đón nhận những tai họa chung với nó“. Đây là khuyên bảo tất cả mọi người từng lây nhiễm “đại dâm phụ” (chính quyền ĐCSTQ), bao gồm các nguyên thủ quốc gia ở ngoại quốc mà thỏa hiệp với ĐCSTQ, các thương nhân và nhà đầu tư vào Trung Quốc, v.v. hãy mau thoát khỏi ĐCSTQ, đặc biệt là những ai từng bị con thú đánh dấu, hãy mau thoái xuất ĐCSTQ, xóa bỏ thú ấn. Bởi vậy ngày 12 tháng 1 năm 2005, báo Đại Kỷ Nguyên đã phát biểu lời tuyên bố trịnh trọng, khuyến cáo người ta đoạn tuyệt với ĐCSTQ, thanh minh “tam thoái” (thoái đảng, đoàn, đội), xóa đi dấu vết con thú. Thông qua phương thức bất đồng và từ các góc độ khác nhau, hai vị Đại Giác Giả đã tiết lộ cho con người thiên cơ quan trọng nhất của lịch sử văn minh nhân loại lần này: Ngày nay, khi đạo đức nhân loại đã bại hoại, đối diện với lịch sử bị đào thải, để cứu vãn nhân loại, “Chuyển Luân Thánh Vương” đã hạ thế truyền Pháp. Tuy nhiên để tiêu diệt nhân loại và hủy báng Phật Pháp, ĐCSTQ đã phát động trận đại chiến chính-tà kinh tâm động phách với các Thánh đồ Pháp Luân Đại Pháp. Trong bước ngoặt lịch sử này, người ta đều phải biểu đạt thái độ đối với Pháp Luân Đại Pháp, biểu đạt thái độ đối với ĐCSTQ, xem họ đứng về phía chính hay phía tà. Chính nghĩa tất nhiên sẽ chiến thắng tà ác, tà đảng nhất định sẽ chịu kết cục diệt vong trong đại thẩm phán tối hậu của Thần! Khi đại nạn tới, những ai đứng về phía ĐCSTQ, và những ai từng bị ĐCSTQ đánh ấn ký sẽ phải chịu đào thải theo ĐCSTQ. Tuy nhiên, Thần là từ bi với người, nên mới để người đời đọc «Cửu Bình», biết chân tướng, tin thiên cơ, rõ đại nghĩa, xa tà ác; lại để những ai từng bị đánh thú ấn có cơ hội đoạn tuyệt với ĐCSTQ, phát biểu “tam thoái” tự cứu, từ đó tiến nhập kỷ nguyên mới của lịch sử nhân loại. Tài liệu tham khảo: 1. Khai mở bí mật «Khải Huyền» của Thánh Kinh; tác giả: Lâm Phong (Chánh Kiến Net). 2. “Du Trường An ngộ thiên cơ” (4): Ngắm thánh địa Phật Đạo, cảm Phật ân hạo đãng; tác giả: Đường Lý (Chánh Kiến Net) Tác giả: Hoằng Xuân / chanhkien.org Read the full article
0 notes
Quote
Pháp Luân Công và dự ngôn thời Mạt Pháp
Theo nhiều lời tiên tri thì thế giới con người đang trong giai đoạn rất đặc thù, thời kỳ mạt pháp, một đại nạn mang tính toàn thể nhân loại sẽ xảy ra trong tương lai gần.
Mạt pháp là gì? Tại sao nói thời này là thời mạt kiếp? Xã hội thời hiện đại tuy mọi thứ đều có thể nói là phát triển, tiên tiến nhưng song hành cùng với nó là quy chuẩn đạo đức con người đã và đang dần bị trượt dốc, họ đã không còn tin vào Thần Phật, làm điều xấu cũng không sợ sẽ bị báo ứng. Vì thấy nhân tâm con người đã bại hoại không còn tốt, lúc này vạn ma xuất thế làm loạn thế gian nhằm mục đích hủy hoại hết thảy chúng sinh.
Biết trước nhân loại sẽ có ngày hôm nay, Sáng Thế Chủ (Vua của các Vương) trong vũ trụ đã hữu ý để các vị Thần biết thiên cơ đồng thời để lại dự ngôn nhằm cảnh báo con thế gian đồng thời lưu cấp cho nhân loại một cách để có thể thoát khỏi kiếp nạn trong vụ đại đào thải của vũ trụ. Đến thời này vũ trụ sẽ có Pháp mới, quy luật mới chỉnh lại hết thảy những gì bất chính và cứu chúng sinh khỏi bị hoại diệt.
Hơn 2.500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói với đệ tử của ông rằng, vào thời kỳ Mạt Pháp thì Đức Chuyển Luân Thánh Vương, chính là Đức Phật Di Lặc sẽ hạ thế cứu độ hết thảy chúng sinh.
Theo truyền thuyết tôn giáo thì trước khi Cứu Thế Chủ Messiah tới nhân gian, một dấu hiệu là người Israel phục quốc. Tại Đông phương cũng có ghi chép về một tín hiệu trọng đại báo hiệu Phật Di Lặc tương lai hạ thế là khi nhân gian xuất hiện loài hoa Ưu Đàm 3000 năm mới nở một lần. Từ năm 1992 nhân gian đã xuất hiện loài hoa này đầu tiên tại Hàn Quốc, đồng thời người Israel cũng đã phục quốc.
Năm 1992, Pháp Luân Công được truyền ra công chúng bởi ông Lý Hồng Chí ngay lập tức có hàng trăm triệu người theo tập trong vài năm ngắn ngủi người truyền người, tâm truyền tâm và có sức ảnh hưởng đến toàn thế giới. Với cốt lõi là đồng hóa đặc tính vũ trụ Chân – Thiện – Nhẫn để chỉ đạo sự tu luyện, nâng cao chuẩn mực đạo đức, đạt cảnh giới cao trong tư tưởng cuối cùng đạt đến giác ngộ của sinh mệnh.
Mục Lục
1, Mạt Pháp là gì?
2, Dự ngôn thời Mạt Pháp
3, Thánh Nhân đang ở đâu?
4, Sáng Thế Chủ đã đến?
2.1. Lời tiên tri về Phật giáo
2.1. Tiên tri Phật Di Lặc giáng thế
3.1. Vạn Pháp quy tông
3.2. Đại Pháp Hồng truyền
1, Mạt Pháp là gì?
Mạt Pháp là quá trình suy đồi đạo đức và sự thoái hóa của các sinh mệnh trong vũ trụ, thời đại vũ trụ đang đi đến hồi kết của quy luật Thành -Trụ – Hoại – Diệt. Là thời kỳ vạn ma xuất thế làm loạn thế gian núp sau lớp da người mà hoành hành đưa đạo đức con người trượt xuống nhanh chóng nhằm hủy hoại hết thảy chúng sinh. Để có thể tránh khỏi kiếp nạn đó, vũ trụ cần phải canh tân, phải có một Pháp mới để quy chuẩn lại hết thảy những gì bất chính. Thông qua quá trình của Chính Pháp, các sinh mệnh sẽ được sắp xếp lại chỗ mới theo phẩm chất đạo đức và trí huệ của mình, những người tốt, đồng hóa với Pháp mới của vũ trụ sẽ được lưu lại và đến các tầng thứ cao hơn, trong khi những người xấu không đồng hóa với Pháp mới sẽ bị loại bỏ, đào thải.
Thời kỳ này khi chúng ta chứng kiến những tai họa do thiên tai, lũ lụt hay những cuộc đàn áp đẫm máu như cuộc đàn áp Pháp Luân Công của chính phủ Trung Quốc vào năm 1992 là một bằng chứng hữu hình của sự suy đồi, sự trượt dốc về đạo đức. Con người đã mất hết niềm tin vào Thần Phật và luật nhân quả.
Trong Kinh, Đức Phật chia mốc thời gian của Pháp ra thành 3 giai đoạn: thời Chính Pháp (1.000 năm), Tượng Pháp (1.000 năm) và thời Mạt Pháp (10.000 năm). Theo Phật lịch thì hiện nay, thời Mạt Pháp đang trải qua ngàn năm đầu tiên, bởi tính đến năm 2016 thì Phật lịch là năm 2559.
Thời kỳ mạt Pháp được định nghĩa trong kinh điển Phật giáo là thời kỳ suy đồi đạo đức, khi những lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni trong Phật giáo không còn độ nhân được nữa.
Đức Phật đã diệt độ, nhưng Pháp nghi vẫn chưa thay đổi. Có giáo pháp, có sự hành trì, và có người chứng đắc quả vị–đó gọi là thời kỳ Chánh Pháp, và còn được mệnh danh là thời kỳ “Thiền Định kiến cố”. Trong thời Tượng Pháp (tượng có nghĩa là biểu tượng), tuy vẫn có giáo pháp, có sự hành trì, nhưng số người chứng đắc quả vị thì rất ít, thời kỳ này còn được gọi là thời kỳ “tự miếu kiên cố”. Trong thời mạt Pháp (mạt có nghĩa là suy vi, yếu kém), Phật Pháp trở nên suy tàn, chỉ có giáo pháp chứ không có sự hành trì, và càng không có người chứng đắc quả vị. Cũng là thời kỳ mà nhân loại không còn tâm pháp để câu thúc đạo đức. Đức Phật đã cho chúng ta biết trước về đạo đức bại hoại của nhân loại và các hiện tượng hỗn loạn như: thiên tai, khủng bố, chiến tranh, ôn dịch, đại kiếp nạn…
2, Dự ngôn thời Mạt Pháp
Thời mạt Pháp, Đức Phật Thích Ca dự ngôn trước rằng sau hai ngàn năm trăm năm, nhân loại sẽ đi vào thời mạt Pháp cũng chính là hiện tại. Phật giáo sẽ chỉ còn lại một vỏ ngoài, đến thời kỳ diệt tận không thể độ nhân được nữa.
Ngoài kinh Phật, nhiều lời tiên tri khác cũng nói lên rằng, xã hội con người hiện nay chính là đang trong một thời kỳ hết sức đặc thù, sẽ có một đại nạn liên quan đến toàn thể nhân loại. Sau đại nạn mang tính toàn cầu ấy, chỉ có những người tốt mới có thể vượt qua, còn những người xấu ác sẽ bị diệt vong. Và sau đó, thế giới sẽ được kiến tạo thành một thế giới mới, một chu kỳ mới lại bắt đầu.
Tất nhiên chúng ta không thể rõ là quan niệm này có đúng hay không!? Nhưng nếu chú tâm một chút thì sẽ thấy ngay được rằng, điều đó dường như đang được khởi động một cách âm thầm thông qua các biểu hiện là thiên tượng biến đổi, thời tiết khắc nghiệt, thiên tai dịch họa, chiến tranh bùng nổ nhiều nơi,…
Trên thế giới, truyền thuyết khởi nguồn của lịch sử và dự đoán tương lai đều có sự trùng hợp đến bất ngờ.
Thứ nhất là truyền thuyết con ngư��i là do Thần tạo ra, thứ 2 là đều có ghi lại ký ức về một giai đoạn đại hồng thủy như một tham chiếu trong quá khứ về việc con người suy đồi nên phải chịu bị đào thải; trùng hợp thứ 3 là các chư thần giáng hạ thế gian cứu độ chúng sinh trong thời khắc cuối cùng của lịch sử vũ trụ chu kỳ này.
Theo tiên đoán, cũng vào thời mạt pháp Sáng Thế chủ sẽ đến thế gian để tiến hành đại thẩm phán cuối cùng.
Phật thích Ca Mâu Ni đã nói rõ rằng: “Đến khi có một loài hoa gọi là Ưu Đàm Bà La khai nở, thì đó chính là điềm báo hiệu Thánh Vương đã tới…”
“Loài hoa này không phải là hoa ở nhân gian, đây là hoa từ thiên thượng mang xuống điềm lành về Chuyển Luân Thánh Vương”.
2.1. Lời tiên tri về Phật giáo
Dự ngôn của Phật Thích Ca Mâu Ni đối với Phật giáo thời kỳ mạt pháp
Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế đã từng nói với các đệ tử về tình huống Phật giáo thời kỳ mạt pháp sẽ xuất hiện sự diệt tận không thể độ nhân được nữa. Trong Kinh Phật cũng đều có ghi lại về những điều ấy.
Khi Phật Thích Ca tại thế đã nói với Tôn giả A Nan rằng: “Nay Chánh Pháp duy trụ năm trăm năm!” tại Phật giáo trong Nam truyền Ba Lợi Luật Tạng tiểu phẩm đệ thập Tỳ Khiêu Ni Kiền Độ (Tỳ khiêu Ni bát kính Pháp), trong Bắc truyền Di Sa Tắc Bộ và Tiên Ngũ Phân Luật quyển nhị thập cửu, trong Bắc truyền Tứ Phân Luật quyển đệ tứ thập bát (Tỳ Khiêu Ni Kiền Độ đệ thập thất), trong Bắc truyền Trung A-Hàm Kinh quyển đệ nhị thập bát (Trung A-Hàm lâm phẩm Cù Đàm Sa Kinh đệ thập), trong Bắc truyền Phật Thuyết Cù Đàm Sa Ký Quả Kinh (Tống Tam Tạng Pháp sư Huệ Giản dịch) đều có ghi chép xác định rõ ràng.
Trong thời kỳ trụ thế chính Pháp của Phật Thích Ca truyền, chính Pháp của Ngài có khả năng độ nhân, nhưng mà phật Thích Ca sớm đã giảng rằng chính Pháp của Ngài truyền ra “duy trụ năm trăm năm”, chỉ có thể độ nhân ở 500 năm đầu. Ngày hôm nay đã trải qua 2500, nghĩa là Phật giáo thực sự đã đi vào thời kỳ mạt pháp.
Căn cứ theo kinh điển Phật giáo Đại thừa Đồng Tính Kinh quyển hạ, các Đại thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương quyển lục bổn ghi chép: Khi đến thời kỳ Phật giáo mạt Pháp “Giáo Pháp thuỳ thế, nhơn tuy hữu bẩm giáo, bất năng tu hành chứng quả, gọi là mạt pháp.” Người tu Phật Pháp là vì điều gì? Đó chẳng phải cần tu được chính quả, cần chứng ngộ quả vị của bản thân? Nhưng “bất năng tu hành chứng quả” Thế chẳng phải là nói Phật giáo đã độ người không được nữa? Những lời xác định rõ ràng như vậy trong Phật Kinh đã tiết lộ 1 thiên cơ rằng đến thời mạt pháp Pháp của Phật thích Ca không thể độ nhân được nữa.
Hơn nữa những luận thuật trong Kinh Phật liên quan đến thời kỳ Phật giáo mạt pháp đã không độ được nhân. Cũng trong kinh điển Phật giáo “Chiêm Xác Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh” minh xác giảng đến: con người đến thời kỳ mạt pháp: “Căn cơ chậm chạp thiếu tin với Phật Pháp, người đắc Đạo rất ít, cho đến dần dần ở trong Tam Thừa (Thanh Văn Thừa (Tiểu Thừa), Duyên Giác Thừa (Trung Thừa), Đại Thừa (Bồ Tát Thừa), người tín tâm thành tựu, cũng là rất ít, tất cả người tu học Thiềm Định thế gian, phát chư thông nghiệp, tự biết định mệnh chuyển dần không còn, như vậy cuối cùng đi vào trong mạt pháp, trải qua rất lâu mới đắc Đạo, được Tín Thiềm Định thông nghiệp v…v. tất cả hoàn toàn không có.”
Hơn nữa “Đại Tập Kinh” trong Phật giáo dần dần không thể độ nhân có những miêu thuật cụ thể: nội dung trong đoạn mười bảy “phân Diêm Phù đề phẩm” của quyển thứ năm mươi năm “Nguyệt Tạng Phân” của “Đại Tập Kinh” là Phật Thích Ca bảo Thần của không gian khác, cần họ giữ hộ Phật Pháp “hộ trì dưỡng dục Phật Chánh Pháp nhãn, lịnh đắc sí nhiên”. Sau đó Phật Thích Ca giảng đến: “Nếu ta còn ở trên đời, rất nhiều người được nghe giảng Pháp, Giới hội đủ, Xã hội đủ, nghe hội đủ, Định hội đủ, Huệ hội đủ, Giải thoát hội đủ, Giải thoát chi kiến hội đủ, Chánh Pháp của Tôi cháy rực sáng lạng trên đời….bởi vì Pháp của tôi vẫn còn Giải Thoát kiên cố. Sau 500 năm, Chánh Pháp của tôi, Thiềm Định, Tam Muội được kiên cố vững chắc. Kế 500 năm, đọc tụng, nghe nhiều được kiên cố vững chắc. Kế 500 năm, ở trong Pháp tôi xây nhiều Tháp Tự được kiên cố vững chắc. Kế 500 năm, ở trong Pháp tôi, tranh giành, tranh luận, ca tụng, “Pháp rõ ràng” đã ẩn kín không còn, tổn giảm kiên cố. Không còn biết nơi thanh tịnh! cứ thế về sau, ở trong Pháp tôi, tuy cạo đi tóc râu, mặc lên áo ca-sa, huỷ phá Giới cấm, hành sử không như Pháp, là Tì Kheo giả”.
Phật Thích Ca minh xác: Phật giáo sau khi trải qua năm cái năm trăm năm, chính là sau hai ngàn năm trăm năm cũng chính là hiện tại, Phật giáo sẽ chỉ còn lại một vỏ ngoài, đến khi đó các tăng nhân “trong Pháp của ta, tuy cạo trừ râu tóc, thân mặc cà sa, nhưng họ “phá hủy giới cấm, hành không như Pháp”, đều đã là những “Tì Kheo giả”.
Theo “Phật thuyết pháp diệt tẫn kinh” ghi chép lại, Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói với Tôn giả A Nan và các tín đồ, chúng sinh có mặt lúc ấy rằng, sau khi ngài ly thế, cũng chính là vào thời kỳ mạt pháp mạt kiếp thì phật pháp mà ngài truyền sẽ bị phá hư, diệt vong. Là một người giác ngộ đại trí đại huệ, Phật Thích Ca Mâu Ni thập phần hiểu rõ vận mệnh pháp mà ngài truyền giảng.
Phật Thích Ca Mâu Ni cũng đem xã hội nhân loại lúc này gọi là “Ngũ nghịch trọc thế”, “ma đạo hưng thịnh”. Lúc này, “Ma tác sa môn phôi loạn ngô đạo”, tức là ma quỷ chuyển thế xuất gia đến chùa miểu tu hành, phá hoại pháp của ngài. Lúc ấy, sẽ bại hoại đến mức độ nào? Chính là, áo cà sa có ngũ sắc sặc sỡ, uống rượu, ăn thịt, sát sinh, tham vị, không có từ tâm hơn nữa còn có ghen tức đố kỵ lẫn nhau.
2.1. Tiên tri Phật Di Lặc giáng thế
Cùng với dự ngôn nói về Phật giáo vào thời kỳ mạt pháp Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng đã vén mở cho con người thế gian về đương lai hạ sinh Phật Di Lặc xuống thế gian độ hết thảy chúng sinh.
Kinh Phật ghi lại “Long Hoa tam hội nguyện tương phùng, sau năm mươi ức năm, Phật Di Lặc giáng thế, giảng Pháp tam biến, độ hết tất cả chúng sinh hữu duyên.”
Quyển 8 kinh “Huệ Lâm Âm Nghĩa”, có nhắc tới sự đản sinh của một đức Phật Như Lai hay một đức Chuyển Luân Thánh Vương, và sự đản sinh của Ngài sẽ đi cùng dấu hiệu nơi thế gian là những bông hoa Ưu Đàm Bà La, một loài thiên hoa nhỏ li ti trắng muốt, thân hoa mỏng như sợi tơ, trong suốt, sắc trắng như tuyết, xung quanh tỏa ra vầng sáng nhàn nhạt, có khả năng mọc trên bất kỳ chất liệu nào mà những loài hoa thông thường không thể mọc được như đồng, sắt thép, thủy tinh, keo dán, trái cây, thực vật, và những bông hoa này cũng được lưu giữ đến hàng năm không phai tàn…
Kinh Huệ Lâm Âm Nghĩa viết: “Ưu Đàm Hoa, là lược dịch sai từ tiếng Phạn Cổ. Đúng Phạn Ngữ là Ô Đàm Bạt La, nghĩa là điềm lành linh dị. Đây là thiên hoa, thế gian không có loại hoa này. Nếu Như Lai giáng sinh, Chuyển Luân Thánh Vương xuất hiện nơi thế gian con người, loài hoa này sẽ xuất hiện nhờ đại đức và đại ân của Ngài”
Quyển 4 kinh “Pháp Hoa Văn Cú” viết: “Ưu Đàm Hoa, có nghĩa là may mắn linh thiêng. Ba nghìn năm mới nở một lần, khi nở là Kim Luân Vương xuất hiện”.
Kinh Phật cũng ghi lại rằng Đức Chuyển Luân Thánh Vương là vị vua lý tưởng, người sẽ cai trị thế giới không phải bằng vũ lực mà bằng công lý. Những ai dùng thiện để đối đãi với người khác sẽ có cơ hội gặp đức Chuyển Luân Thánh Vương, bất kể người đó thuộc tôn giáo nào – Phật giáo, Cơ Đốc giáo, Khổng giáo hay một tín ngưỡng nào khác.
Lời tiên tri đã ứng nghiệm với thời đại ngày nay
2.500 năm trước, Phật Thích Ca Mâu Ni nói với đệ tử của ông rằng: “Vào thời kỳ mạt pháp, Pháp của ta không thể độ nhân được nữa, khi ấy “Chuyển Luân Thánh Vương” sẽ hạ thế truyền Chân Pháp của vũ trụ, cứu độ chúng sinh“. Ông khuyên bảo các đệ tử hậu thế của ông và con người thế gian rằng, vào thời kỳ mạt Pháp không thể ôm giữ các pháp lý trong kinh Phật, mà phải tiếp thụ Pháp mà “Chuyển Luân Thánh Vương” truyền giảng. “Nếu như Tỳ kheo đạt được tầng La Hán, mà cũng không tin Pháp này thì sẽ không có chỗ mà đi” (Trích kinh Pháp Hoa). Đây là điều mà Thích Ca Mâu Ni tiên đoán về thời kỳ “Vạn Pháp quy tông“.
Trong “Cách Am Di Lục” có viết: “Tiền vô hậu vô không nhạc dạo đầu, bất khả tư nghị bất vong xuân” để hình dung sự vĩ đại của Chân Pháp vũ trụ chưa từng có trong lịch sử, không thể tưởng tượng nổi. Đồng thời còn nói, các tôn giáo cho đến thời kì này hoàn toàn không còn độ nhân được nữa. Đây là lời Thần của hơn 400 năm trước tiên đoán về thời “Vạn Pháp quy tông” này.
Trong “Thánh Kinh”, chúa Giê-su đã dùng 3 phương diện mục đích căn dặn tín đồ của ông cùng thế nhân về thiên cơ “Vạn Pháp quy tông“.
3, Thánh Nhân đang ở đâu?
Cách tạo tượng dân gian và dự ngôn hiển rõ thiên cơ
Trong dân gian Trung Quốc bảo lưu một phương thức tạo hình Di Lặc, một pho tượng Phật cười ngạo nghễ, vây quanh có 18 tiểu hài tử, nô đùa muôn hình muôn vẻ, được gọi là “Thập bát tử Di Lặc”. Thế nhưng bí ẩn trong“Thập bát tử” (十八子) hợp thành một chữ “Lý” (李), tức báo trước Phật Di Lặc hạ thế truyền Pháp độ nhân vào thời mạt kiếp với phàm thân có họ là “Lý”. Truyền thuyết và cách tạo tượng Di Lặc thập bát tử này đã lưu truyền mãi cho đến ngày hôm nay.
Trong dự ngôn «Cách Am Di Lục» của Hàn Quốc tiên tri: “Hà vi Thánh nhân, Mộc Tử tính thị” (“Thánh nhân là ai, họ là Mộc Tử”; “Mộc Tử” (木子) ghép thành chữ “Lý” (李)), thuộc Thỏ, tháng Tư xuất sinh tại phía Bắc tam bát cấp (vĩ tuyến 38 độ Bắc phân chia Nam-Bắc Triều Tiên), Tam Thần sơn hạ (dưới chân núi Tam Thần sơn, tức Công Chủ Lĩnh dưới chân núi Trường Bạch)… Vị Thánh nhân này là “vương trung chi Vương” (Vua của các vua) trên thiên thượng, tức Pháp Luân Thánh Vương (Chuyển Luân Thánh Vương), lần này hạ thế nhân gian gọi là Di Lặc Phật.
Lưu Bá Ôn cũng từng tiên tri trong dự ngôn rằng «Thôi Bi Đồ» rằng: “Lúc ấy Di Lặc Phật thấu hư đến Nam Hạp Phù Đề thế giới trung thiên tại Trung Quốc Kim Kê mục, phụng Ngọc Thanh thời niên kiếp tận, Long Hoa hội Hổ, Thỏ chi niên đến trung thiên, nhận Mộc Tử vi tính”. Nghĩa là Phật Di Lặc tương lai sẽ chuyển sinh đến “trung thiên Trung Quốc” vào năm Thỏ, cụ thể là giáng sinh tại vị trí “mắt Gà Vàng” (Kim Kê mục) trên bản đồ Trung Quốc (chỉ tỉnh Cát Lâm), lấy “Mộc Tử” (Lý) làm họ.
Thiên cơ ngày “Lễ Phật đản và Lễ Giáng Sinh”
Ngày 13 tháng 5 là ngày “Lễ Phật đản” trong Phật giáo. Đồng thời ngày này cũng chính là ngày thứ 50 tính từ Lễ Phục Sinh năm 1951, gần như là “Lễ Thánh Linh giáng lâm” trong Cơ Đốc giáo. Tới đây, một số người thông hiểu thiên cơ đã biết được vì sao “Lễ Phục Sinh”, một ngày lễ trọng yếu của tôn giáo Tây phương lại được gọi là “Easter”, tức “người phương Đông”. Đồng thời, cũng hiểu vì sao người ta vẫn duy trì tập tục cổ xưa là Thỏ Phục Sinh (Thánh nhân thuộc Thỏ) và trứng Phục Sinh (có quan hệ với Kim Kê Trung Quốc) để kỷ niệm hoạt động này. Vào Lễ Giáng Sinh ở phương Tây, nhà nào cũng chuẩn bị và trang trí một cây thông Noel (thuộc Mộc), còn ám chỉ Thần ý huyền diệu khiến người ta kinh ngạc hơn nữa.
Nostradamus người Pháp trong tác phẩm «Các Thế Kỷ» đã tiên tri chính xác rất nhiều nhân vật và sự kiện trọng đại phát sinh tại các nơi trên thế giới mấy trăm năm qua, trong đó Các Thế Kỷ II, Khổ 29 đã dự ngôn minh xác về Chuyển Luân Thánh Vương (Cứu Thế Chủ) cứu độ chúng sinh tại nhân loại vào thời mạt thế.
Nhìn bản đồ Trung Quốc tựa hình con gà vàng (kim kê) với mắt gà tại thành phố Trường Xuân, thuộc tỉnh Cát Lâm. Ở nơi ấy có Trường Bạch sơn, một trong mười ngọn núi danh tiếng của Trung Quốc. Đỉnh núi Bạch Vân phong là ngọn núi cao nhất vùng đông-bắc Trung Quốc. Ngày 13-5-1951 (ngày 8-4 âm lịch), tại một gia đình trí thức bình dân tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc, ông Lý Hồng Chí đã giáng sinh đến nhân gian. Như vậy, qua những dự ngôn chúng ta thấy có một sự trùng hợp không hề ngẫu nhiên giữa Ngài Lý Hồng Chí người sáng lập Pháp Luân Công và vị Thánh Nhân trong những dự ngôn cho con người thời mạt Pháp. Rất có thể ông là hiện thân của Chuyển Luân Thánh Vương chuyển sinh đến nhân gian truyền Pháp độ nhân. Năm 1992 ông truyền ra Pháp của mình có tên gọi là Pháp Luân Công tại Trung Quốc và cho đến nay đã ảnh hưởng đến toàn thế giới.
4, Sáng Thế Chủ đã đến?
Trong Kinh Thánh, cho dù là Tân Ước hay Cựu Ước, đều tiên tri rằng Cứu Thế Chủ Messiah sẽ tới vào thời khắc cuối cùng của nhân loại. Theo truyền thuyết tôn giáo thì trước khi Cứu Thế Chủ Messiah tới nhân gian, một dấu hiệu là người Israel phục quốc, sau đó người ta có thể nhìn thấy Cứu Thế Chủ Messiah.
Đại chiến thế giới thứ II kết thúc, người Israel sau khi trải qua mấy nghìn năm lưu lạc trên thế giới cuối cùng đã phục quốc. Ngày 13 tháng 5 năm 1948, trong đại hội Do Thái, Jerusalem đã tuyên bố bản tuyên ngôn về “Israel phục quốc”. Tuy xã hội chủ lưu Tây phương là Cơ Đốc giáo, Thiên Chúa giáo, v.v. nhưng Israel là Do Thái giáo, bởi vậy nhằm khống chế Jerusalem (một điều kiện để Thần trở lại), trong hơn nửa thế kỷ qua, xã hội chủ lưu Tây phương đã một mực duy trì giúp đỡ Israel. Về điểm này, họ đã hoàn toàn gác sang một bên sự phân tranh tôn giáo trong lịch sử.
Tại Đông phương cũng có ghi chép về một tín hiệu trọng đại báo hiệu Phật Di Lặc tương lai (Chuyển Luân Thánh Vương) hạ thế. Quyển 8 Kinh Phật «Huệ Lâm Âm Nghĩa» ghi rõ: “Ưu Đàm Bà La hoa là loài hoa linh dị mang điềm lành, tức Thiên hoa, trên thế gian không có. Khi Như Lai hạ thế, Kim Luân Vương xuất hiện ở thế gian, thì nhờ đại phúc đức của Ngài mà xuất hiện loài hoa này”.
Kinh Phật «Vô Lượng Thọ» cũng ghi lại như sau: “Ưu Đàm Bà La hoa là dấu hiệu báo điềm lành”. Còn theo quyển 4 kinh «Pháp Hoa Văn Cú» thì: “Ưu Đàm hoa, có nghĩa là may mắn linh thiêng. Ba nghìn năm mới nở một lần, khi nở là Kim Luân Vương xuất hiện”.
Kể từ năm 1992, tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan, Hồng Kông, Malaysia, Singapore, Australia, các tiểu bang nước Mỹ, Canada, các tỉnh Trung Quốc, người ta liên tục phát hiện hoa Ưu Đàm Bà La thánh khiết khai nở. Chúng ta có thể tìm thấy trên mạng và chiêm ngưỡng phong thái cao quý thánh khiết của loài hoa này. Hoa Ưu Đàm không có rễ, không có lá, không có nước, không có đất; có thể mọc trên thủy tinh, sắt thép, tượng Phật, lá cây, hộp giấy và cả băng keo, có hoa mọc hơn 1 năm nhưng vẫn sinh cơ bừng bừng. Từ xưa tới nay chưa gặp bao giờ, nay các nhà thực vật học đã tận mắt chứng kiến. Năm nay (2011), theo Phật ký là năm 3038, hoa Ưu Đàm Bà La đã thịnh khai tại các nơi trên thế giới, thực đúng là thiên thượng ban tặng.
Làm sao để nhận ra Ngài
Trong những lời tiên tri cũng có ám chỉ, đặc biệt là Thiêu Bối Ca của Lưu Bá Ôn có ghi rõ rằng: “Bậc giác giả tương lai hạ phàm, không sinh trong nhà quan viên, không tại hoàng cung thái tử, không trong chùa hay đạo quán, mà tại vùng quê mùa đồng nội, ở nơi vùng Đông Bắc”.
Tức không phải vương công đại thần, cũng không phải người đứng đầu tôn giáo, mà là sinh ra ở một gia đình bình dân, tựa giống như chúa Giê-su, là con của một người thợ mộc.
Chúng ta không thể sáng tạo lịch sử, nhưng lịch sử hình thành chính là để nhắc nhở chúng ta điều gì đó, để cho chúng ta có thể tìm được đáp án. Vậy nên Thánh nhân sẽ tựa như chúa Giê-su đến thế gian và truyền ra Chân Pháp của mình độ hết thảy chúng sinh. Theo tiên đoán, Sáng Thế chủ sẽ đến để tiến hành đại thẩm phán cuối cùng. Theo Châu Phi, các Pharaông Ai Cập đợi chờ các vị thần đến thức tỉnh họ, người Maya Nam Mỹ đã tính toán về thời kỳ vũ trụ canh tân, mọi người đều đang chờ đợi một sự kiện trọng đại của lịch sử chắc chắn sẽ phát sinh. Mênh mông khắp trời đất, đều lưu lại những huy hoàng của nền văn minh cổ xưa được thuật lại trong những truyền thuyết.
3.1. Vạn Pháp quy tông
Chúng ta đang ở trong thời kỳ vĩ đại nhất, thời kỳ vạn pháp quy tông
Chúng ta đang sống vào thời đại vĩ đại nhất – thời kỳ “Vạn Pháp quy tông“. Đối mặt với thời kỳ này, có người thì phấn khởi, cảm thấy may mắn, có người đã chấn động, suy xét một cách tích cực, mà cũng có người không động tâm, không nghĩ không tin.
2.500 năm trước, Phật Thích Ca Mâu Ni nói cho đệ tử của ông rằng, vào thời mạt pháp, Pháp của ông không thể độ nhân được nữa, lúc đó sẽ có “Chuyển Luân Thánh Vương” hạ thế truyền Chân Pháp Vũ trụ, cứu độ chúng sinh. Ông khuyên bảo các đệ tử hậu thế của ông và con người thế gian rằng, vào thời kỳ mạt Pháp không thể ôm giữ các pháp lý trong kinh Phật, mà phải tiếp thụ Pháp mà “Chuyển Luân Thánh Vương”truyền giảng. “Nếu như Tỳ kheo đạt được tầng La Hán, mà cũng không tin Pháp này thì sẽ không có chỗ mà đi” (Trích kinh Pháp Hoa). Đây là điều mà Thích Ca Mâu Ni tiên đoán về thời kỳ “Vạn Pháp quy tông“.
Trong “Cách Am Di Lục” có viết: “Tiền vô hậu vô không nhạc dạo đầu, bất khả tư nghị bất vong xuân” để hình dung sự vĩ đại của Chân Pháp vũ trụ chưa từng có trong lịch sử, không thể tưởng tượng nổi. Đồng thời còn nói, các tôn giáo cho đến thời kì này hoàn toàn không còn độ nhân được nữa. Đây là lời Thần của hơn 400 năm trước tiên đoán về thời “Vạn Pháp quy tông” này.
Trong “Thôi bối đồ” của Lưu Bá Ôn đối với sự việc này có viết: “Lúc năm mọi người đều biết ba chữ, không cho là đúng, những âm thanh hình ảnh lăng mạ, thần khóc quỷ khóc, chúng sinh không biết như thế nào.’ Một kéo, hai kéo (kéo dài), ba đợi, chúng sinh không tỉnh ngộ”. “Chúng sinh vẫn đang không tin, chửi rủa phỉ báng, phô thiên cái địa, người tin theo cái ác sẽ bị hạ xuống địa ngục”.
Trong “Thánh Kinh”, chúa Giê-su đã dùng 3 phương diện mục đích căn dặn tín đồ của ông cùng thế nhân về thiên cơ “Vạn Pháp quy tông“.
Thứ nhất: Chúa Giê-su nói rõ rằng Ông vì “Chỉ dẫn của đấng tối cao” mà đến đây, trong “Khải huyền” viết: “Chủ Thần là đấng hiện có, đã có và đang đến, hiện tại có, vĩnh viễn là đấng toàn năng”, “Thánh Gio-an làm chứng cho Đạo của Thần và Đức Giê-su Ki-tô, cho đến hết thảy những gì bản thân mình nhìn thấy, những gì mình được chứng kiến, đều chứng minh ra”.
Đức Giê-su Ki-tô là “người làm chứng cho sự thành tín và chân thật“, “Trước hết, người sống lại từ cõi chết, là quân chủ nơi thế gian“. Những mô tả này chứng minh rằng Chủ Thần (Vương của các Vương) có địa vị chí tôn của vũ trụ, đồng thời cũng nói rõ Chúa Giê-su dùng quá trình truyền đạo để làm chứng cho “Đạo của Thần”.
Thứ hai: Chúa Giê-su căn dặn tín đồ của ông phải chấp nhận ấn ký của chủ Thần. Tại chương 7 “Khải huyền”: “144 nghìn người thụ ấn“, và chương 14: “144 nghìn người hát khúc khải hoàn”, miêu tả rằng thiên sứ sẽ đến từ miền đất Mặt trời mọc (Phương Đông trung thổ), mang theo dấu ấn vĩnh hằng của Chủ Thần, dấu ấn trên trán minh chứng cho những tôi tớ trung thành với Người.
Điều này là để nói cho các tín đồ, những thiên sứ đến từ phương Đông sẽ cho các tín đồ cơ đốc giáo nhận thức được Chân Pháp của vị chủ Thần của vũ trụ, nhờ đó các tín đồ sẽ đứng dưới ngai vàng của chủ Thần mà hát khúc tân ca, lấy lời răn này để nói với họ không nên lại đọc kinh sách cũ mà nên đọc Chân Pháp của vũ trụ.
Tại “Khải huyền” chương 9 có viết: “Duy chỉ có tổn thương trên những người không có ấn ký của thần”, khuyên bảo con người rằng chỉ có thụ nhận Chân Pháp của vũ trụ mới – tinh thần căn bản của vũ trụ mới là chân thành, lương thiện, khoan dung thì mới có khả năng miễn gặp kiếp nạn, mới có thể tiến nhập vào “Danh sách sinh mệnh” của Thần, tiến vào kỷ nguyên mới của nhân loại.
Thứ 3: Chúa Giê-su khuyên răn các tín đồ “chỉ có” dùng Chân Pháp của vũ trụ để gột rửa sạch sẽ bản thân mới có thể tu thành chánh quả.
Trong “Khải huyền” chương 22 có viết: “Sử dụng nước sông sự sống trong thành Jerusalem mà tắm sạch y phục của mình rồi đợi lời truyền”. Điều nói cho các tín đồ rằng chỉ có tin theo Chân Pháp của vũ trụ tu tâm (thăng hoa chính mình), mới có thể đạt chính quả.
Trong “Cách Am Di Lục” có viết: “Tiền vô hậu vô không nhạc dạo đầu, bất khả tư nghị bất vong xuân” để hình dung sự vĩ đại của Chân Pháp vũ trụ chưa từng có trong lịch sử, không thể tưởng tượng nổi. Đồng thời còn nói, các tôn giáo cho đến thời kì này hoàn toàn không còn độ nhân được nữa. Đây là lời Thần của hơn 400 năm trước tiên đoán về thời “Vạn Pháp quy tông” này.
Trong lịch sử đã cung cấp rất nhiều điều kiện tu luyện cho thánh đồ Chân Pháp, tất cả những người từng tu luyện trong các chính giáo có không ít những sinh mệnh cao tầng vì sự hồng truyền của Chân Pháp mà hạ xuống thế gian. Có người từng trực tiếp nghe Thích Ca Mâu Ni và chúa Giê-su giảng pháp. Cho nên, để làm đệ tử của Chân Pháp ngày hôm nay, rất nhiều người từng ở trong các chính giáo lớn, tu tâm, tiêu nghiệp, trải qua quá trình tu luyện tăng cường chính tín. Từ đó đã định ra nền móng quan trọng cho việc bảo vệ và hồng dương của Chân Pháp của vũ trụ.
Lưu lại rất nhiều lời tiên tri liên quan đến Chân Pháp vũ trụ, những lời tiên tri này là một bộ phận cấu thành của văn hóa Thần truyền. Những lời dự ngôn, tiên tri về những chuyện trọng đại của nhân loại tương lai, rất nhiều là được truyền xuất ra từ những người tu luyện trong các Chính giáo lớn. Những lời tiên tri trong Kinh Thánh và kinh Phật chính là lời nhắc nhở, cảnh tỉnh của chúa Giê-su và Thích Ca Mâu Ni cho con người thế gian sau này, cuối cùng cũng là vì sự hồng dương của Chân Pháp vũ trụ và cứu độ chúng sinh mà khởi tác dụng trọng yếu.
Vào thời đại “Vạn pháp quy tông”, Chân Pháp đã gặp phải đủ loại ma nạn, làm cho quỷ thần rơi lệ. Rất nhiều thế nhân ở trong mê không ngộ, “Vương của các Vương” một lần nữa chờ đợi.
3.2. Đại Pháp Hồng truyền
Đến hôm nay khi tất cả đều trong vô vàn nguy hiểm, con người thời hiện đại đã không còn tâm Pháp để ước chế và câu thúc đạo đức. Thời kỳ mạt Pháp chính là hôm nay, những lời tiên tri và dự ngôn của các vị Phật, Thần đã và đang tái hiện ở nhân gian. Thì ở Trung Quốc xuất hiện một Thánh nhân truyền Pháp lý dạy con người cách quay trở về phản bổn quy chân. Hiện nay đã truyền rộng khắp 114 quốc gia, hơn 100 triệu người tu luyện tất cả đều không phân biệt giàu nghèo, giới tính, chức vị, tuổi tác.
Đó là Pháp Luân Công hay còn gọi là Pháp Luân Đại Pháp được Ngài Lý Hồng Chí truyền xuất ra công chúng vào năm 1992, tính đến nay trải qua gần 2 thập kỷ bị đàn áp từ chính quyền Trung Quốc, Pháp Luân Đại Pháp vẫn đang được nhân dân Trung Quốc và người trên thế giới chào đón, người truyền người, tâm truyền tâm. Tu luyện Pháp Luân Đại Pháp lấy việc đồng hóa đặc tính tối cao của vũ trụ Chân – Thiện – Nhẫn để chỉ đạo sự tu luyện từ đó sự có sự thăng hoa về tư tưởng và đạt đến cảnh giới rất cao về sự giác ngộ của sinh mệnh. Đây là Chân Pháp của vũ trụ được truyền cấp một lần cuối cùng cho nhân loại vào thời kỳ mạt pháp cũng là thời điểm cuối cùng trong quy luật Thành -Trụ -Hoại- Diệt của vũ trụ. Đó là sự từ bi vô lượng với chúng sinh của Phật Chủ là “Vương của các vương“, cũng là sự may mắn không gì sánh nổi của những người được sinh ra ở trong thời đại vĩ đại “Vạn pháp quy tông” này.
Trong những năm Chân Pháp vũ trụ Hồng dương, hàng trăm triệu đệ tử Đại Pháp đã trải qua đủ loại khổ nạn. Bất kể nguy hiểm đến sinh mệnh, vẫn đem chân lý truyền khắp địa cầu đến từng nơi hẻo lánh, rất nhiều thánh đồ vì thế mà phải mất đi thân thể xác thịt ở thế gian này. Cho đến bây giờ các đệ tử vẫn kiên định không lay chuyển, chân bước không ngừng trệ trên con đường chứng thực Pháp của mình.
via: https://tapchitrithuc.com/phap-luan-cong-va-du-ngon-thoi-mat-phap/
0 notes