Tumgik
#kinh dịch bát quái
thuvientamlinh · 2 years
Text
Bí Ẩn Thân Thế Thiệu Ung, Người Khai Phá Ra Kỹ Thuật Máy Tính Cách Đây 1000 Năm - Tâm Linh Cuộc Sống
Bí Ẩn Thân Thế Thiệu Ung, Người Khai Phá Ra Kỹ Thuật Máy Tính Cách Đây 1000 Năm – Tâm Linh Cuộc Sống
Một thư sinh nghèo thần cơ diệu toán, diễn giải Kinh Dịch, sáng tạo Mai Hoa Dịch Số, suy đoán lịch sử quá khứ suốt trên 3000 năm, được các nhà sử học hiện đại xác nhận chính xác. Ông còn là sư tổ của ngành Toán mệnh học, và đại sư Lý học, đặt nền tảng cho công nghệ máy tính hiện đại. Ông chính là Thiệu Ung, đại sư lý học và mai hoa dịch số. Ngay bây giờ, mời quý thính giả cùng Tâm Linh Cuộc Sống…
Tumblr media
View On WordPress
0 notes
thuyhangsptvn · 2 months
Text
Gieo quẻ kinh dịch
Từ thời kỳ vũ trụ vô cực còn hỗn mang, sự biến hóa về âm dương đã bắt đầu với sự xuất hiện của thái cực, từ đó hình thành lưỡng nghi âm dương. Âm dương thống nhất, đối kháng và chuyển hóa lẫn nhau, tạo nên tứ tượng và tiếp tục sinh ra bát quái gồm: Ly, Chấn, Tốn, Càn, Cấn, Khôn, Đoài, Khảm, phát triển thành 64 quẻ Kinh Dịch.
Theo truyền thuyết, nguồn gốc của Kinh Dịch bắt đầu từ thời vua Phục Hy (Trung Hoa), khi ông viết ra Thiên Đồ, gọi là Tiên Thiên Bát Quái. Đến thời vua Văn Vương (nhà Chu), ông soạn ra thoán từ, tức là dịch nghĩa tổng quan, để phát triển thành Hậu Thiên Bát Quái. Chu Công sau đó tiếp tục xây dựng tượng quẻ và phát triển hào từ cho các trường hợp cụ thể sau khi gieo quẻ. Đến thời Khổng Tử, ông giải nghĩa kỹ lưỡng thoán từ và hào từ, tạo nên thập dực. Cuối cùng, Kinh Dịch được hoàn thiện về tượng quẻ, chú giải và văn tự như ngày nay.
Trải qua hàng ngàn năm nghiên cứu và chỉnh sửa, nội dung Kinh Dịch ngày càng được bổ sung, hoàn thiện để phù hợp với mục đích diễn giải ý nghĩa và truyền đạt toàn bộ tinh hoa một cách rõ ràng và bài bản nhất.
Xem thêm thông tin tại: https://simphongthuy.vn/gieo-que-kinh-dich
Tumblr media
0 notes
vu-tat-thanh · 2 months
Text
La Kinh Phong Thủy: Đưa May Mắn Đến Mọi Nhà
Phong thủy từ lâu đã trở thành một phần quan trọng trong văn hóa Á Đông, và la kinh phong thủy chính là công cụ không thể thiếu trong việc ứng dụng phong thủy vào đời sống. Với sự kết hợp giữa tri thức cổ truyền và kỹ thuật hiện đại, la kinh phong thủy giúp người sử dụng xác định chính xác các phương vị cát hung, từ đó bố trí không gian sống hợp lý hơn. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về công dụng, cấu tạo và cách sử dụng la kinh phong thủy một cách hiệu quả nhất trong bài viết này.
Tumblr media
La kinh phong thủy là gì?
La bàn, hay còn gọi là la kinh, la canh, hoặc la kinh bàn, là một công cụ quan trọng trong phong thủy được sử dụng để xác định hướng chính xác của các cấu trúc và vật phẩm trong không gian sống.
Tumblr media
Cấu tạo La kinh phong thuỷ
Cấu tạo của La kinh gồm 3 phần chính đó là: thiên trì, nội bàn, ngoại bàn.
Thiên trì
Thiên trì trong la kinh phong thuỷ có hình trụ tròn tiêu chuẩn, với đáy được định vị ở góc vuông tại điểm giao của đường chữ thập. Kim nam châm cố định ở đỉnh phải thẳng, từ tính đủ mạnh và hai đầu cân đối về trọng lượng. Nắp thiên trì làm từ thuỷ tinh, nhựa để tạo ra tĩnh điện và giữ kim nam châm ổn định khi xoay thiên trì.
Khi đặt thiên trì vào nội bàn, phải chú ý hướng Bắc của thiên trì trùng với trung tâm Tý sơn của nội bàn, đảm bảo sự chính xác trong đo lường và phân tích phong thủy.
Nội bàn
Nội bàn của la kinh phong thuỷ là phần bên trong có các hệ thống chỉ số và dấu chỉ phong thủy quan trọng. Nó được sử dụng để đo đạc và phân tích các yếu tố như mệnh số, ngũ hành, can chi và các hướng vị trí quan trọng trong không gian sống và làm việc. 
Nội bàn giúp thầy phong thuỷ thẩm định và điều chỉnh vị trí của các yếu tố quan trọng như cửa chính, giường ngủ, bàn làm việc, để đảm bảo sự hài hòa và cân bằng năng lượng.
Ngoại bàn
Tumblr media
Công dụng của La kinh phong thủy
La kinh phong thủy giúp xác định các vị trí chính yếu trong ngôi nhà của gia chủ một cách dễ dàng, từ bản vẽ, sơ đồ cho đến khảo sát thực địa. Công cụ này hỗ trợ việc thẩm định và điều chỉnh không gian sống, đảm bảo sự hài hòa và cân bằng năng lượng.
Các loại La kinh phong thuỷ hiện nay
Hiện nay, La kinh phong thuỷ được chia thành 2 nhóm chính: Phân loại theo thiết kế và phân loại theo chủng loại.
Phân loại theo thiết kế
Theo thiết kế thông thường, la kinh có hai dạng phổ biến:
La kinh 36 tầng: Đây là loại la kinh phức tạp với nhiều tầng chi tiết, giúp thầy phong thủy xác định hướng và vị trí một cách chính xác.
La kinh 24 sơn hướng: Tập trung vào 24 hướng chính, loại la kinh này thường được sử dụng để xác định các vị trí cơ bản và dễ sử dụng hơn.
Tumblr media
Ngoài ra, la kinh còn được sản xuất với nhiều kích thước khác nhau, từ loại lớn và chi tiết đến loại nhỏ gọn bỏ túi, phù hợp với nhu cầu sử dụng của từng người.
Phân loại theo chủng loại
La kinh phong thủy được chia thành ba loại chủ yếu như sau:
La kinh Tam hợp: Loại la kinh này có  24 phương vị và 3 tầng chính là địa bàn chính châm, nhân bàn trung châm và thiên bàn phùng châm. Sự kết hợp các tầng và phương vị giúp người dùng xác định hướng một cách dễ dàng.
La kinh Tam nguyên: Cấu tạo gồm 1 tầng với 24 phương vị và thêm tầng 64 quẻ dịch, giúp phân tích phong thủy chi tiết hơn.
La kinh tổng hợp: Thiết kế phức tạp với nhiều tầng và nhiều phương vị, nội dung khó hiểu, phù hợp cho các chuyên gia phong thủy chuyên sâu.
La kinh phong thủy, với sự đa dạng về thiết kế và chủng loại, đáp ứng nhu cầu sử dụng của nhiều đối tượng, từ người mới bắt đầu học phong thủy đến các chuyên gia phong thủy..
Các tầng trong La kinh phong thủy
Thiên trì: Lắp đặt kim chỉ nam khác nhau giữa la bàn nước và la bàn khô.
Tiên thiên bát quái: Gồm 8 quái, sắp xếp theo thứ tự tiên thiên, mỗi phương vị cách nhau 45 độ. Ví dụ: Càn Nam, Khôn Bắc.
Hậu thiên bát quái: Phương vị hậu thiên gồm: Ly Nam, Khảm Bắc, Chấn Đông, Đoài Tây, Tốn Đông Nam, Cấn Đông Bắc, Khôn Tây Nam, Càn Tây Bắc.
12 vị địa chi: Gồm 12 địa chi như Tý, Sửu, Dần,… mỗi chi cách nhau 30 độ, ví dụ: Ngọ chỉ Nam, Tý chỉ Bắc.
Tọa gia cửu tinh: Phối hợp cửu tinh với ngũ hành để xác định phương hướng và phương vị.
Nhị thập tinh: Gồm 24 thiên tinh, giải thích quan niệm “thiên tinh hạ ứng”.
Kim chính của địa bàn: Gồm 3 bàn: địa bàn chính châm, thiên bàn phùng châm, và trung châm, phân thành 24 sơn, mỗi sơn 15 độ.
Tiết khí 4 mùa: Thể hiện 24 tiết khí trong năm, như Lập xuân, Vũ thủy, Kinh trập,…
Xuyên sơn Thất thập nhị long: Gồm 60 Giáp Tý cộng thêm bát can tứ duy, tổng cộng 72 long, khởi Giáp Tý với Nhâm Mùi.
Ngũ gia Ngũ hành: Bao gồm Ngũ hành, song sơn Ngũ hành, bát quái Ngũ hành, huyền không Ngũ hành, và hồng phạm Ngũ hành. Các chuyên gia phong thủy sử dụng để phân tích âm dương, xác định cát hung của trạch.
Tumblr media
Cách sử dụng La kinh phong thủy
Hướng dẫn sử dụng La kinh trong phong thủy nhà ở
Gia chủ nên đảm bảo khi sử dụng la kinh để xem hướng nhà không có đồ vật kim loại xung quanh để tránh ảnh hưởng đến độ chính xác của la kinh.
Đo hướng nhà: Đặt la kinh tại tâm nhà, sao cho đường chỉ đỏ dọc của la kinh hướng thẳng ra trước nhà. 
Đo hướng cửa: Đặt la kinh tại vị trí ngạch cửa sao cho đường chỉ đỏ hướng theo.
Xác định vị cửa: Xác định cửa mở thuộc sơn hướng nào dựa vào tâm nhà và hướng nhà theo 24 sơn hướng.
Tumblr media
Hướng dẫn sử dụng La kinh theo cung trạch
Bước 1: Xác định mệnh trạch của gia chủ
Có hai loại mệnh trạch cơ bản sau:Đông Tứ Trạch Tây Tứ Trạch Chấn: hướng Đông
Ly: hướng Nam
Khảm: hướng Bắc
Tốn: hướng Đông NamCàn: Tây Bắc
Khôn: Tây Nam
Cấn: Đông Bắc
Đoài: Tây Nhóm người có quái số là 1, 3, 4, 9Nhóm người có quái số là 2, 6, 7, 8
Sau khi có được quái số gia chủ có thể xác định được cung mệnhSốCung mệnh với Nam Cung mệnh với Nữ 1Cung Khảm Cung Cấn 2Cung Ly Cung Càn 3Cung Cấn Cung Đoài 4Cung Đoài Cung Cấn 5Cung CànCung Ly 6Cung Khôn Cung Khảm 7Cung Tốn Cung Khôn 8Cung Chấn Cung Chấn 9Cung Khôn Cung Tốn 
Dựa vào năm sinh và giới tính, tính quái số để xác định cung trạch. Ví dụ, người sinh năm 1995 có quái số là 6 (1 + 9 + 9 + 5 = 24, 2 + 4 = 6) . Nam sẽ có cung Đoài, nữ sẽ có cung Càn.
Bước 2: Xác định hướng La kinh phong thủy dựa vào cung trạch
Dựa vào cung trạch để lựa chọn tầng la kinh phù hợp như sau:
Cung Cấn (Đông Bắc): Chọn tầng 16 – 15. Đo cửa chính hướng Bắc, sau khi áp dụng la kinh sẽ hiện ra cung Ngũ Quỷ.
Cung Càn (Tây Bắc): Chọn tầng 10 – 9. Đo cửa chính hướng Bắc, sau khi áp dụng la kinh vào sẽ hiện ra cung Lục Sát.
Cung Đoài (Đông Nam): Chọn tầng 12 – 11. Đo cửa chính hướng Bắc, sau khi áp dụng la kinh vào sẽ hiện ra cung Họa Hại.
Cung Khôn (Tây Nam): Chọn tầng 14 – 13. Đo cửa chính hướng Bắc, sau khi áp dụng la kinh sẽ thực hiện cung Tuyệt Mạng.
Cung Chấn (Đông): Chọn tầng 2 – 1. Đo cửa chính hướng Bắc, sau khi áp dụng la kinh sẽ hiện ra cung Thiên Y.
Cung Khảm (Bắc): Chọn tầng 6 – 5. Đo cửa chính hướng Bắc, sau khi áp dụng la kinh vào sẽ hiện ra cung Phục Vị.
Cung Ly (Nam): Chọn tầng 8 – 7. Đo cửa chính hướng Bắc, sau khi áp dụng la kinh sẽ hiện ra cung Phước Đức.
Cung Tốn (Đông Nam): Chọn tầng 4 – 3. Đo cửa chính hướng Bắc, sau khi áp dụng la kinh sẽ hiện ra cung Sinh Khí.
Tumblr media
Lý giải một số khái niệm cần biết khi sử dụng La kinh phong thủy
Để giúp gia chủ hiểu rõ hơn về cách sử dụng la kinh phong thủy, hãy tham khảo một số thuật ngữ quan trọng sau đây:
Sinh khí: Là cung quan trọng mang lại sức sống và sinh lực mạnh mẽ. Nó có tác dụng tích cực đối với sự nghiệp và danh vọng, đặc biệt là đối với nam giới. Tuy nhiên, không nên đặt nhà vệ sinh hay kho chứa đồ trong cung này vì có thể ảnh hưởng đến sức khỏe và thành công trong công việc.
Thiên y: Là cung liên quan đến sức khỏe và tài lộc, đặc biệt có lợi cho phụ nữ. Để tận dụng tối đa lợi ích của cung Thiên Y, nên tránh đặt các không gian như nhà vệ sinh hay kho để giữ cho không gian ổn định và hòa thuận.
Diên niên: Thuộc cung mang đến lợi ích cho sự nghiệp ngoại giao và các mối quan hệ gia đình. Để gia đình thêm thịnh vượng và trường thọ, hãy tránh đặt những không gian như nhà vệ sinh hay kho trong cung Diên Niên.
Phục vị: Là cung đảm bảo sự ổn định. Việc đặt nhà vệ sinh hay kho ở đây có thể gây bất an cho gia chủ và làm giảm đi lợi ích của cung này trong việc duy trì sự ổn định trong gia đình.
Tuyệt mệnh: Là cung mang tính tiêu cực, thường gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe và tâm trí. Để tránh những tác động xấu từ cung Tuyệt Mệnh, nên hạn chế đặt những không gian như nhà vệ sinh hay phòng kho ở đây.
Ngũ quỷ: Là cung khó khăn, thường mang lại những vấn đề về sức khỏe và mất mát. Để chuyển hóa năng lượng xấu thành tích cực, có thể đặt nhà vệ sinh hay phòng kho trong cung Ngũ Quỷ.
Lục sát: Là cung xấu, thường gây hại đến sự nghiệp và quan hệ tình cảm. Để giảm thiểu tác động xấu, nên đặt những không gian như nhà vệ sinh hay kho ở đây.
Hoạ hại: Cung xấu có thể gây rắc rối về gia đình và pháp luật. Để tăng cường may mắn và hòa thuận trong gia đình, nên tránh đặt những không gian như nhà vệ sinh hay kho trong cung Hoạ Hại.
Tumblr media
Mua La kinh phong thủy tiếng Việt ở đâu?
Tại Trung tâm Phong Thuỷ Đại Nam cung cấp La kinh với kích thước lớn và nhỏ khác nhau. Ngoài la kinh, trung tâm còn cung cấp các vật phẩm phong thuỷ khác như: đá phong thuỷ, sách phong thuỷ,…
Tumblr media
Nếu quý gia chủ có nhu cầu cụ thể hoặc muốn biết thêm thông tin về các sản phẩm và dịch vụ khác thì có thể tham khảo trực tiếp trên trang web của Đại Nam hoặc liên hệ trực tiếp với trung tâm.
La kinh phong thủy không chỉ là một công cụ đo hướng nhà mà còn là một phần không thể thiếu trong nghiên cứu và áp dụng phong thủy. Thông qua bài viết của Phong Thuỷ Đại Nam gia chủ sẽ hiểu hơn về la kinh và cách ứng dụng nó vào cuộc sống hằng ngày.
Nguồn: https://phongthuydainam.vn/la-kinh-phong-thuy/
Website: https://phongthuydainam.vn/
#phongthuydainam #lakinhphongthuy
0 notes
metruyenfullchu · 8 months
Text
NHÂN VẬT PHẢN DIỆN NÀY CÓ CHÚT LƯƠNG TÂM, NHƯNG KHÔNG NHIỀU
Ba so Q, hoàn tất vung hoa! Tần Phong tuyệt vọng mắng to lão thiên gia, có TM dạng này chơi người sao! ?
Vài ngày trước, hắn còn đang vì lão bản sang năm có thể lấy được tiểu lão bà mà cố gắng đánh ốc vít, nhưng ai biết rõ chẳng biết tại sao liền bị nấu lại tái tạo, biến thành một cái ngay tại mẹ thai bên trong hèn mọn phát dục hài nhi.
Góp nhặt mấy ngày tin tức phát hiện, cái này còn không phải hắn thế giới cũ, là cái tên là Hoang Cổ huyền huyễn thế giới. Yêu ma cùng tồn tại, tiên phàm hỗn hợp, đại năng giả có thể khai sơn đoạn sông, hô phong hoán vũ, quan sát thiên địa, một lời chấn Cửu Châu.
Vốn cho rằng liền hắn loại này thường thường không có gì lạ, ném đến trên đường cái liền chó cũng không quay đầu lại, đi cái trình duyệt đều có thể ngộ nhập lạc lối cá ướp muối, sẽ ở loại này huyền huyễn thế giới sống không quá ba tập.
Đáng kinh ngạc vui bây giờ tới quá đột nhiên, cha của hắn lại là Tần gia gia chủ. Tần gia thế nhưng là cao thủ nhiều như mây, thiên tài bối xuất, uy chấn Hoang Cổ. . . Có Hoang Cổ đệ nhất thế gia danh xưng.
Cường đại bối cảnh, nhường hắn có thể tại Hoang Cổ đi ngang, không có chuyện gì, là hô một tiếng cha không giải quyết được. Nếu có, liền lại hô một tiếng mẹ! Hắn vị này mẹ ruột địa vị cũng không nhỏ, là cái gì ba đại thánh địa một trong, Thái Bạch tiên sơn Thánh Nữ.
Nếu là kêu cha mẹ đều vô dụng, trong gia tộc còn có mười vị lão tổ cấp bậc cao thủ tọa trấn, chỉ cần không trêu chọc tự mang nhân vật chính quang hoàn biến thái nhân vật chính, còn không phải nghĩ chơi như vậy cứ như vậy chơi. Còn nhân vật chính? ! Thật sự là tiểu thuyết đã thấy nhiều!
Tần Phong bắt đầu cảm thấy mình nhất định là nghĩ nhiều, thế giới hiện thực làm sao lại có loại kia treo bức, mấy đời người cố gắng không bằng mao đầu tiểu tử một trận kỳ ngộ, thật sự là có đủ khôi hài. Nhưng ai biết rõ, một giây sau hắn liền không cười được.
Hôm nay cái kia vị chưa từng gặp mặt mẹ ruột cùng thường ngày, uống xong một bát Tần gia tỉ mỉ vì nàng điều phối tiên dịch. Này tiên dịch có được thần kỳ lực lượng, uống nó có thể cường hóa tiểu bảo bảo tiềm lực, uống càng nhiều tiềm lực liền càng mạnh.
Vì có thể để cho Tần gia vị này tiểu bảo bảo xuất sinh liền ở lúc hàng bắt đầu bên trên, Tần gia vì thế còn không tiếc sử dụng bí pháp trì hoãn hắn xuất sinh 100 năm, hiện nay đã 97 năm, lại có 3 năm liền có thể ra đời.
Chỉ là hôm nay không đợi Tần Phong bắt đầu hấp thu, tiên dịch liền hóa thành năng lượng bị cái gì đồ vật cho hấp thu, đối phương càng là vẫn chưa thỏa mãn, bắt đầu điên cuồng cướp đoạt trong cơ thể hắn năng lượng.
Nhường tinh thần của hắn lập tức liền uể oải, so sánh với đời cùng bạn gái một chỗ hai mươi ngày còn mệt hơn, cũng làm cho hắn phát hiện nơi này cũng không phải là ở một mình hắn, còn có cái kinh khủng như vậy tiểu gia hỏa ở bên cạnh hắn.
Nếu là chiếu hắn dạng này hít xuống dưới, không cần chính mấy ngày liền phải GG. “Đây rốt cuộc là cái gì quái vật! ?” Tần Phong trong lòng cảm thấy không gì sánh được hoảng sợ, muốn rời xa cái này kinh khủng quái vật.
Nhưng bây giờ cứ như vậy lớn địa phương, hắn thật sự là không chỗ có thể trốn, chỉ có thể trơ mắt nhìn xem thể nội năng lượng bị một chút xíu hấp thu. Đúng lúc này —— Tần Phong trong đầu vang lên một thanh âm, “Leng keng, kiểm tra đến Sử Thi cấp thiên tuyển chi tử, hệ thống bắt đầu kích hoạt. . .”
“Quái vật này chính là nhân vật chính! ?” Tần Phong giống như kinh ngạc đến ngây người lão thiết, trong lòng không hiểu khủng hoảng bắt đầu.
Mọi người đều biết, nhân vật chính người nhà là cái cao nguy chức nghiệp, không phải bị diệt khẩu mở ra kịch bản, chính là ảnh hưởng nhân vật chính tăng lên sức chiến đấu, cuối cùng xuống cái bị tế thiên hạ tràng.
Coi như có thể thành công cẩu đến cuối cùng sống sót, cũng là bị vận mệnh vô tình đè xuống đất lặp đi lặp lại ma sát đến thể xác tinh thần đều mệt, từ đây lại khó mở ra hùng phong.
Tựa như là vì chứng thực Tần Phong phỏng đoán, hắn thế mà thấy được nhị đệ nhân vật chính quang hoàn thuộc tính. Sử Thi cấp nhân vật chính quang hoàn: Vạn năm khó gặp Sử Thi cấp nhân vật chính chuyên môn quang hoàn, không có bất luận cái gì đạo lý có thể giảng, đừng hỏi, hỏi chính là thiết lập.
May mắn giá trị tăng thêm 9999+ Ngộ tính giá trị tăng thêm 9999+ Mức tiềm lực tăng thêm 9999+ Mị lực giá trị tăng thêm 9999+ Thân nhân đầu thai dẫn đầu 50% Chú thích: Như gặp nguy cơ sinh tử, quang hoàn sẽ khởi động ngoài định mức tăng thêm. Ngoài định mức tăng thêm hiệu quả như sau:
May mắn giá trị ngoài định mức tăng thêm 9999+ Ngộ tính giá trị ngoài định mức tăng thêm 9999+ Mức tiềm lực ngoài định mức tăng thêm 9999+ Mị lực giá trị ngoài định mức tăng thêm 9999+ Thân nhân đầu thai dẫn đầu 99. 999. . . % “Ngọa tào, còn có vương pháp sao? Còn có pháp luật sao! ?”
Tần Phong nhịn không được bạo âm thanh nói tục, trong lòng càng là phát ra chuột chũi tiếng gào thét. Rõ ràng hắn mới là người xuyên việt, làm sao nhị đệ thành nhân vật chính! ? Vậy hắn tính là gì! ? Nhân vật phản diện sao! ?
“Leng keng, kiểm tra đến túc chủ chính là thiên mệnh trùm phản diện, Vũ Trụ siêu cấp vô địch đại nhân vật phản diện hệ thống kích hoạt thành công!” Không khí đột nhiên yên tĩnh. . . Một vị nào đó đẹp trai trong lòng toát ra một cái to lớn ngọa tào.
Làm nhân vật chính song bào thai thân ca ca đã đủ nguy hiểm, hiện tại còn muốn cho hắn làm thiên mệnh trùm phản diện, đây không phải điển hình đốt đèn lồng đi nhà vệ sinh tìm phân sao! ? Đồng thời, cũng không thể không suy nghĩ về sau nên làm cái gì.
Không tham tài, không háo sắc, không thu đồ đệ, không lập giáo, có thể cẩu không ra mặt, có thể trốn không cậy mạnh, phế vật thiên tài cũng không gây, mỹ nữ gặp nạn không muốn cứu, gặp được Diệp Lâm trần Tiêu Sở Tần Vương tô phương tuần đi vòng qua.
Còn có điểm trọng yếu nhất, tuyệt đối không thể kiệt kiệt kiệt cười.
“Leng keng, tình bằng hữu nhắc nhở, căn cứ hệ thống đối túc chủ tính cách phân tích, túc chủ tham tài, háo sắc, yêu khoác lác, cộng thêm tao khí tận trời, hiển thị rõ nam nhi bản sắc, tuyệt đối sẽ không cam tâm ẩn cư, làm tu thân dưỡng tính người thành thật.”
Tần Phong rốt cuộc nhịn không được, trực tiếp miệng phun hương thơm bắt đầu.
“Ngọa tào, ngươi TM nói đùa cái gì, nói loại lời này lương tâm sẽ không đau không? Ta từ nhỏ đã đặc biệt có ái tâm có được hay không, nhìn thấy sát vách tiểu tỷ tỷ tắm rửa, sẽ hảo tâm giúp nàng mở cửa sổ ra thông khí, nhìn thấy sát vách lão Vương không ở nhà, sẽ giúp thay hắn chiếu cố lão bà, gặp được không nhà để về tiểu tỷ tỷ, sẽ cho nàng một cái mái nhà ấm áp, bằng hữu cũng nói ta có Thừa tướng chi tư, có thể ta chỉ muốn làm cái nhà bên đại nam hài, yên lặng trợ giúp các bạn hàng xóm sửa chữa cống thoát nước. . .”
Có thể Tần Phong mới vừa nói xong tự mình một phần mười ưu điểm, chỉ nghe thấy hệ thống thanh âm vang lên lần nữa. “Leng keng, trùm phản diện tân thủ gói quà lớn cấp cho thành công.” “Leng keng, chúc mừng túc chủ thu hoạch được thần cấp quang hoàn, Đại Đế chi tư!”
“Leng keng, chúc mừng túc chủ thu hoạch được thần cấp công pháp, Tam Thập Tam Thiên Tạo Hóa Quyết!” “Leng keng, chúc mừng túc chủ thu hoạch được Thần Thoại cấp Sử Thi đạo cụ, max cấp tóc đỏ lão quái thể nghiệm vé!”
Đại Đế chi tư: Thần Thoại quang hoàn, sử dụng sau đem thu hoạch được toàn bộ thuộc tính gấp mười tăng thêm hiệu quả ( chú thích: Sẽ căn cứ nguyên thủy thuộc tính tăng cường, điều chỉnh gấp mười tăng thêm hiệu quả)
Tam Thập Tam Thiên Tạo Hóa Quyết: Thần Thoại công pháp, đản sinh tại Vũ Trụ nổ lớn, có đoạt thiên tạo hóa công hiệu.
Max cấp tóc đỏ lão quái thể nghiệm quyển: Thần Thoại cấp Sử Thi đạo cụ, sử dụng sau vừa nghiệm max cấp tóc đỏ lão quái vui vẻ, trấn áp thế gian hết thảy dám xưng vô địch, nói bất bại người ( chú thích: Tiếp tục hiệu quả 24 giờ, làm lạnh thời gian mười năm)
Tần Phong sững sờ nhìn xem đạo cụ thuộc tính, đột nhiên cảm giác là nhân vật phản diện cũng không có gì. Là huynh đệ liền đến chặt ta! ! Không được!
Hắn từ nhỏ tiếp nhận thế nhưng là tư tưởng nho gia, đọc « Luận Ngữ » lớn lên đứng đắn quân tử, há có thể tự cam đọa lạc làm cái nhân vật phản diện. “Hít, hít, hít, liền TM biết rõ hít!”
Tần Phong phát hiện nhị đệ còn tại hít hắn năng lượng, hướng về phía mặt của hắn trực tiếp đạp mạnh một jio. Khổng Tử nói: Quân tử không nặng thì không uy ( chú thích: Quân tử động thủ liền cần phía dưới nặng tay, nếu không không cách nào dựng nên uy tín. . . )
Nhất thời trang bức nhất thời thoải mái , Một mực trang bức một mực thoải mái ! Đọc ngay tại: *Huấn Luyện Quân Sự Ngày Thứ Nhất, Cao Lãnh Giáo Hoa Đưa Nước Cho Ta*
Nguồn: Nhân Vật Phản Diện Này Có Chút Lương Tâm, Nhưng Không Nhiều
0 notes
batquai369 · 9 months
Text
Hướng Dẫn Chi Tiết Cách Tính Sinh Con Theo Thẻ Bát Quái
Tumblr media Tumblr media
Phương pháp áp dụng bát quái âm dương để lựa chọn giới tính cho con được thế hệ trước đây sử dụng, truyền đạt và gìn giữ đến ngày nay. Mặc dù vậy, liệu phương pháp này có thực sự đem lại kết quả như mong đợi hay không? Đừng bỏ lỡ bài viết dưới đây của batquai369.com để khám phá cách tính sinh con theo thẻ bát quái - bí quyết mà người tiền bối đánh giá cao, có thể hỗ trợ cho kế hoạch sinh con trong năm 2023 của bạn nhé!
Định Nghĩa Về Quẻ Bát Quái 
Thế giới mở đầu từ thời kỳ hỗn loạn và tiến triển từ trạng thái Vô cực. Trong thế giới đó, Vô cực sinh ra Thái cực Âm và Dương, được gọi là sự hiện diện của lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh ra tứ tượng, và từ tứ tượng mà bát quái ra đời. Bát quái không chỉ là 8 cánh cửa đại diện cho vũ trụ mà còn đóng vai trò quan trọng như một hệ thống biểu tượng. Từ bát quái, kinh dịch đã phát triển và biến đổi thành 64 quẻ kinh điển, mở ra một hệ thống luận đoán cụ thể nhất. Hệ thống quẻ này được áp dụng để giải đáp mọi vấn đề, sự kiện và hiện tượng trong cuộc sống. Bát quái mật thiết liên kết với ngũ hành trong phong thủy và lý thuyết âm dương. Phục Hy đã khám phá Tiên Thiên Bát Quái, trong khi Chu Văn Vương tìm ra Hậu Thiên Bát Quái. Cả hai hệ thống bát quái này đều dựa trên 8 quẻ bao gồm: Càn, Khôn, Đoài, Cấn, Khảm, Ly, Tốn và Chấn, đóng vai trò quan trọng trong việc giải mã và diễn giải vũ trụ và sự tồn tại của chúng ta.
Ý Nghĩa Về Các Quẻ Trong Bát Quái 
Tumblr media
Hình Minh Họa Cách Tính Sinh Con Theo Thẻ Bát Quái (Hướng Dẫn Chi Tiết Cách Tính Sinh Con Theo Thẻ Bát Quái) Bát quái không chỉ là những biểu tượng mà còn đại diện cho tất cả mọi thứ, từ con người đến các hiện tượng tồn tại trong vũ trụ. Nó là biểu hiện của những đối lập như tốt – xấu, thiện – ác, mềm mỏng – cứng rắn... và tất cả những gì tồn tại trong vũ trụ đều có một tính chất đối nghịch và khi kết hợp lại có thể gây ra sự biến đổi đáng kinh ngạc. Nhưng ý nghĩa thực sự của các quẻ trong bát quái là gì? Quẻ Càn, biểu tượng cho bầu trời, thể hiện sức mạnh và tính cách kiên định của người cha. Quẻ Khôn, biểu tượng cho đất, đại diện cho lòng hiền hậu và tình yêu thương con cái của người mẹ. Quẻ Đoài, biểu tượng cho dòng nước, tượng trưng cho sự ấm áp và hình ảnh của người phụ nữ trẻ đẹp, duyên dáng và mềm mại. Quẻ Cấn, biểu tượng cho ngọn núi, thể hiện sự vững chắc và kiên định của người đàn ông. Quẻ Khảm, biểu tượng cho đầm lầy và ao hồ, mang hình ảnh của người thấp kém, tính cách khiêm tốn và thường bị coi thường. Nó cũng đồng thời đại diện cho những điều không trong sáng và cấm kỵ. Quẻ Ly, biểu tượng cho ngọn lửa, mang hình ảnh của người thông minh, hiểu biết và nhiệt huyết. Quẻ Tốn, biểu tượng cho ngọn gió, thể hiện tính cách phân vân, dễ dao động và thiếu quyết đoán. Quẻ Chấn, biểu tượng cho sấm sét, thể hiện tính cách nóng nảy, dễ tức giận và khó kiểm soát cảm xúc.
Tumblr media
Hình Minh Họa Cách Tính Sinh Con Theo Thẻ Bát Quái (Hướng Dẫn Chi Tiết Cách Tính Sinh Con Theo Thẻ Bát Quái) Những quẻ này được hình thành theo quy luật và khi kết hợp với nhau trong các hoàn cảnh cụ thể, chúng chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc và bí ẩn không ngừng trong kinh dịch. Điều này làm nên sự phong phú và đa dạng trong cách diễn giải và hiểu biết về thế giới xung quanh chúng ta.
Hướng Dẫn Chi Tiết Cách Tính Sinh Con Theo Thẻ Bát Quái
Bát quái bao gồm tổng cộng 8 quẻ được phân thành hai nhóm: 4 quẻ dương gồm Càn (☰), Chấn (☳), Khảm (☵), Cấn (☶) tượng trưng cho việc sinh con trai. 4 quẻ âm bao gồm Đoài (☱), Khôn (☷), Tốn (☴), Ly (☲) là biểu tượng cho việc sinh con gái. Bát quái không chỉ được coi là biểu tượng mà còn được sử dụng trong Đạo giáo để biểu thị các yếu tố cấu thành vũ trụ. Mỗi quẻ bát quái chia thành 3 hàng, trong đó mỗi hàng có thể là hào âm (một nét rời: – -) hoặc hào dương (nét liền _). Dựa vào bát quái và việc sinh con trai hoặc con gái, chúng ta có thể lựa chọn tháng thụ thai để hướng đến việc sinh hoàng tử hoặc công chúa phù hợp với tuổi của cha mẹ. Quá trình bói này yêu cầu sử dụng tuổi âm lịch của cả hai vợ chồng (tính theo tuổi mụ) cùng với tháng thụ thai theo âm lịch. Cụ thể, quy tắc về hào trên quẻ được diễn giải như sau: “– -” biểu thị hào âm, tượng trưng cho số tuổi hoặc tháng thụ thai là ngày chẵn. “_” biểu thị hào dương, tượng trưng cho số tuổi hoặc tháng thụ thai là ngày lẻ.
Tumblr media
Hình Minh Họa Cách Tính Sinh Con Theo Thẻ Bát Quái (Hướng Dẫn Chi Tiết Cách Tính Sinh Con Theo Thẻ Bát Quái) Trong việc sử dụng các thẻ bát quái, việc vẽ các vạch trên đỉnh thẻ tượng trưng cho tuổi của người chồng, các vạch dưới cùng biểu thị tuổi của người vợ và vạch ở giữa thường là tháng thụ thai. Khi bạn muốn chọn lựa tháng thụ thai để sinh con trai hoặc con gái, quy trình bao gồm các bước sau đây: Bắt đầu với việc vẽ vạch trên đỉnh thẻ tương ứng với tuổi của người chồng. Nếu tuổi âm lịch là số chẵn (24, 26, 28...), bạn sẽ vẽ một nét rời (- -); ngược lại, nếu tuổi là số lẻ, hãy vẽ một vạch liền dài ( _ ). Tiếp theo, bạn sẽ viết các vạch dưới cùng, tương ứng với tuổi của người vợ. Tương tự như trên, nếu tuổi âm lịch là số chẵn, hãy vẽ nét rời (- -); và nếu tuổi là số lẻ, vẽ vạch liền dài ( _ ). Sau đó, bạn sẽ tra bảng bát quái để tìm ra 2 quẻ tương ứng với tuổi của cả bố và mẹ. Trong đó, một quẻ sẽ đại diện cho con trai và một quẻ khác sẽ đại diện cho con gái. Tiếp theo là việc lựa chọn quẻ trai hoặc gái. Nếu vạch ở giữa thẻ là số chẵn hay lẻ, bạn sẽ chọn tháng thụ thai theo vạch đó.
Tumblr media
Hình Minh Họa Cách Tính Sinh Con Theo Thẻ Bát Quái (Hướng Dẫn Chi Tiết Cách Tính Sinh Con Theo Thẻ Bát Quái) Kết quả dựa theo cách tính sinh con trai hoặc con gái như sau: Quẻ có 1 nét liền và 2 nét rời tương ứng với các thẻ Khảm, Chấn và Cấn, biểu thị việc sinh con trai. Quẻ có 1 nét rời và 2 nét liền tương ứng với các thẻ Đoài, Ly, Tốn, là dấu hiệu cho việc sinh con gái. Quẻ có 3 nét liền ứng với quẻ Càn, là tín hiệu cho việc sinh con trai. Quẻ có 3 nét rời, tương ứng với thẻ Khôn, là dấu hiệu cho việc sinh con gái. Quá trình này theo phương pháp tính toán sinh con trai hoặc con gái giúp các bậc phụ huynh tìm ra sự lựa chọn phù hợp với mong muốn và kế hoạch gia đình. Ví dụ cụ thể  Nếu tuổi theo âm lịch của chồng bạn là 29 (tuổi lẻ), điều này tương ứng với việc vẽ một vạch dài “_” ở phần trên cùng của thẻ. Trong khi đó, tuổi theo âm lịch của bạn là 24 (tuổi chẵn), do đó, việc vẽ một nét rời “- -” sẽ xuất hiện ở phần dưới cùng của thẻ. Theo hướng dẫn từ bảng 8 thẻ bát quái, nếu bạn muốn sinh con trai, vợ chồng bạn nên lựa chọn tháng thụ thai tương ứng với quẻ Cấn. Điều này có nghĩa là cần chọn những tháng thụ thai là tháng chẵn (như tháng 2, 6, 8, 10, 12). Nếu muốn sinh con gái, bạn sẽ chọn quẻ Tốn, tương ứng với việc lựa chọn các tháng thụ thai là tháng lẻ (như 1, 3, 5, 7, 9, 11). Quá trình lựa chọn tháng thụ thai dựa trên quẻ bát quái này có thể giúp bạn tạo ra sự lựa chọn chính xác và đáng tin cậy trong việc quyết định sinh con trai hay con gái theo mong muốn của gia đình.
Tumblr media
Hình Minh Họa Cách Tính Sinh Con Theo Thẻ Bát Quái (Hướng Dẫn Chi Tiết Cách Tính Sinh Con Theo Thẻ Bát Quái)
Những Phương Pháp Khoa Học Khác Bạn Có Thể Tham Khảo 
Theo phương pháp tính toán dựa trên chu kỳ kinh nguyệt và kỳ rụng trứng Đây là một phương thức được nhiều cặp vợ chồng lựa chọn vì giới tính của đứa con có thể phụ thuộc vào ngày rụng trứng của người mẹ. Thời gian rụng trứng của người mẹ được xác định bằng cách trừ số 18 từ số ngày của chu kỳ kinh nguyệt, với các phân loại như sau: Nếu chu kỳ kinh nguyệt kéo dài trong 28 ngày: Ngày rụng trứng có thể nằm trong khoảng từ ngày thứ 10 đến ngày thứ 16. Trong trường hợp chu kỳ kinh nguyệt kéo dài trong 30 ngày: Thời điểm rụng trứng có thể xảy ra từ ngày thứ 12 đến ngày thứ 17. Tuy nhiên, để có kết quả chính xác nhất, quý vị cần tiếp tục theo dõi và ghi chép chu kỳ kinh nguyệt trong khoảng 8 tháng. Phương pháp này chỉ mang lại kết quả chính xác cho những người có chu kỳ kinh nguyệt ổn định và đều đặn. Phương pháp đo nhiệt độ cơ thể để dự đoán thời gian rụng trứng  Thông thường, vào thời điểm rụng trứng, nhiệt độ cơ thể của phụ nữ thường tăng khoảng 1 - 2 độ C. Bạn có thể áp dụng phương pháp này bằng cách đo nhiệt độ cơ thể vào buổi sáng ngay khi mới thức dậy. Tuy nhiên, cách tiếp cận này có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố thực tế như tâm lý, tình trạng sức khỏe, và tính chất công việc, do đó không đảm bảo hiệu quả cao. Một cách khác, bạn cũng có thể dựa vào những dấu hiệu khác của việc rụng trứng như cảm giác co thắt nhẹ ở xương chậu, đau ngực, hoặc cảm giác đầy hơi. Dựa vào việc quan sát dịch tiết âm đạo.
Tumblr media
Hình Minh Họa Cách Tính Sinh Con Theo Thẻ Bát Quái (Hướng Dẫn Chi Tiết Cách Tính Sinh Con Theo Thẻ Bát Quái) Dịch tiết âm đạo thường biến đổi theo từng giai đoạn của chu kỳ kinh nguyệt. Đây là yếu tố quan trọng cho việc sinh sản vì tinh trùng có thể tồn tại trong âm đạo khoảng 5 ngày nhờ dịch tiết này. Phương pháp này không chỉ đơn giản mà còn đem lại hiệu quả cao.  Cụ thể, vào thời điểm rụng trứng, dịch tiết âm đạo sẽ tăng lên đáng kể so với những ngày bình thường. Ngày rụng trứng, lượng dịch tiết sẽ đạt đến mức cao nhất, có đặc tính giống lòng trắng trứng sống. Khi đó, cổ tử cung trở nên mềm mại và mở rộng hơn, điều này cũng là một trong những điều kiện quan trọng giúp tinh trùng gặp gỡ trứng một cách thuận lợi. Siêu âm để quan sát quá trình rụng trứng  Đây cũng là phương pháp tốn kém và đòi hỏi nhiều công sức nhất. Để thực hiện siêu âm, bạn cần ước lượng ngày rụng trứng dựa trên chu kỳ kinh nguyệt hoặc theo dõi dịch tiết âm đạo. Khoảng 2 - 3 ngày trước ngày dự kiến rụng trứng, bạn cần đến cơ sở y tế để thực hiện siêu âm và lặp lại quá trình này mỗi ngày một lần. Khi nhận được thông báo từ bác sĩ rằng trứng đã rụng, việc quan hệ ngay lập tức là cần thiết để không bỏ lỡ cơ hội thụ thai.
Lời kết 
Bây giờ bạn đã biết cách tính sinh con theo thẻ bát quái cũng như một số phương pháp khác. Tuy nhiên, quan trọng nhất là việc sau khi biết được giới tính mong muốn của con, bạn cũng nên đến kiểm tra sức khỏe để tạo điều kiện tốt nhất cho quá trình mang thai. Chúc bạn một ngày tốt lành! Read the full article
0 notes
vn789win · 1 year
Text
Xổ Số Thần Tài 789Win Là Gì? Ý Nghĩa Và Cách Chơi Xổ Số Hiệu Quả
Tumblr media
Có nhiều người vẫn luôn băn khoăn xổ số thần tài là như thế nào? Cách đánh nào đem đến kết quả cao đối với người tham gia? Các số thần tài có nghĩa như thế nào? Tất cả những vướng mắc của các bạn sẽ được 789WIN trả lời ngay tại phần bên dưới nhé.
Xổ số thần tài 789WIN là gì?
Xổ số thần tài là gì ? Là một dạng trò chơi lô đề phổ biến, thường được tổ chức và quản lý bởi các cơ quan xổ số trong nhiều quốc gia. Tên gọi "xổ số thần tài" thường ám chỉ sự may mắn và phú quý, khiến cho việc tham gia trò chơi này trở nên hấp dẫn đối với người chơi. Trong xổ số thần tài, người chơi thường phải chọn một dãy số hoặc số may mắn của họ và đặt cược trước khi kết quả xổ số được công bố. Kết quả được xác định dựa trên việc rút thăm ngẫu nhiên của các số từ một bộ số cố định. Nếu các số bạn đã chọn trùng khớp với kết quả, bạn sẽ nhận được phần thưởng tùy thuộc vào số lượng và sự khớp đúng của các con số. Xổ số thần tài có ý nghĩa lớn đối với người chơi, vì nó có khả năng biến đổi cuộc sống từ một khoản đầu tư tương đối nhỏ thành một khoản tiền lớn. Điều này khiến cho xổ số thần tài trở thành một loại giải trí hấp dẫn và cũng là cơ hội để những người tham gia có thể thay đổi tình hình tài chính cá nhân và đạt được những ước mơ lớn hơn. Tuy nhiên, người chơi cần nhớ rằng xổ số là một trò chơi may mắn, và việc chi tiền vào nó nên được thực hiện một cách có trách nhiệm và không nên dựa vào nó như một phương tiện chính để thay đổi cuộc sống.
Tumblr media
Xổ số thần tài 789WIN là gì?
Số Thần Tài là số gì? Có ý nghĩa như thế nào?
Theo tín ngưỡng phong thủy dân gian, số Thần Tài đại diện cho vị thần chủ trương về tài lộc - ông Thần Tài, một hình tượng thần thể hiện sự giàu có và thịnh vượng. Số Thần Tài bao gồm hai con số: 39 và 79. Số 39 thường được gọi là số Thần Tài nhỏ, trong khi số 79 được coi là số Thần Tài lớn. Nhà cái 789WIN giải thích ý nghĩa của số Thần Tài nhỏ (số 39) Số 39 – Thần Tài nhỏ được coi là con số cát lợi vì nó sẽ giúp chủ nhân có một cuộc đời sung túc, giàu sang. Bên cạnh đó con số cũng giúp chủ nhân có thể thay đổi vận mệnh, phát triển công việc giúp gia chủ ngày một thăng quan tiến chức, thu về tiền tài. Trong phong thuỷ: Số 39 được coi là con số tượng trưng cho việc giàu có, mang đến sự thịnh vượng về tài lộc, công danh. Trong Phong thuỷ: Số 3 phát âm là Tam và khá tương đồng với Lộc, và số 9 là vĩnh cửu. Khi kết hợp hai số trên lại với nhau mang đến sự tiền tài vĩnh cửu. Ý nghĩa trong giấc mộng mang đến điềm lành cho việc cẩn thận và hiểu biết. Khi nằm mơ thấy số Thần Tài nhỏ 39 có thể thấy cuộc đời bạn khá suôn sẻ vì có vô số thời cơ để làm giàu. Trong phong thuỷ kinh dịch: Con số 39 ứng với quẻ Hoả Thiên Đại Hữu. Số này tượng trưng cho tiền bạc dư dả, phú quý, giàu sang và hạnh phúc.
Tumblr media
Số Thần Tài là số gì? Có ý nghĩa như thế nào? 789WIN giải thích ý nghĩa số Thần Tài lớn (số 79)  Số Thần Tài lớn 79 được coi là con số tượng trưng về tiền tài cùng từ vị thần may mắn. Đây được coi là con số may mắn vì dù gặp phải trường hợp này thì cũng đem đến điều tốt đẹp nhất đối với gia chủ. Trong phong thuỷ: Số 79 đại diện về tiền tài suôn sẻ, thịnh vượng. Trong Phong thuỷ: Số 7 phát âm là Cửu và khá tương đồng với Thần Tài, nhưng số 9 tượng trưng cho cuộc sống sung túc, phát đạt không ngừng nghỉ. Khi hai con số trên phối hợp với nhau hình thành nên con số Thần Tài 79 to đại diện cho tài lộc dồi dào, dư dả. Ý nghĩa trong giấc mộng: Báo hiệu thời gian tới gia chủ sẽ qua được giai đoạn gian nan trắc trở và có những biến chuyển mới tốt đẹp hơn nữa. Trong phong thuỷ quẻ bát quái: Số 79 tương ứng với quẻ Sơn Thiên Đại Súc và việc này có ý nghĩa sự tích tụ phúc đức nhằm hướng về những việc tốt và thực hiện nhiều điều thiện đối với cộng đồng.
Tìm hiểu về cơ cấu giải thưởng của xổ số thần tài 789WIN
Xổ số thần tài có cơ cấu giải thưởng vô cùng cụ thể và chi tiết như sau: Giải nhất: Vé số của bạn có 4 số trùng với kết quả mở vé giá trị giải thưởng sẽ bằng 1220 lần giá trị vé số mua. Giải nhì: Bạn sẽ thắng nếu vé số mua có 3 số đầu trùng và giá trị giải thưởng bằng 100 lần giá trị vé số mua đầu tiên. Giải ba: Thắng nếu vé số của bạn có 3 chữ số đuôi trùng và giá trị giải thưởng 100 lần vé số mua. Giải 4: Vé của bạn trùng 2 số đầu và giá trị giải thưởng có giá trị giải thưởng bằng 10 lần giá trị vé mua Giải 5: Vé số của bạn có 2 chữ số đuôi trùng và giá trị giải thưởng bằng 10 lần giá trị vé số mua.
Tumblr media
Tìm hiểu về cơ cấu giải thưởng của xổ số thần tài 789WIN
Cách chơi xổ số thần tài đạt kết quả cao
Cũng tương tự với xổ số kiến thiết, xổ số thần tài cũng cho phép người chơi lựa chọn 4 con số ở quầy bán vé. Dựa theo các chữ số và dựa theo tổng của giải xổ số mở thưởng mỗi kỳ mà so sánh coi bản thân có thắng hay là không. Hệ thống cũng tương tự như chơi xổ số thần tài hay xổ số truyền thống với kết quả tương tự xổ số 123, 6 × 36 ..... Chúng cũng có khá đa dạng, độc đáo, mới lạ chắc chắn sẽ phục vụ được nhiều mục đích chơi xổ số của người dân. Vé số của loại hình xổ số thần tài không có các hạn chế về mệnh giá và bạn cũng có thể gia tăng thêm trị giá của các quà khuyến mãi mà người chơi sẽ nhận được. Đây cũng được coi là nét mới của xổ số điện toán thần tài so với những loại xổ số khác. Khác với xổ số kiến thiết giờ phát thưởng của xổ số thần tài được mở thưởng riêng rẽ. Nó được phát thưởng mỗi ngày cho nên vì thế người chơi có thể tuỳ ý chọn khoảng thời gian thích hợp với bản thân. Dựa vào các thông tin từ nhà cái 789WIN, ta có thể hiểu sâu hơn về khái niệm "vé số thần tài" cũng như những phần thưởng hấp dẫn và những mẹo chơi hữu ích để cải thiện cơ hội chiến thắng. Hy vọng rằng bạn sẽ có những trải nghiệm thú vị khi tham gia và mang về những giải thưởng có giá trị từ trò chơi này. Read the full article
0 notes
top10vivu · 1 year
Text
Truyện tranh ngôn tình xuyên không hay nhất
Truyện tranh ngôn tình xuyên không là những bộ truyện hay tình cảm, bên cạnh những tình tiết hạnh phúc kèm theo những câu chuyện tình lãng mạng gây sức hấp dẫn đến cho người xem với tình yêu trong truyện. Hôm nay Top 10 Vivu sẽ tổng hợp Top 20 bộ truyện tranh ngôn tình xuyên không hay nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!
#truyentranhngontinhxuyenkhong #truyenngontinhxuyenkhong #truyentranhngontinhxuyenkhongcodai
 Truyện tranh ngôn tình xuyên không: Hàng đã nhận, miễn trả lại
Truyện tranh ngôn tình xuyên không kể về Lục Vi, một cô gái trẻ – loài – người bỗng nhiên gặp phải vô số tình huống dở khóc dở cười, thậm chí là quái lạ trong cuộc sống vốn bình yên của mình khi gặp những con người đặc biệt.
Nam Huyền ngây thơ, chú “rồng con” sau cơn hôn mê vì trận chiến với ma giới nghìn năm trước nay đã tỉnh dậy, quấn quýt bám lấy Lục Vi vì cứ tưởng cô là chủ nhân của mình.
Dạ Li gian manh, ông chủ cửa hàng thú cưng nơi trông coi Nam Huyền đồng thời là nhân viên chuyển phát nhanh, thực chất lại là một vị thần của gia tộc gấu trúc.
Ba người này đã cùng phải trải qua một cuộc phiêu lưu bất đắc dĩ, hé mở rất nhiều bí mật còn đang bị che giấu.
Truyện ngôn tình xuyên không: Dùng cả đời để quên
Một tác phẩm thể loại truyện ngôn tình xuyên không của Diệp Tử, nhà văn Trung Quốc khá nổi tiếng ở Việt Nam với nhiều tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt  với tên Dùng cả đời để quên và xuất bản.
Câu chuyện kể về một vị hoàng đế Dận Chân vì tình yêu dang dở ở kiếp xưa mà xuyên không đến kiếp này để gặp lại Niên Phi bây giờ đã là Niên Dĩnh – một cô gái hiện đại yêu thích công việc, yêu gia đình.
Ban đầu, Niên Dĩnh nhặt anh đem về để giải hạn như lời đạo sĩ nói nhưng sau đó, dần dần cô đã quên mất lý do ban đầu.
Khi cô bắt đầu nảy sinh tình cảm với con người không rõ lai lịch đó thì cũng là lúc Niên Dĩnh nhớ lại được quá khứ đầy bi thương và nước mắt mà kiếp trước cô và Dận Chân đã trải qua.
Hãy cùng đọc câu chuyện để biết được lựa chọn cuối cùng của Ninh Viễn và câu chuyện về tình yêu đẹp mà dở khóc dở cười của hai người ở cuộc sống hiện đại.
Truyện tranh ngôn tình xuyên không cổ đại: Bộ bộ kinh tâm
Bộ bộ kinh tâm là tác phẩm truyện tranh ngôn tình kinh điển và đưa tên tuổi của Đồng Hoa, một tác giả Trung Quốc đến với phần lớn các bạn đọc Việt Nam.
Tác phẩm đã được chuyển thể thành một bộ phim khá thành công và được hầu hết khán giả xem phim truyền hình yêu thích. Nhược Hy – nữ chính của tác phẩm là một cô nhân viên văn phòng xuyên không về thời Khang Hy giữa lúc các hoàng tử của ông đang tranh giành ngôi báu.
Đến đây, cô bắt đầu có dịp gặp gỡ Bát A Ca, Thập A Ca, Tứ A Ca, Thập Tứ A Ca, cùng rất nhiều con người khác mà mỗi họ đều để lại cho Nhược Hy những kỷ niệm vui có, buồn có, đau lòng có, tuyệt vọng có, hạnh phúc có,…
Và những câu chuyện tình yêu rắc rối của họ bắt đầu trong những mưu mô tranh quyền đoạt vị chốn thâm cung.
Tumblr media
0 notes
khoaisangaogvnb · 2 years
Text
Tập 47
A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm mươi chín:
Khai chương thích văn nhị.
開章釋文二 。
  (Chia thành chương đoạn để giải thích kinh văn, gồm hai phần).
Đoạn này cũng khá dài, chia thành hai đoạn nhỏ hơn. Đoạn thứ nhất là “lược tiêu” (nêu đại lược những ý chính), đoạn thứ hai là giải thích chi tiết.
Tương thích thử kinh, tổng khải thập môn, nhất giáo khởi sở nhân, nhị tạng giáo đẳng nhiếp, tam nghĩa lý thâm quảng, tứ sở bị giai phẩm, ngũ năng thuyên thể tánh, lục tông thú chỉ quy, thất bộ loại sai biệt, bát dịch thích tụng trì, cửu tổng thích danh đề, thập biệt giải văn nghĩa.
Tumblr media
  將釋此經,總啟十門:一教起所因,二藏教等攝,三義理深廣,四所被階品,五能詮體性,六宗趣旨歸,七部類差別,八譯釋誦持,九總釋名題,十別解文義。
  (Để giải thích kinh này, chia thành mười môn tổng quát như sau: Một là nhân duyên phát khởi giáo pháp, hai là kinh này thuộc về tạng nào và giáo nào, ba là nghĩa lý sâu rộng, bốn là các địa vị và phẩm vị được kinh này nhiếp thọ, năm là thể tánh được trình bày bởi kinh này, sáu là tông, thú, ý chỉ quy kết, bảy là sự sai khác giữa các kinh đồng bộ và đồng loại, tám là dịch, chú giải, tụng trì, chín là giải thích tổng quát tên kinh, mười là giải thích ý nghĩa riêng biệt của từng đoạn kinh văn).
 
  Trước hết, đại sư nói rõ phương pháp Ngài sử dụng để giải thích bộ kinh này. Dùng phương pháp nào để giải thích? Tại Trung Quốc từ xưa đến nay, bất luận giảng kinh hay chú giải kinh đều có phương thức nhất định. Tuy nói là phương thức nhất định, nhưng hoàn toàn chẳng phải chỉ có một phương thức mà có nhiều thứ. Trong phần lời tựa kinh Hoa Nghiêm, chúng ta đã thấy có mười mấy phương thức, trong đó nổi danh nhất là cách thức của hai tông Hoa Nghiêm và Pháp Hoa. Phương pháp của tông Hoa Nghiêm là “thập môn khai khải”, tức là dùng mười cương mục (mười chủ đề chính), dùng phương thức này để giải thích; còn tông Pháp Hoa thì dùng Ngũ Trùng Huyền Nghĩa (năm tầng huyền nghĩa), đơn giản hơn mười môn, chỉ có năm điều. Tông Hoa Nghiêm do kinh Hoa Nghiêm dùng “mười” để biểu thị pháp, “mười” tượng trưng cho viên mãn. Vì thế, các vị bên tông Hoa Nghiêm giải thích kinh văn cũng dùng mười đề mục. Những phương thức giải thích của các tông khác hiện thời rất ít được tuân hành.
  Hiện thời, trong sự nghiên cứu Phật học, dấy lên rất nhiều biến hóa rất lớn, như cái gọi là “phương pháp khoa học”, tức là dùng phương pháp học thuật của Tây Phương để nghiên cứu kinh Phật. Nhìn bề ngoài, phương pháp ấy rất hợp thời trang, rất mới mẻ; thật ra, tôi nhận thấy nó chẳng thể sánh bằng phương cách của cổ nhân. Những điều cổ nhân giảng giải là Phật pháp, những điều con người hiện thời nêu ra là Phật học. Phật học và Phật pháp khác nhau! Phật pháp dạy chúng ta liễu sanh tử, xuất tam giới, còn Phật học tối đa chỉ có thể coi như một thứ học vấn, chẳng liên quan gì đến sanh tử, mà cũng chẳng liên quan gì với đoạn phiền não. Chúng ta cần phải hiểu rõ điều này, lại còn phải nghiêm túc tu học. Dùng Phật pháp, ta có thể lừa gạt người khác cả đời [ta là một bậc thông gia, tu tập cao siêu], nhưng đến phút cuối lâm chung, ắt hiện nguyên hình, rốt cuộc quý vị có công phu hay không đều lộ hết ra, chẳng có cách nào giấu diếm được! Mấy hôm trước, pháp sư Quảng Khâm vãng sanh; tuy lão nhân gia sống đến chín mươi lăm tuổi trên cõi đời, Ngài chưa từng giảng kinh, cũng chưa hề tạo danh lợi, chưa từng làm ủy viên hội Phật giáo, thật thà tham Thiền, đến tuổi già bèn hoàn toàn niệm Phật, chẳng tham Thiền nữa, tự mình niệm Phật, dạy người khác niệm Phật. Đến phút cuối Ngài ra đi, biểu hiện cho chúng ta thấy: Biết trước lúc mất, không bệnh tật mà qua đời. Hiện thời, tôi cũng chưa từng thấy người xuất gia nào đến phút cuối cùng được như Ngài; nhưng trong giới cư sĩ tu hành rất tốt đẹp, tôi thấy khá nhiều người ra đi tự tại giống như lão hòa thượng! Do vậy, học Phật thì phải nghiêm túc tu học, chớ nên màu mè, chớ nên ham kỳ chuộng quái, cứ thật thà niệm một câu A Di Đà Phật là được rồi! Liên Trì đại sư hoàn toàn tuân thủ giáo huấn của cổ đức, đấy là người chất phác. Được gọi là “người chất phác” chính là người tôn cổ nhân làm thầy, học theo cổ nhân, chẳng cầu phương cách hoa dạng mới mẻ!
 
  (Sớ) Thử lệ Hoa Nghiêm Sớ chỉ.
  (疏) 此例華嚴疏旨。
  (Sớ: Đây là tuân theo thể lệ của bộ Hoa Nghiêm Sớ).
 
  “Lệ” (例) là thể lệ. Ngài tuân theo thể lệ, phương pháp giải thích đại kinh của bộ Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao.
 
  (Sớ) Lược vi thập môn, tiền bát nghĩa môn.
  (疏) 略為十門,前八義門。
  (Sớ:  Chia đại lược thành mười môn,  tám môn đầu thuộc về nghĩa
môn).
 
  Tám môn đầu gọi là “nghĩa môn”, chúng ta thường gọi là phần Huyền Nghĩa. Huyền Nghĩa chính là đại ý của cả bộ kinh, luận định toàn bộ bản kinh.
 
  (Sớ) Hậu nhị chánh thích.
  (疏) 後二正釋。
  (Sớ: Hai môn cuối là phần chính thức giải thích kinh văn).
 
  Hai môn cuối là phần chánh thức giải thích kinh văn, trước tiên, phải bắt đầu bằng giải thích đề mục (tên gọi của bản kinh) rồi mới giải thích toàn bộ kinh văn.
 
  (Sớ) Hựu thử dữ Thiên Thai Ngũ Trùng Huyền Nghĩa, đại đồng tiểu dị.
  (疏) 又此與天台五重玄義,大同小異。
  (Sớ: Phần này lại tương đồng, chỉ sai khác đôi chút [nếu đem so với] năm tầng huyền nghĩa của tông Thiên Thai).
 
  Chữ “Thiên Thai” chỉ tông Pháp Hoa, họ dùng năm điều mục để giải thích kinh. Năm điều mục ấy không ít, mười điều mục của tông Hoa Nghiêm chẳng nhiều. Vì sao nói chẳng nhiều, chẳng ít? Đem mười điều mục rút gọn lại thì thành năm điều; năm điều triển khai ra sẽ thành mười điều. Vì thế, quý vị phải hiểu: Thập Môn Khai Khải và Ngũ Trùng Huyền Nghĩa nếu luận theo phương diện nội dung thì chẳng tăng, chẳng giảm, đều viên mãn cả!
 
  (Sớ) Cái  khai  chi  thành  thập,  thúc  chi  thành  ngũ,  sảo  hữu
tường lược vân nhĩ.
  (疏) 蓋開之成十,束之成五,稍有詳略云爾。
  (Sớ: Bởi lẽ, tách ra thì thành mười, rút gọn lại thì thành năm, chỉ sai khác đôi chút là cặn kẽ hay đại lược mà thôi).
 
  Mười điều là nói chi tiết một chút, năm điều là nói tỉnh lược một chút, nhưng nghĩa lý nhất định rất hoàn chỉnh. Quý vị đọc chú giải sẽ thấy trong đoạn này đã giải thích đơn giản mười hạng mục ấy. Trước hết, chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của mười hạng mục, sau đấy mới có thể quán sát nội dung của toàn bộ bản kinh. Hạng mục thứ nhất là nói...
 
  (Diễn) Giáo khởi sở nhân giả.
  (演) 教起所因者。
  (Diễn: Cái nhân khiến cho giáo pháp được phát khởi ...)
 
  Chữ “giả” ở đây là từ ngữ nghi vấn, cái nhân khiến cho giáo pháp này khởi lên là gì vậy? Tiếp đó, sách giải thích cho chúng ta biết:
 
  (Diễn) Thánh nhân ngôn bất hư phát, động tất hữu do, phi vô nhân duyên nhi tuyên tư điển, cố thủ chi dĩ khởi giáo nhân duyên.
(演) 聖人言不虛發 , 動必有由 , 非無因緣而宣斯典
,故首之以起教因緣。
  (Diễn: Thánh nhân chẳng thốt lời suông, hễ làm gì đều có nguyên do, chẳng phải là không có nhân duyên mà tuyên nói bản kinh này. Vì thế, trước hết nêu ra nhân duyên phát khởi giáo pháp này).
 
  Chữ “thánh nhân” chỉ chư Phật, Bồ Tát. Chư Phật, Bồ Tát chẳng thể vô duyên vô cớ nói một câu nào, cũng chẳng thể vô duyên vô cớ cười với quý vị, không có chuyện ấy! Nhất cử nhất động của các Ngài đều có ý nghĩa rất sâu. Do đó, nhất định phải có đạo lý. Đức Phật nói bài kinh này vì nguyên nhân nào? Do đạo lý nào? Nhất định có đạo lý! “Động tất hữu do”: “Do” (由) là nguyên do, lý do, nhất định phải có lý do. “Phi vô nhân duyên nhi tuyên tư điển”, chữ “tư điển” chỉ kinh Di Đà, [“phi vô nhân duyên nhi tuyên tư điển” nghĩa là] tuyệt đối chẳng phải là vô duyên vô cớ mà nói ra bộ kinh này. Do điều này, trước khi chúng ta nghiên cứu bộ kinh này, trước hết phải hiểu do nguyên nhân nào mà đức Phật nói ra bộ kinh này. Trong mười điều mục, điều thứ nhất là luận định “giáo khởi sở nhân”, “giáo” (教) là giáo học, “khởi” (起) là hưng khởi, “sở nhân” (所因) là nguyên nhân.
 
  (Diễn) Phật giáo tuy quảng.
  (演) 佛教雖廣。
  (Diễn: Sự giáo hóa của đức Phật tuy rộng).
 
  Chữ “giáo” ở đây là “giáo học”, sự giáo học và giáo hóa của Thích Ca Mâu Ni Phật hết sức rộng lớn, hết sức nhiều và phức tạp. Lão nhân gia xuất hiện trong thế gian thuở ấy, ba mươi tuổi chứng đạo, sau khi chứng đạo bèn bắt đầu hoằng pháp, tức là thị hiện thành Phật năm ba mươi tuổi, tám mươi tuổi viên tịch. Trong bốn mươi chín năm ấy, lão nhân gia chưa hề nghỉ một ngày nào, hằng ngày giảng kinh thuyết pháp, mỗi ngày giảng suốt tám giờ. Đệ tử đời sau ghi chép, chỉnh lý [những lời giảng ấy], nay chúng ta gọi [những ghi chép ấy] là Đại Tạng Kinh, những điều được lão nhân gia giảng giải quá phong phú!
  Có phải là toàn bộ những gì Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng trong suốt một đời Ngài được lưu lại trong Đại Tạng Kinh bằng tiếng Hán hiện thời hay không? Thưa quý vị, không phải. Vì những gì được phiên dịch [từ tiếng Phạn sang tiếng Hán] cũng chỉ là một phần mà thôi! Còn có rất nhiều kinh điển nguyên bản bằng tiếng Phạn chưa truyền sang Trung Quốc, và những kinh đã truyền sang Trung Quốc nhưng chưa được phiên dịch cũng rất nhiều! Chúng ta chọn lấy những bản kinh tốt nhất, quan trọng nhất, thích hợp cho người Hoa tu hành, chọn lựa những bản kinh ấy để dịch trước. Nói cách khác, tuy chưa phải là toàn bộ kinh giáo do đức Phật đã giảng, nhưng toàn bộ tinh hoa và những điều trọng yếu nhất trong những gì lão nhân gia đã nói đều đã được dịch ra.
 
  (Diễn) Bất xuất Tam Tạng thập nhị bộ.
  (演) 不出三藏十二部。
  (Diễn: Chẳng ra ngoài Tam Tạng mười hai phần giáo).
 
  Tam Tạng là Kinh Tạng, Luật Tạng và Luận Tạng. Toàn bộ nội dung tư liệu dạy học của đức Phật được bao gồm trong ấy. “Thập nhị bộ”: Bộ là bộ loại, chứ không phải như trong hiện tại, chúng ta gọi một bộ sách là một Bộ, không mang ý nghĩa ấy. Hiện thời gọi Bộ là “thể tài” (genre), dùng thể tài văn chương nào để viết. Kinh Phật có tất cả mười hai loại thể tài khác nhau, có văn xuôi, thi ca, câu dài ngắn, kệ tụng, chú ngữ... có tới mười hai loại. Vì sao phải có nhiều thể t��i dường ấy? Đợi đến phần sau, chúng tôi sẽ nói tiếp, giới thiệu cho quý vị. Nói đại lược thì không gì chẳng nhằm thích hợp căn tánh của chúng sanh. Ví như có nhiều người, quý vị bảo họ đọc sách, họ chẳng đọc, bảo họ học thuộc sách, họ [cảm thấy] khổ sở quá chừng! Bảo họ ca hát, họ rất vui lòng, đối với họ, ca hát được lắm. À! Anh thích ca hát thì đức Phật bèn nói kệ tụng, kệ  tụng  là những lời ca, đem phổ nhạc bèn có thể hát lên, đủ thấy đức Phật giáo hóa đúng là phương tiện thiện xảo đến tột bậc!
 
  (Diễn) Vị ủy thử kinh hà sở nhiếp thuộc, cố thọ chi dĩ tạng giáo đẳng nhiếp.   
(演) 未委此經何所攝屬,故受之以藏教等攝。
  (Diễn: Chưa rõ kinh này nhiếp thuộc ra sao, nên chỉ ra kinh này thuộc về tạng nào, giáo nào).
 
  Đây là điều mục thứ hai, vì sao xếp vào điều thứ hai? Trong Tam Tạng Kinh, kinh này thuộc về loại nào? Trong mười hai thứ thể tài, nó thuộc thể tài nào? Đây là những điều cần biết. “Tạng” (藏) là Tam Tạng, “Giáo” (教) là mười hai bộ. Người đời sau[1] sợ chúng ta thấy danh từ này sẽ hiểu lầm, tưởng kinh Phật chỉ có mười hai bộ, nên gọi là “mười hai phần giáo”.
 
  (Diễn) Dĩ tri thử kinh Tam Tạng chi trung Tu-đa-la nhiếp.
  (演) 已知此經三藏之中修多羅攝。
  (Diễn: Đã biết kinh này thuộc về Kinh Tạng trong Tam Tạng).
 
  “Tu-đa-la” (Sūtra) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Kinh. Trong Tam Tạng Kinh - Luật - Luận, kinh này thuộc về Kinh Tạng.
 
  (Diễn) Ngũ giáo chi trung thuộc Chung Đốn Viên.
  (演) 五教之中屬終頓圓。
  (Diễn:  Trong ngũ giáo, kinh này thuộc về Chung Giáo, Đốn Giáo
và Viên Giáo).
 
  Chữ Giáo có nghĩa là Ngũ Giáo. Ngũ Giáo cũng là căn cứ trên cách giảng giải của tông Hoa Nghiêm. Thiên Thai đại sư phán định Tứ Giáo, Hiền Thủ đại sư phán định Ngũ Giáo. Ngài Hiền Thủ thuộc tông Hoa Nghiêm, Ngài phán định giáo pháp thành Ngũ Giáo tức Tiểu, Chung, Thỉ, Đốn, Viên. Ngũ Giáo là nói về quá trình dạy học. Tiểu Giáo giống như Tiểu Học, tức Tiểu Thừa Giáo. Thỉ Giáo là khởi đầu của Đại Thừa, giống như Sơ Trung (cấp hai, Trung Học đệ nhất cấp), Chung Giáo là cuối cùng của Đại Thừa, giống như Cao Trung (Trung Học đệ nhị cấp, cấp ba). Đốn Giáo là “đốn siêu” (nhanh chóng vượt qua), chẳng cần có đẳng cấp, có thể không cần phải học Tiểu Học và Trung Học, trực tiếp học Đại Học, đấy là đứa trẻ thiên tài, Đốn Giáo là như vậy đấy! Viên Giáo giống như nghiên cứu sinh (hậu đại học), viên mãn nhất. Trong Ngũ Giáo, kinh Di Đà thuộc giáo nào? Nó thuộc về giai đoạn cuối của Đại Thừa, là chung cực (kết thúc tột bậc) của Đại Thừa, mà cũng thuộc về Đốn Giáo. Không chỉ là Đốn Giáo, mà còn có một phần ý nghĩa Viên Giáo. Do vậy, nếu dùng Ngũ Giáo để nói thì kinh Di Đà có đủ các ý nghĩa Chung, Đốn, Viên. Do vậy biết kinh này thuộc về cách tu học cao cấp trong Đại Thừa, chẳng tầm thường!
 
  (Diễn) Vị tri Viên Đốn chi nghĩa thâm thiển quảng hiệp, cố thọ chi dĩ nghĩa lý thâm quảng.
  (演) 未知頓圓之義深淺廣狹,故受之以義理深廣。
  (Diễn: Do chưa biết ý nghĩa Viên Đốn sâu, cạn, rộng hẹp [như thế nào] nên nêu ra sự sâu rộng của nghĩa lý).
 
  Chúng ta chẳng hiểu nghĩa Viên Đốn sâu, cạn, rộng, hẹp [như thế nào], nên ắt cần phải bàn luận với mọi người về sự sâu rộng nơi nghĩa lý. Cũng cần phải hiểu điều này thì quý vị mới có thể thật sự lý giải rằng căn cứ lý luận của kinh Di Đà khá sâu, khá viên mãn, những điều này sẽ kiến lập tín tâm cho chúng ta. Nếu quý vị chẳng hiểu những đạo lý này, dẫu có niệm A Di Đà Phật, cùng tu với mọi người, nhưng tín tâm chẳng kiên cố, tín tâm chẳng thanh tịnh. Chẳng kiên cố, sẽ dễ bị dao động. Chẳng hạn như người ta bảo quý vị “Thiền hay lắm”, quý vị bèn tham Thiền. Nói “Mật tuyệt lắm”, quý vị bèn niệm chú. Lại nói “Giới Luật tốt lắm”, quý vị bèn đắp y, khất thực. Đấy là tín tâm của quý vị chưa kiên cố, bị dao động. Tín tâm chẳng thanh tịnh có nghĩa là gì? Chẳng thanh tịnh tức là lắm nỗi nghi ngờ: Ta niệm Phật có phải là hạnh chân thật hay chăng? Có thật sự được vãng sanh hay không? Vạn nhất không thể vãng sanh thì làm thế nào đây? Tuy chẳng lay động, nhưng tín tâm chẳng thanh tịnh, sẽ thường hoài nghi. Quý vị hiểu rõ “nghĩa lý rộng sâu” (nghĩa lý thâm quảng) thì tín tâm vừa kiên cố, vừa thanh tịnh, chẳng hoài nghi. Vì vậy, điều mục này quả thật là rất trọng yếu.
 
  (Diễn) Ký tri nghĩa lý bao bác xung thâm, vị thẩm thử kinh bị hà
căn khí, cố thọ chi dĩ sở bị giai phẩm.
(演) 既知義理包博沖深 , 未審此經被何根器 , 故受
之以所被階品。
  (Diễn: Đã biết nghĩa lý bao dung, mênh mông, tinh xác, thăm thẳm, nhưng chưa rõ kinh này thích hợp với căn khí nào, nên phải nêu bày những địa vị, phẩm vị được tiếp độ bởi kinh này).
 
  Đã biết nghĩa lý rồi, “bao bác” có nghĩa là trọn vẹn, “bao” (包) là bao dung. Không chỉ hết thảy Phật pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn mươi chín năm được bao gồm toàn bộ trong kinh này, kinh Di Đà tuyệt vời! Mà còn thưa với quý vị, pháp của mười phương ba đời hết thảy chư Phật đã nói cũng chẳng ra ngoài phạm vi của kinh này. Thật sự “bao bác” (bao dung, mênh mông), “bác” (博) là rộng lớn. “Xung thâm” (沖深) là tinh thâm, bác đại tinh thâm (mênh mông, to lớn, tinh tường, sâu xa)! Nếu quý vị đã thảo luận vấn đề “nghĩa lý rộng sâu”, thật sự khẳng định bộ kinh này có nghĩa lý bác đại tinh thâm, quý vị hãy nghĩ xem: Kinh văn không bao nhiêu, nhưng nay chúng ta thấy chú giải của Liên Trì đại sư là hai cuốn sách dày, đủ thấy đúng là sâu, đúng là rộng! Mỗi ngày chúng tôi giảng một tiếng rưỡi, giảng xong bộ kinh này phải mất trọn một năm. Kinh Di Đà chẳng đơn giản, đừng coi thường! Đây là nói “đã hiểu kinh này là bác đại tinh thâm rồi!”
  Thế nhưng kinh này “bị hà căn khí?” (thích hợp hạng căn khí nào). Nói theo cách bây giờ là phải có điều kiện và tư cách như thế nào thì mới có thể tiếp nhận, mới có thể tu học được? [Do vậy], tiếp theo đó bèn nói tới “sở bị giai phẩm” (địa vị và phẩm vị được tiếp độ bởi kinh này). “Giai” (階) là giai cấp (tầng bậc), “phẩm” (品) là phẩm loại, muốn đàm luận với quý vị người như thế nào mới có thể tu học. Đừng bị những điều đã nói trên đây dọa chết khiếp: Sâu dường ấy, rộng ngần ấy, sợ rằng ta chẳng đủ tư cách, ta cũng không có cách nào học pháp này. Do vậy, phải bảo quý vị: Pháp môn này ai cũng đều có thể học, mầu nhiệm ở chỗ này!
 
  (Diễn) Dĩ tri thử kinh bị cơ phổ biến.  
  (演) 已知此經被機普遍。
  (Diễn: Đã biết kinh này thích hợp trọn khắp các căn cơ).
 
  Gia bị hết thảy chúng sanh, người thuộc ba hạng căn tánh thượng -
trung - hạ ai nấy đều có thể tu học, tâm chúng ta đã định, tâm cũng đã an: Ta cũng có tư cách học pháp môn này, ai nấy đều có tư cách học, lại còn đều có thể thành tựu.
 
  (Diễn) Vị tri năng thuyên hà vi thể tánh, cố thọ chi dĩ năng thuyên thể tánh.
  (演) 未知能詮何為體性,故受之以能詮體性。
  (Diễn: Chưa biết thể tánh dùng để giảng giải là như thế nào, nên nêu ra thể tánh đã dùng để giảng giải).
 
  “Thể” (體) là bản thể, “tánh” (性) là tánh chất. Người hiện thời gọi “thể tánh” là “căn cứ lý luận”. Đức Phật giảng bộ kinh này như thế nào? Căn cứ lý luận để giảng là gì? Điều này có ý nghĩa khác với điều thứ nhất (giáo khởi sở nhân). Điều thứ nhất là nhân duyên, do nhân duyên nào mà Ngài nói với chúng ta, đấy là hỏi về nhân duyên, vì sao Ngài nói với tôi? Còn ở đây là căn cứ vào đâu để nói? Ngài dựa trên điều gì? Nếu Ngài nói: “Đại khái, ta tưởng tượng như vậy đó”, chúng ta sẽ chẳng thể tin tưởng! Nếu là Ngài tưởng tượng thì không được rồi! Nhất định phải có căn cứ lý luận. Có căn cứ lý luận và sự thật thì chúng ta mới có thể tin tưởng được! Do vậy, phải bàn luận điều này, thật sự kiến lập tín tâm của chúng ta đối với bộ kinh này và pháp môn này.
 
  (Diễn) Dĩ tri năng thuyên chi Thể như thị cai la, vị thẩm sở tông tôn sùng hà nghĩa, cố thọ chi dĩ tông thú chỉ quy.
(演) 已知能詮之體如是該羅  , 未審所宗尊崇何義 ,
故受之以宗趣旨歸。
  (Diễn: Đã biết Thể để nói kinh này bao trùm như thế, chưa biết rõ [kinh này] đề cao tôn sùng những nghĩa lý như thế nào, nên nêu ra Tông, Thú, chỉ quy).
  Năng Thuyên Thể Tánh chính là phần Biện Thể trong Ngũ Trùng Huyền Nghĩa, do vậy nó là một đề mục hết sức quan trọng. Chúng ta biết chỗ Phật y cứ là “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ” để giảng cho chúng ta pháp môn này, dạy chúng ta phương pháp tu học, nhưng chúng ta không biết cách tu ra sao? “Tông thú chỉ quy” là phương pháp tu hành. Đã hiểu rõ căn cứ lý luận rồi, nhưng dùng phương pháp nào để tu? Hạng mục này nhằm giảng rõ phương pháp cho chúng ta. “Tông” (宗) là tông chỉ, “thú” (趣) là quy thú (歸趣: hướng đến), quy hướng, dùng phương pháp nào để tu? Sau khi tu, kết quả sẽ như thế nào? Tông là tu hành, Thú là kết quả; chiếu theo phương pháp ấy để tu học, kết quả cuối cùng sẽ là gì? Điều này chính là phần Minh Tông và Luận Dụng trong Ngũ Trùng Huyền Nghĩa.
 
  (Diễn) Dĩ tri thử kinh chỉ thú xung huyền, vị thẩm đương bộ đẳng loại vi hữu kỷ chủng, cố thọ chi dĩ bộ loại sai biệt.
(演) 已知此經旨趣沖玄 ,  未審當部等類為有幾種 ,
故受之以部類差別。
  (Diễn: Đã biết chỉ thú của kinh này mênh mông, huyền diệu, nhưng chưa rõ những kinh có cùng bộ loại với kinh này gồm bao nhiêu thứ, vì thế phải nêu ra bộ loại sai biệt).
 
  Phương pháp tu hành và công đức lợi ích do tu hành chẳng thể nghĩ bàn! Ở đây dùng hai chữ “xung huyền” để hình dung; hai chữ này tương ứng với tên gọi gốc của bản kinh này. Tên gọi nguyên gốc của kinh này là Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị; “xung huyền” có nghĩa là chẳng thể nghĩ bàn: Phương pháp chẳng thể nghĩ bàn, quả báo chẳng thể nghĩ bàn, thật sự quá thù thắng, nên nói “duy Phật dữ Phật phương năng cứu cánh” (chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu rốt ráo). Trong phần trước, tôi cũng từng thưa với quý vị đôi chút, điều chẳng thể nghĩ bàn thứ nhất là như kinh này đã dạy: Chỉ cần vãng sanh liền viên chứng ba món Bất Thoái, điều này chẳng thể nghĩ bàn! Trong hết thảy các kinh giáo, đức Phật chưa hề nói như vậy. Viên chứng ba thứ Bất Thoái, hãy đặc biệt chú trọng chữ Viên, đó là quả báo chẳng thể nghĩ bàn. Tu hành chẳng thể nghĩ bàn, do một câu A Di Đà Phật bèn có thể đới nghiệp vãng sanh, điều này chẳng thể nghĩ bàn! Trong pháp môn này, điều chẳng thể nghĩ bàn cao tột nhất chính là hai chuyện này; bởi lẽ, lý luận quá sâu, phương pháp quá huyền diệu!
  Chúng ta hiểu rõ đạo lý này, biết chuyện này, nhưng chẳng hiểu những kinh đồng loại với kinh này có bao nhiêu thứ. Vì thế, tiếp theo đây, phải nói rõ “bộ loại sai biệt”. “Bộ” là đồng bộ, tức là những kinh điển nói về cùng một chuyện. Ví như kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật đồng bộ với kinh này vì đều giảng về Tây Phương Cực Lạc thế giới; còn có Cổ Âm Vương Kinh cũng là đồng bộ. “Đồng loại” thì như kinh Hoa Nghiêm là đồng loại. Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng “mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc”, cũng lấy Tây Phương Cực Lạc thế giới làm mục tiêu, nhưng phương pháp tu hành khác kinh này. Kinh này niệm A Di Đà Phật, kinh kia tu mười đại nguyện vương. Phương pháp tu hành khác nhau, nhưng mục đích là cùng một chỗ, đều là về Tây Phương Cực Lạc thế giới, gặp A Di Đà Phật, nên thuộc cùng một loại.
 
  (Diễn) Dĩ tri bộ loại tường lược đồng biệt.
  (演) 已知部類詳略同別。
  (Diễn: Đã biết bộ loại tường tận hay sơ lược, giống nhau hay khác nhau rồi).
 
  Đã được giới thiệu nên hiểu rõ rồi, nhưng chúng ta còn có nghi vấn.
 
  (Diễn) Vị ủy dịch tự hà thời, phàm hữu kỷ dịch.
  (演) 未委譯自何時,凡有幾譯。
  (Diễn: Chưa rõ [kinh này] được dịch từ thời nào, có mấy bản dịch).
 
  Kinh Phật từ tiếng Phạn (Sankrit) dịch ra, chúng ta vẫn chưa biết bộ kinh này được dịch vào thời nào? Người nào dịch? Được phiên dịch mấy lần? Sau khi kinh điển được truyền đến Trung Quốc, có bao nhiêu người phiên dịch? Có bao nhiêu bản dịch? Ví như kinh Kim Cương có sáu bản dịch, Tâm Kinh có mười mấy bản dịch, nhưng được lưu hành rộng nhất là bản dịch của ngài Huyền Trang, hai trăm sáu mươi chữ, bản dịch của Ngài đơn giản nhất.
 
(Diễn) Dĩ chí chú thích trì tụng hữu hà linh nghiệm, cố thọ chi dĩ dịch thích tụng trì.
(演) 以至註釋持誦有何靈驗,故受之以譯釋誦持。
(Diễn: Cho đến chú giải, trì tụng có linh nghiệm như thế nào; vì thế, nêu lên các chi tiết về dịch thuật, chú giải, tụng trì).
 
Trải qua các đời, phiên dịch có cảm ứng như thế nào? Chú giải có cảm ứng như thế nào? Người thọ trì, đọc, tụng, y giáo tu hành có cảm ứng gì? Những điều này giống như cái gọi là “kiến chứng” (làm chứng, testimony) trong Cơ Đốc Giáo. Do sự chứng thực này, chúng ta mới chết sạch lòng so đo, khăng khăng thọ trì. Trước khi giải thích kinh văn, phải nêu lên phương pháp giải thích kinh văn thì mới thật sự có thể khiến cho chúng ta đoạn nghi sanh tín.
 
(Diễn) Đại chỉ ký trần.
   (演) 大旨既陳。
(Diễn: Tông chỉ đại lược đã trần thuật rồi).
 
“Đại chỉ” là đại ý của toàn bộ kinh văn, “trần” (陳) là trần thuật.
 
(Diễn) Tùy văn giải thích.
(演) 隨文解釋。
(Diễn: Dựa theo lời kinh để giải thích).
 
Sau khi đã nói đại ý xong, đương nhiên phải giải thích kinh văn. Giải thích kinh văn thì trước hết phải giải thích tên kinh, trước hết phải giải thích [tên gọi] Phật Thuyết A Di Đà Kinh.
 
(Diễn) Tiên minh tổng đề, sử tri cương lãnh, cố thọ chi tổng thích danh đề.
(演) 先明總題,使知綱領,故受之總釋名題。
(Diễn: Trước hết phải giảng rõ tên gọi chung của cả bộ kinh để [người đọc] biết cương lãnh [của bộ kinh này], nên nêu ra phần “giải thích chung danh hiệu của kinh”).
 
Trước tiên, phải hiểu rõ ý nghĩa của tên kinh này, đề mục (tên gọi của một bài văn) là tổng cương lãnh của một bài văn chương.
 
(Diễn) Tổng nghĩa tuy tri, biệt văn nan hiểu.
(演) 總義雖知,別文難曉。
(Diễn: Tuy đã biết ý nghĩa chung, nhưng từng lời kinh văn riêng biệt vẫn còn khó hiểu).
 
Chữ “biệt văn” chỉ phần kinh văn. Đã hiểu rõ tựa đề kinh, nhưng đọc đến kinh văn, mỗi một chữ, mỗi một câu trong kinh văn đều chứa đựng  vô  lượng  nghĩa, chúng  ta  là kẻ sơ học chẳng thấy được [những ý
nghĩa ấy]!
 
  (Diễn) Tùng “như thị ngã văn” chí chung.
  (演) 從如是我聞至終。
  (Diễn: Từ “như thị ngã văn” cho đến hết kinh).
 
  Cho đến hết bộ kinh này!
 
  (Diễn) Vi hà đẳng văn, thị hà đẳng nghĩa.
   (演) 為何等文,是何等義。
  (Diễn: Hành văn như thế nào, có nghĩa như thế nào?)
 
  “Hà đẳng văn” có nghĩa là dùng thể tài nào? Kết cấu chương pháp như thế nào? “Hà đẳng nghĩa” là trong ấy chứa đựng những ý nghĩa nào?
 
  (Diễn) Sử trầm ẩn chi nghĩa chương ư hàn mặc.
  (演) 使沈隱之義彰於翰墨。
  (Diễn: Khiến cho những ý nghĩa ẩn kín được phơi bày trên giấy mực).
 
Nay chúng ta gọi “hàn mặc” là “bút đoan” (ngọn bút). Nhờ ngòi bút diễn tả mọi điều rõ ràng, hiển thị trọn hết, khiến cho người ta vừa đọc liền hiểu rõ ngay. “Chương” là ý nghĩa đều rõ ràng.
 
  (Diễn) Cố thọ chi dĩ biệt giải văn nghĩa dã.
  (演) 故受之以別解文義也。
  (Diễn: Cho nên phải giải thích ý nghĩa của từng đoạn văn riêng biệt).
  Đây là điều thứ mười, đến chỗ này là giải thích rõ vì sao có mười môn này? Nhưng thứ tự của mười môn chẳng rối loạn, vì từng điều một được sanh khởi nối tiếp nhau, giống như chúng ta nêu câu hỏi, đáp xong câu hỏi thứ nhất, từ lời đáp cho câu hỏi thứ nhất, tức từ điều thứ nhất bèn sanh ra câu hỏi thứ hai. Trả lời câu hỏi thứ hai xong, lại có thể sanh ra câu hỏi thứ ba, cho đến câu thứ mười là viên mãn. Hết thảy nghi vấn đều được giải trừ!
 
  (Diễn) Ngũ Trùng Huyền Nghĩa giả, nãi năng triệu chi Danh, sở thuyên chi Thể, hội Thể chi Tông, Tông sở thành Dụng, thượng tứ giáo tướng, như Thiên Thai giáo.
(演) 五重玄義者 , 乃能召之名 , 所詮之體,會體之
宗,宗所成用,上四教相,如天台教。
  (Diễn: Năm tầng huyền nghĩa: Cái Danh có thể chiêu vời, cái Thể để giảng nói, Tông tương ứng với Thể, Dụng nhằm thành tựu Tông. Bốn giáo tướng đầu [trong mười môn của tông Hiền Thủ] giống như phần Phán Giáo trong tông Thiên Thai).
 
  Một hàng rưỡi này nhằm thuyết minh đơn giản vì sao gọi là Ngũ Trùng Huyền Nghĩa. Trong Ngũ Trùng Huyền Nghĩa, điều thứ nhất là Danh, giải thích tên gọi của bộ kinh. Phương pháp của Ngũ Trùng Huyền Nghĩa khác với phương pháp của tông Hoa Nghiêm. Tông Hoa Nghiêm giảng Huyền Nghĩa trước, đến cuối cùng mới giải thích tựa đề kinh; còn Ngũ Trùng Huyền Nghĩa vừa mở đầu liền giải thích tựa đề kinh. Giải thích tựa đề kinh xong mới đàm luận huyền nghĩa. “Năng triệu chi Danh” (cái Danh có thể chiêu vời) cho nên xếp nó lên đầu. Thứ hai là “sở thuyên chi Thể”, “thuyên” (詮) là giảng nói kinh. [“Sở thuyên chi Thể”] chính là căn cứ lý luận để giảng nói một bản kinh. Đây là tánh chất, thể tánh của kinh. Hạng mục thứ ba là Minh Tông, tức [giải thích] tông chỉ. “Hội Thể chi Tông”: Tông là phương pháp tu hành, Thể là căn cứ lý luận. Phương pháp tu hành nhất định phải tương ứng với căn cứ lý luận. Do vậy, gọi là “hội Thể”. Nếu phương pháp tu hành chẳng tương ứng với thể tánh, quý vị tu học sẽ uổng phí công phu, chẳng thể tương ứng!
  Quý vị phải hiểu: Nay chúng ta niệm một câu A Di Đà Phật, nói thật ra là Danh, cái Danh có thể cảm vời [muôn vàn công đức]. Rất hy hữu! Cưu Ma La Thập đại sư đã dùng danh hiệu Phật để đặt tên kinh; đây là điều tâm đắc thù thắng của lão nhân gia, Ngài có dụng tâm riêng. Tựa đề gốc của kinh này chẳng phải là A Di Đà Kinh, [danh xưng] A Di Đà Kinh là do Ngài đặt ra, dụng ý rất sâu, vì sao? Câu danh hiệu này tương ứng với thể tánh của kinh này. A Di Đà Phật là danh tự gì? Chính là danh tự Chân Như bổn tánh của chúng ta, là danh tự của tự tánh Di Đà. Quý vị niệm danh tự này bèn minh tâm kiến tánh mà chẳng hay chẳng biết, niệm ra chân tánh.
  Chúng ta có kẻ niệm Phật suốt  đời, vì  sao  chẳng  thể  kiến  tánh?
Chẳng thể kiến tánh cũng chẳng sao, chỉ cần quý vị vãng sanh thì vãng sanh rồi sẽ kiến tánh. Vãng sanh là viên chứng ba thứ Bất Thoái, vãng sanh là kiến tánh, quá mầu nhiệm! Trong một đời này còn chưa vãng sanh mà niệm một câu A Di Đà Phật bèn kiến tánh, có [trường hợp ấy] hay không? Có! Từ xưa có rất nhiều người tuy chưa vãng sanh nhưng niệm một câu Phật hiệu bèn kiến tánh. Ai kiến tánh? Liên Trì đại sư kiến tánh. Vì sao biết? Nếu Ngài chưa kiến tánh, sẽ chẳng thể viết ra bộ Sớ Sao này. Ngẫu Ích đại sư kiến tánh; nếu Ngài chưa kiến tánh, sẽ chẳng thể viết Yếu Giải. Cận đại, Ấn Quang đại sư kiến tánh; nếu Ngài chưa kiến tánh, sẽ chẳng thể viết ra Văn Sao. Quý vị thấy đó, vì lẽ nào các vị ấy kiến tánh? Niệm một câu A Di Đà Phật bèn kiến tánh.
  Ở đây, tôi phải thưa cùng quý vị, nhất định phải hiểu ý nghĩa trong kinh này thì niệm một câu Phật hiệu mới tương ứng, có tương ứng với chân tánh thì mới có thể niệm đến mức thấy tánh. Do điều này, chẳng thể không thâm nhập nghiên cứu kinh này! Quý vị nói: “Tôi niệm một câu A Di Đà Phật, tôi cũng lười nghiên cứu kinh, tôi cũng chẳng muốn đi nghe giảng”, được hay không? Được chứ! Nhưng trong đời này, quý vị chẳng kiến tánh. Quý vị có thể vãng sanh, nhưng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới rồi mới kiến tánh. Nếu nghĩ “nếu nay tôi niệm Phật kiến tánh thì kiến tánh có chỗ nào hay ho?” Kiến tánh thì vãng sanh phẩm vị sẽ cao. Nói cách khác, đối với kinh luận này, quý vị nhất định phải đổ công nghiên cứu sâu xa. Chẳng những phải nghiên cứu, mà còn phải nghiên cứu thâm nhập. Sau đấy, mỗi câu Phật hiệu mới tương ứng với tự tánh Di Đà. Đã tương ứng với tự tánh Di Đà, nhất định cũng sẽ tương ứng với A Di Đà Phật là vị giáo chủ của Tây Phương Cực Lạc thế giới. Trong là tương ứng về mặt Lý với Tánh, ngoài là tương ứng nơi mặt Sự với đức Phật ấy (A Di Đà Phật bên Tây Phương Cực Lạc thế giới). Lý Sự bất nhị, công đức niệm Phật ấy vô lượng vô biên. Do vậy, Tông này được gọi là “hội Thể chi Tông” (Tông tương ứng với Thể).
  “Tông  sở  thành  Dụng”: Sau  khi  tu  hành, nhất  định phải có tác
dụng to lớn. Tác dụng là vãng sanh, tức là thành Phật. Có thể nói: Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn thành Phật! Nhưng quý vị phải hiểu: Phải thật sự vãng sanh, chứ giả thì không được. Vãng sanh giống như lão hòa thượng Quảng Khâm, lúc lâm chung không bệnh tật, nói đi là đi liền, muốn đi bèn đi ngay. Phải ra đi tự tại dường ấy. Đó là vãng sanh thật sự, hễ vãng sanh là thật sự làm Phật, chẳng giả! Lão hòa thượng Quảng Khâm vừa vãng sanh bèn thật sự thành Phật, viên chứng ba thứ Bất Thoái. Chắc chắn phẩm vị vãng sanh của Ngài chẳng thấp mà là vãng sanh trong phẩm vị cao. Tôi chỉ gặp mặt lão hòa thượng Quảng Khâm một lần khi tôi giảng kinh Địa Tạng tại chùa Pháp Hoa, lão nhân gia có đến nghe kinh một lần.
  Tầng thứ năm trong Ngũ Trùng Huyền Nghĩa là Phán Giáo, Giáo là Giáo Tướng. Đối với Phán Giáo thì trong mười môn [của tông Hoa Nghiêm], các phần Giáo Khởi Sở Nhân, Tạng Giáo Đẳng Nhiếp, Sở Bị Giai Phẩm, Bộ Loại Sai Biệt đều thuộc về giáo nghĩa, đều thuộc vào Phán Giáo. Ngũ Trùng Huyền Nghĩa đã gộp chung các phần này lại. [Do vậy, sách Diễn Nghĩa viết]: “Thượng tứ giáo tướng, như Thiên Thai Giáo” (Bốn giáo tướng đầu trong mười môn [của tông Hoa Nghiêm] tương ứng với phần Phán Giáo của tông Thiên Thai). Tông Thiên Thai có Tứ Giáo Nghi (bốn phương cách giáo hóa) nhằm chuyên môn thuyết minh phương pháp dạy học trong tông Thiên Thai. Tông Thiên Thai có Tứ Giáo Nghi, tông Hiền Thủ có Ngũ Giáo Nghi, tức là các phương pháp giảng dạy [khác nhau].
 
  (Diễn) Kim Hiền Thủ.
  (演) 今賢首。
  (Diễn: Nay tông Hiền Thủ).
 
  “Kim” là hiện tại. Liên Trì đại sư chọn dùng phương pháp của tông Hoa Nghiêm, tức Thập Môn Khai Khải.
 
  (Diễn) Tắc hữu thập môn sai biệt.
  (演) 則有十門差別。
  (Diễn: Bèn có mười môn sai biệt).
 
  Mười môn có sai khác với Ngũ Trùng Huyền Nghĩa của tông Thiên Thai, nhưng thật ra thì...
  (Diễn) Đại đồng tiểu dị.
  (演) 大同小異。
  (Diễn: Giống nhau ở những điểm chánh yếu, sai khác nơi những chi tiết nhỏ nhặt).
 
  Đặc biệt nói rõ cho chúng ta biết.
 
  (Diễn) Sảo hữu tường lược giả, thử tường bỉ lược dã.
  (演) 稍有詳略者,此詳彼略也。
  (Diễn: Có tường tận hay đại lược khác biệt đôi chút là do cách này nói tường tận, cách kia nói khái lược).
 
  “Thử” là tông Hiền Thủ, do tông Hoa Nghiêm có mười hạng mục nên tường tận hơn; tông Thiên Thai chỉ có năm hạng mục, giản lược hơn. Do vậy nói: “Thử tường bỉ lược”.
 
  (Diễn) Thử trung Thích Danh, tức Thiên Thai Danh.
  (演) 此中釋名,即天台名。
  (Diễn: Phần Thích Danh ở đây chính là phần Thích Danh trong [Ngũ Trùng Huyền Nghĩa của] tông Thiên Thai).
 
  Phần Tổng Thích Danh Đề chính là phần Thích Danh của tông Thiên Thai.
 
  (Diễn) Thử trung Năng Thuyên Thể Tánh, tức Thiên Thai Thể.
  (演) 此中能詮體性,即天台體。
  (Diễn: Phần Năng Thuyên Thể Tánh ở đây chính là phần Biện Thể trong tông Thiên Thai).
 
  Năng Thuyên Thể Tánh là phần Biện Thể trong tông Thiên Thai.
 
  (Diễn) Tông Thú Chỉ Quy tức Thiên Thai Tông.
  (演) 宗趣旨歸,即天台宗。
  (Diễn: Phần Tông Thú Chỉ Quy chính là phần Minh Tông trong tông Thiên Thai).
 
  Tông Thú Chỉ Quy chính là phần Minh Tông của tông Thiên Thai.
 
  (Diễn) Sở Bị Giai Phẩm, tức Thiên Thai Dụng.
  (演) 所被階品,即天台用。
  (Diễn: Phần Sở Bị Giai Phẩm là phần Dụng trong tông Thiên Thai).
 
  Sở Bị Giai Phẩm là phần Lực Dụng trong tông Thiên Thai.
 
  (Diễn) Dư ngũ tức Thiên Thai Giáo Tướng dã.
  (演) 餘五即天台教相也。
  (Diễn: Năm phần còn lại tương ứng với phần Giáo Tướng của tông Thiên Thai).
 
  Năm thứ còn lại được tông Thiên Thai gọi là Giáo Tướng. Nội dung của Ngũ Trùng Huyền Nghĩa và Thập Môn Khai Khải chẳng sai biệt, chỉ là phương thức [diễn đạt] khác nhau. Đã giới thiệu đại ý xong, dưới đây chúng ta sẽ thảo luận sâu hơn từng điều một.
 
  Nhị, tường thích.
  二、詳釋
  (Hai, giải thích cặn kẽ).
 
  “Tường thích” là đối với mười hạng mục, mỗi một hạng mục là một đoạn, đoạn thứ nhất là Giáo Khởi Nhân Duyên, lại chia thành Tổng Nhân Duyên và Biệt Nhân Duyên.
 
  Sơ Tổng.
  Tiên minh Tổng giả, vị Như Lai duy vị nhất đại sự nhân duyên xuất hiện ư thế, tắc nhất đại thời giáo, tổng kỳ đại ý, duy dục chúng sanh khai thị ngộ nhập Phật chi tri kiến. Kim thử kinh giả, trực chỉ chúng sanh dĩ niệm Phật tâm nhập Phật tri kiến cố.
  初總
先明總者,謂如來唯為一大事因緣出現於世,則一代時教,總其大意,唯欲眾生開示悟入佛之知見。今此經者,直指眾生以念佛心入佛知見故。
  (Thứ nhất là nhân duyên chung.
  Trước hết, nói rõ nhân duyên chung, chính là Như Lai chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong cõi đời; cho nên ý nghĩa chung của toàn bộ giáo pháp trong một đời đức Phật chỉ là “vì muốn làm cho chúng sanh khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật”. Nay kinh này chỉ thẳng cho chúng sanh biết: Hãy dùng cái tâm niệm Phật để nhập tri kiến của Phật).
 
  Văn chương của Liên Trì đại sư hay tuyệt vời! Thật sự đạt yêu cầu về phép tắc văn chương của cổ nhân Trung Quốc “giản, yếu, tường, minh”, tức là đơn giản, trọng yếu, tường tận, rõ ràng. Do vậy, rất nhiều đồng tu muốn học văn chương Văn Ngôn, học văn chương Văn Ngôn chẳng có bí quyết nào khác: Phải đọc thuộc văn chương Văn Ngôn, nhưng không cần đọc cổ văn, đọc bộ Di Đà Kinh Sớ Sao này được rồi! Đây là văn chương Văn Ngôn hay nhất, đã học được văn mà còn hiểu ý, một công mà đạt nhiều chuyện, còn gì vui sướng hơn? Quý vị muốn học văn chương Văn Ngôn, nếu thuộc văn chương đến mức nhuần nhuyễn, thấu triệt, quý vị sẽ không chỉ biết đọc mà cũng biết viết. Do vậy, nhất định phải đọc nhuần nhuyễn.
  Trước hết, nói đến Tổng Nhân Duyên. Vì nhân duyên gì Thích Ca Mâu Ni Phật đến thế gian này? Trước hết, chúng ta hãy thảo luận vấn đề này. Đức Phật xuất hiện trong thế gian này để làm gì? Vì sao Ngài phải đến? Chúng ta cũng tới thế gian này, vì sao chúng ta phải đến? Chúng ta chẳng thể không đến, nghiệp báo mà! Đã tạo nghiệp, hiện tại phải hứng chịu quả báo, lẽ nào quý vị chẳng đến cho được? Đương nhiên phải đến! Đức Phật chẳng tạo nghiệp, cớ sao Ngài cũng đến? Ngài đến khác với chúng ta, do đâu mà chúng ta biết nguyên nhân Ngài đến đây? Chính đức Phật tự nói ra! Đoạn văn này trích từ kinh Pháp Hoa, đức Phật “vì một đại sự nhân duyên” mà xuất hiện trong thế gian. Đại sự gì vậy? Chính là “khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật”, vì chuyện như vậy đó! Đức Phật xuất hiện trong thế gian bốn mươi chín năm, tông chỉ giáo hóa chúng sanh của Ngài là tám chữ ấy. Mục tiêu dạy học là [khiến cho chúng sanh] “nhập tri kiến của Phật”. Nói cách khác, nhập tri kiến của Phật là thành Phật.
  Đức Phật xuất hiện trong thế gian giáo hóa chúng sanh, mục tiêu là gì? Hy vọng mọi người đều thành Phật. Ngài vì lẽ này mà đến. “Khai thị” là chuyện của lão nhân gia, là chuyện của thầy, còn “ngộ nhập” là chuyện của chúng ta! Ngài đã khai thị, chúng ta có thể ngộ nhập hay không? “Khai” là mở mang, hiện thời tâm chúng ta đóng chặt, giống như có cái nút chặn, lấp chặt. Do vậy, quý vị chẳng thể minh tâm kiến tánh. Đức Phật dùng đủ mọi phương pháp thiện xảo để cậy tung cái nút ấy hòng mở tung cái tâm của chúng ta. Sau khi đã mở ra, bản thân chúng ta vẫn chưa thể hiểu rõ; do vậy, lại phải tiến hơn bước nữa, chỉ dạy chúng ta từng chuyện một, đó là chuyện của thầy. Thầy chỉ có thể làm đến đây, chỉ dạy từng chuyện, chúng ta là học sinh thì phải nên hoảng nhiên đại ngộ. Ngộ rồi phải nhập cảnh giới ấy, giống như Phật, chẳng khác gì! Do vậy, Phật khai thị [cho chúng ta hiểu] tri kiến của Phật, chỉ bày tri kiến của Phật, hy vọng chúng ta ngộ và nhập tri kiến của Phật. Vì thế, học sinh phải ngộ nhập! Nếu học sinh chẳng thể ngộ nhập, thầy đã uổng công khai thị mất rồi! Quý vị phải hiểu: Khai thị là chuyện của Phật, thấp nhất cũng là chuyện của hàng Bồ Tát. Đấy là nhân duyên khiến Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong thế gian.
  Liên Trì đại sư đã chỉ bảo chúng ta: “Kim thử kinh giả” (nay trong kinh này), trong bộ kinh này, đức Phật đã dùng phương pháp nào để khai thị? “Trực chỉ chúng sanh dĩ niệm Phật tâm nhập Phật tri kiến” (chỉ thẳng cho chúng sanh biết hãy dùng cái tâm niệm Phật để nhập tri kiến của Phật), thật phi phàm! Kẻ tầm thường sẽ chẳng nói nổi câu này! Do vậy, tôi nói Liên Trì đại sư là bậc kiến tánh.
 
  (Diễn) Tiên minh tổng giả, tổng quát nhất đại thời giáo dã.
  (演) 先明總者,總括一代時教也。
  (Diễn: “Trước hết, nói rõ nhân duyên chung”: Nêu nhân duyên chung của toàn bộ giáo pháp trong suốt một đời đức Phật).
 
  Đây là giải thích ý nghĩa của chữ Tổng, “nhất đại thời giáo” là giáo học trong suốt một đời Thích Ca Mâu Ni Phật.
 
  (Diễn) Nhất đại sự nhân duyên giả, phi tam phi ngũ vi nhất.
  (演) 一大事因緣者,非三非五為一。
  (Diễn: “Một đại sự nhân duyên”: Chẳng phải ba, chẳng phải năm, mà là một).
 
  Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật mới nói ra toàn bộ ý Ngài: “Duy hữu Nhất Thừa pháp, vô nhị, diệc vô tam” (chỉ có pháp Nhất Thừa, chẳng hai, cũng chẳng ba). Trong quá khứ, đức Phật giảng hai thừa là Đại Thừa và Tiểu Thừa, hoặc giảng ba thừa: Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa và Bồ Tát Thừa, nhưng trong hội Pháp Hoa, Ngài phủ định hết những chuyện trước kia.
Phật pháp chỉ có một thừa, chứ không có ba thừa, mà cũng chẳng có năm thừa. Năm thừa bao gồm [ba thừa, kể thêm] nhân thừa và thiên thừa. “Phi tam, phi ngũ, vi nhất”: Nhất Thừa, đó là một. Một đại sự nhân duyên thì chữ “một” chỉ điều gì? Pháp Nhất Thừa, chỉ có pháp Nhất Thừa. “Đại” là gì vậy?
 
  (Diễn) Xứng Thể nhi châu viết Đại.
  (演) 稱體而周曰大。
  (Diễn: Tương ứng trọn khắp với Thể thì gọi là Đại).
 
  “Đại” chẳng phải là lớn trong “lớn, nhỏ”, chẳng phải là Đại tương đối, nhưng bất đắc dĩ phải dùng chữ này để tán thán và hình dung, vì sao? “Xứng Thể nhi châu”: Thể là Chân Như bổn tánh của chúng ta, “châu” có nghĩa là “châu biến” (周遍: trọn khắp), viên mãn, chẳng có mảy may thiếu khuyết nào! Cảnh giới và sự lý này chắc chắn chẳng thể diễn tả được, cũng chẳng có cách nào tưởng tượng được. Đó gọi là “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hạnh xứ diệt”. Bất đắc dĩ phải dùng chữ Đại để tán thán và hình dung. Đó là ý nghĩa bao hàm trong chữ Đại.
 
  (Diễn) Xuất thế nghi tắc viết Sự.
  (演) 出世儀則曰事。
  (Diễn: Vượt khỏi các pháp tắc thế gian nên gọi là Sự).
 
  Vượt trỗi các nghi thức, pháp tắc trong thế gian nên gọi là Sự.
 
  (Diễn) Chúng sanh bổn cụ vi Nhân, chư Phật chỉ thị vi Duyên.
  (演) 眾生本具為因,諸佛指示為緣。
  (Diễn: Chúng sanh sẵn có là Nhân, chư Phật chỉ dạy là Duyên).
 
  Gọi là “đại sự nhân duyên” thì đại sự này vốn là điều hết thảy chúng sanh vốn sẵn có. Khi Lục Tổ khai ngộ, lão nhân gia ngộ nhập, Ngũ Tổ Nhẫn đại sư giảng kinh Kim Cang cho Ngài nghe. Ngũ Tổ khai thị cho Ngài, Ngài nghe đến chỗ “ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” (đừng nên trụ vào đâu để sanh tâm) liền ngộ nhập. Vừa ngộ nhập, lão nhân gia bèn nói: “Hà kỳ tự tánh, bổn lai thanh tịnh” (nào ngờ tự tánh vốn sẵn thanh tịnh), tự tánh là chân tâm của chính quý vị, nó vốn sẵn thanh tịnh, chẳng ô nhiễm. “Hà kỳ tự tánh, bổn lai cụ túc” (nào ngờ tự tánh vốn sẵn đầy đủ), đấy chính là ý nghĩa Nhân được nói ở đây, vốn đầy đủ, chẳng thiếu khuyết mảy may nào! Đầy đủ gì vậy? Chẳng có một pháp nào không đầy đủ. Quý vị vốn sẵn đủ trí huệ giống hệt như chư Phật, trí huệ của quý vị viên mãn, đức hạnh viên mãn, năng lực viên mãn, tài nghệ viên mãn, cho đến phú quý cũng viên mãn, chẳng có thứ gì không viên mãn, quý vị vốn sẵn đầy đủ!
  Tuy vốn sẵn đầy đủ, nhưng hiện thời tôi vốn sẵn đầy đủ mà chẳng thể dùng thì làm thế nào đây? Có thể dùng chứ! Phía sau [hai câu nói trên đây], lão nhân gia lại nói: “Hà kỳ tự tánh, năng sanh vạn pháp” (nào ngờ tự tánh có thể sanh ra muôn pháp). Có thể sanh ra muôn pháp, nên ta mới có thể thụ dụng; chứ nếu đầy đủ mà chẳng thể sanh thì ta cũng chẳng thể thụ dụng được! Đầy đủ mà có thể sanh nên thứ gì cũng đều thụ dụng được. Quý vị mở Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh ra xem, từ phần đầu kinh văn, quý vị sẽ thấy bất luận sự hưởng thụ nào của Phật, về mặt tinh thần hay vật chất, nhân gian chúng ta không có cách nào sánh bằng! Cổ nhân nói: “Không đọc Hoa Nghiêm, sẽ chẳng biết sự phú quý khi thành Phật”. Chẳng hiểu thành Phật có chỗ tốt đẹp nào! Những thứ hưởng thụ vật chất và tinh thần ấy từ đâu mà có? Vốn sẵn trọn đủ trong bổn tánh của chính mình, [tự tánh] có thể sanh ra chúng, chứ không phải do cầu từ bên ngoài, chẳng phải do hữu ý tạo tác, chẳng phải vậy, mà là tự tánh vốn sẵn trọn đủ, có thể sanh ra vạn pháp, nhất định phải hiểu đạo lý này!
  Nói cách khác, chúng ta vốn là kẻ phú quý, vốn chẳng có phiền não, vốn chẳng có đau khổ, hiện thời chúng ta tạo thành một thân đầy thống khổ phiền não, khổ chẳng thể nói nổi, nguyên nhân là đâu? Mê mất tự tánh! Tự tánh là tri kiến của Phật. Quý vị mê mất tri kiến của Phật. Phật là ai? Chính quý vị vốn là Phật. Trong kinh Hoa Nghiêm và kinh Viên Giác, đức Phật đã nói: “Hết thảy chúng sanh vốn đã thành Phật”. Chẳng phải là quý vị thành Phật trong tương lai, chẳng phải là thành Phật trong hiện tại, mà quý vị vốn đã thành Phật! Vốn đã thành Phật, nói cách khác, quý vị vốn chẳng có phiền não, vốn sẵn giàu có, đầy đủ, vốn chẳng ngu si! Hiện thời, quý vị ngu si, phiền não, sanh tử, nghiệp chướng trùng trùng, đều do quý vị mê mất bổn tánh của chính mình, nên mới xuất hiện các huyễn tướng ấy. Do vậy nói: “Chúng sanh bổn cụ vi Nhân” (Chúng sanh vốn sẵn đủ là Nhân). Tuy có cái nhân ấy, nhưng nếu không có Phật khai thị thì bản thân chúng ta chẳng nhận biết. Vì vậy, nhất định cần phải được Phật khai thị thì chúng ta mới hoảng nhiên đại ngộ, mới có thể tiến nhập. Đối với chúng ta mà nói, sự giáo hóa của Phật là Tăng Thượng Duyên, hết thảy [những đức năng, phẩm đức, thần thông, tự tại v.v...] đều là những thứ chính mình vốn sẵn trọn đủ.
 
  (Diễn) Khai thị ngộ nhập Phật chi tri kiến giả.
  (演) 開示悟入佛之知見者。
  (Diễn: Khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật là...)
 
  Tám chữ này hết sức trọng yếu.
 
  (Diễn) Tam trí viên hiển viết Phật Tri, ngũ nhãn viên minh viết Phật Kiến.
  (演) 三智圓顯曰佛知,五眼圓明曰佛見。
  (Diễn: Ba trí hiển lộ trọn vẹn thì gọi là Phật Tri, ngũ nhãn viên minh gọi là Phật Kiến).
 
  Quý vị thấy: Với tri kiến này, há chẳng thành Phật ư? Tam Trí là Nhất Thiết Trí, Đạo Chủng Trí và Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết Trí là Chánh Giác, Đạo Chủng Trí là Chánh Đẳng Chánh Giác, Nhất Thiết Chủng Trí là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ba trí viên mãn, lại còn khởi tác dụng rành rành, đó gọi là Phật Tri. Phật ở đây là Tự Tánh Phật, là chính mình. Nay nếu chúng ta hỏi: Mỗi cá nhân đều đầy đủ, lại còn viên mãn ba trí này, vì sao hiện thời ba trí của chúng ta chẳng hiển lộ? Vì chúng ta có Vô Minh phiền não, nên Nhất Thiết Chủng Trí bị mê mất, chẳng hiển hiện. Vì chúng ta có Trần Sa phiền não, nên Đạo Chủng Trí bị ngăn che, cũng chẳng thể hiển hiện được! Vì chúng ta có Kiến Tư phiền não, Nhất Thiết Trí cũng chẳng thể hiển hiện được. Ba trí ấy bị ba thứ phiền não ấy chướng ngại, ngăn lấp, nên tuy có mà chẳng hiển hiện, tuy đầy đủ viên mãn mà chẳng khởi tác dụng. Giống như mặt trời tuy rất rực rỡ, nhưng bị mây dầy che lấp, chúng ta chẳng thấy mặt trời, thấy bên ngoài vẫn là một bầu tối tăm. Do bị mây che lấp, chẳng phải là mặt trời không tỏa sáng. Nói cách khác, hoàn toàn chẳng phải là quý vị không có Phật Tri, mà vì có ba món phiền não ngăn lấp Phật Tri của quý vị. Muốn trí huệ thấu lộ, quý vị phải đoạn phiền não. Kiến Tư phiền não bao gồm năm thứ Kiến Hoặc và năm thứ Tư Hoặc, tổng cộng là mười loại. Quý vị đoạn sạch mười loại này, Nhất Thiết Trí sẽ thấu xuất. Tiến thêm bước nữa là đoạn hết Trần Sa phiền não, Đạo Chủng Trí sẽ hiện tiền. Đến cuối cùng, Vô Minh cũng phá trừ, Nhất Thiết Chủng Trí hiện tiền. Quý vị nhất định phải hiểu rõ đạo lý này!
  Tiếp theo đó, nói tới Phật Kiến. Nói thật ra, Tri và Kiến là một chuyện, Tri là nói về tâm, Kiến là nói về [tâm] khởi tác dụng, tức là thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm nhận, đều dùng một chữ Kiến để tượng trưng. Phật có Ngũ Nhãn, đương nhiên cũng có Ngũ Nhĩ, Ngũ Tỵ, Ngũ Thiệt, Ngũ Thân, Ngũ Ý, Ngũ Căn. Đối với sáu căn, dùng một căn làm đại biểu. Kinh Kim Cang giảng Ngũ Nhãn rất cặn kẽ: Đức Phật có Nhục Nhãn, Thiên Nhãn, Huệ Nhãn, Pháp Nhãn và Phật Nhãn. “Ngũ nhãn viên minh” đối với hết thảy pháp thế gian và xuất thế gian, quá khứ, hiện tại, vị lai, không gì chẳng biết. Hiện thời, các tín đồ tôn giáo ca ngợi Thượng Đế, xưng tụng Ngài là “toàn tri toàn năng”, nhưng thật ra, Thượng Đế cũng mê hoặc, điên đảo, toàn tri toàn năng ở chỗ nào? [Thượng Đế] chẳng khác chúng ta cho lắm, có khi còn thua chúng ta. Chúng ta không học Phật thì thua kém Thượng Đế, nhưng học Phật rồi, Thượng Đế chẳng bằng chúng ta. Thật vậy! Toàn tri toàn năng là chính chúng ta, bản thân mỗi người đều là toàn tri toàn năng. Đáng tiếc là quý vị mê mất nên tri năng (năng lực nhận biết) của quý vị chẳng thể khởi tác dụng.
 
  (Diễn) Chư Phật tri kiến, chúng sanh bổn cụ.
  (演) 諸佛知見,眾生本具。
  (Diễn: Chúng sanh vốn sẵn trọn đủ tri kiến của chư Phật).
 
  Đây là đức Phật nói lời chân thật với chúng ta, chứ không nói chỉ riêng Ngài có, còn chúng ta chẳng có. Trong mắt Phật, Ngài thấy hết thảy chúng sanh là bình đẳng, vì sao? Phật có toàn tri toàn năng, mỗi một chúng sanh đều toàn tri toàn năng, chắc chắn chẳng khác gì nhau! Do vậy, tâm Phật đối đãi bình đẳng với hết thảy chúng sanh. Chúng ta đối đãi hết thảy chúng sanh chẳng bình đẳng là vì chúng ta đã mê mất, tức là mê mất chính mình, nên tâm quý vị mới bất bình đẳng. Do vậy, tâm bình đẳng là Phật tâm; tâm bình đẳng là chân tánh.
 
  (Diễn) Trụ, Hạnh, Hướng, Địa, vị khai thị ngộ nhập.
  (演) 住行向地,為開示悟入。
  (Diễn: Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa là khai thị ngộ nhập).
 
  Đây là các tầng cấp của Bồ Tát: Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa. Khai là Thập Trụ, Thị là Thập Hạnh. Ngộ là Thập Hồi Hướng, Nhập là Thập Địa. Đây là đem từng chữ phối hợp với từng tầng địa vị để giảng; thật ra, bốn mươi mốt địa vị từ Sơ Trụ cho đến Thập Địa, trong mỗi địa vị đều có “khai thị ngộ nhập”.
 
  (Diễn) Khai giả, như khai thiên niên bảo tạng.
  (演) 開者,如開千年寶藏。
  (Diễn: Khai giống như mở kho báu ngàn năm).
 
  Tâm tánh của chúng ta chính là kho báu, vốn sẵn thanh tịnh, vốn sẵn đầy đủ, có thể sanh ra vạn pháp, thật sự là kho báu. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều là do tự tánh của chính chúng ta hiện, do duy thức sở biến, thật sự là kho báu. Do chúng ta mê, nên đức Phật mở ra cho chúng ta.  
 
  (Diễn) Thị giả, nhất nhất chỉ trần.
  (演) 示者,一一指陳。
  (Diễn: Thị là chỉ bày từng điều một).
 
  Chỉ dạy chúng ta từng chuyện, trần thuật cho chúng ta. “Chỉ” là chỉ dạy, “trần” là nói rõ.
 
  (Diễn) Ngộ giả, khoát nhiên hiểu liễu.
  (演) 悟者,豁然曉了。
  (Diễn: Ngộ là hiểu thông suốt).
 
  Hoảng nhiên đại ngộ, nay đã hiểu rõ ràng. Trước kia mê muội, nay đã hiểu rõ ràng.
 
  (Diễn) Nhập giả, hòa thân nhất đảo dã.
  (演) 入者,和身一倒也。
  (Diễn: Nhập là hòa làm một với bản thân).
 
  Đây là tỷ dụ, hợp với nó thành một thì gọi là “nhập”, hoàn toàn dung hợp thành một Thể. Đoạn này nhằm giải thích “khai, thị, ngộ, nhập”, đây là nói chung nhân duyên của giáo pháp suốt một đời Thích Ca Mâu Ni Phật.
  Kinh này “dĩ niệm Phật tâm, nhập Phật tri kiến” (dùng tâm niệm Phật để nhập tri kiến Phật), đó là “biệt chỉ” (chỉ dạy riêng biệt), chỉ bày pháp môn này, tức pháp môn Tịnh Độ. Có rất nhiều phương pháp để nhập tri kiến của Phật, nên gọi là “tám vạn bốn ngàn pháp môn”, môn nào cũng đều nhằm nhập tri kiến của Phật. Nhưng kinh này có pháp môn nhập tri kiến của Phật thuận tiện nhất, là pháp môn thuận tiện nhất trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, mà cũng là pháp môn ổn thỏa, thích đáng nhất, là pháp môn nhanh chóng nhất, là pháp môn viên mãn nhất. Tôi chỉ thưa cùng quý vị đến chỗ này, rốt cuộc là ổn thỏa, thích đáng, nhanh chóng, viên đốn như thế nào, lần sau chúng tôi sẽ nói tiếp. Hôm nay thời gian đã hết rồi.
 
 
[1] Chữ “người đời sau” ở đây chỉ những nhà dịch kinh, chú giải hay các giảng sư sau thời Tùy - Đường - Tống.
Nguồn: www.niemphat.net
/ 289
www.youtube.com/phaphanh"
https://ph.tinhtong.vn/Home/ADiDaKinhSoSaoDienNghia?d=ADiDaKinhSoSaoDienNghia_047.html#:~:text=ph.tinhtong.vn,youtube.com/phaphanh
https://ph.tinhtong.vn/Home/ADiDaKinhSoSaoDienNghia?d=ADiDaKinhSoSaoDienNghia_047.html#:~:text=ph.tinhtong.vn,youtube.com/phaphanh
0 notes
imoim36news · 2 years
Text
Tumblr media
Nghệ sĩ đóng góp Thái Thượng Lão Quân 'Tây du ký' từ trần Trịnh Dung, đóng góp Thái Thượng Lão Quân phim "Tây du ký" 1982, từ trần ngày 24/12 sinh sống tuổi 98. Trong báo tang, hộ gia đình diễn viên cho biết thêm thông tin ông mất trên Bắc Kinh, Trung Quốc sáng sủa ni, vì thế mắc bệnh. Trên trang cá thể, Lục Tiểu Linh Đồng - người đóng góp Tôn Ngộ Không - giãi tỏ nhức buồn, ông viết lách: "Bác mãi mãi là Thái Thượng Lão Quân". Nghệ sĩ đóng góp Thái Thượng Lão Quân 'Tây du ký' từ trần Trịnh Dung vào "Tây du ký". Video: Sina Sinh sống kiệt tác, Thái Thượng Lão Quân là thần tiên bên trên Thiên đình, có không ít phép thần thông, bảo vật. Tôn Ngộ Không tội phạm tày trời, bị ông nhốt vào lò chén bát tai quái tuy nhiên Ngộ Không suy nghĩ cơ hội bay ra, đẩy đổ lò.Trịnh Dung vẫn đóng góp nhiều kiệt tác phổ biến không giống, như Tam Quốc diễn nghĩa 1994 (vai Khổng Dung), Đàng Minh Hoàng, Lưỡng cung hoàng thái hậu... Trang Ifeng đánh giá diễn xuất tốt thuộc khí hóa học riêng không liên quan gì đến nhau của Trịnh Dung góp cụm vai diễn của ông lưu vệt trỏ chuột tới đậm đà cùng với khán fake. Ngoài đóng góp truyền hình, năng lượng điện hình họa, Trịnh Dung là nghệ sỹ sảnh khấu kỳ cựu. Nghệ sĩ Trịnh Dung mừng lâu năm ngoái và tạo nên hình ông vào "Tây du ký". Hình họa: Sina Trong năm này, êkíp Tây du ký kỷ niệm 40 năm phim trỏ máy, ra đôi mắt. Trên trang cá thể, căn nhà tảo phim Vương vãi Sùng Thu cho biết thêm thông tin vì thế dịch, cụm member vào đoàn ko thể tái ngộ....
0 notes
sodepamivn · 2 years
Photo
Tumblr media
♦️ Cách Chọn Sim Phong Thủy Tuổi Tý Giúp Gia Tăng Tiền Tài Địa Vị Theo các chuyên gia phong thủy sim số đẹp hàng đầu hiện nay tại AMI thì việc xem sim phong thủy hợp tuổi Tý tốt nhất cần dựa theo các nguyên tắc phong thủy. Cụ thể như sau: ✅ Theo âm dương tương phối Cách chọn sim này khá quan trọng vì âm dương chính là hai yếu tố cốt lõi trong mọi quy luật phong thủy. Âm dương được đề cập ở đây chính là: - Sự hài hòa giữa bản mệnh người dùng và vượng của dãy số. - Sự cân bằng chính là tỷ lệ số chẵn và số lẻ bằng nhau trong nội tại số sim. ✅ Theo ngũ hành sinh khắc Sim phong thủy hợp tuổi Tý theo ngũ hành sinh khắc này sẽ dựa theo hành của các con số để xác định các số mang hành tương sinh với thân chủ. Sau đó dựa theo từng mệnh theo năm sinh của tuổi Tý để lựa chọn dãy số có hành tương sinh với bản mệnh của thân chủ. ✅ Theo cửu tinh đồ pháp Dãy số chứa nhiều số 8 sẽ được đánh giá tốt bởi số 8 là con số đại diện cho sao Bát Bạch. Sử dụng số điện thoại chứa nhiều số 8 đồng nghĩa với việc chủ sở hữu sẽ nhận được nhiều vượng khí tốt đẹp. ✅ Theo hành quẻ bát quái Xem sim phong thủy hợp tuổi Tý hợp số điện thoại nào theo hành quẻ kinh dịch thì bạn cần dựa theo 64 quẻ cát hanh. Mỗi số điện thoại sẽ được tính toán để ứng với các quẻ Dịch khác nhau. Tuổi Tý có thể lựa chọn số sim có quẻ phù hợp với những tâm tư và nguyện vọng của mình: - Quẻ cát tình yêu, gia đạo: Quẻ Địa Sơn Khiêm, Quẻ Càn, quẻ Nhu, quẻ Tỷ …. - Quẻ cát công danh, sự nghiệp: Quẻ Thái, quẻ Thăng, quẻ Khôn, quẻ Càn… - Quẻ cát hóa giải xui xẻo: Quẻ Càn, quẻ Đại Hữu, quẻ Giải, quẻ Hoán, quẻ Đồng Nhân …. Ngoài ra chúng ta còn có thể chọn sim phong thủy hợp tuổi Tý theo quan niệm dân gian với cách tính tổng số nút sim và dựa theo ý nghĩa những bộ số mang ý nghĩa đẹp. 💯 Chúc bạn tìm được sim như ý, liên hệ AMI nếu cần tư vấn và hỗ trợ nhé!
0 notes
nuchinh · 2 years
Text
Top 5 phần mềm đặt tên con theo tên bố mẹ phổ biến nhất
Ở Việt Nam chúng ta thường sẽ bị ảnh hưởng bởi văn hóa phương Đông với suy nghĩ tên con nếu phù hợp với phong thủy với tên bố mẹ sẽ mang lại nhiều may mắn và hạnh phúc.
Do đó, vấn đề đặt tên con luôn được các ông bố bà mẹ phải đắn đo rất nhiều thì thông qua bài viết dưới đây, NuChinh sẽ giới thiệu đến bạn 5 phần mềm đặt tên con theo tên bố mẹ thú vị và hay nhất nhé!
Xu hướng sử dụng phần mềm đặt tên con theo tên của bố mẹ
Với chúng ta, mỗi cái tên đều rất quan trọng vì nó sẽ gắn liền với cuộc sống trong các hành trình dài trên đường đời. Với công nghệ hiện đại 4.0 thì sự nổi lên của các phần mềm đặt tên sẽ giúp bạn dễ dàng hơn trong việc suy nghĩ tên.
Thay vì phải tham khảo nhiều nguồn tin sách báo hay các website tràn lan trên mạng cực kỳ bối rối và hoang mang không biết nên đặt tên con như thế nào để phù hợp với phong thủy.
Do vậy, phần mềm đặt tên con theo tên bố mẹ hiện nay rất được ưa chuộng bởi các bậc phụ huynh. Phần mềm cũng giúp bạn luận giải về ngũ hành tương sinh theo ngày tháng năm sinh của bố mẹ và con cái. Từ đó sẽ cho bạn một list danh sách ngắn để các bạn có thể dễ dàng trong việc suy nghĩ tên cho con hơn.
Gợi ý 5 phần mềm đặt tên con theo tên bố mẹ
Dưới đây là các gợi ý cho bố mẹ về các phần mềm đánh giá tên con. Hãy cùng tham khảo qua nhé!
Phần mềm “Đặt tên cho con”
Đây là phần mềm đặt tên con theo tên bố mẹ được nhiều phụ huynh ưa chuộng nhất. Phần mềm này luận giải tương đối chính xác về ngũ hành tuổi tác của bố mẹ, con cái và danh sách tên phong phú, đa dạng để phù hợp với nhu cầu của bạn.
Dung lượng: 3.3 MB
Phí sử dụng: Free
Link tải: https://ift.tt/qunDeIE
Một số tính năng ưu việt của ứng dụng:
Giải thích chi tiết, dễ đọc về ngũ hành của bố mẹ và con.
Tổng hợp được tên hay, tên đẹp, phổ biến hợp với tuổi của bố mẹ.
Danh sách được cập nhật rõ ràng theo bảng chữ cái để các bố mẹ thuận tiện trong việc lựa chọn.
Ứng dụng “Định Danh Kỳ Thư”
Tiếp theo phải kể đến chính là ứng dụng “Định Danh Kỳ Thư”, phần mềm có thể chọn tên con theo ngũ hành, vận mệnh và tuổi tác của bố mẹ, giúp các bố mẹ có thể tìm kiếm được những cái tên hợp phong thủy cho bé nhà mình.
Ngoài đặt tên cho con theo tên bố mẹ thì Định Danh Kỳ Thư cũng hỗ trợ đặt trên cho các doanh nghiệp, nhà hàng, quán cà phê,… toàn là những cái tên cực kỳ hay và đầy ý nghĩa luôn đó.
Dung lượng: 243.2 MB.
Phí sử dụng: Free
Link tải: Hiện tại link đang tạm ngưng hoạt động trên IOS và sẽ được update vào thời gian sớm nhất.
Phần mềm dựa trên thuyết âm dương; ngũ hành; bát quái để làm tiền đề, cơ sở để tạo ra tên.
Một số tính năng ưu việt của ứng dụng:
Giao diện dễ sử dụng.
Dễ dàng có thể chọn tên con theo vận mệnh để phù hợp với cha mẹ.
Có thể đặt tên cho doanh nghiệp, nhà hàng, dịch vụ kinh doanh, ,…
Phần mềm “Đặt tên con”
Ứng dụng Đặt tên con là ứng dụng miễn phí hoàn toàn giúp bạn có thể chọn lựa được nhiều tên ý nghĩa cho con mình, từ nay những nỗi băng khoăn về cách đặt tên con sẽ không là vấn đề khó khi bạn tải xuống ứng dụng Đặt tên con. Với giao diện siêu cưng, cực kỳ đẹp mắt, chắc chắn sẽ khiến bậc phụ huynh cực kỳ hài lòng và nhận được nhiều đánh giá tốt trên xếp hạng đánh giá.
Dung lượng: 2.1 MB.
Phí sử dụng: Free.
Link tải: https://ift.tt/nV5Y0XW
Một số tính năng ưu việt của phần mềm:
Giúp bố mẹ đặt tên con dựa theo ngũ hành, tuổi tác của bố mẹ.
Tổng hợp rất nhiều tên ý nghĩa cho con
Giải thích ý nghĩa các tên cực chi tiết.
Phần mềm “Đặt tên phong thủy”
Dường như tên của phần mềm đã nói lên tất cả ý nghĩa của nó, ứng dụng này chứa hơn 1.000 những tên đẹp, ý nghĩa, dễ thương cho con để bạn tha hồ lựa chọn. Bên cạnh đó, phần mềm đặt tên con theo tên bố mẹ này còn được dùng để đặt tên gọi ở nhà cho bé.
Dung lượng: 1.4 MB.
Phí sử dụng: Free.
Link tải: https://ift.tt/XmskBxf
Chắc chắn với những tên hay và độc đáo trong ứng dụng Đặt tên phong thủy sẽ khiến bạn cực kỳ hài lòng đấy!
Một số tính năng ưu việt của phần mềm:
Giúp bố mẹ đặt tên đẹp cho con sao hợp phong thủy nhất.
Tích hợp thêm tính năng đặt biệt danh cho bé ở nhà.
Giải thích ý nghĩa của tên để bố mẹ không phải suy nghĩ nhiều.
Hơn 1000 tên dễ thương và ý nghĩa cho bé.
Một số lưu ý khi đặt tên cho con
Đây là một số lưu ý quan trọng đáng để lưu tâm khi đặt tên cho con:
Không nên đặt tên con khó đọc, khó gọi.
Một cái tên có ý nghĩa quá cầu toàn, không tốt cũng cần được tiết chế.
Tránh đặt tên dễ gây hiểu lầm, đặc biệt là liên quan đến giới tính.
Không đặt tên con trùng với những người trong gia đình. Điều này là phạm húy, mang đến nhiều điều không may mắn.
Hạn chế từ đồng âm.
Không đặt tên con có ý nghĩa thô tục, xui xẻo.
Trên đây là những phần mềm đặt tên con theo tên bố mẹ phổ biến và hay nhất mà NuChinh đã tìm hiểu được. Hy vọng bố mẹ có thể lựa chọn cho con yêu của mình một cái tên thật hay và ý nghĩa nha! Chúc bạn đọc một ngày thật vui!
Đánh giá bài viết
source https://nuchinh.com/phan-mem-dat-ten-con-theo-ten-bo-me/
0 notes
thuvientamlinh · 2 years
Text
Phải chăng Kinh dịch cũng ẩn chứa mật mã DNA? - Tâm Linh Cuộc Sống
Phải chăng Kinh dịch cũng ẩn chứa mật mã DNA? – Tâm Linh Cuộc Sống
🌱 Thảo Dược Bình Minh – Đại lý phân phối chính hãng các sản phẩm làm đẹp và chăm sóc sức khỏe từ thiên nhiên: 🌐 https://thaoduocbinhminh.com _______________ Từ câu nói của cổ nhân Trung Quốc: “Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh lục tứ quái, khả diễn sinh vạn vật”, học giả người Đức Schönberger đột nhiên nghĩ: giữa tứ tượng và bốn kiểm cơ của…
Tumblr media
View On WordPress
0 notes
batquai369 · 9 months
Link
0 notes
xemweb-me · 4 years
Text
GIỚI THIỆU DỊCH VỤ THIẾT KẾ WEB CHUẨN SEO
Dịch vụ thiết kế web chuẩn SEO là một agency cung cấp dịch vụ digital marketing online được phát triển từ team SEO Bát quái. Các thành viên trong quản trị bao gồm Quang Triệu và Đặng Lê Anh Tuấn.
Tumblr media
Dịch vụ mà chúng tôi cung cấp
Chúng tôi cung cấp các dịch vụ về digital marketing dành cho các cá nhân & tổ chức. Với mục đích giúp cho doanh nghiệp hoạt động chuyên nghiệp hơn, nhiều người biết đến hơn,… giúp cho các cá nhân kinh doanh & cung cấp dịch vụ có thể bán được nhiều hàng hơn, nhiều khách hàng sử dụng dịch vụ hơn.
Các dịch vụ mà chúng tôi cung cấp bao gồm:
Dịch vụ thiết kế website chuẩn SEO
Dịch vụ content chuẩn SEO
Dịch vụ content creative
Dịch vụ SEO website
Dịch vụ tư vấn marketing
Dịch vụ quảng cáo Google Ads
Dịch vụ quảng cáo Facebook Ads
Dịch vụ thiết kế ấn phẩm (hình ảnh, video)
Dịch vụ booking báo
Dịch vụ xây dựng thương hiệu
Liên hệ với chung tôi
Mọi thông tin liên hệ với chúng tôi, quý khách vui lòng xem chi tiết tại mục Liên hệ trên website của chúng tôi!
2 notes · View notes
miendiaoc · 4 years
Text
Đông tứ mệnh là gì? Đông tứ mệnh hợp hướng nào? #2020
Trong phong thủy có 2 quẻ mệnh được xem như rất là quan trọng, đó chính là Đông tứ mệnh và Tây tứ mệnh. Nếu bạn đang có ý định xây nhà hay đặt bàn thờ,… thì cách tính Đông tứ mệnh hay Tây tứ mệnh sẽ rất cần thiết.
Vậy Đông tứ mệnh là gì? Cách tính Đông tứ mệnh ra sao? Đông tứ mệnh hợp hướng nào? Hãy cùng Miền Địa Ốc tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
Tumblr media
Xem thêm thông tin:
Trạch tuổi là gì ? Cách tính trạch tuổi làm nhà trong năm #2020
Hướng giường ngủ tuổi Ất Sửu – Tốt Nhất năm #2020
Mệnh hỏa kỵ màu gì nên tránh trong năm #2020
Đông tứ mệnh là gì?
Phong thủy bát trạch sẽ dựa vào năm sinh dương lịch của từng người mà chia ra thành các cung: Càn, Cấn, Đoài, Chấn, Khảm, Ly, Khôn, Tốn. Trong đó Đông tứ mệnh sẽ bao gồm các cung sau: Chấn, Khảm,Tốn, Ly còn Tây tứ mệnh sẽ bao gồm 4 cung còn lại.
Mỗi người khi được sinh ra đã được xác định sẽ tương ứng với cùng 1 “mệnh trạch”. Chiếu theo một số quy luật của kinh dịch phong thủy thì Đông tứ trạch sẽ tương ứng với các con số 1, 3, 4 và 9 còn Tây tứ Trạch sẽ tương ứng với các con số 2, 6, 7, 8. Còn đối với số 5 thì khi bạn là nam giới sẽ được quy đổi sang con số 2 và tương tự với nữ giới sẽ được quy đổi sang số 8.
Cách tính Đông tứ mệnh kể riêng và niên mệnh nói chung
– Bước 1:
Bạn cần xác định năm sinh Âm lịch của mình. Với bước này bạn cần phải xác định thật chính xác, bởi các tính toán của bạn sẽ ảnh hưởng sai nếu bước này bạn làm chưa đúng.
– Bước 2:
Giản ước tổng của 2 số cuối trong năm sinh của bạn cho đến lúc nào còn 1 chữ số.
– Bước 3:
Khi đã có kết quả từ bước 2, lấy 10 trừ đi số vừa tìm được sẽ ra mệnh của nam.
Hoặc các bạn cũng có thể lấy số vừa tìm được đem cộng với 5 sẽ ra mệnh của nữ.
Kết quả của bước thứ 3 này chính là quái số cần tìm mà Miền Địa Ốc muốn các bạn tính ra, qua đó sẽ xác định được mệnh của mình.
Lưu ý: Nếu bạn là người có năm sinh từ 2000 cho đến hiện tại, thì bước số 3 sẽ có được thay vì đổi 1 chút như sau:
Nếu bạn là nam sẽ lấy 9 trừ đi số tìm ở bước 2.
Còn nếu bạn là nữ sẽ lấy 6 cộng với số tìm ở bước 2.
Đông tứ mệnh hợp hướng nào
Bạn có một chiếc bàn và đứng ở chính giữa căn nhà; sau đó nhìn ra chính giữa cánh cửa ra vào. Chiếu theo la bàn xem hướng của bạn là hướng nào?
Tumblr media
Người Đông tứ mệnh theo phong thủy sẽ hợp với các hướng Đông Nam, Đông, Nam và hướng Bắc. Còn đối với người Tây tứ mệnh sẽ hợp với các hướng sau: Tây, Tây Bắc, Tây Nam và hướng Đông Bắc.
Đến đây chắc hẳn sẽ có không ít người sẽ thấy hướng nhà của họ không hợp. Mọi người đúng lo lắng quá, Miền Địa Ốc sẽ chỉ cho bạn một số cách hóa giải như sau:
Bàn thờ tổ tiên nên đặt hướng phù hợp với mệnh trạch của gia chủ.
Đối với phòng ngủ, nên sắp xếp giường ngủ nằm theo hướng Bắc Nam.
Tuyệt đối không để gương ở vị đối diện giường ngủ.
Căn bếp nên được đặt ở vị trí xấu nhưng cửa bếp nhất định phải được nhìn ra hướng hợp với mệnh của gia chủ.
Tương tự, nhà vệ sinh cũng đặt ở vị trí hướng tốt của gia chủ.
Qua bài viết, Miền Địa Ốc hi vọng có thể giúp ích được phần nào cho các bạn trong công việc tìm kiếm thông tin về Đông tứ mệnh. theo đó có thể áp dụng vào thực tiễn nhằm xác định được hướng đẹp và hợp với mình, để dựng nhà cũng như phục vụ cho các việc quan trọng khác trong cuộc sống.
The post Đông tứ mệnh là gì? Đông tứ mệnh hợp hướng nào? #2020 appeared first on Miền Địa Ốc.
from Miền Địa Ốc https://ift.tt/2Rux9Vz
1 note · View note
goodm0rn1ng · 5 years
Photo
Tumblr media
NỘI HÀM THÂM SÂU CỦA TÂY DU KÝ, THẾ NHÂN MẤY AI CÓ THỂ TỎ TƯỜNG?
Có người nói, nếu bạn có thể thật sự hiểu được Tây Du Ký, vậy thì bạn đã thấu hiểu hết thảy mọi khổ nạn trên thế gian, cũng là hiểu được ý nghĩa thật sự của cuộc đời này.
Nội hàm chân chính của Tây Du Ký là con đường hàng phục ma tính của một người tu hành.
Mở đầu Tây Du Ký, tác giả Ngô Thừa Ân viết: “Dục trị tạo hóa hội nguyên công, tu khán Tây Du thích ách truyện”, ý nói rằng: Muốn biết công của tạo hóa ra sao, muốn hiểu được ý nghĩa của đời người thế nào, vậy cần phải hiểu Tây Du Ký.
Bề mặt là câu chuyện trừ yêu diệt quái, nhưng thật ra nội hàm chân chính của Tây Du Ký là con đường hàng phục ma tính của một người tu hành. Thông qua câu chuyện thần thoại sang Tây Thiên thỉnh kinh, tác giả đã dẫn dắt chúng ta cách khắc phục nội tâm trên con đường nhân sinh, hàng phục tâm ma, cuối cùng lấy được Chân Kinh, thành tựu đời người.
1. Ngũ vị nhất thể
Trong Tây Du Ký, năm vị gồm bốn thầy trò Đường Tăng cùng với Bạch Long Mã, thật ra chỉ là một người, trong truyện cũng nhiều lần ám chỉ về điều này. Đoạn cuối cùng của tác phẩm khi viết đến “Ngũ Thánh thành chân” có một bài thơ nói rõ hơn ý tứ đó, trong đó bốn câu mở đầu là:
“Một thể chân như lạc xuống trần,
Hợp hòa bốn tướng lại tu thân.
Ngũ hành sắc tướng không rồi tịch,
Trăm quái hư danh thấy chẳng bàn”.
Trong đó, Tôn Ngộ Không là tượng trưng cho cái tâm, Đường Tăng là thân thể, Trư Bát Giới là tình cảm và dục vọng, Sa hòa thượng là bản tính, và Bạch Long Mã là ý chí của con người.
Thực ra, tác giả đã nói rõ điều này trong những chương hồi đầu tiên của tác phẩm. Tôn Ngộ Không khi tầm sư học đạo trở thành đệ tử của Bồ Đề Tổ Sư trên núi Linh Đài Phương Thốn, động Tà Nguyệt Tam Tinh. Ở đây, Tà Nguyệt Tam Tinh (trăng khuyết và ba vì sao) chính là chữ “Tâm” (心). “Tà Nguyệt” chẳng phải chính là một nét móc đó sao? Ba ngôi sao chẳng phải chính là chỉ ba nét chấm đó sao? Vậy nên, Tôn Ngộ Không là thể hiện cho chữ Tâm của người tu hành.
Người Trung Hoa có câu: “Tâm viên ý mã” (tâm con vượn, ý con ngựa), nghĩa là tâm trí con người ta thường xáo động và dễ mất kiểm soát. Cũng bởi vì tâm người luôn bay nhảy tự do như vậy, nên tư tưởng con người có thể qua lại giữa thiên đường và địa ngục, có thể dao động giữa thiện và ác. Vì vậy, về sau này Quan Âm Bồ Tát đã phải tặng cho Đường Tăng chiếc vòng kim cô và bài “Khẩn cô nhi chú” để khắc chế cái tâm này.
Trong Kinh Lăng Nghiêm còn viết rằng: “Tâm có 72 tướng”, tương ứng với 72 phép biến hóa của Ngộ Không.  Cái tâm của người đời rất giỏi biến hóa, chỉ trong chốc lát có thể biến ra các loại tâm thái khác nhau.
Luyện tâm có thể khiến lòng người sáng sủa, trí huệ sáng suốt, vậy nên lò Bát Quái không thể thiêu chết mà trái lại còn khiến Tôn Ngộ Không luyện thành hỏa nhãn kim tinh. Mắt của Ngộ Không sáng tỏ là tượng trưng cho trí huệ sáng rực như vàng kim.
Bên cạnh đó, chiếc gậy Như Ý và Cân Đẩu Vân của Ngộ Không cũng ẩn chứa những hàm nghĩa sâu sắc.
Gậy Như Ý nặng 1 vạn 3 nghìn 5 trăm cân, giống với những điều được viết trong Hoàng Đế Bát Thập Nhất Nan Kinh: “Cả ngày lẫn đêm, con người ta thở 1 vạn 3 nghìn 5 trăm nhịp”. Vậy nên, gậy Như Ý là tượng trưng cho khí.
Trên đời này, thứ gì có thể “trên thì lên đến 33 tầng trời, dưới thì xuống tới 18 tầng địa ngục; lớn thì có thể thông thấu khắp trời, nhỏ thì như cái kim thêu”? Chính là khí độ của con người.
 Cân Đẩu Vân của Tôn Ngộ Không lộn nhào một cái là đi được 10 vạn 8 nghìn dặm, nhưng lại không thể nhảy ra khỏi lòng bàn tay của Phật Như Lai. (Ảnh: 148apps)
Cân Đẩu Vân của Tôn Ngộ Không lộn nhào một cái là đi được 10 vạn 8 nghìn dặm, nhưng lại không thể nhảy ra khỏi lòng bàn tay của Phật Như Lai. Đó là nói, con người dẫu làm gì thì cũng không thể thoát khỏi bàn tay của Phật Tổ.
Cân Đẩu Vân của Ngộ Không có thể bay 10 vạn 8 nghìn dặm, vừa khéo lại là khoảng cách từ đông thổ Đại Đường đến Linh Sơn, điều này có ngụ ý gì? Đó chính là: Linh Sơn dù có xa hơn nữa thì cũng chỉ một niệm của tâm là có thể đến nơi. Thiện ác chỉ cách nhau một niệm, một niệm có thể thành Phật, nhưng một niệm cũng có thể biến thành tà ma.
Tôn Ngộ Không bị giam dưới núi Ngũ Hành suốt 500 năm, tượng trưng cho cái tâm lên trời xuống đất của con người bị Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ trong thế giới trần tục đè chặt.
Núi Ngũ Hành cũng tượng trưng cho “tham (tham lam), sân (giận dữ), si (ngu si), mạn (ngạo mạn), nghi (hoài nghi)” trong Phật học. Phật Tổ nói rằng, 5 chữ ấy đã khái quát mọi tâm niệm thân hành của con người. Dù Ngộ Không có thần thông quảng đại đến đâu, vẫn không nhảy ra khỏi 5 chữ này. Tôn Ngộ Không khi đại náo Thiên Cung, cũng chính là bị ngũ độc này vây khốn.
Về sau, khi thầy trò Đường Tăng đến Hoả Diệm Sơn, núi Ngũ Hành đã trở thành Lưỡng Giới Sơn (ngọn núi giữa hai ranh giới). Đi qua ngọn núi này, cái tâm từng xáo động không yên đó cuối cùng cũng có thể nhảy ra khỏi Tam Giới.
Bạch Long Mã là ý chí lực. Ý chí của con người giống như ngựa hoang, chỉ khi xác định được mục tiêu tiến tới, mới có thể chuyên tâm chuyên ý mà lấy được Chân Kinh.
Ngộ Không thu phục Tiểu Bạch Long, cũng chính là cái Tâm đã thu phục được Ý, đạt đến tâm ý hợp nhất. Chỉ cần tâm ý hợp nhất, chí hướng kiên định thì không có Tây Thiên nào là không đến được.
Về sau, Ngộ Không và Đường Tăng lại thu phục được Bát Giới và Sa Tăng, nghĩa là “thân, tâm, tình, tính, ý” – đoàn thể hoàn mỹ nhất này đã hợp thành.
Tóm lại, thầy trò Đường Tăng diệt trừ yêu quái trên suốt chặng đường sang Tây Thiên, thật ra chính là người tu hành đang trừ bỏ ma tính trên con đường nhân thế, do đó lấy kinh cũng chính là một quá trình dưỡng tính tu tâm. Linh Sơn thật sự, chính là ở trong tâm người.
2. Linh Sơn là ở trong tâm người
Trong hồi thứ 19, khi thầy trò Đường Tăng vừa mới bước trên con đường lấy kinh, Ô Sào thiền sư đã truyền thụ cho Đường Tăng một bộ “Đa Tâm Kinh”. Nhưng Đường Tăng vẫn không hiểu ý, cuối cùng mãi đến hồi 85, Ngộ Không phải nhắc nhở Đường Tăng rằng:
“Phật tại Linh Sơn mạc viễn cầu,
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu.
Nhân nhân hữu cá Linh Sơn tháp,
Hảo hướng Linh Sơn tháp hạ tu.”
 Tạm dịch:
Phật ở Linh Sơn khỏi phải cầu,
Linh Sơn trước mắt lại tìm đâu!
Ai ai cũng có Linh Sơn tháp,
Tu ở Linh Sơn đạo rất mầu.
 Bởi cần phải tu tâm để trừ dứt ma tính thì mới có thể đánh thức chính mình, mới có thể lĩnh ngộ được Phật Pháp. Do đó, đến lúc này Đường Tăng đã đáp lại rằng: “Đồ đệ ạ, ta há không biết sao? Nếu theo bốn câu ấy, dù thiên kinh vạn quyển cũng chỉ là tu tâm”.Lấy kinh cũng chính là một quá trình dưỡng tính tu tâm. Linh Sơn thật sự, chính là ở trong tâm người. (Ảnh: 148apps)
3. Quá trình sang Tây Thiên chính là quá trình trừ bỏ ma tính
Tôn Ngộ Không vừa mới phò trợ Đường Tăng đã đánh chết 6 cường đạo. Trong nguyên tác, tên của 6 cường đạo này lần lượt là: Nhãn Khán Hỷ (Mắt thấy mừng), Nhĩ Thính Nộ (Tai nghe giận), Tỵ Khứu Ái (Mũi ngửi thích), Thiệt Thường Tư (Lưỡi nếm nghĩ), Thân Bổn Ưu (Thân vốn lo), Ý Kiến Dục (Ý thấy muốn) – đây chính là lục căn.
Tôn Ngộ Không đánh chết lục căn, cho thấy lục căn phải thanh tịnh thì mới có thể lên đường lấy Chân Kinh.
Trong suốt hành trình sang Tây Thiên, trước khi Ngộ Không đi xin cơm chay thường vẽ một vòng tròn lớn trên mặt đất, đây chính là giới hạn mà Tâm đặt cho con người, nhưng thân thể của con người (Đường Tăng) lại thường hay bị dục vọng (Trư Bát Giới) dẫn dụ mà xa rời giới hạn ấy.
Vậy là bốn thầy trò dễ dàng rời khỏi giới hạn mà Ngộ Không đặt ra, và khi bước ra khỏi giới hạn ấy họ liền gặp phải các loại yêu ma.
Ngộ Không mở đường dẫn dắt bốn thầy trò tiến về phía trước, trên đường lại không ngừng diệt trừ yêu quái, ý nói rằng Tâm đang hàng phục ma tính.
Mỗi một yêu quái trên đường sang Tây Thiên đều có ngụ ý sâu xa. Hết thảy yêu quái đều là một ẩn dụ, thảy đều là huyễn hóa của ma tính. Mỗi một yêu quái là đại biểu cho Danh – Lợi – Tình nơi thế gian đang trói buộc con người, hết thảy đều xuất phát t��� ma tính của bản thân một người.
Ví dụ, Hắc Hùng Tinh xuất hiện trong hồi thứ 16 là do sân niệm của Ngộ Không xui khiến. Hắc Hùng Tinh nổi lửa thiêu hủy thiền viện Quan Âm, cũng chính là ma tính đang trở ngại người tu đắc chính quả.
Ngưu Ma Vương cũng là do ma tính của Ngộ Không biến hóa. Ban đầu, Ngưu Ma Vương cùng Tôn Ngộ Không kết bái huynh đệ, lực lượng ngang nhau, vậy nên phát hỏa cũng chính là bản thân đang so tài với chính mình.
Hồng Hài Nhi và Hỏa Diệm Sơn đều là ngọn lửa trong tâm. Nguyên nhân Hỏa Diệm Sơn hình thành là do năm xưa khi Tôn Ngộ Không chui ra từ lò Bát Quái, vì để trút cơn giận mà đá một miếng gạch chịu lửa xuống trần. Vì cái tâm không chế ước ngọn lửa của bản thân, nên cuối cùng lại đốt cháy chính mình.
Hồng Hài Nhi tượng trưng cho ngọn lửa thù hận. Hồng Hài Nhi phóng Tam Muội Chân Hỏa thiêu cháy Ngộ Không là ngụ ý rằng, một người luôn sống trong thù hận, thì cuối cùng sẽ chỉ làm tổn thương cái tâm của mình.
Hoàng Phong quái biết thổi Tam Muội Thần Phong, đây là đại biểu cho phong khí của xã hội, phong khí xã hội có thể khiến trái tim con người (Ngộ Không) mê mờ lạc mất phương hướng.
Ba hình tượng biến hoá của Bạch Cốt Tinh lần lượt đại biểu cho Tình – Ái – Dục của một người. Ngộ Không đã đánh chết toàn bộ chúng, nói rõ rằng trên đường đời chúng ta nhất định phải khống chế vững tình, ái, dục của bản thân, chớ để nó trở thành chướng ngại tiến bước của chúng ta.
Ba hình tượng biến hoá của Bạch Cốt Tinh lần lượt đại biểu cho Tình – Ái – Dục của một người. (Ảnh: 148apps)
Ngoài ra, Bạch Cốt Tinh (bộ xương trắng thành tinh) cũng tượng trưng cho thân xác phàm của con người. Thân thể có thể khơi dậy bản năng dục vọng, vậy nên Trư Bát Giới bắt đầu ly gián, khiến con người thất lạc mất nội tâm của mình, vì vậy Đường Tăng đã đuổi Ngộ Không đi.
4. Yêu quái là tượng trưng cho các loại mê hoặc của thế gian
Kim Giác và Ngân Giác
Kim Giác và Ngân Giác vốn là 2 đồng tử coi lò luyện đan của Thái Thượng Lão Quân, trốn xuống trần rồi trở thành yêu quái tại núi Bình Đỉnh, động Liên Hoa. Khi thầy trò Đường Tăng đi ngang qua đây, Kim Giác và Ngân Giác đã dùng sợi dây thừng trói chặt Tôn Ngộ Không, sau lại dùng Tử Kim hồ lô nhốt lấy Tôn Ngộ Không.
Ở đây, từ tên gọi có thể thấy Kim Giác đại vương và Ngân Giác đại vương là tượng trưng cho sức mê hoặc của kim tiền, bởi kim tiền có thể trói chặt, phong bế tâm con người, khó mà thoát ra được.
Hoàng Mi Quái
Hoàng Mi Lão Quái giả dạng Phật Tổ ở chùa Tiểu Lôi Âm, đã dùng não bạt vàng nhốt chặt Tôn Ngộ Không. Pháp bảo não bạt vàng này cũng tượng trưng cho tiền bạc, bởi tiền bạc có thể vây hãm cái tâm người ta.
Yêu tinh nhện, rết, và bọ cạp
Bảy con nhện tinh đại biểu cho thất tình lục dục của con người. Thất tình lục dục cũng giống như tấm lưới do nhện giăng lên, có thể trói chặt con người.
Người đời bởi tư niệm sinh tình, bị tơ tình vây khốn. Trên thân của yêu tinh rết có nghìn con mắt, đó chính là tượng trưng cho các loại dục vọng vật chất mà mắt người thấy được.
Bọ cạp tinh đại biểu cho mỹ sắc, mỹ sắc sẽ dẫn dụ người ta giống như con bọ cạp, vậy nên thầy trò Đường Tăng đều không địch nổi nó.
Lục nhĩ mỹ hầu
Mỹ hầu vương thật giả, một Tôn Ngộ Không chân tâm hướng Phật đã đánh bại được một Ngộ Không giả không thật lòng hướng Phật. Đây là hai loại ý chí, hai loại tư tưởng của bản thân trong một người đang tranh đấu với nhau. Đã sinh ta “hai lòng” thì cần phải trừ bỏ hai lòng này; chỉ cần trừ bỏ hai lòng, một lòng một ý, mới có thể đạt được thành công. Vậy nên Tôn Ngộ Không giả bị đánh chết, thầy trò mới có thể tiếp tục lên đường.
Trong sách cũng nói, một nạn này là do ma tính của bốn thầy trò sinh ra: Cái tâm ngông cuồng của Tôn Ngộ Không, cái tâm mê muội không phân thật giả của Đường Tăng, cái tâm đố kỵ của Trư Bát Giới, Sa Tăng, cái tâm ngờ vực lẫn nhau giữa mấy huynh đệ thầy trò…
Quốc trượng nước Tỳ Khưu
Trong hồi thứ 79, Quốc trượng của nước Tỳ Khưu vốn là yêu tinh biến thành. Vì để luyện thuốc trường sinh, yêu tinh đã bắt giữ một nghìn đứa trẻ để mổ bụng lấy tim, sau lại đòi lấy tim của Đường Tăng. Tôn Ngộ Không đã nhanh trí biến thành hình tượng của sư phụ, rồi lên điện diện kiến quốc trượng. Trong sách viết rằng:
“Đường Tăng giả cầm số tim máu chảy ròng ròng, bới từng quả cho các quan xem, thấy toàn là những quả tim đỏ, tim trắng, tim vàng, tim tham lam, tim danh lợi, tim đố kỵ, tim mưu mẹo, tim hiếu thắng, tim hãnh tiến, tim khinh mạn, tim sát hại, tim độc ác, tim sợ sệt, tim tà vọng, tim vô danh, tim mờ ám… toàn là các loại tim xấu xa, chẳng thấy có một quả tim đen nào”.
Tôn Ngộ Không biến thành Đường Tăng giả là ví rằng Đường Tăng và Ngộ Không lúc này đã hợp hai thành một; y mổ cái bụng của mình, rơi ra một đống trái tim, cũng tượng trưng cho “đa tâm”.
Chúng ta thường nói “trong lòng hươu chạy”, người có “hai lòng” sẽ sinh ra tai họa, huống hồ là nhiều tâm như vậy. Chỉ khi thu phục yêu tinh này thì trong lòng mới không có hươu chạy loạn xạ nữa, “đa tâm” đã trở thành “nhất tâm”, một lòng một ý mới có thể thành công.
Cửu Linh Nguyên Thánh
Ba huynh đệ Ngộ Không thích làm thầy thiên hạ, ở Ngọc Hoa châu đã thu nhận ba vị hoàng tử của quốc vương làm đồ đệ, dạy cho họ võ công. Thích làm thầy thiên hạ, không khiêm tốn, bởi vậy đã chiêu mời sư tử tinh, vốn là cháu nuôi của Cửu Linh Nguyên Thánh.
Cửu Linh Nguyên Thánh là một con sư tử 9 đầu, vốn là thú nuôi của Thái Ất Thiên Tôn ở cung Diệu Nham. Đây là một trong những yêu quái lợi hại nhất trên đường sang Tây Thiên, có thể dễ dàng bắt được Tôn Ngộ Không.
Sư tử 9 đầu tượng trưng cho “cửu tư” (9 điều suy nghĩ). Khổng Tử nói: “Bậc quân tử có chín điều suy nghĩ”. Một người nếu như làm được “chín điều suy nghĩ” chính là có thể trở thành bậc Thánh, “cửu tư thành Thánh”, vậy nên mới có tên gọi là Cửu Linh Nguyên Thánh.
5. Khắc phục ma tính của tự thân mới có thể thấy được Linh Sơn
Khắc phục ma tính của tự thân mới có thể thấy được Linh Sơn. (Ảnh: 148apps)
Cuối cùng, Tôn Ngộ Không (Tâm) được phong làm Đấu Chiến Thắng Phật — cho dù chúng ta bắt tay vào việc gì, chỉ cần có thể ước thúc nội tâm của tự thân thì mới đạt được thành công.
Đường Tăng (Thân thể) được phong là Chiên Đàn Công Đức Phật — làm người cần phải thân tâm hợp nhất, mới có thể lấy được Chân Kinh.
Trư Bát Giới (Tình cảm dục vọng) được phong làm Tịnh Đàn Sứ Giả — dục vọng không trừ bỏ được, vậy nên cuối cùng chỉ được phong làm sứ giả.
Sa hòa thượng (Bản tính) được phong làm Kim Thân La Hán — cũng là nói, bản tính trân quý giống như vàng ròng vậy.
Bạch Long mã (Ý chí) được phong làm Thiên Long Bát Bộ Hộ Pháp — cần phải thời thời khắc khắc bảo vệ ý niệm của mình, vậy nên được phong làm Hộ pháp.
Sau cùng Phật Tổ cho nhóm thầy trò kinh không chữ, chính là vì kinh không chữ mới là Chân Kinh.
“Kinh” trong vô tự kinh, là ý chỉ những việc đã trải qua. Những việc trải qua trên suốt chặng đường này mới là “Kinh” chân chính, vượt xa những văn tự nơi thế gian con người. Một người, sau khi trải qua hết thảy mọi việc nơi thế gian, mới có thể giữ được chân tâm, dù chưa đến Tây Thiên thì trong lòng sớm đã thành Phật rồi.
Nội hàm của Tây Du Ký vô cùng uyên thâm. Cùng là một người nhưng đọc vào những lúc khác nhau thì thể hội cũng khác nhau. Ví như khi đọc vào thời niên thiếu và khi đọc vào thời trai trẻ đều có những thể hội hoàn toàn khác nhau. Hơn 20 năm sau đọc lại, lại có thể hội mới.
Một bộ thiên thư bác đại tinh thâm như thế, cả đời người dẫu dày công nghiên cứu cũng khó có thể hiểu cho tỏ tường. Vậy nên, có cả trăm ngàn người lần giở Tây Du Ký, thì những người thật sự đọc hiểu lại chẳng có mấy ai…
4 notes · View notes