#không có chuyện ông kiên đi tắt qua đường ruộng
Explore tagged Tumblr posts
Text
SOOBIN đã định vác đàn bầu lên sân khấu biểu diễn từ vòng solo nhưng mà...
[cả nhóm đang tập hát bài bà tôi, bỗng dưng kiên buông mic không hát nữa]
cả nhóm: ấy! này này này! kiên ơi! kiên!
cường seven: ơ, cái thằng này, đi đâu đấy?
soobin: đang hát mà?
kiên ứng: thôi tôi không hát nữa đâu.
kay trần: sao thế?
kiên ứng: tôi không hát được nữa.
cường seven: sao lại không hát được nữa? uổng công soobin nó vác đàn bầu từ tận thủ đức lên đây.
kiên ứng: nhưng mà đây có phải làng em đâu. em không có tình cảm, em không hát được.
(ảnh tư liệu: các thành viên cây lý - cường vẹo - kiên bắc - soobin hoàng long của boyband những chiếc êke với siêu phẩm one-hit wonder bà tôi. nguồn: fb tự long)
cả nhóm: ôi giời ơi.
kiên ứng: làng này là làng của chú tiến.
kay trần: tiến nào?
kiên ứng: chú nguyễn vĩnh tiến, tác giả ấy.
kay trần: trời đất ơi, ngay từ đầu sao anh hổng nói. bữa giờ tập chả có gì, tự dưng sát ngày biểu diễn rồi anh đổi ý là sao?
cường seven: vậy anh hỏi em nhé: bài này là bài của chú nguyễn vĩnh tiến đúng không? chú ấy viết ra bài này đúng không? [cả nhóm gật đầu] thế tại sao cô ngọc khuê lại hát bài này rất hay?
soobin: ừ đấy!
kiên ứng: thì đấy mới là ngọc khuê. còn em là ngọc kiên, làm sao mà em hát được?
soobin: úi giời ơi! làng nào mà chả giống làng nào, ông cứ hát đi là được, có cái gì đâu mà lăn tăn?
kay trần: thôi thôi thôi không cãi nhau nữa, anh kiên hát đi.
kiên ứng: bà tôi đưa tôi ra đầu làng ng-- đầu làng em là cái bãi tha ma, bà em không bao giờ đưa em ra đấy cả.
kay trần: thế hồi nhỏ anh không bao giờ đi ra khỏi làng hả? toàn đi cuối làng thôi?
kiên ứng: toàn đi... giữa làng. anh đi tắt qua đường ruộng mà.
soobin: thôi ông cứ hát đi, sắp tới ngày diễn rồi đó.
kiên ứng: sao lại cứ bắt hát thế nhỉ? thế tôi hỏi các ông, quan trọng ở âm nhạc là cái gì nào?
kay trần: âm nhạc quan trọng nhất là nhạc hay.
kiên ứng: khổ quá, ai chả biết là nhạc hay, nhưng mà làm cách nào để nhạc hay? cái gì quyết định nhạc hay?
cường seven: quá đơn giản. ... hỏi kay.
kay trần: ... thì đầu tiên nhạc cần phải có ca từ này, rồi sau đó là đến âm giai và tiết tấu?
kiên ứng: chưa chính xác.
soobin: úi giời ơi, chưa chính xác là đúng rồi. quan trọng khi hát một bài hát nó phải toát lên cái thần của bài hát đấy.
kiên ứng: sơn nói gần đúng rồi, một chút nữa là đúng. quan trọng ấy, là cảm xúc, cái tình cảm của mình dành cho bài hát. nếu mà không có cảm xúc thì hát bài hát không hay, không thể thuộc lời bài hát được.
kay trần: ê mà anh nói vậy nghe kỳ kỳ sao ấy. em lấy ví dụ nhé: chú tiến viết bài này là về làng của chú, thế sao cô khuê lại hát lại hay, lại tình cảm như vậy? nói vậy hóa ra cô khuê hát không có cảm xúc à?
kiên ứng: mày không biết gì cả, nói thế đến tai gia đình cô ngọc khuê thì lại chẳng ra gì. cô khuê với chú tiến là... đồng hương.
soobin: anh cường ơi, sao em tưởng cô khuê là đồng hương của chú lê minh sơn cơ mà? cái thời chuồn chuồn ớt ấy? sao bây giờ lại đồng hương với cả chú tiến?
cường seven: đấy là quê ngoại, đây là quê nội.
soobin: nhưng mà tóm lại là ông kiên phải có tình cảm mới hát được chứ gì?
kiên ứng: phải đúng quê mình mới hát được.
soobin: vớ vẩn. thế tôi hỏi ông nhé: ông đã nghe bài hát ôi quê tôi chưa? bài hát đấy ca sĩ tùng dương hát rất hay, rất thành công luôn. có cái câu tôi nhớ là, ôi quê tôi lưng còng dáng mẹ. tôi biết thừa là mẹ của anh tùng dương rất khỏe, rất trẻ, có còng đâu??? thế tại sao anh ấy hát bài đó hay thế? chả nhẽ còng hát mới hay à?
kiên ứng: nhưng mà chú dương với mấy ông là ca sĩ chuyên nghiệp. tôi với anh cường là đạo diễn và vũ công học đòi làm ca sĩ. tóm lại là có tình cảm tôi mới hát được.
kay trần: tóm lại bây giờ anh kiên muốn hát về làng của ảnh thì ảnh mới hát được chứ gì?
soobin, ngồi vào đàn bầu: ok thế hát đi, tôi đệm cho.
#atvncg#soobin#cường seven#kay trần#kiên ứng#nam thần rực lửa#source: gặp nhau cuối tuần#disclaimer: mấy ông bắc kỳ của team này toàn dân hà nội gốc#không có chuyện ông kiên đi tắt qua đường ruộng#vì làm quái gì có ruộng mà đi
3 notes
·
View notes
Text
Dại, khôn ở đời - Báo Quảng Ngãi điện tử
Dại, khôn ở đời - Báo Quảng Ngãi điện tử
* Truyện ngắn của Ý THU (Báo Quảng Ngãi)- Nghe tin ông Tư sửa soạn nhận tiền đền bù cả tỷ đồng từ trang trại bò sữa, ông Hai Thắng ngồi tặc lưỡi: “Hồi hay…”. Sự tiếc nuối như những đợt sóng, hết lớp đến lớp, cứ ào ạt đổ về trong tâm trí ông Hai Thắng. Lòng ông trĩu xuống, nặng nề như mớ bông gòn bị nhúng nước! Mặt ông trở nên cau có. Đôi chân mày lấm tấm sợi bạc chau lại, khiến cho đôi mắt ti hí của ông vốn đã nhỏ, lại càng nhỏ hơn. *** Ngày ấy, ông Tư và Hai Thắng nằm trong số những người đầu tiên đặt chân đến vùng kinh tế mới Đồng Dinh. Cả một vùng đất rộng bạt ngàn là thế, nhưng vì bạc màu lại thiếu nước, nên chẳng có mấy nóc nhà. Ông Hai Thắng nhạy bén và lanh lợi, lại “nổi tiếng” dữ dằn chẳng chịu nhường ai bao giờ. Gà nhà người ta lỡ bay sang nhà ông xới tung đống rơm, ông bắt nhốt, chờ chủ qua nhà ỉ ôi xin lỗi mấy ngày liền mới chịu trả. Mèo hàng xóm lỡ chạy sang nhà ông ăn vụng, ông đánh lằn ngang lằn dọc rồi mới thả về…
Còn ông Tư, lúc nào cũng hiền khô như “cục đất”. Ai muốn tranh gì thì tranh, giành gì thì giành, ông cứ câu cửa miệng rằng “sao cũng được”, chẳng khi nào đua chen. Nhiều bận cao điểm nắng nóng, cả xóm phải thức ��êm canh nước. Người nào cũng trình bày lý do xin bơm nước vào ruộng mình trước để về sớm. Duy chỉ có ông là… nhường tới, nhường lui để rồi khi tới lượt mình thì đã quá nửa đêm. Có đợt, xã phát động phong trào làm đường nội đồng. Cả xóm hầu như ai cũng tranh thủ góp từ 2 – 3 ngày công rồi đi làm việc khác, chỉ có ông là nhiệt tình gác lại hết việc riêng, túc trực ngoài đồng hơn nửa tháng trời – từ lúc khởi công cho tới khi hoàn thành công trình. Tính cách của ông Tư và ông Hai Thắng đối lập như ngày và đêm. Vậy nên, mọi người ai cũng lấy làm lạ khi thấy hai ông luôn thân thiết, gắn bó với nhau. Ông Tư biết bạn không chịu thua ai bao giờ, nên hễ bạn nóng nảy, thì ông im lặng nhường nhịn. Bù lại, ông Hai Thắng tuy hay cau có, nóng nảy và có phần ích kỷ, nhưng lúc cần lên tiếng bảo vệ bạn bè, thì ông cũng chẳng từ nan. Đã đôi lần, trâu nhà người vào ruộng ông Tư ăn cả nửa đám ruộng, ông Tư xuê xoa cười trừ cho qua, nhưng ông Hai Thắng lại lặn lội tới tận nhà chủ trâu… bắt đền giùm bạn. Là hàng xóm “tối lửa tắt đèn” có nhau, nên khi nghe tin ông Tư nhanh nhảu đồng ý nhường hơn 10 sào ruộng lại cho xã quy hoạch thành khu trồng điều tập trung, ông Hai Thắng liền can ngăn hết lời: “Ông rõ là dại. Muốn “được việc” cho mình thì phải cứng rắn lên chớ. Sao không nhân cơ hội này, đòi đền bù tại những chỗ khác ngon lành hơn? Sao lại cứ thiệt thà nhường ruộng rồi nhận đền bù tại chỗ không có nước tưới?” Nghe ông Hai Thắng phân tích, ông Tư thiệt thà đáp lại: “Thì hơn 10 sào ruộng mà tôi nhượng lại cho dự án cũng ở xứ đồng chân cao thiếu nước mà. Ở cái đất Đồng Dinh này, kiếm đâu ra chỗ ngon lành mà đòi hỏi hở ông? Hơn nữa, nếu mà xã hình thành nên được vùng chuyên canh điều, thì tốt cho quê mình quá. Mình không góp được gì, thì mình nhường đất nhanh nhanh ông à!” Nghe lý lẽ của ông Tư, ông Hai Thắng chán ngán chẳng muốn nói thêm. Ông Hai Thắng tự nhủ: “Mình sẽ không “dại” như lão Tư”! Trong lòng ông Thắng đã “nhắm” sẵn mươi sào ruộng vừa gần đường, lại cạnh mương Thạch Nham ở xứ đồng Cây Si. Nếu địa phương đền bù cho ông tại vị trí đấy, thì ông mới chịu nhường đất lại cho dự án, còn không, ông và vợ con kiên quyết “cứng rắn” tới cùng. *** Sau một thời gian dài cố chấp bám trụ, cuối cùng, ông Hai Thắng cũng được địa phương “xuống nước” đền bù cho phần ruộng cạnh mương Thạch Nham. Ngày nhận ruộng, ông rủ ông Tư đi nhậu một bữa “lên bờ xuống ruộng”. Chân bước thấp bước cao, miệng nồng nặc hơi men, ông Thắng cười lớn vỗ vai ông Tư: “Đấy! Tôi đã bảo mà! Ông mà nghe theo tôi, thì giờ có phải khỏe re không?”… Nghe giọng điệu hả hê của ông Thắng, ông Tư chỉ ôn tồn bảo: “Như ngày Tết mình chia thịt heo thôi ông à. Có xương, có nạc. Chứ ai cũng chỉ đòi phần ngon, thì phần kém ngon, ai nhận hả ông?”… Ông Thắng nghe bạn nói xong, lặng thinh không đáp. Cuộc đối thoại của hai ông dừng lại ở đấy. Quan điểm sống khác biệt, nên mỗi lần nói chuyện, cả hai chỉ nói với nhau dăm câu là thôi. *** Có ruộng ngay cạnh thủy lợi Thạch Nham, nên việc đồng áng của ông Hai Thắng khá thuận lợi. Mỗi lần đến vụ mùa, ông không còn phải thức đêm để canh, chạy nước như xưa. Đến mùa thu hoạch, năng suất lúa nhà ông nhờ đất đai màu mỡ, lại đầy đủ nước tưới nên năm nào cũng “nhỉnh” hơn người khác. Còn ông Tư, do diện tích ruộng được đền bù vẫn nằm ở xứ đồng chân cao thiếu nước, nên ông cứ loay hoay với chuyện nước tưới tiêu. Đợt cao điểm nắng nóng năm nào cũng vậy, trong khi hàng xóm của ông là Hai Thắng đã cơm nước, nghỉ ngơi; thì giữa đêm hôm khuya khoắt, ông vẫn còn vạ vật ngoài đồng để canh, chờ tới phiên mình bơm nước. Đến mùa thu hoạch, trong khi ruộng lúa nhà ông Hai Thắng lúc nào cũng được chục bao lúa mỗi sào, thì ruộng nhà ông chỉ tròm trèm 5 – 6 bao… Không đành lòng khổ mãi, ông Tư đi khắp nơi tìm hiểu và quyết định chuyển từ trồng lúa sang trồng các cây rau màu chịu hạn như bí đao chanh, bí đỏ hồ lô… Lúc thấy ông mày mò trồng thử nghiệm, ông Hai Thắng liền bàn ra: “Ông ngẫm cho kỹ lưỡng. Trồng cây quen thuộc không sao, chớ trồng cây mới, mình tìm đầu ra không được thì khốn đốn. Tính ông lại hiền quá, làm sao mà lanh khôn cho lại với người ta”. Bỏ ngoài tai những lời khuyên của bạn, ông Tư vẫn cần mẫn trồng và bất ngờ gặt hái được thành công. Bởi thời ấy, bí đỏ hồ lô, bí đao chanh vẫn là những loại hoa màu còn khá lạ lẫm ở quê ông, nên ông trồng được bao nhiêu, thương lái tới mua hết bấy nhiêu. Mô hình trồng cây chịu hạn của ông Tư, bỗng trở thành mô hình điểm, được nhiều nông dân khác tìm đến tận ruộng để học hỏi, làm theo. Thấy cây bí đỏ, bí đao mang lại thu nhập rủng rỉnh cho mình, ông Tư rủ bạn làm cùng, nhưng ông Hai Thắng lắc đầu nguầy nguậy. Nhìn ông Tư thiệt thà hướng dẫn lại cách chăm sóc, cách trồng cho người khác, ông Hai Thắng tặc lưỡi chửi thầm trong bụng: “Rõ là dại! Mình mà nghe theo nó thì có nước… nghèo. Cái gì biết cũng bày lại hết cho người ta, người ta làm theo cả loạt, rồi hàng hóa thừa mứa ra thì hàng hóa mình ai thèm mua nữa”. *** Có lẽ, ông Hai Thắng sẽ mãi nhận xét bạn của mình “sống dại”, nếu như không có một ngày, chủ của một chuỗi cửa hàng rau sạch lớn nhất, nhì ngoài phố về tận vùng kinh tế mới Đồng Dinh để ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm cho ông Tư và các hộ dân trong xóm. “Nếu ông Tư trồng hoa màu một mình, thì người ta chẳng ngó ngàng tới đâu, vì sản lượng làm ra ít, chẳng bõ công vận chuyển. May mà ổng không giấu nghề, rủ nhiều người làm chung, nên người ta mới để mắt tới đấy”, vợ ông Hai Thắng kể lể lại với chồng. Rồi ông Hai Thắng lại tiếp tục nghe tin, diện tích ruộng ở khu vực xứ đồng thiếu nước mà ông từng “chê ỏng chê eo” ngày xưa giờ đang được trang trại bò sữa ngỏ ý đền bù với giá lên đến hơn cả trăm triệu đồng mỗi sào để phát triển vùng trồng cỏ tập trung. Ông Tư và mọi người trong thôn dự định sau khi nhận tiền đền bù, sẽ dùng đồng vốn đó để mua lại ruộng vườn, tiếp tục phát triển trồng rau sạch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại. Nghe đến đâu, ông Hai Thắng lại “tặc lưỡi” tiếc nuối đến đó. Bên tai ông, tiếng vợ ông văng vẳng ngoài sân vọng vào: “Sống thật cần chi khôn với dại. Mai này mới biết kẻ dại khôn”… Đang miên man suy nghĩ, thì ông Hai Thắng nghe tiếng bước chân ông Tư đi vào. Ông Tư không sang rủ ông đi ăn mừng, cũng chẳng vỗ vai ông cười lớn. Ông Tư qua là để tiếp tục thuyết phục ông Hai Thắng tham gia vào đội trồng hoa màu xóm Đồng Dinh. Và lần này, vợ ông Hai Thắng không nghe ông bàn ra, cũng không nghe ông mắng ông Tư “dại” nữa. Bà chỉ nghe tiếng ông cười khà khà rồi bảo: “Ừ. Ông nói gì cũng đúng. Tôi xin lỗi vì trước nay dại dột không nghe ông…”./.
Nguồn: Baoquangngai.vn
0 notes
Text
Dại, khôn ở đời - Báo Quảng Ngãi điện tử
Source - https://xn---quangngai-az-olb.vn/dai-khon-o-doi-bao-quang-ngai-dien-tu/
* Truyện ngắn của Ý THU (Báo Quảng Ngãi)- Nghe tin ông Tư sửa soạn nhận tiền đền bù cả tỷ đồng từ trang trại bò sữa, ông Hai Thắng ngồi tặc lưỡi: “Hồi hay…”. Sự tiếc nuối như những đợt sóng, hết lớp đến lớp, cứ ào ạt đổ về trong tâm trí ông Hai Thắng. Lòng ông trĩu xuống, nặng nề như mớ bông gòn bị nhúng nước! Mặt ông trở nên cau có. Đôi chân mày lấm tấm sợi bạc chau lại, khiến cho đôi mắt ti hí của ông vốn đã nhỏ, lại càng nhỏ hơn. *** Ngày ấy, ông Tư và Hai Thắng nằm trong số những người đầu tiên đặt chân đến vùng kinh tế mới Đồng Dinh. Cả một vùng đất rộng bạt ngàn là thế, nhưng vì bạc màu lại thiếu nước, nên chẳng có mấy nóc nhà. Ông Hai Thắng nhạy bén và lanh lợi, lại “nổi tiếng” dữ dằn chẳng chịu nhường ai bao giờ. Gà nhà người ta lỡ bay sang nhà ông xới tung đống rơm, ông bắt nhốt, chờ chủ qua nhà ỉ ôi xin lỗi mấy ngày liền mới chịu trả. Mèo hàng xóm lỡ chạy sang nhà ông ăn vụng, ông đánh lằn ngang lằn dọc rồi mới thả về…
Còn ông Tư, lúc nào cũng hiền khô như “cục đất”. Ai muốn tranh gì thì tranh, giành gì thì giành, ông cứ câu cửa miệng rằng “sao cũng được”, chẳng khi nào đua chen. Nhiều bận cao điểm nắng nóng, cả xóm phải thức đêm canh nước. Người nào cũng trình bày lý do xin bơm nước vào ruộng mình trước để về sớm. Duy chỉ có ông là… nhường tới, nhường lui để rồi khi tới lượt mình thì đã quá nửa đêm. Có đợt, xã phát động phong trào làm đường nội đồng. Cả xóm hầu như ai cũng tranh thủ góp từ 2 – 3 ngày công rồi đi làm việc khác, chỉ có ông là nhiệt tình gác lại hết việc riêng, túc trực ngoài đồng hơn nửa tháng trời – từ lúc khởi công cho tới khi hoàn thành công trình. Tính cách của ông Tư và ông Hai Thắng đối lập như ngày và đêm. Vậy nên, mọi người ai cũng lấy làm lạ khi thấy hai ông luôn thân thiết, gắn bó với nhau. Ông Tư biết bạn không chịu thua ai bao giờ, nên hễ bạn nóng nảy, thì ông im lặng nhường nhịn. Bù lại, ông Hai Thắng tuy hay cau có, nóng nảy và có phần ích kỷ, nhưng lúc cần lên tiếng bảo vệ bạn bè, thì ông cũng chẳng từ nan. Đã đôi lần, trâu nhà người vào ruộng ông Tư ăn cả nửa đám ruộng, ông Tư xuê xoa cười trừ cho qua, nhưng ông Hai Thắng lại lặn lội tới tận nhà chủ trâu… bắt đền giùm bạn. Là hàng xóm “tối lửa tắt đèn” có nhau, nên khi nghe tin ông Tư nhanh nhảu đồng ý nhường hơn 10 sào ruộng lại cho xã quy hoạch thành khu trồng điều tập trung, ông Hai Thắng liền can ngăn hết lời: “Ông rõ là dại. Muốn “được việc” cho mình thì phải cứng rắn lên chớ. Sao không nhân cơ hội này, đòi đền bù tại những chỗ khác ngon lành hơn? Sao lại cứ thiệt thà nhường ruộng rồi nhận đền bù tại chỗ không có nước tưới?” Nghe ông Hai Thắng phân tích, ông Tư thiệt thà đáp lại: “Thì hơn 10 sào ruộng mà tôi nhượng lại cho dự án cũng ở xứ đồng chân cao thiếu nước mà. Ở cái đất Đồng Dinh này, kiếm đâu ra chỗ ngon lành mà đòi hỏi hở ông? Hơn nữa, nếu mà xã hình thành nên được vùng chuyên canh điều, thì tốt cho quê mình quá. Mình không góp được gì, thì mình nhường đất nhanh nhanh ông à!” Nghe lý lẽ của ông Tư, ông Hai Thắng chán ngán chẳng muốn nói thêm. Ông Hai Thắng tự nhủ: “Mình sẽ không “dại” như lão Tư”! Trong lòng ông Thắng đã “nhắm” sẵn mươi sào ruộng vừa gần đường, lại cạnh mương Thạch Nham ở xứ đồng Cây Si. Nếu địa phương đền bù cho ông tại vị trí đấy, thì ông mới chịu nhường đất lại cho dự án, còn không, ông và vợ con kiên quyết “cứng rắn” tới cùng. *** Sau một thời gian dài cố chấp bám trụ, cuối cùng, ông Hai Thắng cũng được địa phương “xuống nước” đền bù cho phần ruộng cạnh mương Thạch Nham. Ngày nhận ruộng, ông rủ ông Tư đi nhậu một bữa “lên bờ xuống ruộng”. Chân bước thấp bước cao, miệng nồng nặc hơi men, ông Thắng cười lớn vỗ vai ông Tư: “Đấy! Tôi đã bảo mà! Ông mà nghe theo tôi, thì giờ có phải khỏe re không?”… Nghe giọng điệu hả hê của ông Thắng, ông Tư chỉ ôn tồn bảo: “Như ngày Tết mình chia thịt heo thôi ông à. Có xương, có nạc. Chứ ai cũng chỉ đòi phần ngon, thì phần kém ngon, ai nhận hả ông?”… Ông Thắng nghe bạn nói xong, lặng thinh không đáp. Cuộc đối thoại của hai ông dừng lại ở đấy. Quan điểm sống khác biệt, nên mỗi lần nói chuyện, cả hai chỉ nói với nhau dăm câu là thôi. *** Có ruộng ngay cạnh thủy lợi Thạch Nham, nên việc đồng áng của ông Hai Thắng khá thuận lợi. Mỗi lần đến vụ mùa, ông không còn phải thức đêm để canh, chạy nước như xưa. Đến mùa thu hoạch, năng suất lúa nhà ông nhờ đất đai màu mỡ, lại đầy đủ nước tưới nên năm nào cũng “nhỉnh” hơn người khác. Còn ông Tư, do diện tích ruộng được đền bù vẫn nằm ở xứ đồng chân cao thiếu nước, nên ông cứ loay hoay với chuyện nước tưới tiêu. Đợt cao điểm nắng nóng năm nào cũng vậy, trong khi hàng xóm của ông là Hai Thắng đã cơm nước, nghỉ ngơi; thì giữa đêm hôm khuya khoắt, ông vẫn còn vạ vật ngoài đồng để canh, chờ tới phiên mình bơm nước. Đến mùa thu hoạch, trong khi ruộng lúa nhà ông Hai Thắng lúc nào cũng được chục bao lúa mỗi sào, thì ruộng nhà ông chỉ tròm trèm 5 – 6 bao… Không đành lòng khổ mãi, ông Tư đi khắp nơi tìm hiểu và quyết định chuyển từ trồng lúa sang trồng các cây rau màu chịu hạn như bí đao chanh, bí đỏ hồ lô… Lúc thấy ông mày mò trồng thử nghiệm, ông Hai Thắng liền bàn ra: “Ông ngẫm cho kỹ lưỡng. Trồng cây quen thuộc không sao, chớ trồng cây mới, mình tìm đầu ra không được thì khốn đốn. Tính ông lại hiền quá, làm sao mà lanh khôn cho lại với người ta”. Bỏ ngoài tai những lời khuyên của bạn, ông Tư vẫn cần mẫn trồng và bất ngờ gặt hái được thành công. Bởi thời ấy, bí đỏ hồ lô, bí đao chanh vẫn là những loại hoa màu còn khá lạ lẫm ở quê ông, nên ông trồng được bao nhiêu, thương lái tới mua hết bấy nhiêu. Mô hình trồng cây chịu hạn của ông Tư, bỗng trở thành mô hình điểm, được nhiều nông dân khác tìm đến tận ruộng để học hỏi, làm theo. Thấy cây bí đỏ, bí đao mang lại thu nhập rủng rỉnh cho mình, ông Tư rủ bạn làm cùng, nhưng ông Hai Thắng lắc đầu nguầy nguậy. Nhìn ông Tư thiệt thà hướng dẫn lại cách chăm sóc, cách trồng cho người khác, ông Hai Thắng tặc lưỡi chửi thầm trong bụng: “Rõ là dại! Mình mà nghe theo nó thì có nước… nghèo. Cái gì biết cũng bày lại hết cho người ta, người ta làm theo cả loạt, rồi hàng hóa thừa mứa ra thì hàng hóa mình ai thèm mua nữa”. *** Có lẽ, ông Hai Thắng sẽ mãi nhận xét bạn của mình “sống dại”, nếu như không có một ngày, chủ của một chuỗi cửa hàng rau sạch lớn nhất, nhì ngoài phố về tận vùng kinh tế mới Đồng Dinh để ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm cho ông Tư và các hộ dân trong xóm. “Nếu ông Tư trồng hoa màu một mình, thì người ta chẳng ngó ngàng tới đâu, vì sản lượng làm ra ít, chẳng bõ công vận chuyển. May mà ổng không giấu nghề, rủ nhiều người làm chung, nên người ta mới để mắt tới đấy”, vợ ông Hai Thắng kể lể lại với chồng. Rồi ông Hai Thắng lại tiếp tục nghe tin, diện tích ruộng ở khu vực xứ đồng thiếu nước mà ông từng “chê ỏng chê eo” ngày xưa giờ đang được trang trại bò sữa ngỏ ý đền bù với giá lên đến hơn cả trăm triệu đồng mỗi sào để phát triển vùng trồng cỏ tập trung. Ông Tư và mọi người trong thôn dự định sau khi nhận tiền đền bù, sẽ dùng đồng vốn đó để mua lại ruộng vườn, tiếp tục phát triển trồng rau sạch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại. Nghe đến đâu, ông Hai Thắng lại “tặc lưỡi” tiếc nuối đến đó. Bên tai ông, tiếng vợ ông văng vẳng ngoài sân vọng vào: “Sống thật cần chi khôn với dại. Mai này mới biết kẻ dại khôn”… Đang miên man suy nghĩ, thì ông Hai Thắng nghe tiếng bước chân ông Tư đi vào. Ông Tư không sang rủ ông đi ăn mừng, cũng chẳng vỗ vai ông cười lớn. Ông Tư qua là để tiếp tục thuyết phục ông Hai Thắng tham gia vào đội trồng hoa màu xóm Đồng Dinh. Và lần này, vợ ông Hai Thắng không nghe ông bàn ra, cũng không nghe ông mắng ông Tư “dại” nữa. Bà chỉ nghe tiếng ông cười khà khà rồi bảo: “Ừ. Ông nói gì cũng đúng. Tôi xin lỗi vì trước nay dại dột không nghe ông…”./.
Nguồn: Baoquangngai.vn
0 notes
Text
Sân golf Phan Thiết – bài 2: Nhận diện nhóm lợi ích
(bởi adminTD, 23/05/2020)
Phan Bình Minh, 23-5-2020
(truy cập từ https://baotiengdan.com/2020/05/23/san-golf-phan-thiet-bai-2-nhan-dien-nhom-loi-ich/)
I. Nhóm lợi ích
Xét về nhu cầu phát triển xã hội thì có các nhóm lợi ích là cần thiết. Các nhóm lợi ích cùng chung mục tiêu sẽ vận động, gây áp lực xã hội thúc đẩy các mục tiêu bằng cách sử dụng các hình thức tuyên truyền vận động để tác động đến dư luận hoặc chính sách của chính phủ; họ đã và tiếp tục đóng góp một phần quan trọng trong sự phát triển của hệ thống chính trị và xã hội. Tuy nhiên, điều đó chỉ ở các nước dân chủ, phát triển.
Còn ở Việt Nam, thì “nhóm lợi ích” được hiểu theo góc độ khác, thuần túy về lợi ích kinh tế. Từ khi công cuộc đốt lò của ông Nguyễn Phú Trọng nổi lên, cụm từ “nhóm lợi ích” được sử dụng nhiều; lúc này “nhóm lợi ích” thực chất là sự cấu kết, thông đồng giữa những đại gia với quan chức có quyền lực trong bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị để bòn rút tài sản quốc gia, của nhân dân. Mục tiêu cuối cùng của nhóm lợi ích là tạo ra lợi ích nhóm, bất chấp gây thiệt hại cho dân tộc.
Thời gian vừa qua nhiều vụ án lớn đã đưa ra xét xử, gần đây là thương vụ MobiFone mua AVG, báo chí vẫn nói nhiều về “nhóm lợi ích”. Dù vụ án kết thúc nhưng vẫn không thấy “nhóm” nào, ít nhất là theo nghĩa đen: có trưởng nhóm, có mục tiêu, có kế hoạch…
Dư luận hiện nay cũng đặt câu hỏi về “nhóm lợi ích sân golf Phan Thiết”; bài viết này cố gắng nhận diện nhóm lợi ích này: ai đại diện, ai tham gia, mục tiêu, kế hoạch thực hiện.
II. Bóng dáng một ông trùm
1. Chân dung một anh hùng
Chỉ cần nhập Google từ khóa “Anh hùng lao động Nguyễn Văn Đông” thì thấy nhiều bài viết về Nguyễn Văn Đông. Báo lề phải viết khá nhiều, nội dung chủ yếu ca ngợi anh hùng (dạng người tốt việc tốt) các báo na ná nhau, đại loại:
Nguyễn Văn Đông sinh năm 1962, quê ở xã Đức Phú, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Tốt nghiệp trung học phổ thông, người thanh niên tên Đông vào Nam, khát khao cháy bỏng đổi đời cơ cực cho mình, cho gia đình và quyết tâm làm giàu. Từ làm thuê, đến kinh doanh nhỏ, rồi thành lập xí nghiệp phát triển thành công ty đến nay là một tập đoàn kinh tế hùng mạnh của tỉnh Bình Thuận với đảng bộ lớn nhất nước. Nào là vị anh hùng, đại gia nhưng sống giản dị, đạm bạc; nào là lo toan cho người nghèo…
Thậm chí, báo Nhân dân không biết viết thêm cái gì cho anh hùng, đến năm 2010 copy bài trên báo Tiền phong từ năm 2005 để ca ngợi (tác giả cần tiền nhuận bút hay ân sủng từ người anh hùng?). Xem bài “Ông chủ doanh nghiệp tư nhân trở thành anh hùng”, đăng trên Tiền phong ngày 30/09/2005. Gần 5 năm sau, bài báo này được báo Nhân dân đăng lại vào ngày 17/09/2010 (hình 2.1.).
Hình 2.1. Báo Nhân dân năm 2010 bên phải, copy bài trên báo Tiền phong từ năm 2005 để ca ngợi “anh hùng” Nguyễn Văn Đông
Những bài viết để chạy quảng cáo có nội dung dạng như vậy trên báo lề phải dày đặc, nhất là sau khi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào Phan Thiết gặp Nguyễn Văn Đông, và sau này là sự hợp tác giữa Nguyễn Văn Đông và Phùng Quang Hải (chủ tịch tổng công ty 319; con bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh) để thực hiện dự án Sân bay Phan Thiết.
Hình 2.2. Báo chí của đảng ca ngợi ước vọng thầm kín của Nguyễn Văn Đông (Nguồn: Nhân dân)
Trước năm 2015 báo lề phải viết khá nhiều về anh hùng lao động Nguyễn Văn Đông, sau đó một số báo bắt đầu rút bài xuống. Ngay trên web http://www.rangdonggroup.com.vn/ của Rạng đông cũng rút bài (hình 2.2.).
Báo chí cách mạng Việt Nam có đặc điểm là: biết khá nhiều, nhưng đưa tin chỉ một phần cùng một hướng cho một mục đích hoặc theo chỉ đạo nào đó. Ví dụ như trường hợp Nguyễn Xuân Anh – bí thư thành phố Đà Nẵng. Trước đó báo chí của đảng ca ngợi: Nào là bí thư trẻ của một thành phố đầu tàu miền Trung năng động; nào là dám nghĩ, dám làm, quyết đoán; nào là mẫu mực, học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Nhưng khi trung ương vừa có thông báo chính thức kỷ luật Nguyễn Xuân Anh thì báo chí “hướng về Đà Nẵng: nã đạn”. Từ chuyện xe cộ, nhà đất; đến chuyện chuyên quyền, độc đoán; thậm chí lôi cả chuyện vợ con, học hành bằng cấp ra luôn!
Hình 2.3. Ngay chính trên website http://www.rangdonggroup.com.vn/ cũng rút bài ca ngợi anh hùng Nguyễn Văn Đông)
Với anh hùng Nguyễn Văn Đông cũng vậy, chưa biết khi nào báo chí cách mạng Việt Nam mới được chỉ đạo công bố hết sự thật.
2. Thêm một phần sự thật
Ngược thời gian về trước, năm 1979 xảy ra cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc. Khi chủ tịch nước Tôn Đức Thắng kêu gọi tổng động viên, cả dân tộc phải tiếp tục gồng mình gánh tiếp hai cuộc chiến đẫm máu, hao người ở biên giới phía Bắc và chiến trường Campuchia. Ở Quảng Ngãi, các tỉnh miền trung, Tây nguyên mỗi năm có 2 đợt tuyển quân bổ sung liên tục cho chiến trường Campuchia, kéo dài cho đến sau năm 1985.
Học sinh tốt nghiệp cấp III, một số rất ít học các trường đại học, trung học chuyên nghiệp; còn đa số nam thanh niên phải thực hiện nghĩa vụ quân sự. Nhiều người học cùng lứa với Nguyễn Văn Đông (sinh 1960 – 1965) lên đường nhập ngũ làm “nghĩa vụ quốc tế”. Còn số rất ít được tiếp tục đi học, nhưng với điều kiện lý lịch tốt và học xuất sắc.
Trước đổi mới năm 1986, chế độ xét lý lịch để cho đi học rất ngặt nghèo, trong gia đình có người tham gia chế độ cũ là lý lịch nhóm 3, nặng hơn nữa là nhóm 4 không được đi học. Thậm chí sau năm 1986 vẫn còn xét lý lịch khắt khe, nổi tiếng là vụ Nguyễn Mạnh Huy ở Quy Nhơn được báo Thanh niên đăng tải gây xúc động dư luận lúc đó.
Nói về lý lịch, Nguyễn Văn Đông có lý lịch chính trị gia đình rất xấu. Đông có ông nội và bác ruột tham gia nhánh đạo Cao Đài ở Đà Nẵng, thân phát-xít Nhật theo chính sách Đại Đông Á, có liên quan với tổ chức Việt Nam Phục quốc đồng minh hội, đã gây nhiều khó khăn cho mặt trận Việt minh. Nên tổng khởi nghĩa năm 1945, cách mạng xếp những người này vào “đối tượng có nợ máu” với nhân dân và bị xử tử hình tập thể.
Còn cha của Đông, trước 1975 là hạ sỹ quan Việt Nam Cộng hòa, lợi dụng quan hệ với một số tướng tá đã lừa đảo gia đình quân nhân cán chính, bị an ninh quân đội bắt nhốt. Sau năm 1975 tiếp tục lừa đảo người dân Quảng Ngãi, bị bắt giam ở trại giam Kim Sơn, Nghĩa Bình. Vào trại giam rồi mà cũng tiếp tục lừa đảo cán bộ công an lấy tiền mua xi-măng thời bao cấp, lại bị bắt và biệt giam.
Mẹ của Đông trước 1975 buôn bán nhỏ, tích cóp cùng với tiền, vàng của chồng làm “dịch vụ” chạy giấy tờ cho các gia đình quân nhân cán chính để mua vàng tích lũy, lúc đó vàng khá rẻ. Sau năm 1975, những người mua nhà đất, gửi tiền ngân hàng đều bị mất, nhưng mẹ của Đông mua vàng nên bảo toàn được tài sản.
Rõ ràng, với lý lịch quá “đen” như vậy, thì Nguyễn Văn Đông không thể nào đi học được. Còn nếu ở quê hương cách mạng Đức Phú, Mộ Đức thì Đông phải thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên, làm “nghĩa vụ quốc tế” ở chiến trường Campuchia, mà nhiều gia đình nơm nớp, lo lắng mỗi khi chậm thư hoặc nghe có báo tử về xã.
Anh em Nguyễn Văn Đông cần phải trốn nghĩa vụ quân sự, còn mẹ Đông “chạy nợ” vì rất nhiều người bị lừa đảo từ trước và sau 1975 của chồng đã gây sức ép đòi nợ, nhưng bà không trả. Chính vì vậy mà mẹ và anh em Đông buộc phải rời bỏ quê hương đi vào phương Nam, trong khi cha Đông đang bị giam giữ ở trại giam Kim Sơn, tỉnh Bình Định. Ra tù cha Đông về quê Mộ Đức, vẫn tiếp tục lừa đảo nhưng với “quy mô” nhỏ hơn. Sau này giàu có, đại gia Nguyễn Văn Đông có mang tiền về quê trả nợ cho một số người, còn mẹ Đông thì thỉnh thoảng về thăm quê làm “từ thiện”.
Vì trốn nghĩa vụ quân sự, nên không thể đến những khu đô thị, thành phố lớn. Lúc đó, đa số dân Quảng Ngãi hay đến những vùng như Đức Linh, Tánh Linh, Long Thành, Bà Rịa. Người trước giới thiệu người sau đến khai khẩn đất đai, cưu mang nhau để định cư trên vùng đất mới. Mẹ con Đông đến Bắc Ruộng, là một xã thuộc huyện Tánh Linh tỉnh Thuận Hải. Đây là vùng đất kinh tế mới có nhiều người ở Mộ Đức và bên ngoại của Đông vào lập nghiệp trước đó, sau này phân tách đơn vị hành chính cấp xã có những địa danh của các xã ở Mộ Đức như Đức Phú, Đức Tân.
Dân ở đây đa số làm nông và làm rừng, vào rừng lấy gỗ bán cho các đầu nậu cung cấp cho những người làm nhà. Thanh niên có sức khỏe đi “buôn lậu” chuyển sản phẩm nông nghiệp, lâm sản đến các vùng khác và mua hàng nơi khác về địa phương.
Lưu ý, thời bao cấp ngăn sông cấp chợ – thời này có câu “nằm ngửa thấy Trần Kiên, nằm nghiêng thấy Đỗ Mười”, hàng hóa bị bắt tịch thu. Những người kinh doanh, lưu thông hàng hóa thường bị gọi những từ mang tính miệt thị như “con buôn / dân buôn, buôn lậu, con phe…”, thậm chí chửi nhau bằng câu “đồ con buôn” để chỉ người xấu xa, không ra gì.
Với số vàng tích lũy được, mẹ Đông mở quầy tạp hóa ở chợ Măng Tố và đầu tư cho các con làm ăn, anh của Đông mở tiệm vàng. Phần Đông cũng đi buôn như những người khác, mẹ đưa tiền cho đi buôn nhưng không thành công. Có hai lần buôn trầm hương bị công an bắt lấy sạch; Đông chuyển qua làm “bầu số đề” một thời gian lại bị công an huyện Tánh Linh bắt giam hai tháng về tội đánh bạc, em của Đông phải chạy trốn tận Cà Mau lánh một thời gian. Mẹ và anh Đông ở ngoài lo chạy để vụ này qua. Sau này ra tù, Đông chuyển qua làm xây dựng, phát lên là nhờ làm đường giao thông miền núi. Lợi dụng làm đường cho xe cẩu khai thác gỗ chuyển cho các đầu nậu ở thành phố Hồ Chí Minh. Gỗ ở khu vực Đức Linh, Tánh Linh là rừng già toàn nhóm I, quý hiếm rất có giá.
Tất cả các thông tin nói trên cơ quan công an Quảng Ngãi, Bình Thuận đều có, một số báo chí cũng cho người điều tra xác minh chi tiết và ly kỳ hấp dẫn hơn. Tóm lại, phần này chỉ đưa thêm tóm tắt một phần sự thật của người anh hùng, đó là:
Một: Nguyễn Văn Đông trốn nghĩa vụ quân sự, gia đình chạy nợ vào Măng Tố lập nghiệp – chứ chẳng phải “đau đáu ước mơ làm giàu để lo cho mình và giúp đỡ người khác”.
Hai: Anh em Nguyễn Văn Đông khởi nghiệp từ tiền, vàng mà cha mẹ Đông lừa đảo ở Quảng Ngãi trước và sau 1975 – chứ chẳng phải “khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng”.
3. Trở thành anh hùng
Giai đoạn đất nước chuyển mình từ kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp, sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã phát sinh nhiều lỗ hỗng pháp lý bị lợi dụng để làm giàu. Các đại gia lo sợ khả năng bị truy cứu, truy tố và thậm chí nhiều người bị tử hình như vụ án EPCO – Minh Phụng nổi tiếng[2.1].
Chuyện Nguyễn Văn Đông trở thành một hùng lao động là một chiến lược dài, được tính toán kỹ càng và nhiều người giúp sức, nhưng tóm tắt lại như thế này.
Mục đích: nếu được anh hùng, trước hết là không bị án tử hình, những sai phạm sẽ được ân giảm hoặc cho qua, với mác anh hùng sẽ có điều kiện tiếp cận các quan chức cao hơn.
Thời cơ: đó là năm 2001, trung ương điều ông Nguyễn Ánh Minh về Bình Thuận làm bí thư tỉnh ủy nhiệm kỳ 2001 – 2005.
Ông Nguyễn Ánh Minh (hình 2.4.) quê ở xã Phổ Thuận, huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi, là ủy viên trung ương đảng khóa VIII, IX; là phó ban tổ chức trung ương. Là ủy viên trung ương duy nhất, với kinh nghiệm phó ban tổ chức trung ương về làm bí thư Bình Thuận nên ông ổn định nhân sự Bình Thuận dễ dàng, trở thành lãnh chúa cát cứ một vùng.
Lúc này Rạng đông là một doanh nghiệp lớn trong tỉnh, giám đốc Nguyễn Văn Đông lại là đại biểu hội đồng nhân dân tỉnh (hình 2.5). Hai người cùng quê hương Quảng Ngãi, thân tình hơn anh em ruột. Có người nói: “Ánh Minh là Rạng Đông, tuy hai mà một”.
Hình 2.4. Ông Nguyễn Ánh Minh, ủy viên trung ương đảng khóa VIII, IX – bí thư tỉnh ủy Bình Thuận 2001 – 2005 (Nguồn: Tư liệu văn kiện ĐCSVN)
Với quan điểm tạo điều kiện cho doanh nghiệp địa phương phát triển, nên từ đó ở Bình Thuận, Rạng đông kinh doanh không có đối thủ. Phần lớn các dự án giao thông do Rạng đông thực hiện. Đặc biệt là các dự án đổi đất lấy hạ tầng (sau này luật Đầu tư công gọi là dự án BT) đã tạo điều kiện cho Rạng đông thâu tóm hàng chục ngàn hec-ta đất dọc trục đường giao thông.
Năm 2003 thực hiện thi hành án tử hình Tăng Minh Phụng[2.1] làm cho nhiều đại gia lo lắng; đồng thời luật Thi đua khen thưởng 2003 cũng có hiệu lực. Vậy là bí thư Nguyễn Ánh Minh có trách nhiệm giúp đỡ để người anh em đồng hương Nguyễn Văn Đông trở thành anh hùng. Nhưng điều vướng mắc là lý lịch của Nguyễn Văn Đông.
Với kinh nghiệm và quan hệ của người từng làm phó ban tổ chức trung ương đảng, ông Nguyễn Ánh Minh tư vấn cho Nguyễn Văn Đông để có một bộ lý lịch đẹp, hoàn hảo và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo ở các tỉnh như Bình Thuận, Quảng Ngãi.
Một thuận lợi nữa, chủ tịch nước giai đoạn đó (1997 – 2006) là ông Trần Đức Lương, cũng là “người Quảng Ngãi”, quê ở xã Phổ Khánh, huyện Đức Phổ.
Vậy là Nguyễn Văn Đông trở thành anh hùng lao động thời kỳ đổi mới.
Đến nay vẫn còn nhiều người viết đơn tố cáo Nguyễn Văn Đông khai gian dối lý lịch để phong anh hùng. Nếu nhà nước đã biết lý lịch Nguyễn Văn Đông như vậy rồi mà vẫn chấp nhận phong anh hùng thì rõ ràng “‘Anh hùng Nguyễn Văn Đông’ này đã làm tủi hổ anh linh những người con đất Việt đã anh dũng hy sinh để bảo vệ và mở rộng đất nước”. Họ kiên trì đề nghị nhà nước thu hồi phong anh hùng Nguyễn Văn Đông cũng như trường hợp anh hùng Hồ Xuân Mãn[2.2] ở Thừa Thiên Huế.
Hình 2.5. Ông Nguyễn Văn Đông, giám đốc Rạng đông, đại biểu HĐND tỉnh
4. Và đại biểu quốc hội
Cùng một thời điểm, một con người không thể bảo đảm được hai vị trí là đại gia, doanh nhân và ĐBQH. Bởi lẽ:
– Không có thời gian làm tròn vai trò ĐBQH: không ông chủ doanh nghiệp tư nhân với hàng ngàn lao động nào mà có thể bỏ ra một năm 2 – 3 tháng trời chỉ để ngồi họp. Trong khi có những cơ hội, vụ việc cần phải trực tiếp giải quyết hằng ngày, hằng giờ quyết định sự tồn vong của doanh nghiệp.
– Mâu thuẫn mục tiêu: trong khi ông chủ doanh nghiệp tư nhân phải đặt mục tiêu tối đa hóa lợi ích cho cá nhân, doanh nghiệp của mình; thì ĐBQH phải đặt lợi ích của nhân dân, đất nước lên hàng đầu.
Nhưng khi các đại gia, ông chủ doanh nghiệp tư nhân quyết định làm ĐBQH thì đó lại là một thương vụ cũng phải được hạch toán chi phí, tính hiệu quả đầu tư. Với tư cách ĐBQH, các đại gia với tố chất kinh doanh trong máu, sẽ thấy ngay hiệu quả:
– Có cơ hội thiết lập quan hệ trực tiếp với quan chức cấp cao của chính phủ, các bộ ngành trung ương.
– Có điều kiện thấy được bức tranh tổng thể liên quan đến kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng; nắm được thông tin quy hoạch, kế hoạch, các dự án vĩ mô ở tầm quốc gia.
– Có quyền chất vấn quan chức để hạn chế nhiều vấn đề tiêu cực liên quan tới quản lý nhà nước về doanh nghiệp, dự án đầu tư. Ít nhất là cũng bảo vệ được cho doanh nghiệp mình.
– Đó là chưa nói đến dùng đặc quyền của ĐBQH tác động quan chức để tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng, giành ưu thế về cho doanh nghiệp của mình v.v…
Quốc hội Việt Nam một thời nổi lên các doanh nhân đại gia; với những đợt sóng dư luận, như ĐBQH: Đặng Thị Hoàng Yến, Châu Thị Thu Nga, Đỗ Thị Huyền Tâm v.v…
Muốn và trở thành ĐBQH khóa XII (2007 – 2011) là chuyện rất đơn giản trong trò chơi thủ tục của những người làm tổ chức; hoàn toàn nằm trong khả năng của đại gia Nguyễn Văn Đông cùng với quyền hạn và năng lực, kinh nghiệm của bí thư tỉnh ủy Nguyễn Ánh Minh.
Hình 2.6. Ông Nguyễn Văn Đông, chủ tịch tập đoàn Rạng đông, đại biểu quốc hội (Nguồn: quốc hội)
Còn vấn đề bằng cấp cử nhân, luật sư (có người nêu ra) là chuyện nhỏ đối với đại gia Nguyễn Văn Đông, và nếu lên đến giáo sư, tiến sỹ cũng quá bình thường trong xã hội.
Một thanh niên trốn nghĩa vụ quân sự cùng với gia đình trốn nợ vào Bình Thuận, Nguyễn Văn Đông làm nhiều nghề (giai đoạn đó là phi pháp) từ buôn chuyến, bầu số đề, thậm chí từng có tiền sự. Sau này thành lập tổ hợp xây dựng, phát triền lên gặp thời cơ trở thành: “người anh hùng của dân tộc”, “người đại biểu của nhân dân” tất cả mọi người, mọi thời đại phải ngưỡng mộ(!).
Trong suốt nhiệm kỳ 5 năm làm ĐBQH, rất hiếm hoi thấy hình ảnh “ông nghị” Nguyễn Văn Đông (hình 2.6) trên nghị trường, trong các phiên thảo luận hoặc phát biểu nào trước báo chí. Như trên đã nói: trở thành ĐBQH là một “thương vụ” của các đại gia, và thương vụ này thành công với người anh hùng Nguyễn Văn Đông, các dự án mang tầm quốc gia ở Bình Thuận về cho tập đoàn Rạng đông.
Báo đảng, báo lề phải chỉ mới viết một phần theo hướng tích cực, ca ngợi, phần còn lại đến khi nào đưa ra thì phải chờ… Bài viết này chỉ đưa thêm một phần sự thật.
III. CẢNH BÁO CỦA LỊCH SỬ
Trước năm 2015, có một vị lão thành cách mạng nghỉ hưu sống trên đường Trần Phú, thành phố Phan Thiết. Anh ruột ông tham gia cách mạng từ năm 1928, vào đảng cộng sản Đông dương khi thành lập, thực dân Pháp bắt đày khổ sai, chết năm 1935, được công nhận liệt sỹ năm 1996. Còn ông thoát ly gia đình, tham gia thanh niên cứu quốc từ trước năm 1945. Cách mạng tháng 8/1945, ông làm chủ tịch ủy ban tổng khởi nghĩa tổng Quy Đức. Chính quyền Việt minh thành lập, ông làm phó công an huyện Mộ Đức một thời gian, sau đó tham gia tình nguyện quân Hạ Lào.
Ông biết rõ gia đình ông nội, cùng với vụ cách mạng xử tử ông nội và bác ruột Nguyễn Văn Đông (chúng tôi không nêu tên người thế hệ trước, đã mất). Chính ông là người phi ngựa cầm lệnh hỏa tốc từ trung ương về để ngăn chặn sự lạm sát của quần chúng nhân dân giai đoạn tổng khởi nghĩa.
Ông đã nói với bí thư tỉnh ủy Nguyễn Ánh Minh:
Ủng hộ nhà nước mở cửa, đổi mới, phát triển nhiều thành phần kinh tế. Tỉnh Bình Thuận tạo điều kiện cho Nguyễn Văn Đông làm ăn thì đồng ý, nhưng phong anh hùng thì cần phải cân nhắc rất thận trọng. Bởi lẽ:
Một, việc xử những người theo đạo Cao Đài theo phát-xít Nhật như ông nội, bác ruột Nguyễn Văn Đông giai đoạn đầu tổng khởi nghĩa là đúng chủ trương của đảng. Nếu không xử những người này thì không thể thành lập và ổn định được chính quyền cách mạng.
Hai, cha con Nguyễn Văn Đông giàu có từ nguồn tiền của kẻ bất hảo. Phong “anh hùng” chẳng khác gì vinh danh sự bất hảo; khuyến khích công dân bất chấp đạo lý, vi phạm pháp luật (lúc đó: cấm buôn bán, cấm bài bạc, lô đề) để làm giàu bằng mọi giá;
Ba, “anh hùng” là của dân tộc, là vinh danh sự hy sinh, cống hiến cao cả. Phong “anh hùng” cho kẻ trốn nghĩa vụ quân sự, chỉ lo cho bản thân là xúc phạm những người lính, anh linh liệt sỹ đã thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng của người thanh niên lúc đó là bảo vệ chủ quyền lãnh thổ ở chiến trường Tây Nam và biên giới phía Bắc.
Câu chuyện ông kể thường kết thúc bằng câu: lợi ích vật chất quá lớn, nên bằng mọi cách “tụi nó đã đưa thằng Đông con nhà Tr. thành anh hùng, rất nguy hại về sau”.
Thực tế: cho đến nay vẫn còn nhiều người yêu cầu các cơ quan chức năng làm rõ và trả lời việc phong anh hùng cho Nguyễn Văn Đông.
Đón xem bài 3. “TỈNH RẠNG ĐÔNG”
Ghi chú
[2.1] Vụ án EPCO – Minh Phụng: https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5_%C3%A1n_EPCO_-_Minh_Ph%E1%BB%A5ng
[2.2] Hồ Xuân Mãn https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93_Xu%C3%A2n_M%C3%A3n
0 notes
Text
Tộc người Đan Lai giữa rừng thẳm: "Đi xa để không chết chìm giữa núi rừng"
Người Đan Lai "lột xác"
Từ trung tâm xã Môn Sơn, sau hơn hai giờ đồng hồ vượt nhiều dốc núi dựng đứng chúng tôi có mặt ở đội 4. Trước đây, đội 4 gọi là nhóm Khe Lẻ, một trong bốn nhóm nhỏ của bản Cò Phạt - nhóm bản đầu tiên của tộc người Đan Lai sinh sống giữa vùng lõi Vườn Quốc gia Pù Mát.
Để đến được trung tâm bản Cò Phạt, chúng tôi phải vượt qua nhiều dối núi dựng đứng.
Hỏi nhà của trưởng nhóm Khe Lẻ, một phụ nữ lớn tuổi chỉ tay về phía trước nói: "Nhà ông La Văn Hồng phía trước đấy. Nhà có mái tôn xanh còn mới đó".
Lúc này, ông Hồng đang vất vả lùa đàn bò ra khỏi sân. Thấy khách, ông lộ vẻ ân cần rồi bộc bạch: "Mới có tiền dựng được nhà thôi. Cổng mới chỉ rào bằng tre nên con bò nó vào giẫm nát hết rau. Khi nào có thêm tiền sẽ làm cổng xây để bò khỏi vào".
Đứng bên lối ngõ, ông Hồng tiếp tục câu chuyện, người dân Đan Lai ở Khe Lẻ bây giờ đã biết cày ruộng, cấy lúa, trồng rau, chăn nuôi, không vào rừng săn bắn, hái lượm như trước nữa. Các chú biên phòng cắm bản chăm chút dạy cho cái chữ.
Ở khu TĐC mới, người Đan Lai đã biết chăn nuôi, trồng rau.
Ông ngồi khoanh đôi chân lấm bụi lên chiếc chiếu cũ, kể: "Ngày xưa, đêm tối không một ánh đèn, dân bản lo sợ thú rừng tấn công nên quen kiểu ngủ ngồi bên bếp lửa. Hễ nghe tiếng động con thú là tháo chạy thoát thân. Do quá sợ, có người còn trèo lên ngủ trên cành cây. Giờ thì nhà nào cũng có giường, chiếu, chăn màn như đồng bào các dân tộc khác. Riêng nhà tôi có đến 2 cài giường bằng gỗ".
Tư thế ngủ ngồi của tộc người Đan Lai.
Sau chuyện ngủ ngồi, ông Hồng nhắc đến một tập tục lạc hậu khác. Đó là chuyện đẻ ngồi. Khi đẻ, người phụ nữ ngồi bệt xuống nền nhà, hai tay cầm chặt hai sợi dây rừng buộc chặt trên xà nhà, thả xuống. Đẻ xong, người bố bế đứa trẻ sơ sinh ra nhúng xuống suối. Sở dĩ có tập tục kì lạ đó là họ nghĩ, đứa trẻ nào chịu đựng được khí lạnh bất thường của sông suối ngay từ lúc mới sinh thì về sau sẽ rất khoẻ mạnh, không sợ bệnh tật. Thấy chúng tôi ngạc nhiên, ông Hồng cười xòa: "Chuyện đó giờ cũng không còn nữa. Kết quả đó là nhờ cán bộ dân số, y tế kể cả bộ đội biên phòng đến tuyên truyền thường xuyên. Riêng chị em có thai kì đều được cán bộ y tế tiêm phòng, tư vấn thăm khám cẩn thận. Đến ngày gần sinh thì được đưa xuống Trạm y tế xã để sinh đẻ cho mẹ tròn, con vuông. Nhiều nhà có điều kiện còn ra hẳn Trung tâm y tế huyện đấy".
Trong nhà ông La Văn Hồng đã có 2 chiếc giường cùng đầy đủ chăn màn.
Câu chuyện đang vui thì ông Hồng đứng dậy chỉ tay về phía thượng nguồn sông giăng, giới thiệu thêm về bản Cò Phạt. Đây là bản có nhiều đổi mới căn bản. Bên cạnh trường lớp cho con em dân bản đi học, nhiều nhà đã sắm được tivi, tủ lạnh, xe máy.
Đặc biệt, bản còn có một số nam nữ thanh niên đi làm công nhân ở các xí nghiệp may mặc, sản xuất linh kiện điện tử thuộc các tỉnh phía Nam. Vui hơn nữa là lớp trẻ của bản đã đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài. Chính những người đi ra khỏi bản đã mang về nhiều cái nghĩ, cái làm tạo nên sự đổi thay đổi cho Cò Phạt.
Một góc của bản Cò Phạt.
Rời Khe Lẻ, chúng tôi đi thêm 5km đến trung tâm bản Cò Phạt. Tại đây, tiếng trống trường bỗng vang vọng giữa rừng thẳm. Ông La Văn Linh – Bí thư chi bộ bản Cò Phạt tự hào: "Tiếng trống của điểm trường Cò Phạt gọi học sinh đến lớp đó. Điểm trường có 60 em từ cấp mầm non đến lớp 5. Có 1 thầy và 5 cô giáo".
Điểm trường Cò Phạt được xây dựng kiên cố.
Lớp mầm non ở bản Cò Phạt giữa rừng thẳm nhưng rất khang trang.
Theo tiếng trống dục, từng tốp học sinh rồi ùa nhau vào lớp ê a đánh vần. Cảnh tượng đã quen rồi nhưng vẫn khiến ông Linh bùi ngùi: "Bản làng tiếp tục đổi mới là nhờ những lứa học sinh này đây. Biết tiếng Kinh, biết cái chữ, biết những điều mới lạ trong sách vở sẽ làm chúng tự tin để đi ra với thế giới bên ngoài. Bộ mặt của bản làng nhờ đó sẽ khởi sắc".
Những đứa trẻ người Đan Lai đang chơi đùa.
Nhiều năm về trước, người Đan Lai chỉ có những mái nhà tranh, vách nứa lụp xụp ẩn khuất trong sương, suốt đời chỉ quanh quẩn trong bản làng không dám ra với thế giới bên ngoài. Ông Linh trầm ngâm kể lại câu chuyện truyền đời khiến tộc người Đan Lai sống chốn sơn cùng thủy tận.
Đó là sự tàn ác của bạo chúa miền Hoa Quân (nay thuộc Thanh Chương, Nghệ An) bắt dòng họ La phải tìm cho ra "100 cây nứa bằng vàng, một chiếc thuyền chèo liền mái", nếu không sẽ bị thảm sát cả họ. Tìm đâu ra những thứ đó nên dòng họ La gồng gánh nhau trốn chạy lên núi rừng. Chạy mãi đến thượng nguồn con sông Giăng, nơi không còn nghe thấy tiếng người mới dám dừng chân. Từ đó, cả tộc người không dám bước chân ra khỏi bản làng. Sống ẩn khuất, quanh quẩn giữa rừng thẳm.
Ra với thế giới bên ngoài
Dẫn chúng tôi vào ngôi nhà mới được xây khác hẳn với những ngôi nhà tranh tre nứa lá của bản Cò Phạt. Ông Linh trầm ngâm nhớ lại chuyện này: "Là cán bộ nên tôi được ra ngoài xã nhiều. Tôi biết, chỉ có đi ra khỏi bản để lao động, làm việc mới mong thay đổi được bản làng. Lúc đó, tôi là người tiên phong đưa con gái La Thị Sài (SN 1987) đi xuất khẩu tại Ả Rập Xê Út, năm 2015. Ngày đó, cả bản truyền tai nhau "ông Linh bán con rồi".
Bản Cò Phạt.
Nghe vậy, các chiến sĩ biên phòng, công an vào gặp ông Linh để tìm hiểu rõ sự việc. "Họ cũng bán tin bán nghi vì không thể nghĩ tôi lại cho con gái đi xuất khẩu lao động vì thời điểm đó đã có ai dám đưa con ra ngoài. Đặc biệt là cho con đi lao động nước ngoài. Tôi nói ngay, cán bộ cứ xuống phòng Lao động và thương binh hỏi sẽ rõ" – ông Linh kể.
Ba tháng sau, nhân viên bưu điện đến báo tin có người gửi tiền về từ nước ngoài, ông Linh mừng muốn khóc. Ông chạy ngay ra xã để nhận số tiền 5 triệu đồng từ người con gái gửi. Cầm được tiền ông Linh họp bản ngay. Ông cho mọi người thấy đồng tiền con gái gửi về. Ai cũng tròn mắt vì thấy số tiền vừa lớn, vừa ý nghĩa.
Trong nhà ông La Văn Linh – Bí thư chi bộ bản Cò Phạt đã có tivi, tủ lạnh, máy giặt.
Năm 2017, cả làng lại xôn xao "con gái ông Linh về rồi, về thật rồi". Khi đó, Sài cầm những cái kẹo dúi vào tay trẻ nhỏ, tặng chị em xóm giếng những bộ quần áo. Việc làm khiến dân bản nhận ra "có đi ra ngoài mới xóa cái đói, giảm cái nghèo được".
Sau bước đi của con gái, ông Linh tiếp tục đăng kí cho con trai La Văn Thái (SN 1993) đi Malaysia. Rồi hai người con gái út đi vào miền Nam làm công ty. Ông vui nói: "Chúng làm trong đó giờ có gia đình cả rồi đấy. Đứa lấy người Kinh, đứa người Thái. Thay đổi lớn nhất là chính lớp trẻ này đã phá vỡ hủ tục hôn nhân cận huyết do trước đây quanh năm sống co cụm trong rừng nên anh em lớn lên chỉ biết lấy nhau vì không biết lấy ai. Chúng lấy chồng xa, tôi đồng ý hết miễn là chúng yêu thương nhau".
Các hộ dân Đan Lai chuyển từ trong bản Búng và Cò Phạt ra tái định cư mới ở Kẻ Tắt, Thạch Ngàn, Con Cuông.
Học theo ông Linh, giờ trong bản Cò Phạt đã có thêm bốn người con ông La Văn Kiệm, ông La Văn Đoàn và ông La Văn Phú đi lao động ở Ả Rập Xê Út. Riêng đi làm ở phía Nam thì nhiều không kể hết.
Nhằm bảo tồn phát triển bền vững, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào Đan Lai, năm 2006 Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Bảo tồn và phát triển bền vững tộc người thiểu số Đan Lai hiện đang sinh sống tại vùng lõi Vườn Quốc gia Pù Mát (gọi tắt là Đề án 280). Đề án đặt mục tiêu 146 gia đình tộc người Đan Lai ở hai bản Búng và Cò Phạt di dời ra khỏi rừng sâu. 30 hộ còn lại ở lại bản Cò Phạt nhưng sẽ được đầu tư hạ tầng điện, đường, trường, trạm… để làm điểm du lịch sinh thái.
Năm 2007, 42 hộ dân đầu tiên đến nơi ở mới ở xã Thạch Ngàn (huyện Con Cuông), cách chỗ ở cũ khoảng 60 km. Người dân được xây nhà, cấp ruộng nước, đất rừng và được trợ cấp gạo ăn trong 1 năm. Năm 2019, 35 hộ tiếp theo đã được TĐC ở bản Kẻ Tắt, xã Thạch Ngàn. Như vậy, đã có 77 hộ/kế hoạch 146 hộ tương ứng 52,7 % so với yêu cầu, nhiệm vụ tại Đề án 280.
Một góc bản tài định cư Đan Lai ở bản Thạch Sơn, Thạch Ngàn, Con Cuông.
Ông Vi Văn Sơn – Chủ tịch UBND huyện Con Cuông (Nghệ An) cho biết, tuy đã làm được nhiều việc nhưng đề án vẫn còn dở dang. Theo nguyên tắc phải đưa cho được 146 hộ đồng bào Đan Lai ra khỏi vùng lõi VQG là tiêu chí cứng thì nhiệm vụ chưa được hoàn thành. Phần vì nguồn vốn ngân sách Trung ương hỗ trợ hàng năm đạt tỷ lệ thấp nên không đủ nguồn vốn thực hiện đáp ứng đúng tiến độ đã đề ra. Điểm TĐC số 3 bản Bá Hạ, xã Thạch Ngàn, do quỹ đất ở đây không đủ điều kiện để lập dự án và thiếu nguồn nước sinh hoạt, nên không được triển khai. Việc lập quy hoạch TĐC chưa sát, đúng, phù hợp với điều kiện thực tế. Quỹ đất và nguồn nước thực tế chưa đảm bảo điều kiện TĐC.
"Huyện đang đề nghị Chính phủ cho thực hiện giai đoạn 2 để hoàn thiện những phần còn lại, kinh phí trên 120 tỉ đồng, thực hiện đến năm 2025. Người Đan Lai vẫn chưa thoát được nghèo, thoát được các hủ tục nên không thể bỏ dở đề án này được" – Ông Sơn nói
Hướng mới để phát triển kinh tế tộc người Đan Lai
Nói về hướng phát triển cho tộc người Đan Lai trong vùng lõi, ông Vi Văn Sơn nói "Huyện đang bảo tồn ngôn ngữ, lưu giữ mái nhà tranh của người Đan Lai (chủ yếu ở bản Búng) để xây dựng bản của người Đan Lai thành điểm du lịch độc đáo. Thực hiện đề án 280, huyện đã mở tuyến đường nối từ trung tâm xã Môn Sơn đến bản Búng dài hơn 20 km để xe máy có thể đi vào bản mất khoảng 1 giờ. Huyện đang kêu gọi đầu tư rải nhựa tuyến đường để giảm thời gian xuống 20 phút. Tuy nhiên, đây là vùng biên giới, tâm lý người Đan Lai vẫn còn ngại thay đổi, sống khép kín nên hướng đi này còn rất gian nan. Khó nhưng chúng tôi vẫn kiên trì để nâng cao đời sống vật chất, tinh thân cho tộc người Đan Lai.
Vũ Đồng
Báo Gia đình và Xã hội cập nhật tin tức trong ngày liên tục, mới nhất
Nguồn https://ift.tt/2S2qIZQ
0 notes
Text
GÓC TỔNG HỢP : NHÀ THƠ HỮU LOAN
GÓC TỔNG HỢP : NHÀ THƠ HỮU LOAN 1. Màu tím hoa sim Khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh Nàng có ba người anh đi bộ đội Những em nàng Có em chưa biết nói Khi tóc nàng xanh xanh Tôi người Vệ quốc quân xa gia đình Yêu nàng như tình yêu em gái Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo mới Tôi mặc đồ quân nhân đôi giày đinh bết bùn đất hành quân Nàng cười xinh xinh bên anh chồng độc đáo Tôi ở đơn vị về Cưới nhau xong là đi Từ chiến khu xa Nhớ về ái ngại Lấy chồng thời chiến binh Mấy người đi trở lại Nhỡ khi mình không về thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê... Nhưng không chết người trai khói lửa Mà chết người gái nhỏ hậu phương Tôi về không gặp nàng Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối Chiếc bình hoa ngày cưới thành bình hương tàn lạnh vây quanh Tóc nàng xanh xanh ngắn chưa đầy búi Em ơi giây phút cuối không được nghe nhau nói không được trông nhau một lần Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím áo nàng màu tím hoa sim Ngày xưa một mình đèn khuya bóng nhỏ Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa... Một chiều rừng mưa Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc Được tin em gái mất trước tin em lấy chồng Gió sớm thu về rờn rợn nước sông Đứa em nhỏ lớn lên Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị Khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chí Chiều hành quân Qua những đồi hoa sim Những đồi hoa sim những đồi hoa sim dài trong chiều không hết Màu tím hoa sim tím chiều hoang biền biệt Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa Áo anh sứt chỉ đường tà Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau Chiều hoang tím có chiều hoang biết Chiều hoang tím tím thêm màu da diết Nhìn áo rách vai Tôi hát trong màu hoa Áo anh sứt chỉ đường tà Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu... Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm Tím tình ơi lệ ứa Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím Tôi ví vọng về đâu Tôi với vọng về đâu Áo anh nát chỉ dù lâu... (Bài thơ màu tím hoa sim 1949) 2.Hoa lúa Em là con gái đồng xanh Tóc dài vương hoa lúa Đôi mắt em mang chân trời quê cũ Giếng ngọt, cây đa Anh khát tình quê ta trong mắt em thăm thẳm Nhạc quê hương say đắm Trong lời em từng lời Tiếng quê hương muôn đời và tiếng em là một Em ca giữa đồng xanh bát ngát Anh nghe quê ta sống lại hội mùa Có vật trụi, đánh đu, kéo hẹ, đánh cờ Có dân ca quan họ Trai thôn Thượng, gái thôn Đoài hai bên gặp gỡ Cầm tay trao một miếng trầu Yêu nhau cởi áo cho nhau Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay Quê hương ta núi ngất, sông đầy Bát ngát làng tre, ruộng lúa Em gái quê hương mang hình ảnh quê hương Xa em năm nhớ, gần em mười thương Còn bàn tay em còn quê hương mãi Em mang nguồn ân ái Căng ngực trẻ hai mươi Và trong mắt biếc nhìn anh Em gái quê si tình Chưa bao giờ được yêu đương trọn vẹn… Anh yêu em muôn vàn như quê ta bất diệt Quê hương ta ơi từ nay càng đẹp Tình yêu ta ơi từ nay càng sâu Ta đi đầu sát bên đầu Mắt em thăm thẳm đựng màu quê hương. (1955) Lưu ý : Tôi không biết bài hoa lúa nđây có phải là nguyên tác hay không . Mời bạn xem bài gốc : https://www.thica.net/2010/03/19/hoa-lua/ Có bản khác như sau : HOA LÚA Em là gái đồng xanh Tóc dài Vương hoa lúa Đôi mắt em mang Chân trời quê cũ Giếng ngọt Cây đa Anh khát Tình quê ta Trong mắt em thăm thẳm Nhạc quê hương say đắm Trong đời em Từng lời Tiếng quê hương muôn đời Và tiếng em Là một. Em ca Giữa đồng xanh Bát ngát Anh nghe quê ta Sống lại hội mùa Có vật trụi Đánh đu Kéo hẹ Đánh cờ Có dân ca quan họ Trai thôn Thượng, gái thôn Đoài Hai bên gặp gỡ Cầm tay Trao một miếng trầu “Yêu nhau cởi áo cho nhau “Về nhà mẹ hỏi – qua cầu gió bay!” Quê hương ta Núi ngất Sông đầy Bát ngát làng tre ruộng lúa Em gái quê hương Mang hình ảnh quê hương Xa em năm nhớ Gần em mười thương Còn bàn tay em Còn quê ta mãi. Em mang nguồn ân ái Trong ngực trẻ hai mươi Và trong mắt biếc nhìn anh Em gái quê đa tình Chưa bao giờ được yêu thương Trọn vẹn. Em lớn lên Mang gông xiềng phong kiến Như ruộng vườn phì nhiêu Thân em như tấm lụa điều Phất phơ giữa chợ Thân em như cành mai Đậu chân cú vọ Như hạt ngọc ngâu vầy Những tình em Đắng cay Còn khóc Trong ca dao tuc ngữ Người trai quê Xin trầu Một thuở Hát rằng : Trong chiều xưa “Đường xa gánh nặng anh chờ “Qua cầu anh đợi, bây giờ quên nhau”. Người trai quê biết đâu Những đêm dài Em khóc Đầy như giếng mưa Câm như bồ thóc Trăm năm dù lỗi hẹn hò… Sau Cách mạng Quê ta Có Đội về phát động Lúa xanh gầm như sóng Cố bần như núi cao Em gái quê cần lao Điển hình trong tố khổ Những tình em từ xưa tan vỡ Dưới ��áy mồ sâu Hiện về Vạch từng tên đao phủ Của tình yêu từ xưa. Trong mắt em Hình ảnh quê ta Làm sao mà rạo rực! Anh kiêu hãnh Có quê hương bất khuất Và có người yêu Là em gái Quê hương. Anh yêu em muôn vàn Như quê ta Bất diệt Quê hương ta ơi Từ nay Rồi càng đẹp! Tình đôi ta ơi Từ nay Rồi càng sâu! Ta đi, đầu sát bên đầu, Mắt em thăm thẳm đựng màu trời quê… HỮU LOAN =======Chú thích cho bức ảnh======== ảnh :căn nhà nhỏ đơn sơ, vách đất bần cùng của hàn sỹ dị thường Hữu Loan-nơi mà nhà thơ đã nuôi dưỡng được 10 đứa con (4 trai, 6 gái) đều trưởng thành, tốt đẹp. Hữu Vũ, con trai Hữu Loan, ngồi bên hiên nhà của ba mình ở Nga Sơn, Thanh Hóa, sáng 25. 6. 2019 Mọi comment liên quan đến chính trị sẽ bị xóa khỏi page . Tôi chỉ quan tâm tới thơ văn , nghệ thuật mà không muốn động tới chính trị nên xin vui lòng hiểu cho là tôi viết ra để lưu lại các bài thơ,nhận định hoặc sự việc liên quan đến nhà thơ Hữu Loan phòng khi các bài viết/website này bị xóa . Vì lý do liên quan đến nguồn của bức ảnh nên mình trích ra đây: https://www.facebook.com/photo.php?fbid=2346634432215829 . ======Những ĐÁNH GIÁ về nhà thơ ==== : Nhật Chung: “ Hữu Loan là người ẩn tướng. Thoạt nhìn, rất khó đoán định nội lực của con người vừa có dáng tiên phong đạo cốt vừa có vẻ một tiều phu núi xanh này. Thì đúng, Hữu Loan đã từng làm công việc nặng hơn việc một tiều phu: ông thồ xe chở đá độ nhật và nuôi cả gia đình trong thời gian khổ và đau đớn... Ông xa xôi như hình bóng một tiên ông, lại gần gũi như một người nông dân vừa xong buổi cày. Thiên lý ấy lại gần trong gang tấc.” Thơ Hữu Loan thường làm theo thể tự do, có âm điệu giàu nhạc tính để chuyển tải tâm sự vì thế những bài thơ hiếm hoi đã được phổ biến của ông đều sống trong lòng độc giả. Nói đến Hữu Loan là người ta nhớ đến Màu tím hoa sim, bài thơ xuất phát từ là nỗi lòng của riêng ông nhưng gây xúc động và nhận được sự đồng cảm của người đọc. Bài thơ đã được các nhạc sĩ Dũng Chinh, Phạm Duy, Anh Bằng phổ nhạc. Vào tháng 10 năm 2004, Màu tím hoa sim đã được Công ty Cổ phần Công nghệ Việt (viết tắt: ViTek VTB) mua bản quyền với giá 100 triệu đồng. Nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam (Điếu văn tiễn biệt Nhà thơ Hữu Loan): “ Ông ra đi thanh nhàn, nhẹ nhõm và mãn nguyện như vừa chở xong một chuyến xe đá giữa bà con xóm giềng. Những người như ông không bao giờ coi cái chết là trút xong một món nợ đời, mà chính là bước sang một thế giới khác sinh sinh, hóa hóa vô thường. Thế hệ đời sau nhớ mãi một nhà thơ chiến sĩ, nhớ mãi thi nhân chở đá xây đời. ====CHUYỆN KỂ VỀ NHÀ THƠ HỮU LOAN===== Kiến trúc sư Nguyễn Hữu Đán là con trai thứ tám trong số 10 người con của thi nhân. Anh Đán kể: “Thời đó, nhà nào cũng khổ, nhưng bố mẹ tôi rơi vào hoàn cảnh ngặt nghèo hơn, vì gia đình sống ngoài hợp tác, hầu không có tem phiếu, gạo thịt”. Chính sách hồi đó cấm nghiêm ngặt việc chế biến, buôn bán, giết mổ. Để có mỡ làm bánh, gia đình nhà thơ từng phải nuôi chui một con lợn trong chuồng kín. Lúc giết thịt, để ngăn tiếng kêu của con vật, ông phải trộn tro và ớt đổ cho lợn bị sặc, rồi cho vào bao tải, ngâm xuống ao cho đến lúc chết rồi mới giết. Làm ra mớ bánh, gánh bún là bao nhiêu nhọc nhằn, lam lũ của hai vợ chồng nhưng không phải lúc nào gánh quà của bà Nhu cũng đông buổi chợ. “Những hôm phòng thuế bắt chợ,gánh bún của mẹ tôi bị hắt xuống hào. Thương con, xót của, mẹ tôi lội xuống, bốc về. Bố tôi đãi nước cho hết cát để cả nhà ăn trừ bữa. Nhà đông miệng ăn, gạo thường phải trộn thêm rau, nấu thành cháo, ưu tiên chia phần theo thứ tự từ đứa bé đến đứa lớn. ”, kể đến đây, anh Đán miệng cười, nhưng mũi ửng đỏ, đôi mắt, sau cặp kính trắng, dường như không dám chớp mi. . 10 đứa con đã lần lượt lớn lên, tưởng như trời sinh voi, hẳn phải sinh cỏ. Nhưng theo anh Đán, anh chị em anh đã thành người bởi họ có một người cha kiên cường và một người mẹ biết chắt chiu, tần tảo. Thi sĩ Nga Sơn, ban ngày mòn vai, chai chân thồ đá, ban đêm còn vác te vó, xiếc tép nuôi con. Đất nhiều, vườn rộng, ông chịu khó trồng rau, trồng sắn, để tháng ba ngày tám, phòng lúc đói có sẵn cái để đào lên cho các con ăn. ... Xem hết bài viết tại đây : https://vnexpress.net/giai-tri/nha-tho-huu-loan-va-di-san-de-lai-cho-con-1907172.html Sau khi tàu hỏa Thống Nhất chạy được vài chuyến (1976), thì Hữu Loan đã vào Nam thăm thân nhân trên chuyến tàu nầy. Khi xuống ga Sài gòn, ông tình cờ nghe một giọng hát những lời có phần … quen quen. Tìm, thì thấy một người ăn mày cụt chân (khiếm cước cái bang), đang ôm cây ghi ta cũ mèm, ngồi ở góc sân ga, đang dạo và hát rất đúng nhịp bài hát “Những Đồi Hoa Sim “ của Dzũng Chinh. Hữu Loan ngồi nghe hết bản nhạc, rồi mới gợi chuyện, hỏi người hát rong ấy về bản nhạc và nguyên nhân nào làm anh cụt chân, người kia trả lời : “ bị thương ở trận Bình Long anh dũng …” Hữu Loan ái ngại và yêu cầu anh kia hát lại, ông ngồi nghe hết bản nhạc rồi đứng dậy, móc hết trong tiền trong túi đưa cho “người nghệ sĩ nghèo” kèm theo lời cám ơn và nói cho anh ta nghe :”Tôi là tác giả của bài thơ đó “ Ông bỏ đi trong sự ngẩn ngơ của người ăn xin . . . . . . . . Trên 1 bài báo của tờ Lao Động chủ nhật (khoãng năm 1988), tôi có đọc 1 bài phỏng vấn nhà thơ Hữu Loan ( lâu quá …) đại khái : • Khi về sống ở Thanh Hóa, hàng tháng ông phải mang sổ đến trình diện Công An Huyện ( vì đang quản chế ) mấy chú Công An trẻ thấy 1 ông già hiền, dễ mến, khi đi công tác có đi ngang qua nhà của ông, thấy nhà cửa tuềnh tàng, xiêu vẹo … Bèn hỏi ông : Sao bác không làm nhà lại ? Hữu Loan trả lời : Tao đang bận làm người còn chưa xong, hơi đâu lo làm nhà ! :) Hữu Loan : Có một anh bạn trẻ đến hỏi tôi : Thế nào làm thơ và viết văn được nổi tiếng ? Tôi trả lời : Trước tiên , anh phải làm chính trị đi đã, khi nào chính trị thành đạt rồi thì lúc ấy anh viết văn, làm thơ thế nào cũng nổi tiếng cả ! ==Hoàn cảnh liên quan đến bài "Màu tím hoa sim" : Phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm=== Trong cuốn Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại "Nhân Văn - Giai Phẩm" trên mặt trận văn nghệ mà ông là tác giả, Nhà Xuất bản Văn Hóa in năm 1958, Tố Hữu đã nhận định về phong trào này và những người bị coi là dính líu như sau: "Lật bộ áo "Nhân Văn - Giai Phẩm" thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián điệp, mật thám, lưu manh, trốt-kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm (trg 9). Trong cái công ty phản động "Nhân Văn - Giai Phẩm" ấy thật sự đủ mặt các loại "biệt tính": từ bọn Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An, từ bọn trốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và tư sản phản động, và đều ngoan cố giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của mình, cố tình chống lại cách mạng và chế độ (trg 17) " Báo cáo tổng kết vụ "Nhân Văn - Giai Phẩm" cũng do Tố Hữu viết có kết luận về tư tưởng chính trị và quan điểm văn nghệ của phong trào Nhân Văn–Giai Phẩm như sau: + Những tư tưởng chính trị thù địch +Kích thích chủ nghĩa cá nhân tư sản, bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản. +Xuyên tạc mâu thuẫn xã hội, khiêu khích nhân dân chống lại chế độ và Đảng lãnh đạo. +Chống lại chuyên chính dân chủ nhân dân, chống lại cách mạng xã hội chủ nghĩa. +Gieo rắc chủ nghĩa dân tộc tư sản, gãi vào đầu óc sô-vanh chống lại chủ nghĩa quốc tế vô sản. Những quan điểm văn nghệ phản động: +Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối văn nghệ phục vụ chính trị, thực tế là phản đối văn nghệ phục vụ đường lối chính trị cách mạng của giai cấp công nhân. Chúng đòi "tự do, độc lập" của văn nghệ, rêu rao "sứ mạng chống đối" của văn nghệ, thực ra chúng muốn lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động. +Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối văn nghệ phục vụ công nông binh, nêu lên "con người" trừu tượng, thực ra chúng đòi văn nghệ trở về chủ nghĩa cá nhân tư sản đồi trụy. +Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" hằn học đả kích nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa, nhất là văn nghệ Liên Xô, đả kích nền văn nghệ kháng chiến của ta. Thực ra, chúng phản đối chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng đòi đi theo chế độ tư bản chủ nghĩa. +Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối sự lãnh đạo của Đảng đối với văn nghệ, chúng đòi "trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ", thực ra chúng đòi đưa quyền lãnh đạo văn nghệ vào tay bọn phản cách mạng. Vào thời kỳ đổi mới, khi hoàn cảnh thời chiến tranh đã đi qua, một số nghệ sĩ từng tham gia Nhân Văn – Giai Phẩm đã được phong tặng các giải thưởng quan trọng, nhưng một số đã qua đời vì già yếu: +Giải thưởng Hồ Chí Minh: Giáo sư Cao Xuân Huy (về Khoa học Xã hội, 1996); Nhạc sĩ Văn Cao (về Âm nhạc, 1996); Họa sĩ Bùi Xuân Phái (về Hội họa, 1996), Nhà triết học Trần Đức Thảo (về Khoa học Xã hội, 2000); Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý (về Âm nhạc, 2000); +Giải thưởng Nhà nước: Nhà thơ Quang Dũng (về Văn học, 2000). Tháng 2 năm 2007, năm văn nghệ sĩ thuộc Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm gồm Lê Đạt, Trần Dần, Phùng Quán, Yến Lan và Hoàng Cầm được Chủ tịch nước Việt Nam ký quyết định tặng thưởng Giải thưởng Nhà nước. Trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 22 tháng 2 năm 2007, nhà thơ Hoàng Cầm tỏ ý buồn rằng các bạn cũ như Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung.... đã không còn sống để nhận được giải thưởng. Theo ông, thực tế là từ năm 1958 đến nay, tức là gần 50 năm, vụ Nhân Văn – Giai Phẩm mới "được giải tỏa", vì trước đó từ thời Đổi Mới, mọi thứ được bắt đầu phục hồi nhưng không công khai.Cùng ngày, khi trả lời phỏng vấn báo điện tử VietNamNet, nhà thơ Lê Đạt nói: "Tôi nghĩ chuyện giải thưởng này như một câu của ông Đỗ Chu (thành viên của Hội đồng Giải thưởng chuyên ngành Văn học) đã phát biểu: "Có thể cho đây là lời xin lỗi của anh em đối với các anh". Giải thưởng này là cử chỉ đẹp, cho dù là muộn, nhưng muộn còn hơn không". =====Đôi nét về tính tình của #nhà_thơ ==== CÙNG NHỮNG THẰNG NỊNH HÓT. ( Sau khi đọc bài “Những Thằng Nịnh Hót” của Maiakopski.) Dưới thời kỳ Pháp thuộc. Những thằng nịnh hót nghênh ngang. Lưng rạp trước quan Tây. Bắt vợ như thang. Chân trèo danh vọng. Đuổi vợ chúng đi. Lọt theo đầu chúng. Bao nhiêu nhục nhằn. Nhục mất nước muôn phần. Nhục cùng nước với những thằng nịnh hót . Một điều đau xót. Trong chế độ chúng ta. Trong chế độ dân chủ cộng hòa. Những thằng nịnh hót còn thênh thang đất sống. Không quần chùng áo thụng. Không thang đàn bà. Nhưng còn thang lưng, thang lưỡi. Những mồm không tanh tưởi. Ngậm vòi đu đủ Trợn mắt, phùng mang. Thổi vào rốn cấp trên : “ Dạ, dạ, thưa anh … Dạ dạ, em, em … Gãi cổ, gãi tai : “ … anh quên ngủ, quên ăn nhiều quá …” Anh vì nước, vì dân hơn tất cả từ trước đến nay . Chân xoa và xoa tay. Hít thượng cấp cứ thơm như mùi mít. Gọi như thế là : - Phê bình cấp trên kịch liệt. Gặp cấp trên chủ quan, mũi như chim vỗ cánh. Bụng phình như trống làng. Thấy mình : đạo đức, tài năng hơn tất cả. Như thế là chết rồi : Quân nịnh tha hồ lên cấp . Như con gì nhà gác lên thang. Còn muốn lên thủ trưởng cơ quan Còn đi đây, đi đó. Lưỡi và lưng. Lắm thằng gian khổ. Chúng nói ở đâu : Thối thóc thuế, mục kho hàng . Phong trào suy xụp. Nhân dân mất cắp đang giữa ban ngày. To cánh và to vây . Những ai không nịnh hót. Đi, mang cao liêm sĩ con người. Chúng gieo tai họa, gieo tai. Kiểm thảo, hạ tầng – Còn quy là phản động. Có người đã chết oan vì chúng Vẫn thiết tha yêu chế độ đến hơi thở cuối cùng . Nguy hiểm thay, thật khó mà trông . Chúng nó ngụy trang : Bằng tổ chức . Bằng quan điểm nhân dân. Bằng lập trương, chánh sách. Chúng nó còn thằng nào. Là chế độ chúng ta chưa sạch. Phải làm tổng vệ sinh cho kỳ hết mọi thằng. Những người đã đánh bại xâm lăng Đỏ bừng mặt vì những tên quốc xỉ. Ngay giữa thời nô lệ. Là người, chúng ta : Không ai biết cúi đầu . HỮU LOAN. Nhận xét : Hữu Loan là một người cương trực, khí khái và nóng tính như lửa, không đồng tình với một số cách xử lý, thái độ văn nghệ của một số cán bộ thời đó, ông bỏ thẳng về Nga Sơn. Bỏ cơ quan nhà nước, hồi đó nghĩa là chẳng còn chế độ gì, từ lương bổng đến hộ khẩu, sổ gạo. Không những thế, nhiều người dân và cán bộ địa phương do mù mờ về thông tin, quan niệm rằng: từ Hà Nội phải về quê tức là bị Nhà nước đuổi. Bị Nhà nước đuổi tức là người xấu… Nói thì nói vậy, không phải vì bài thơ “Cùng những thằng nịnh hót” mà Hữu Loan mới lắm cuộc bể dâu. Tánh khí cương cường như thế, xã hội như thế thì dù không có bài thơ nầy thì Hữu Loan cũng phải bể dâu thôi. == Những NHẬN ĐỊNH ,BÀI VIẾT tiếng NƯỚC NGOÀI nói về nhà thơ Hữu Loan== Loan sinh ra ở ấp Văn Hoàn, xã Nga Linh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa năm 1916, nhận bằng tốt nghiệp trung học năm 1943. Ông làm giáo viên trước khi gia nhập Việt Minh. Ông là phó chủ tịch ủy ban nổi dậy ở quận Nga Sơn trong Cách mạng Tháng Tám. Trước năm 1945, ông là một nhà văn tự do cho tờ báo Van hoc (Văn học). Loan is known for a poem titled “Deo Ca” and especially “Mau Tim Hoa Sim,” the latter written in 1949 after his first wife died. Tan Binh Electronics Company bought the copyright for this poem for VND100 million in 2004. ... Xem hết tại đây : https://english.thesaigontimes.vn/9307/Poet-Huu-Loan-dies-at-age-95.html ======== Nguồn: 1. thivien.net Bài thơ trên trích từ Giai phẩm mùa thu - tập II, NXB Minh Đức, 1956 2. “Nhân văn Giai phẩm và Vấn đề Nguyễn Ái Quốc” của Nhà phê bình văn học Thụy Khuê, Nhà Xuất bản Tiếng Quê Hương và website Vietnamnet 3.http://amvc.fr/Damvc/GioiThieu/HuuLoan/ThuongNhoHuuLoan.htm 4.http://trannhuong.net/tin-tuc-15803/nha-tho-huu-loan-mot-bai-tho-may-cuoc-be-dau.vhtm 5.https://vi.wikipedia.org/truy cập ngày 10/06/2019
0 notes
Text
5 tuyến tham quan miền Tây hút khách trong mùa hè này
https://otavietnam.com/?p=18241 5 tuyến tham quan miền Tây hút khách trong mùa hè này Len lỏi trong vùng sông ngòi chằng chịt hay dập dềnh trên ghe ở chợ nổi là trải nghiệm hấp dẫn du khách ở miền Tây. 5 tuyến tham quan miền Tây hút khách trong mùa hè này Du khách check-in tại vườn quýt Lai Vung, Đồng Tháp. Ảnh: Phong Vinh. Cù lao Thới Sơn – Bến Tre – Cần Thơ Bạn có thể thực hiện hành trình khám phá trong hai ngày một đêm ở tuyến du lịch miền Tây này. Từ TP HCM đi Tiền Giang, Bến Tre bằng xe máy hay ôtô đều thuận tiện nhưng nếu ngại lái xe quãng đường xa đến Cần Thơ, bạn có thể sử dụng xe buýt. Cù lao Thới Sơn, còn được gọi là cồn Thái Sơn hay cồn Lân, là thiên đường miệt vườn ở chốn sông nước Tiền Giang. Tới đây du khách có dịp tản bộ trên các con đường làng, tham quan vườn trái cây và đừng quên trải nghiệm ngồi trên xuồng len lỏi trong rạch nhỏ để khám phá cuộc sống của người dân vùng sông nước. Đến Bến Tre, bạn có thể tham quan trại nuôi mật ong hoặc đến cù lao Phụng check-in trại nuôi cá sấu, viếng đền ông Đạo Dừa. Chợ nổi Cái Răng – biểu tượng của du lịch Cần Thơ Xuôi về Cần Thơ, bạn đừng quên thức dậy sớm để ghé thăm chợ nổi Cái Răng. Những bữa ăn đậm đà hương vị miền Tây tại bến Ninh Kiều cũng là trải nghiệm bạn phải thử. Sa Đéc – Tràm Chim Là tỉnh đầu nguồn của dòng Mekong, Đồng Tháp có nhiều điểm tham quan đặc sắc để du khách thoải mái lên kế hoạch. Bạn có thể ghé thăm những ngôi chùa cổ hàng trăm năm ở trung tâm Sa Đéc. Bên trong ngôi chùa gần 100 năm của người Hoa ở Sa Đéc Bạn cũng có thể ghé thăm làng hoa Sa Đéc. Tuy nhiên hiện không phải là thời điểm hoa trong làng nở rộ. Bù lại, bạn có th�� khám phá công việc của những người nông dân quanh năm bên ruộng hoa. Với người yêu thích thiên nhiên, vườn quốc gia Tràm Chim sẽ là điểm đến lý tưởng. Vườn thuộc huyện Tam Nông, nổi bật với cánh rừng tràm bạt ngàn xanh mướt và nhiều loại động thực vật quý hiếm. Ngoài ra, vườn quýt Lai Vung cũng là điểm dừng chân không thể bỏ qua. Hà Tiên – Rạch Giá Hà Tiên là thị xã thuộc tỉnh Kiên Giang, cách TP HCM khoảng 350 km. Từ TP HCM, du khách di chuyển bằng ôtô sẽ mất khoảng 7 – 8 tiếng để đến được Hà Tiên. Nơi đây nổi tiếng với biển Mũi Nai và những câu chuyện kể về lịch sử của vị Khai trấn quốc công Mạc Cửu. Thời tiết ở Hà Tiên trong lành và mát mẻ, thích hợp cho các chuyến du lịch ngắm biển và tham quan thắng cảnh ở hầu hết các mùa. Lăng mộ dòng họ Mạc, núi Đá Dựng, Thạch Động, Hòn Chông là những điểm tham quan du khách có thể đến ở Hà Tiên. Rạch Giá là thành phố cảng biển duy nhất của khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời là trung tâm hành chính, văn hóa, kinh tế của tỉnh Kiên Giang. Đến đây, bạn đừng quên check-in tại cổng Tam Quan, cổng chào thành phố với kiến trúc ấn tượng. Ban ngày, du khách có thể ghé thăm đền thờ Nguyễn Trung Trực hay dạo quanh khu đô thị mới dọc con đường ven biển Tôn Đức Thắng, nhìn ngắm hoàng hôn tắt dần nơi cửa biển trên cầu 3/2. Châu Đốc – Rừng tràm Trà Sư Rừng tràm Trà Sư là nơi du khách phải đến đầu tiên ở An Giang, cách trung tâm Châu Đốc khoảng 30 km. Trên chiếc ghe máy, bạn dần đi sâu vào trong cánh rừng tràm. Ở vùng lõi, bạn sẽ chuyển sang ngồi tắc ráng để đi sâu hơn vào nơi sinh sống của các loài chim, cò. Đây là điểm tham quan đặc trưng nhất của xứ sở thốt nốt. Khi đến Châu Đốc, bạn có thể dành buổi sáng để đi ăn bún cá ở chợ địa phương. Lẩu cá linh, chuột nướng, gỏi sầu đâu là một số món ăn du khách nên nếm thử. Sau đó, bạn có thể lái xe đến viếng miếu Bà Chúa Xứ núi Sam; xa hơn là làng Châu Giang, nơi du khách có cơ hội quan sát đời sống sinh hoạt của người Chăm đang sinh sống trong vùng. Bạc Liêu – Cà Mau Hành trình đi qua 2 tỉnh miền Tây cần nhiều thời gian mới có thể đi hết những điểm đẹp. Từ TP HCM, bạn có thể đến Bạc Liêu trước bằng xe buýt hoặc ôtô trong 5 tiếng, đoạn đường dài khoảng cách 290 km. Ngoài điệu Dạ Cổ Hoài Lang nức tiếng, Bạc Liêu hấp dẫn du khách cả từ những di tích lịch sử, điểm du lịch sinh thái, du lịch tâm linh gắn liền với cảnh quan và các câu chuyện cổ xưa. Vườn chim, nhà công tử Bạc Liêu hay chùa Xiêm Cán là những điểm tham quan luôn hút khách. Từ Bạc Liêu, du khách chỉ mất khoảng một tiếng 30 phút để đến đất mũi Cà Mau. Giá vé khoảng 60.000 đồng. Đã đặt chân đến đây, bạn nhất định phải check-in tại Mũi Cà Mau, nơi đặt cột mốc tọa độ GPS 0001 (cây số 0). Bạn có thể tiếp tục hành trình cuả mình đến Rừng U Minh, sân chim Ngọc Hiển hay trải nghiệm du ngoạn trên sông Trẹm. Bữa ăn của bạn sẽ không thể thiếu các món ngon từ ba khía. Theo Di Vỹ/Vnexpress iVIVU.com May 6, 2019 Bởi - https://otavietnam.com/?p=18241
0 notes
Text
Đập chùa phá tượng: Quả báo đến nhanh chậm khác nhau, nhưng đều thống khổ vô cùng
Thời kỳ Cách mạng văn hóa, cơn cuồng phong ‘phá tứ cựu lập tứ tân’ từ thành phố tràn đến vùng quê. Trong những năm tháng điên cuồng đó, cả 3 người đều làm cùng một việc. Quả báo đến nhanh chậm khác nhau, nhưng đều thống khổ vô cùng.
Hồng Mao phá tượng Phật
Cách đây không lâu, có người bạn đến nhà tôi chơi, trong khi hàn huyên có nói đến một số chuyện trong thôn xưa kia. Trong đó, câu chuyện về Hồng Mao Lý Đan hủy hoại tượng Phật để lại trong tôi ấn tượng sâu sắc nhất.
Một nhóm ‘quậy phá’ thừa cơ tập hợp đội ngũ đập phá trong thôn. Phá phách một chặp, bọn họ cảm thấy đập phá, quậy phá nhỏ không ‘đã’, bèn đưa con mắt đến chùa Già Lam ở cuối thôn, dự tính phá tan biểu tượng ‘làm tê liệt linh hồn các bần cố nông’.
Nghe thấy phá hủy chùa, rất nhiều người dân trong thôn đều kinh sợ, tìm đủ các lý do để thoái thác. Các cụ già còn cấm con cháu không được làm những việc mù quáng đại nghịch vô đạo này để tránh bị Trời giáng sét đánh, sau khi chết đọa vào địa ngục vô gián muôn đời không được siêu sinh.
Hôm phá chùa, vì liên quan đến vấn đề lập trường nên phía trước chùa Già Lam có rất nhiều người đến xem. ‘Lãnh tụ phái quậy phá’ liên tục động viên tất cả các thành viên lấy hành động thực tế phá trừ ‘phong kiến mê tín’. Nhưng phí sức nói mãi mà không có người nào ‘dũng cảm’ tiến lên phá hủy ‘tượng Ngài’ (dân địa phương gọi chung tượng Thần, Phật là tượng Ngài).
Đang lúc khó khăn thì một anh chàng độc thân trong thôn là Lý Đan có biệt hiệu là Hồng Mao từ trong ngõ lắc lư đi đến trước mặt mọi người, hò hét muốn nổi đình đám. Trước tượng Ngài cao lớn, Hồng Mao Lý Đan gọi đồng bọn đến giúp một tay, nhưng mọi người không những không giúp mà còn lộ ra ánh mắt khinh thường. Cuối cùng, anh ta nghĩ ra cách dùng dây thừng lớn, một đầu buộc lên cổ tượng Ngài, một đầu quấn vào phần bụng của mình. Sau khi đã buộc chặt, anh ta thét to lên một tiếng, đầu và thân tượng Ngài mỗi phần một nơi. Hồng Mao Lý Đan không biết mình đã phạm phải trọng tội ngũ nghịch, vẫn dương dương đắc ý đá đầu tượng Ngài nói: “Đồ chơi này để ta đem về làm bô thì rất hợp đây”.
Được Hồng Mao Lý Đan dẫn đầu, chùa Già Lam trong thôn thờ phụng mấy trăm năm đã biến thành hư vô trong khói bụi.
Hồng Mao Lý Đan khệnh khạng lượn đi lượn lại trong thôn chẳng được bao lâu, báo ứng rất nhanh chóng giáng xuống. Đầu tiên là một con mắt Lý Đan giống như có hạt cát bay vào, mắt chuyển động thì khó chịu khôn thấu, dần dần thị lực giảm, nhìn lờ mờ, nhãn cầu lồi ra. Sau vài tháng, cặp mắt đỏ sưng phồng lên trông như một trái đào chín nát chảy ra nước và mủ, uống thuốc, tiêm thế nào cũng không thấy đỡ. Trong thời gian hơn một năm cho đến lúc chết, ấn tượng về Hồng Mao Lý Đan của bà con thôn xóm chính là đôi mắt lở loét bốc mùi tanh hôi, to bằng nắm tay trẻ con, nước mắt không lúc nào ngừng chảy.
Cho đến hôm nay, hễ nói đến việc phá hủy chùa Già Lam thì những người có tuổi trong thôn đều đem chuyện Hồng Mao Lý Đan ra kể, trách anh ta nhiệt tình mù quáng. Cuối cùng các cụ đều không quên chốt lại một câu: Báo ứng.
Thế là tôi lại nhớ đến một câu chuyện phá hoại tượng Phật bị báo ứng.
[caption id="attachment_1123291" align="alignnone" width="704"] Bức ảnh được chụp lại trong thời kỳ Cách mạng văn hóa tại Trung Quốc. (Ảnh minh họa: sohu.com)[/caption]
Trẻ con phá chùa
Khi còn nhỏ, tôi đi học ở chùa La Hán, trước giải phóng đây là một ngôi chùa nổi tiếng quy mô tráng lệ, tượng Phật trang nghiêm, tiếng tụng kinh cả ngày không lúc nào ngớt. Sau giải phóng, chùa bị chuyển làm nơi giáo dục dạy học nhưng mấy ngôi điện lớn vẫn còn lại như cũ, chỉ là bị khóa quanh năm, các tượng chư Phật Bồ Tát bên trong phủ kín bụi, không có người trông nom.
Sau khi bắt đầu cuộc Cách mạng văn hóa, một đám trẻ hò hét đến chùa ‘phá tứ cựu’. Sau khi bọn trẻ làm ‘động viên trước khi vào cuộc chiến’ ở trước đại điện, chúng mở cửa điện bụi bám lâu ngày trong tiếng khẩu hiệu ‘phá tứ cựu’ của đám đông. Thấy tượng Phật cao lớn, đại bộ phận đều ngây người ra, nguyên nhân là không biết hạ thủ từ chỗ nào. Lúc đó, có một cậu đứng ra nói đã có cách. Biện pháp của cậu giống y như Hồng Mao Lý Đan, cũng là dùng dây thừng một đầu quấn vào bụng một đầu buộc vào cổ tượng Phật rồi kéo đứt.
Tôi nghe được chuyện này là sau khi xảy ra 10 năm, các cụ già kể xong còn nuối tiếc nói một câu: Đáng tiếc quá!
Thời gian vẫn cứ trôi đi như thế, nháy mắt đã là mười mấy năm trôi qua, tôi đã làm việc ở một nhà máy hóa chất. Vì sống một mình nên tôi thường hết giờ thì phóng xe đạp về nhà, đồng hành là những người cùng quê, họ nói nói cười cười nên mười mấy cây số đường đi cũng không hiu quạnh.
Một mùa thu, có một bác thợ họ Cao, mỗi khi đi đến cách chùa khoảng 2 dặm là bác lại nói với những người đồng hành rằng bác phải nghỉ một lát, mệt quá. Một hôm, đến gần chùa bác lại kêu mệt, muốn dừng lại nghỉ ngơi. Những bác thợ này đều là những người làm công đầu tắt mặt tối quanh năm: ngoài công việc nhà máy ra thì ở nhà vẫn còn một đống hoa màu cần chăm sóc, đến vụ hè thu thì càng bận bịu vất vả hơn. Mọi người thấy có hơn chục dặm đường mà bác không thể đi một mạch được nên nhắc nhở bác chú ý nghỉ ngơi, sau đó mọi người về trước hết cả. Một mình bác xuống xe, dự tính ngồi dựa một gốc cây lớn ngủ một lát rồi mới về nhà.
Ruộng ngô đã chín, phía đông một mảnh, phía tây một mảnh đang chờ người thu hoạch, còn bác thợ Cao thì nằm lên trên những cây ngô ngủ mê man ngất lịm. Đưa đến bệnh viện huyện thì bị từ chối tiếp nhận, lại đưa lên bệnh viện thành phố. Sau khi kiểm tra, các bác sỹ kiến nghị phẫu thuật - mổ não. Mổ hộp sọ rồi lại khâu lại, mấy ngày sau liền bỏ vợ con ra đi. Bởi vì bác không phải là công nhân chính thức nên nhà máy chỉ cấp cho một chút trợ cấp.
Thực tế bác Cao là một người tốt. Đối đãi với mọi người hòa nhã, công việc làm nghiêm túc, cũng không nghiện ngập tệ nạn hay có thói xấu nào. Bác mắc bệnh cũng chỉ một hai ngày những vẫn kiên trì đi làm. Người như thế này sao mới 45, 46 tuổi đã ra đi? Có lần, một người hàng xóm biết rõ chuyện bác Cao nói: Có lẽ là báo ứng, năm xưa phá tượng Phật chùa La Hán ông ấy rất hăng hái, đã đập vỡ đầu một tượng Phật.
Ôi, thì ra là như thế!
[caption id="attachment_1123293" align="alignnone" width="640"] (Ảnh minh họa: read01.com)[/caption]
Đe dọa, ép buộc người khác phá tượng
Nói đến chuyện phá chùa, vẫn còn một câu chuyện nữa đáng nói. Vẫn là vào thời ‘phá tứ cựu’, bí thư chi bộ Hà ở thôn Nam muốn thực hiện một số hành động trong thôn để hoàn thành nhiệm vụ. Ông triệu tập người dân trong thôn lại, đọc văn kiện xong rồi đọc báo, sau đó lại thao thao bất tuyệt nói mấy giờ đồng hồ, muốn mọi người hành động, tích cực chủ động phá bỏ mấy ngôi chùa trong thôn. Nhưng mặc dù ông nói rách cả miệng, những người dân thiện lương có lòng kính sợ Thần Phật vẫn không chịu phối hợp. Ông vốn muốn thực hiện một cuộc ‘chiến tranh nhân dân’ rầm rộ, nhưng đám người dân ngu dốt ‘bị đầu độc’ quá sâu này lại không chịu ‘dựng cờ khởi nghĩa’.
Bí thư Hà đành phải động não nghĩ đối sách. Vò đầu bứt tai một chặp, cuối cùng ông cũng nghĩ ra một chiêu. Ông triệu tập ‘địa chủ, phú hào, phản cách mạng, kẻ xấu, phái hữu’, những đối tượng mà nhân dân lao động cần đả kích ở trong thôn lại, đánh tiếng nếu không nghe lời thì phải nhận hậu quả đáng sợ của cuộc ‘đấu tranh giai cấp’. Thấy những ‘phần tử xấu’ này sợ không dám lên tiếng, bí thư Hà mới giao cho họ một nhiệm vụ ‘gian nan mà vinh quang’: Chuyển tượng đất trong chùa đi.
Dưới sự uy hiếp bức bách của bí thư Hà, một bộ phận các tượng Ngài bị những ‘phần tử xấu’ chuyển đi.
Bí thư Hà vui mừng vì ‘cẩm nang diệu kế’ của mình chẳng được bao lâu thì cậu con trai quý tử của ông bị viêm màng não. Ông đã bỏ ra một đống tiền chữa trị mà vẫn để lại di chứng. Đứa bé này không muốn đi học, cả ngày lượn đi lượn lại trong thôn, đập vỡ bồn tiểu nhà hàng xóm, đốt đống củi nhà láng giềng, hái quả nhà người ta, đuổi chó gà trên đường… toàn làm những việc mà người ta nhìn thấy đều thóa mạ.
Thấm thoắt đứa trẻ này đã 13, 14 tuổi, thói hư tật xấu cũ không sửa mà lại càng ngày càng tệ hại hơn, đánh nhau với những đứa trẻ khác, bóp cổ đối phương đến chết cũng không buông tay. Mọi người đều tránh nó như tránh dịch bệnh, thấy từ xa là đã lẩn tránh sang bên. Lúc này, bí thư Hà đã là một người dân thường, chỉ biết lắc đầu than thân trách phận.
Sau này, trong thôn làm nghề phụ, xây dựng một lò gạch ngói. Vì lò gạch ở nơi vắng vẻ nên ban đêm cần có người trông coi, bí thư Hà chủ động xin được đảm nhiệm việc này. Cậu con trai quý tử của ông cũng thường đến đó chơi. Một hôm mưa to gió lớn suốt đêm dài, đứa bé này bỗng nhiên mất tích. Mấy ngày sau, bí thư Hà từ lò gạch cuống cuồng chạy đến trước mặt những người đang làm việc, nói rằng phát hiện ra dưới giếng có vật nổi, muốn mọi người đi xem. Mọi người đến bên giếng, có người bạo gan xuống xem xét phát hiện ra là người. Vớt lên xem thì chính là cậu con trai quý tử của bí thư Hà. Sau đó, các cụ nghi ngờ là do chính bí thư Hà làm, nhưng thiếu chứng cứ nên cũng cho qua.
Gần đây, qua người quen tôi biết được hai vợ chồng bí thư Hà đều đã mất. Hai con gái của họ lấy chồng ở thôn ngoài. Cuộc đời bí thư Hà giờ chỉ còn lưu lại câu chuyện này trong thôn mà thôi.
Trong những năm tháng điên cuồng đó, cả 3 người đều làm cùng một việc. Khác biệt là bác thợ Cao là tuổi nhỏ không hiểu biết, Hồng Mao Lý Đan là khoe tài, còn bí thư Hà là độc ác nhất, không chỉ bản thân tạo nghiệp mà còn kéo những người vô tội vào đầm lầy. Bọn họ đều đã phải trả giá cho sự điên cuồng của mình, chỉ có điều là quả báo có khác nhau mà thôi. Hồng Mao Lý Đan là quả báo đến nhanh nhất, trong nỗi thống khổ đằng đẵng từng bước từng bước đến cái chết. Bí thư Hà là thê thảm nhất, bị kết cục nhà tan người chết. Bác thợ Cao qua đời sau khi đã chịu nỗi thống khổ vô cùng.
Người xưa nói: Việc trước không quên, là thầy của việc sau. Người thông minh đều biết rút ra bài học của những người đi trước để tránh đi vào vết xe đổ của họ.
Theo reminbao.com
Kiến Thiện biên dịch
[videoplayer link="https://video3.dkn.tv/trung-quoc-cho-no-tung-dau-buc-tuong-phat-quan-am-cao-nhat-the-gioi-video_5888a7975.html"]
from Đại Kỷ Nguyên - Feed - http://bit.ly/2OZRvUK via IFTTT
0 notes
Text
Chính trực mới chính là cái gốc làm người
Trong phòng phẫu thuật của một bệnh viện lớn, một cô y tá trẻ lần đầu tiên phụ giúp kíp mổ nói với bác sỹ mổ chính: “Thưa bác sỹ, bác sỹ đã lấy ra 11 cái khăn, nhưng chúng ta lại cần dùng 12 cái ạ”.
Bác sỹ quả quyết: “Tôi đã lấy hết ra rồi. Bây giờ chúng ta bắt đầu khâu vết mổ”.
“Không được! Chúng ta dùng 12 cái” – cô y tá trẻ nói rắn rỏi.
“Tôi chịu trách nhiệm. Khâu đi!” – Bác sỹ nghiêm giọng nói.
“Bác sỹ không được làm như thế! Bác sỹ phải nghĩ cho bệnh nhân!” – Cô y tá trẻ nói, giọng vang cao vì xúc động.
Cô y tá trẻ mới được nhận vào làm kia, chống lại bác sỹ chính, sẽ có nguy cơ không được nhận làm sau thời gian thử việc. Một cô gái nông thôn, bao năm đèn sách, là bao nhiêu năm cha cô tưới mồ hôi trong những ngày hè nóng nực cày ruộng, là bao ngày mẹ cô ngâm chân dưới bùn lạnh ngắt ngày đông hàn cấy lúa.
Mỗi ngày cô học ở trường được đánh đổi biết bao thóc lúa thấm đẫm mồ hôi của cha mẹ. Cả đứa em trai cô mấy năm nay cũng không được manh áo mới, món đồ chơi mới, chỉ để dành dụm tiền cho cô được ăn học nên người. Mà cha mẹ cô còn phải vay họ hàng món tiền lớn, hy vọng sau này cô đi làm trả nợ dần.
Cô biết, khi cô kiên quyết phản đối bác sỹ chính, cô có thể đối mặt với mất việc, thì cô biết ăn nói thế nào với cha mẹ cô đây? Rồi món nợ kia sẽ xoay xở thế nào đây? Bạn bè, họ hàng, gia đình sẽ nghĩ cô thế nào? Cô là niềm hy vọng duy nhất của gia đình, cũng là niềm hy vọng gánh vác trách nhiệm nuôi em trai cô ăn học. Nếu mất việc, tất cả hy vọng của mọi người đều bị dập tắt, tương lai của cô và gia đình sẽ như đêm tối mịt mùng.
Cô bỗng lo sợ. Nhưng nhìn người bệnh đang nằm bất động, cô trào lên lòng thương cảm. Cô vẫn nhớ như in những lời mẹ dạy cô từ nhỏ: “Thương người như thể thương thân”. Lời ông nội dạy: “Nhân chi sơ tính bản thiện”, và “Làm người phải lấy chính trực làm gốc, sống sao không hổ thẹn với lòng mình”. Lo sợ trong tâm cô bỗng tan biến, cô mỉm cười, nhìn thẳng vào mắt bác sỹ chính, sẵn sàng đón nhận bất cứ điều gì có thể xảy ra.
Vị bác sỹ mổ chính nhìn cô, rồi mỉm cười cầm chiếc khăn thứ 12 giơ ra cho cô y tá trẻ xem, nói giọng hài lòng: “Tốt lắm! Cô đã đạt yêu cầu làm y tá chính”.
[caption id=“attachment_641118” align=“alignnone” width=“787”] Người chính trực có tầm nhìn cao xa (Ảnh: Pinterest)[/caption]
2500 năm trước, Khổng Tử cũng từng dạy học trò: “Nhân chi sinh dã trực, võng chi sinh dã hạnh nhi miễn”, nghĩa là: “Con người sống phải chính trực, sống không chính trực chỉ là may mắn chưa bị tai họa mà thôi”.
Khi còn trẻ, Abraham Lincoln bán tạp hoá cho một cửa hàng. Có lần ông phát hiện ra một vị khách trả thừa vài xu, ông đã chạy theo vài dặm đường để trả lại cho vị khách đó. Câu chuyện được truyền tai và ông nổi tiếng với biệt danh ”Abe trung thực”. Sau này sự trung thực và chính trực là những phẩm chất chính yếu giúp Lincoln dẫn dắt nước Mỹ qua giai đoạn đau thương nhất trong lịch sử, khi sự tồn vong của quốc gia lâm nguy.
Ngoài George Washington thì Abraham Lincoln là vị Tổng thống được kính trọng và ngưỡng mộ nhất nước Mỹ vì những đóng góp của ông. Tâm điểm của những thành quả đó chính là sự chính trực đã thôi thúc ông khi còn là một chàng trai trẻ.
Nhạc Phi anh hùng chống quân Kim bị Tần Cối dùng tội danh “không cần có” khép tội chết. Chỉ mấy chục năm sau, Nhạc Phi được minh oan, được triều đình Nam Tống xây miếu thờ ở núi Thê Hà, hồ Tây Tử, Hàng Châu. Ở quê Nhạc Phi huyện Thang Âm tỉnh Hà Nam, nhân dân cũng tự quyên góp tiền xây đền thờ ông. Ông được nhân dân tôn là Võ Thánh, hương hỏa thờ phụng suốt gần nghìn năm nay.
[caption id=“attachment_641120” align=“alignnone” width=“650”] Nhạc Phi xứng danh anh hùng (Ảnh: huang-xiaoming.info)[/caption]
Còn Tần Cối mọc một cái mụn độc khó hiểu trên cột sống, mấy ngày sau, đau đớn mà chết ở tuổi 65. Dân gian dùng bột mì nặn hình Tần Cối và Vương thị, bỏ vào chảo dầu rán, gọi là “Rán Tần Cối”, nghe nói đây chính là nguồn gốc của bánh cuốn thừng hiện nay. Đến triều Nguyên, mọi người đến mộ Tần Cối đại tiểu tiện chửi rủa, gọi là “cái mả thối”.
Có thơ viết: “Đất trên mộ thái sư, thối um tận chân trời”. Tần Giản Tuyền, hậu nhân của dòng tộc họ Tần đời Thanh đến trước mộ Nhạc Phi ở Tây Hồ – Hàng Châu, tự nói: “Từ sau đời Tống ít tên Cối, tôi trước mộ ông thẹn họ Tần”. Hãm hại Nhạc Phi, tượng quỳ của vợ chồng Tần Cối đúc đi đúc lại 13 lần do bị nhân dân căm hận đập phá.
Chính trực là cái gốc làm người, quả là chí lý, vì người chính trực là người chân thành, có đạo đức cao cả, tiết tháo nghĩa hiệp, nhưng rất khiêm nhường, hòa ái, thương yêu người. Đặc biệt, họ có dũng khí, sẵn sàng chấp nhận thua thiệt, rủi ro vì người khác như cô y tá trẻ trên, hay sẵn sàng hy sinh vì sơn hà xã tắc như Nhạc Phi, và coi trọng sự trung thực, cẩn trọng như Lincohn.
Ông bà ta cũng dạy rằng: “Thật thà là cha quỷ quái”. Người trung thực, chính trực có thể chịu thiệt trước mắt, nhưng những gì chờ đón họ là một tương lai tươi sáng. Nhưng điều quan trọng nhất là họ sống thoải mái, an nhiên, tự tại, vô lo vô nghĩ, vì họ không bao giờ làm gì thẹn với lòng mình.
Trong lịch sử, thời Khổng Tử làm quan Đại Tư Khấu nước Lỗ, chỉ trong 3 tháng, nước Lỗ trở lên thịnh trị, ra đường không có người nhặt của rơi, ban đêm nhà nhà không cần đóng cửa. Ngoài ra, nhiều thời đại lịch sử cũng đã xuất hiện xã hội tốt đẹp như thời Trinh Quán chi trị nhà Đường, Hồng Đức thịnh trị thời vua Lê Thánh Tông. Nếu trong xã hội, ai ai cũng chính trực, chân thành, thiện lương, thì có lẽ sẽ không có những vấn đề nhức nhối và những tệ nạn xã hội như hiện nay, và thời thái bình thịnh trị sẽ lại xuất hiện.
Nam Phương
from Đại Kỷ Nguyên - Feed - https://ift.tt/2GKiJKg via https://ift.tt/2GKiJKg https://www.dkn.tv from Đại Kỷ Nguyên https://ift.tt/2IXBKyt via IFTTT
0 notes
Text
Chính trực mới chính là cái gốc làm người
Trong phòng phẫu thuật của một bệnh viện lớn, một cô y tá trẻ lần đầu tiên phụ giúp kíp mổ nói với bác sỹ mổ chính: “Thưa bác sỹ, bác sỹ đã lấy ra 11 cái khăn, nhưng chúng ta lại cần dùng 12 cái ạ”.
Bác sỹ quả quyết: “Tôi đã lấy hết ra rồi. Bây giờ chúng ta bắt đầu khâu vết mổ”.
“Không được! Chúng ta dùng 12 cái” – cô y tá trẻ nói rắn rỏi.
“Tôi chịu trách nhiệm. Khâu đi!” – Bác sỹ nghiêm giọng nói.
“Bác sỹ không được làm như thế! Bác sỹ phải nghĩ cho bệnh nhân!” – Cô y tá trẻ nói, giọng vang cao vì xúc động.
Cô y tá trẻ mới được nhận vào làm kia, chống lại bác sỹ chính, sẽ có nguy cơ không được nhận làm sau thời gian thử việc. Một cô gái nông thôn, bao năm đèn sách, là bao nhiêu năm cha cô tưới mồ hôi trong những ngày hè nóng nực cày ruộng, là bao ngày mẹ cô ngâm chân dưới bùn lạnh ngắt ngày đông hàn cấy lúa.
Mỗi ngày cô học ở trường được đánh đổi biết bao thóc lúa thấm đẫm mồ hôi của cha mẹ. Cả đứa em trai cô mấy năm nay cũng không được manh áo mới, món đồ chơi mới, chỉ để dành dụm tiền cho cô được ăn học nên người. Mà cha mẹ cô còn phải vay họ hàng món tiền lớn, hy vọng sau này cô đi làm trả nợ dần.
Cô biết, khi cô kiên quyết phản đối bác sỹ chính, cô có thể đối mặt với mất việc, thì cô biết ăn nói thế nào với cha mẹ cô đây? Rồi món nợ kia sẽ xoay xở thế nào đây? Bạn bè, họ hàng, gia đình sẽ nghĩ cô thế nào? Cô là niềm hy vọng duy nhất của gia đình, cũng là niềm hy vọng gánh vác trách nhiệm nuôi em trai cô ăn học. Nếu mất việc, tất cả hy vọng của mọi người đều bị dập tắt, tương lai của cô và gia đình sẽ như đêm tối mịt mùng.
Cô bỗng lo sợ. Nhưng nhìn người bệnh đang nằm bất động, cô trào lên lòng thương cảm. Cô vẫn nhớ như in những lời mẹ dạy cô từ nhỏ: “Thương người như thể thương thân”. Lời ông nội dạy: “Nhân chi sơ tính bản thiện”, và “Làm người phải lấy chính trực làm gốc, sống sao không hổ thẹn với lòng mình”. Lo sợ trong tâm cô bỗng tan biến, cô mỉm cười, nhìn thẳng vào mắt bác sỹ chính, sẵn sàng đón nhận bất cứ điều gì có thể xảy ra.
Vị bác sỹ mổ chính nhìn cô, rồi mỉm cười cầm chiếc khăn thứ 12 giơ ra cho cô y tá trẻ xem, nói giọng hài lòng: “Tốt lắm! Cô đã đạt yêu cầu làm y tá chính”.
[caption id="attachment_641118" align="alignnone" width="787"] Người chính trực có tầm nhìn cao xa (Ảnh: Pinterest)[/caption]
2500 năm trước, Khổng Tử cũng từng dạy học trò: “Nhân chi sinh dã trực, võng chi sinh dã hạnh nhi miễn”, nghĩa là: “Con người sống phải chính trực, sống không chính trực chỉ là may mắn chưa bị tai họa mà thôi”.
Khi còn trẻ, Abraham Lincoln bán tạp hoá cho một cửa hàng. Có lần ông phát hiện ra một vị khách trả thừa vài xu, ông đã chạy theo vài dặm đường để trả lại cho vị khách đó. Câu chuyện được truyền tai và ông nổi tiếng với biệt danh ”Abe trung thực”. Sau này sự trung thực và chính trực là những phẩm chất chính yếu giúp Lincoln dẫn dắt nước Mỹ qua giai đoạn đau thương nhất trong lịch sử, khi sự tồn vong của quốc gia lâm nguy.
Ngoài George Washington thì Abraham Lincoln là vị Tổng thống được kính trọng và ngưỡng mộ nhất nước Mỹ vì những đóng góp của ông. Tâm điểm của những thành quả đó chính là sự chính trực đã thôi thúc ông khi còn là một chàng trai trẻ.
Nhạc Phi anh hùng chống quân Kim bị Tần Cối dùng tội danh “không cần có” khép tội chết. Chỉ mấy chục năm sau, Nhạc Phi được minh oan, được triều đình Nam Tống xây miếu thờ ở núi Thê Hà, hồ Tây Tử, Hàng Châu. Ở quê Nhạc Phi huyện Thang Âm tỉnh Hà Nam, nhân dân cũng tự quyên góp tiền xây đền thờ ông. Ông được nhân dân tôn là Võ Thánh, hương hỏa thờ phụng suốt gần nghìn năm nay.
[caption id="attachment_641120" align="alignnone" width="650"] Nhạc Phi xứng danh anh hùng (Ảnh: huang-xiaoming.info)[/caption]
Còn Tần Cối mọc một cái mụn độc khó hiểu trên cột sống, mấy ngày sau, đau đớn mà chết ở tuổi 65. Dân gian dùng bột mì nặn hình Tần Cối và Vương thị, bỏ vào chảo dầu rán, gọi là “Rán Tần Cối”, nghe nói đây chính là nguồn gốc của bánh cuốn thừng hiện nay. Đến triều Nguyên, mọi người đến mộ Tần Cối đại tiểu tiện chửi rủa, gọi là “cái mả thối”.
Có thơ viết: “Đất trên mộ thái sư, thối um tận chân trời”. Tần Giản Tuyền, hậu nhân của dòng tộc họ Tần đời Thanh đến trước mộ Nhạc Phi ở Tây Hồ – Hàng Châu, tự nói: “Từ sau đời Tống ít tên Cối, tôi trước mộ ông thẹn họ Tần”. Hãm hại Nhạc Phi, tượng quỳ của vợ chồng Tần Cối đúc đi đúc lại 13 lần do bị nhân dân căm hận đập phá.
Chính trực là cái gốc làm người, quả là chí lý, vì người chính trực là người chân thành, có đạo đức cao cả, tiết tháo nghĩa hiệp, nhưng rất khiêm nhường, hòa ái, thương yêu người. Đặc biệt, họ có dũng khí, sẵn sàng chấp nhận thua thiệt, rủi ro vì người khác như cô y tá trẻ trên, hay sẵn sàng hy sinh vì sơn hà xã tắc như Nhạc Phi, và coi trọng sự trung thực, cẩn trọng như Lincohn.
Ông bà ta cũng dạy rằng: “Thật thà là cha quỷ quái”. Người trung thực, chính trực có thể chịu thiệt trước mắt, nhưng những gì chờ đón họ là một tương lai tươi sáng. Nhưng điều quan trọng nhất là họ sống thoải mái, an nhiên, tự tại, vô lo vô nghĩ, vì họ không bao giờ làm gì thẹn với lòng mình.
Trong lịch sử, thời Khổng Tử làm quan Đại Tư Khấu nước Lỗ, chỉ trong 3 tháng, nước Lỗ trở lên thịnh trị, ra đường không có người nhặt của rơi, ban đêm nhà nhà không cần đóng cửa. Ngoài ra, nhiều thời đại lịch sử cũng đã xuất hiện xã hội tốt đẹp như thời Trinh Quán chi trị nhà Đường, Hồng Đức thịnh trị thời vua Lê Thánh Tông. Nếu trong xã hội, ai ai cũng chính trực, chân thành, thiện lương, thì có lẽ sẽ không có những vấn đề nhức nhối và những tệ nạn xã hội như hiện nay, và thời thái bình thịnh trị sẽ lại xuất hiện.
Nam Phương
from Đại Kỷ Nguyên - Feed - https://ift.tt/2GKiJKg via https://ift.tt/2GKiJKg https://www.dkn.tv
0 notes
Text
Xé lòng với câu chuyện tình ngắn ngủi nhưng ngọt ngào của chàng trai Kinh tế
“Những kỉ niệm ngày xưa anh sẽ chôn chặt trong một góc nhỏ con tim, và em, cô gái của anh, hãy ngủ yên trong góc nhỏ đó nhé. Anh yêu em …” chàng trai nghẹn ngào khi nhắc về người con gái anh thương nhất.
Quen nhau tình cờ, yêu nhau cũng rất tự nhiên, ngưỡng tưởng cuộc tình đẹp của cặp đôi Kinh tế sẽ có một happy ending, nào ngờ tai họa ập đến cướp cô gái đi xa đời anh mãi mãi.
Sự mất mát quá lớn dường như khiến trái tim chàng trai chết lặng theo, anh vùi đầu vào công việc, vào những bận rộn của cuộc sống để cố quên cô. Nhưng sau 4 năm ròng rã, anh vẫn nhớ về cô với hình ảnh trong trẻo, vẹn nguyên như ngày cả hai gặp nhau.
Dường như muốn trải lòng, muốn tìm được “nhớ để quên” nên chàng trai đã viết một tâm thư gửi cô gái xấu số. Trong bài viết anh đã nhắc nhớ về những kỉ niệm của anh và cô, ở đó có cả sự dễ thương, ngọt ngào và cay đắng nhất. Hôm nay, anh cho phép bản thân được nhắc về cô với sự trân quý, nồng nàn nhất để ngày mai anh sẽ trở về với cuộc sống mới. Cuộc sống chấp nhận không có cô – người con gái anh thương nhất.
Phạm Ngọc Điệp bình luận: Trong tình yêu, có lẽ thứ khiến chúng ta đau đớn nhất là vẫn còn yêu nhưng mãi mãi không để đến được với nhau. Ráng lên anh!
Nickname Nhi Nguyễn đồng cảm: Thời gian trôi, có người ra đi, có người ở lại, song anh và chị của năm tháng bên nhau vui vẻ ấy vẫn ở đó. Hạnh phúc là đã từng có nhau ở những năm tuổi trẻ. Chị vùi mình trong giấc ngủ dài, chị vẫn tiếp tục mơ giấc mơ còn dang dở, còn anh thì thay chị viết tiếp câu chuyện của mình, đó cũng là điều chị muốn thấy. Mong 2 cuộc đời mới an nhiên.
Thegioitre xin gửi đến độc giả câu chuyện tình cảm động của chàng trai Kinh tế.
Gửi em, cô gái của anh.
Vậy là 4 năm trôi qua rồi. Trong khi em vẫn là cô gái 22 tuổi tràn đầy mộng mơ, hồn nhiên thì anh đã 28, râu đã nhiều thêm, tóc có vài sợi bạc, nhưng được cái chững chạc hơn nhiều rồi em ạ. Gặp anh bây giờ chắc em phải tít mắt lên là cái chắc, anh mặc vest đẹp cực nhé, tóc tai cũng cắt gọn gàng rồi, đi thêm đôi giày da nữa là đúng chuẩn “soái ca” em thích. Anh bị nhiều cô cưa cẩm lắm, bố mẹ cũng giới thiệu thêm cho anh nữa cơ. Giờ mà mình còn ở bên nhau, chắc em phải đang ghen lồng ghen lộn lên rồi ý nhỉ. Chẳng hiểu sao anh lại thích cái cách em ghen, rồi nổi giận với anh, lúc đấy trông em đáng yêu lắm, còn anh thì thật hạnh phúc và ấm áp. Có yêu thì mới có ghen em nhỉ.
Anh vẫn nhớ ngày đầu mình gặp nhau, hôm đấy trời mưa to phết, anh thì bị hack áo mưa nên phải chui vào nhà chờ xe bus trú, duyên số run rủi thế nào lại cho em gặp được anh (đùa chứ cho anh gặp được em mới phải). Trong khi mọi người ai cũng cố gắng nép vào thật sâu để tránh bị mưa hắt, thì em là người duy nhất đứng tít ở phía ngoài, vươn đôi tay ra hứng từng giọt mưa và mỉm cười ra chiều thích thú lắm. Anh nhìn em, ngẩn tò te mất mấy giây, và sau phút giây ngơ ngẩn ấy, con tim đã nói với anh rằng: “Cô gái của mày xuất hiện rồi đấy, xúc ngay”. May là hôm qua anh vừa tắm xong nên cũng không đến nỗi rau mùi, thế là mới lấy hết can đảm mò ra gần chỗ em rồi cũng chìa tay ra ngoài hứng nước mưa như thật. Rồi anh quay sang em, ngập ngừng hỏi 1 câu mà đến giờ nghĩ lại anh vẫn thấy cười chết mẹ: “Này bạn gì ơi, tay bạn bẩn hay sao mà rửa nước mưa từ nãy đến giờ chưa sạch thế, tay mình sạch rồi này”. Nói xong anh chìa 2 bàn tay ra rồi nhìn em cười nhẹ nhàng 1 cái. Em quay sang nhìn anh, nụ cười vụt tắt, cả thế giới trong anh bỗng nhiên chết lặng, anh thì thầm trong miệng “Bỏ mẹ, nói ngu rồi”. Mặt anh ngẩn tò te ra thêm một lần nữa, còn em, sau khi thấy bản mặt thẫn thờ của anh thì phá lên cười và nói “Ông chú đi tán gái hay đi diễn hài vậy”. Lúc đấy anh ngượng quá, chỉ biết gãi đầu rồi ậm ờ, ậm ờ. Em nhìn anh khổ quá nên mới thương tình lấy giấy ra viết 1 dòng rồi đưa cho anh (sau này được nghe kể lại thế).
– Đây, số điện thoại đây, lần sau ông chú muốn xin số làm quen thì kiếm cách khác nhé, chắc mới xin số lần đầu đúng không, còn non và xanh lắm.
Lúc ấy anh vừa mừng, vừa ngượng, đưa tay ra lấy tờ giấy xong chỉ biết cảm ơn rồi lại gãi đầu.
– Đầu ông chú bị bẩn hay sao mà gãi suốt thế, tiện nước mưa ông chú đưa đầu ra rửa luôn đi cho nó sạch. – cười cười
Hự, khoảnh khắc ấy, anh cảm thấy mình giống như Từ Hải anh hùng phải chịu cảnh chết đứng, bị “nói đểu đại pháp” của em đánh cho lên bờ xuống ruộng. Anh chỉ biết cười khổ 1 cái rồi lại lầm bầm.
– Mặt thì nai, mà người thì đúng là thành tinh (mãi sau này kể lại em mới biết, chứ thực ra lúc ấy em chưa nghe thấy gì)
– Ông chú cứ lầm bầm suốt thế, đàn ông con trai ăn to nói lớn lên xem nào.
– À không có gì, tai thính như cờ-hó.
Nói xong, anh định mang tờ giấy em viết số điện thoại ra để đọc rồi lưu luôn vào máy xem thế nào thì bị em ngăn lại, em bảo nhét giấy vào trong túi hay ví đi rồi về nhà hẵng xem. Giờ chẳng may bị mưa hắt vào ướt hết giấy, nhòe mực không thấy số đâu. Lúc đấy anh đang lơ ngơ rồi nên cũng cứ thế làm theo. Về nhà mới biết bị ăn quả lừa. Trong tờ giấy chỉ ghi 1 dãy 8 con số, 2 số cuối là xx. Kèm theo 1 cái icon mặt cười và dòng chữ Good luck! Anh nhìn vào tờ giấy mà không biết nên khóc hay cười, cuối cùng, đành phải dùng cách cổ truyền với muối là thử dần. Thật may là đến ngày hôm sau, khi gọi đến số thứ 72 thì anh cũng tìm được em.
– Alô, chào bạn, mình là người hôm nọ trú mưa cùng bạn ở bến xe bus …
– À, ông chú đó à, hôm nay lại không rửa tay nữa à. Tìm số cháu cũng nhanh đấy, có lời khen!
– À, cái này chắc là có duyên đấy, mình mới bấm đến số thứ 10 là gọi được cho bạn rồi…
– 10 số mà mất 2 ngày mới gọi lại được, bốc phét thì cũng vừa vừa thôi…
– À thì tại điện thoại mình bị … hết pin!
– Tất cả chỉ là ngụy biện, nhưng thôi, tha cho ông chú đấy, dù sao thì ông chú cũng có kiên nhẫn nên bỏ qua …
Và cứ thế anh bắt đầu bị em bắt nạt, cho ăn hành từ ngày này qua tháng khác, cho đến một ngày 6 tháng sau đó.
– Này, anh không định nói gì à?
– Lời nói của anh có trọng lượng mấy đâu, không đúng ý em là luôn sai mà…
– Anh qua 6 tháng thử việc rồi!
– Hử, thử việc gì?
– Việc chịu đựng em!
– Ừ, rồi thì sao?
– Thì giờ anh được phép tỏ tình với em rồi chứ sao!
– Hả?
Đấy, anh và em yêu nhau như thế đấy, nghe nó cứ bị buồn cười em nhỉ? Nhưng mình đã thật hạnh phúc khi ở bên nhau phải không em? Từng góc phố, con đường, từng kỷ niệm buồn, vui, tất cả vẫn còn nguyên vẹn trong anh như vừa mới đây thôi. Ở bên em, anh thấy thật hạnh phúc, mọi buồn phiền trong anh cứ thế trôi tuột hết theo tiếng cười của em. Nhưng rồi anh chẳng còn được ngắm nhìn nụ cười ấy của em thêm một lần nào nữa. Cái ngày định mệnh ấy, cái ngày lão tài xế say rượu tông thẳng vào em và cướp em xa khỏi vòng tay anh mãi mãi. Anh chết lặng khi nhìn thấy em trên chiếc giường bệnh viện, khăn trắng phủ kín người. Anh lao đến ôm em, gọi tên em, nhưng mi mắt em nhắm chặt, đôi tay em buông thõng, và nụ cười chẳng còn nở trên môi, thế là anh đã mất em thật rồi. Ngày đưa em ra nghĩa trang, anh không rơi một giọt nước mắt, em bảo: “Đàn ông phải mạnh mẽ, dù có chuyện gì cũng đừng để rơi nước mắt”. Anh đã thực hiện tốt đến lúc chỉ còn một mình, nước mắt cứ thế rơi mà chẳng thể nào ngăn lại được. Em cứ thế ra đi, để lại trong anh nỗi đau quá lớn, đến giờ vẫn còn âm ỉ, thỉnh thoảng lại làm anh đau đến xé lòng.
Chắc giờ anh sẽ bắt đầu tìm hiểu một mối quan hệ mới, mặc dù chưa biết đó là ai, hi vọng ở trên đó em hãy cầu chúc cho anh sớm tìm được một cô gái khác yêu anh như em đã từng nhé. Những kỷ niệm ngày xưa anh sẽ chôn chặt trong một góc nhỏ con tim. Và em, cô gái của anh, hãy ngủ yên trong góc nhỏ đó nhé. Anh yêu em …
Theo GAO /Thế giới trẻ!
0 notes
Text
Cái kết của một tình yêu đích thực
Câu chuyện của một nhà báo đóng vai một vị thần Cupid tọc mạch sẽ khiến bạn suy ngẫm về bản chất của một tình yêu đích thực.
***
Buổi phỏng vấn của tôi với Justin McLeod đang đi đến hồi kết thì tôi bật ra một câu hỏi cuối: "Anh đã yêu bao giờ chưa?"
Rõ ràng, câu hỏi của tôi thật thừa thãi với chàng giám đốc cấp cao với gương mặt trẻ trung từng tạo ra ứng dụng hẹn hò Hinge này.
Justin trông không thoải mái, anh khẳng định chưa từng ai hỏi mình câu hỏi này trong một buổi phỏng vấn. Cuối cùng anh cũng trả lời: "Có, nhưng tôi nhận ra khi đã quá muộn". Rồi anh yêu cầu tôi tắt máy ghi âm, tôi bấm nút Dừng.
Khi cuộc trò chuyện không còn được thu âm, anh trông nhẹ nhõm hơn. Tên cô ấy là Kate. Họ yêu nhau hồi học đại học. Anh liên tục làm trái tim cô tan vỡ. (Anh kể lại với đôi mắt ngấn lệ). Anh không phải là phiên bản tốt nhất của mình tại thời điểm đó. Anh đã bù đắp cho tất cả mọi người kể từ đó, kể cả Kate. Nhưng cô hiện đang sống ở nước ngoài, và đã đính hôn với một người khác.
Tôi hỏi anh: "Cô ấy có biết anh vẫn còn yêu cô ấy không?"
"Không", anh đáp, "Cô ấy đã đính hôn được hai năm rồi."
"Hai năm?" Tôi hỏi "Tại sao?"
"Tôi không biết."
Tại thời điểm đó cuộc hôn nhân kéo dài hai thập kỷ của tôi đã chuyển sang trạng thái ly thân được một năm. Tôi đã nghĩ rất nhiều về bản chất của tình yêu, về sự hiếm hoi của nó. Trên thực tế, lý do tôi phỏng vấn Justin vì ứng dụng của anh đã cho tôi buổi hẹn hò đầu tiên sau sự đổ vỡ hôn nhân, với một nghệ sỹ mà tôi đã say mê từ cái nhìn đầu tiên.
Điều đó chưa từng xảy ra với tôi, cái việc yêu-từ-cái-nhìn-đầu-tiên. Anh ấy cũng là người hiện lên trên màn hình của tôi đầu tiên ngay sau khi tôi tải ứng dụng đó xuống.
Cho những người thích ghi nhận số liệu, có rất nhiều lần đầu tiên: ứng dụng hẹn hò đầu tiên, người đàn ông đầu tiên trên màn hình, buổi hẹn hò không quen biết đầu tiên, tình yêu từ cái nhìn đầu tiên. Tôi hứng thú muốn tìm hiểu thuật toán của ứng dụng đó, cách nó được hình thành, cách ứng dụng đó có thể thông qua những bạn chung trên facebook của chúng tôi mà đoán được rằng người đàn ông đó, một nhà điêu khắc tập trung vào mối liên hệ giữa hình ảnh nhục dục và hoa, sẽ có thể chiếm cứ trái tim tôi.
"Anh phải nói với cô ấy," Tôi nói với Justin. "Nghe này..." và tôi kể với anh câu chuyện về chàng trai tôi đã yêu ngay trước khi gặp chồng tôi. Anh ấy đang học năm cuối đại học chuyên ngành Shakespeare ở nước ngoài. Tôi là nhiếp ảnh gia mặt trận 22 tuổi sống ở Pa-ri. Chúng tôi gặp nhau trên một bãi biển Ca-ri-bê. Tôi đã đến Luân Đôn thăm anh ấy trong trạng thái sang chấn hậu chiến sau khi đã chụp ảnh ở cuối cuối chiến giữa Xô Viết và Afghanistan.
Tôi đã nghĩ về anh ấy mỗi ngày khi ở giữa cuộc chiến, khi tôi ngủ trong hang động, ốm yếu vì chứng kiết lị và vết thương do pháo bị nhi���m trùng ở tay đến nỗi tổ chức Bác sỹ không biên giới phải chuyển tôi khỏi vùng Hindu Kush, tình yêu với anh ấy là thứ đã giúp tôi sống sót. Nhưng vài tuần sau chuyến viếng thăm Luân Đôn của tôi, anh ấy bỏ rơi tôi. Anh ấy nói sẽ ghé thăm căn hộ của tôi ở Pa-ri và một cuối tuần nhưng không bao giờ xuất hiện. Hoặc đó là những gì tôi đã nghĩ.
Hai thập kỷ sau đó tôi được biết rằng anh ấy đã bay đến Pa-ri vào cuối tuần đó nhưng lại đánh mất mẩu giấy ghi số điện thoại và địa chỉ của tôi. Tên tôi không có trong danh bạ điện thoại. Anh ấy không có máy trả lời. Chúng tôi không có bạn chung. Anh ấy ở trong khách sạn nhỏ còn tôi cưới chồng và có ba con với người đàn ông tiếp theo tôi hẹn hò. Và cuộc sống cứ thế tiếp diễn.
Vào thời gian Google được phát minh, tấm ảnh đầu tiên của tôi hiện ra trên màn hình của anh ấy là ảnh tôi và những đứa con từ bài báo mà ai đó đã viết về quyển sách đầu tiên của tôi, ký ức về những ngày tháng làm nhiếp ảnh gia chiến trường. Không lâu sau đó, anh cưới vợ và có ba con với người phụ nữ tiếp theo anh hẹn hò. Và cuộc sống cứ thế tiếp diễn.
Tôi tìm thấy anh ấy một cách tình cờ, khi đang nghiên cứu về các công ty rạp hát cho cuốn tiểu thuyết gần đây nhất của mình. Và anh ấy xuất hiện với cái tên quá phổ thông. Tôi soạn một bức email :"Anh có phải là cùng người đã cho tôi leo cây ở Pa-ri không?". Đó là cách tôi biết được chuyện đã xảy ra vào cuối tuần đó và bắt đầu tiêu hóa toàn bộ tác động của việc mất liên lạc giữa chúng tôi.
Anh ấy đến New York một vài tháng sau đó vì công việc, và chúng tôi gặp nhau ăn trưa vào mùa xuân trên một băng ghế ở Công viên Trung tâm. Tôi đã rất bối rối, tôi đá phải cốc nước chanh và làm rơi bánh kẹp trứng của mình: tình yêu xa xưa của chúng tôi vẫn ở đó.
Trên thực tế, cái kết được tạo ra bởi việc chúng tôi gặp lại nhau và cú sốc của việc nhận ra một tình yêu tưởng chừng đã khô cằn trong tăm tối vẫn còn tồn tại sau đó đã ảnh hưởng đến hai cuộc hôn nhân của chúng tôi, mặc dù vậy, theo hai hướng khác nhau. Anh ấy nhận ra anh ấy cần phải nỗ lực nhiều thế nào để bảo vệ cuộc hôn nhân của mình. Tôi nhận ra tôi đã cho đi tất cả sự quan tâm và bồi đắp tôi có, trong hai mươi ba năm cày bừa, nhưng mảnh ruộng ấy vẫn cằn cỗi.
Nghe về tình yêu của Justin dành cho Kate trên một băng ghế khác ở New York bốn năm sau đó, tôi đã cảm thấy một sự thôi thúc sống động. "Nếu anh vẫn còn yêu cô ấy", tôi nói với Justin, "và cô ấy vẫn còn độc thân, anh phải nói với cô ấy. Bây giờ. Anh sẽ không muốn sau hai mươi năm nữa vẫn hối hận vì sự im lặng của mình khi thức dậy. Nhưng anh không thể làm điều đó qua email hay facebook. Anh thực sự phải đến tận nơi và sẵn sàng đối mặt với một cánh cửa đóng sầm lại."
Anh cười đầy luyến tiếc: "Tôi không thể làm như vậy. Đã quá muộn."
Ba tháng sau, Justin email mời tôi đi ăn trưa. Bài báo tôi viết về anh và công ty, trong đó anh cho phép tôi được nhắc đến Kate (người mà tôi gọi là "Nụ hồng") làm mọi người hứng thú với ứng dụng của anh, và anh muốn cảm ơn tôi.
Vào ngày hẹn, tôi đến nhà hàng và tìm người phục vụ: "Justin McLeod, bàn cho hai người,".
"Không", anh đột nhiên lên tiếng phía sau tôi, "Cho ba người"
"Ba? Ai sẽ ăn cùng tôi và anh?"
"Cô ấy", anh nói, chỉ vào bóng của một người phụ nữ đang vụt ngang qua cửa sở nhà hàng, trong một chiếc áo khoác hồng, với mái tóc vàng hồng dâu dập dềnh sau lưng.
"Cái gì...? Là Nụ hồng ư?"
"Đúng vậy."
Kate ùa vào và chào đón tôi bằng một cái ôm. Nhìn gần cô trông giống một Kate Hepburn khác, người đóng cặp với Stanley Cavell trong chuỗi hài kịch về tái hôn tôi đã học ở đại học. Chuỗi phim đó là tiền đề cho phim rom-com (phim hài thương mại) ngày nay, được quay ở Mỹ vào những năm 30 và 40 của thế kỷ trước, khi việc làm phim về ngoại tình hay tình dục ngang trái bị cấm. Để qua vòng kiểm duyệt, cốt truyện cũng tương tự: một cặp đôi ly hôn, tán tỉnh những người khác, rồi cưới lại. Bài học? Đôi khi bạn phải đánh mất tình yêu để tìm lại nó, và trở lại với lá xanh là bí quyết để hoa có thể nở rộ lần nữa.
"Tất cả là nhờ chị", Kate khóc, "Cảm ơn chị."
Và giờ Justin và tôi cũng rưng rưng, đến nỗi những khách ăn khác nhìn chúng tôi khó hiểu.
Sau khi chúng tôi ngồi xuống, họ kể cho tôi câu chuyện về sự đoàn tụ của họ, tiếp lời nhau cứ như thể họ là cặp đôi đã cưới lâu ngày. Một ngày, sau khi tình cờ gặp một người bạn của Kate, Justin nhắn tin cho Kate để hẹn một cuộc nói chuyện qua điện thoại, rồi đặt một chuyến bay xuyên Thái Bình Dương để đến gặp cô mà không báo trước. Anh gọi cô từ phòng khách sạn của mình, hỏi rằng anh có thể ghé qua. Cô sẽ cưới trong vòng một tháng, nhưng ba ngày sau đó, cô chuyển khỏi căn hộ đang sống cùng vị hôn phu.
Tôi bỗng thấy tội lỗi, anh chàng tội nghiệp.
Không sao, cô ấy an ủi. Mối quan hệ của họ đã trục trặc trong nhiều năm. Cô đã cố tìm cách để trì hoãn hoặc hủy bỏ đám cưới, nhưng thiệp mời đã được gửi đi, lễ đường đã được đặt, và cô không biết làm thế nào để giải quyết mâu thuẫn nội tâm mà không làm mọi người thất vọng.
Justin đã đến gặp cô gần như đúng vào giây phút cuối cùng anh có thể lên tiếng hoặc mãi mãi giữ im lặng. Vào thời điểm bữa trưa của chúng tôi, hai người đã sống cùng nhau.
Không lâu sau đó, tôi mời họ đến ăn tối để giới thiệu chàng nghệ sỹ bị ám ảnh với những đóa hoa, người góp một nửa công trạng cho sự đoàn tụ của họ. Anh ấy và tôi đã không thể trở thành một cặp, điều này làm tôi buồn và thất vọng, nhưng chúng tôi đã tìm được cách trở lại làm bạn bè thân thiết và thậm chí còn hợp tác về mặt nghệ thuật khi anh ấy gửi tôi một bức phác thảo của mình.
Trên thực tế, chúng tôi vừa ký hợp đồng đồng sản xuất ba cuốn sách: "Điều cơ bản của tuổi trưởng thành", "Điều cơ bản của việc làm cha mẹ", và ồ, trớ trêu thay, "Điều cơ bản của tình yêu."
"Bức phác thảo về gì vậy?" Kate hỏi.
Tôi chỉ cho cô bức vẽ trên Iphone của mình.
"Đây là những hình bầu dục à?" Cô hỏi, mỉm cười.
"Hoặc hạt giống," Tôi đáp. "Hoặc nụ hoa, phụ thuộc vào việc cô nhìn nhận thế nào."
Chẳng phải tình yêu nở ra tình yêu nở ra tình yêu là lí do khiến tất cả chúng tôi ngồi bên cạnh nhau? Bởi vì tình yêu đích thực, một khi đã chớm nở, sẽ không bao giờ biến mất. Nó có thể đi lạc cùng một mẩu giấy, hoặc chuyển thành nghệ thuật, sách vở hay trẻ em, hoặc khiến một cặp đôi khác đoàn tụ trong khi thất bại trong chính trường hợp của bạn.
Nhưng nó sẽ luôn ở đó, chờ đợi một tia nắng mặt trời, tan chảy qua các tảng băng, kiên trì khẳng định sự tồn tại chính đáng của mình trong trái tim chúng ta và trong cuộc đời.
Lưu Nguyễn Ngân Hà dịch/Theo New York Times
http://ift.tt/2seVgKJ
Xem bài nguyên mẫu tại : Cái kết của một tình yêu đích thực
0 notes
Text
Trần Kiêm Đoàn: Bún Bò
Bún Bò Bún không phải chỉ đơn thuần là một món ăn truyền thống của Huế, nhưng đối với người Huế, bún còn là một phần lối sống “Kiểu Huế”. Kiểu Huế là nghèo mà vẫn sang, vui rộn rã mà vẫn man mác buồn, ngoài mặt phẳng lặng mà trong lòng dậy sóng, không soi bóng mình trong gương mà soi bóng mình trong đôi mắt của người thương, bè bạn, xóm giềng. Người ngọai quốc như ông Foulon cũng nhận xét về sự mâu thuẫn của Huế: “Tóc tang cười nụ, vui mừng thở than!”(Lê Văn Lân dịch) Huế mâu thuẫn từ buổi mới vào đời, đài các từ ngày mới có tên. Tên đất thì nhỏ như nốt ruồi son: Ô, Rí, Huế... mà tên người lại dài lướt thướt như mái tóc mây dài chấm gót: Công Tằng Tôn Nữ Thị Sông Hương, Nguyễn Khoa Hoàng Thành, Tôn Thất Quỳnh Phương... Huế quá trầm lặng và chật như cái bể cạn mà phải chứa những tâm hồn bão nổi sông hồ, nên dân Huế ngoài mặt hiền khô mà trong lòng cưu mang những bến bờ viễn xứ, sẵn sàng phản kháng và rực lửa đấu tranh “dấy loạn” như Lục Vân Tiên ra đường thấy việc bất bằng chẳng tha. Cái dấy loạn bão liệt nhưng nên thơ và lý tưởng quá đà của những tâm hồn lãng mạn kiểu Huế chỉ làm cho Huế thành đất dấy nghĩa nhưng không thể nuôi lớn Huế thành căn cứ địa, chiến khu như Tân Sở, Ba Lòng. Xưa vua Hàm Nghi và vua Duy Tân chỉ có những phút huy hoàng và chợt tắt ở Huế, để rồi suốt canh thâu le lói ở phương nào. Tô bún bò Huế cũng là một biểu hiện của văn hóa Huế vì đây cũng là một sự “dấy nghĩa” trong truyền thống nấu ăn khi cho bò nổi heo chìm trong cùng một nồi, trộn lẫn hai tính chất mâu thuẩn “bò nấu thì teo, heo nấu thì nở” thành một thể hài hòa. Huế đã dùng sả để “chuyên trị” thịt bò chứ không dùng ngủ vị hương để chuyên trị như truyền thống lâu đời ở Trung Hoa và miền Bắc. Tô bún Huế mang hưong vị “rất Huế” để mà cảm nhận và thưởng thức như cảm nhận và thưởng thức mùi khói sóng buổi chiều trên sông Hương. Tự nhiên như: “Nó ngon thì tại nó ngon. Có chồng thì phải nuôi con, thờ chồng”. Cái dễ giận nhất của người Huế là "mình cảm thấy..." mà không cần lý luận. Bởi vậy, hình như càng đem lý tính để phân tích các món ăn Huế, cái hiểu về hương vị thực tế càng xoải cánh bay xa... Bún Bò Huế. Ai ở xa nghe như thể Huế là vùng đất thổ sản của bò, giống miền Nam Mỹ Texas. Thật ra, tìm một trại bò trên đất Huế cũng khó như tìm lá Diêu Bông của Hoàng Cầm. Tô bún bò Huế cũng là phản ánh cái tham vọng thu nhỏ của người Huế vì muốn dùng cái “lượng” giới hạn để đạt tới cái “phẩm” vô cùng. Bởi vậy, ngoài những chất liệu cay chua ngọt bùi của trần gian, tô bún Huế còn được “nêm” thêm ít nhiều gia vị vô hình của cái tâm chủ quan và cái linh của hoàn cảnh. Bà Bún Suốt cả thời thơ ấu, tôi sống ở làng, quanh năm chỉ có “Đây xóm nghèo quê tôi khi nắng lên...” là đẹp nhất. Hàng năm, sau dịp Tết, người trong làng lại bắt đầu chuẩn bị lễ đầu năm. Mẹ tôi lễ vào ngày19 tháng giêng để kịp ngày 20 đi coi giò gà và dự lễ tế Bà Bún tại làng Vân Cù. Mỗi năm, tôi được ăn bún khá nhiều lần nhưng hai lần trọng đại nhất và ngon nhất là trong dịp lễ đầu năm của mẹ tôi và trong ngày lễ tế Bà Bún tại Vân Cù. Làm sao tôi quên được những buổi sáng hai mươi tháng giêng. Từ sáng tinh mơ còn lạnh cóng, mẹ tôi đã cẩn trọng nhúng bộ giò gà khô queo trong tô rượu trắng, gói trong giấy bổi, lâm râm cầu nguyện rồi chuẩn bị lên đường bói quẻ đầu năm. Tôi là con trai út, nên được thương nhất nhà và thường bị gọi là “cái đuôi của mạ” vì mẹ tôi đi đâu tôi cũng lon ton dòi chạy theo. Sau vụ coi giò gà tại nhà thầy Kiên ở Hương Cần thì mặt trời đã lên quá đọt tre. Mẹ tôi tiếp tục cuộc hành hương cuốc bộ đầu năm về làng Vân Cù. Từ Hương Cần về Vân Cù phải qua một cánh đồng lúa rộng, tôi phải chạy lúp xúp theo mẹ mướt mồ hôi, mặc dầu trời tháng giêng trên quê tôi lạnh đến nỗi “giêng hai cắn tay không ra máu!”. Sau nầy tôi bỗng khám phá ra thêm một bí mật về cái ngọn tuyệt vời của bún xáo Vân Cù trong ngày lễ Bà Bún một phần cũng là do cánh đồng trống nầy vì vượt qua cho được dặm trường thiên lý nầy thì cái bụng đã trống trơn. Muốn nói đến Bún Bò Huế thì đừng quên trước hết phải nói đến con bún, vì tô bún là một tổng hợp hài hòa giữa con bún và nước bún. Thiếu một trong hai là kể như có Adam mà không có Eva, có Phạm Lãi mà thiếu Tây Thi! Và, nói đến con bún Huế thì không thể không nhắc đến chiếc nôi của bún là làng Vân Cù. Làng Vân Cù nằm cạnh sông Bồ, là con sông ăn thông với sông Hương qua nhánh sông Đào. Vân Cù cách Huế chừng 10 cây số về phía Tây Bắc. Từ xưa, Vân Cù là lò bún tập thể cung cấp bún cho cả Huế, Thừa Thiên, ra tới Quảng Trị và có khi vào đến Quảng Nam, Đà Nẵng. Hầu hết người làng Vân Cù tuy sống về nghề nông nhưng ai cũng có lò bún trong nhà. Cũng như rất nhiều nghề thủ công khác ở Huế như nghề Thợ Rèn ở Làng Hiền Lương, nghề Đan Thúng Mủng ở làng Bồ La, nghề Thợ Vàng ở làng Kế Môn, nghề Nuôi Tằm ở làng Dương Sơn, nghề Chằm Nón ở làng Hương Cần, nghề Đan Nôi Bội ở làng Liễu Hạ, nghề Gạch Ngói ở làng Nam Thanh... nghề Làm Bún ở làng Vân Cù là một công việc làm ăn truyền thống và độc đáo riêng của từng đơn vị sản xuất gia đình trong làng, có tính cách cha truyền con nối từ đời nầy qua đời khác. Tất cả dây chuyền sản xuất đều làm bằng tay với những dụng cụ thô sơ, nhưng thành phẩm thường đạt đến mức tinh luyện mà người khác làng khó lòng bắt chước nổi. Thủy tổ của nghề làm bún tại Vân Cù là một bà, tục gọi là Bà Bún. Thời gian đã xoá nhòa danh sách của những người muôn năm cũ nên chẳng còn ai nhớ tên thật của Bà Bún. Trong những câu chuyện dân gian truyền miệng về cuộc đời của Bà Bún, tôi còn nhớ mãi chuyện kể của bác Cửu Am với mẹ tôi rằng: Vào một thời xa lắc xa lơ, khi có những người Đàng Ngoài theo chân chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào Nam lập nghiệp, có một nhóm người đến định cư trong vùng những Tháp Chàm cổ xưa đã đổ nát nên sau nầy có tên là làng Cổ Tháp, thuộc huyên Hương Điền. Trong số đó có một người thiếu nữ đẹp, có lẽ cũng mắt lá răm, môi cắn chỉ, má lúm đồng tiền... nên rất được nhiều người mến chuộng. Trong lúc mọi người chuyên sống bằng nghề canh tác làm ruộng thì người thiếu nữ nầy miệt mài chuyên nghề làm bún. Bún nàng ngon quá hay vì nàng xinh quá mà làm cho bao người ăn quên cả đường về. Rượu không say bún say mới ngại... Vì vậy nên nhiều người ganh tỵ. Rồi một dạo dân trong vùng bị mất mùa liên tiếp 3 năm. Người ta cúng, tế cầu thần linh cứu giúp. Gặp cơ hội nầy, kẻ xấu bụng tung tin rằng, mất mùa là do thần linh quở phạt vì Cô Bún đã đem gạo là “hạt ngọc của Trời, phơi mao ngậm sữa” ra mà ngâm, mà chà, mà xát, mà nghiến nát ra để làm bún. Thế là nhà nông bắt đầu nổi giận. Hội Đồng Thị Tộc của làng họp bàn và ra lệnh cho Cô Bún phải bỏ nghề làm bún hay sẽ bị trục xuất ra khỏi làng, nhưng Cô Bún quyết sống chết với nghề nên chấp nhận ra đi. Vì bản chất hiền lương và thuần hậu nên Cô Bún được làng ban ân cho phép chọn lựa hướng đi và cử năm người thanh niên mạnh nhất trong làng theo áp tải. Mỗi thanh niên sẽ cõng cái cối đá làm bún của Cô đi một chặng đuờng cho đến khi mệt đuối sức thì người khác tới thay cho đến hết người thứ năm là vùng đất mới của Cô Bún. Cứ thế, đoàn người đi về hướng Đông cặp theo sông Bồ không nghỉ. Nơi người trai làng thứ năm khuỵu xuống với cái cối đá trên vai là làng Vân Cù sau nầy. Nơi đây đã trở thành “đất lành chim đậu” cho Bà Bún lập nghiệp và truyền nghề làm bún đời đời qua bao nhiêu biến cố thăng trầm của đất nước và dân tộc. Người ta thường ví von “mềm như bún” nhưng cái mềm Đông Phương lại là cái dẻo dai bền bỉ để sống còn trên bước đường vạn dặm. Thân gái dặm trường, Bà Bún đã vượt Hoành Sơn vào Huế. Chim đã về núi, Bà đã về dất nhưng Bún Huế vẫn còn tươi rói với nhân gian như có người đã hát nửa chơi, nửa thiệt: “Hoành sơn nhất đái chim về cội. Vạn đại dung thân đọi bún bò”. Một “xưởng bún” điển hình ở làng Vân Cù thường bao gồm một cái xay để xay bột, một cái cối có chày đạp, lò nấu , chảo lớn, rây bột, khuôn bún và một số dụng cụ để khuấy, vớt, đong, đựng bột và bún trong từng chặng đường sản xuất. Từ hột gạo măng tơ biến ra con bún nõn nà cũng phải cần đến bàn tay, không phép mầu nhưng cũng phải khéo léo và cần cù, của bà tiên lao động. Sợi bún bắt đầu từ hột gạo. Gạo trắng ngâm nước lạnh qua đêm sẽ “mục” ra và được đem xay hay giã nhuyễn thành bột. Tiếp theo, bột gạo được “rây” để lọc ra phần mịn nhất tinh bột của gạo. Bột gạo nguyên chất được rưới nước sôi để nhồi thành một khối bột gọi là “trái bột”. Trái bột gạo được luộc chín sơ, rồi vớt ra và đem trộn với bột lọc theo tỷ lệ cứ 30 lon gạo (khoảng 10 ki-lô), trộn với 2 ki-lô bột lọc. Tổng hợp bột gạo và bột lọc nầy lại được giã, trộn rất nhuyễn cho tới khi trái bột đạt tới mức “vừa đai, vừa đẻo” là đuợc. Giai đoạn cuối cùng là khối bột mượt mà và dẻo quẹo được đưa vào khuôn bún. Dưới sức ép, những đường bột tuôn ra theo lỗ đục sẵn dưới đáy khuôn bún, rơi vào nồi nước sôi và chín thành bún. Bún được vớt ra, xả sạch với nước lạnh và sẵn sàng để ăn. Bún tự nó đã là một món ăn thanh đạm của người Huế, nhất là vùng quê. Bún Vân Cù được làm ra dưới ba hình thức: Bún con, bún lá và bún mớ. Bún con hay bún vắt là một lọn bún quấn lại với nhau, dài vừa nắm tay như cuộn chỉ thêu, rất tiện lợi cho việc ăn uống đơn giản và đạm bạc trên nương, ngoài đồng, giữa đường. Chỉ cần một chút nước mắm ớt và năm, bảy con bún vắt thì bác nông phu trên đường về, chị chủ quán rộn ràng giữa chợ, em bán hàng rong lang thang... có thể tay cầm con bún chấm vào nước mắm ăn ngon lành ngay trên “hiện trường” vừa ngon miệng, vừa ấm lòng, vừa khỏi lơ là công việc. Bún lá là một lớp bún trải trên lá chuối tươi, cuộn tròn cỡ bằng cái bánh tráng trung bình. Bún trắng nổi trên lá xanh mang vẻ đẹp trinh nguyên nên vừa bắt mắt, vừa bắt miệng. Bún lá thường là đơn vị bún cho cá nhân và gia đình: Mỗi người một rá, mỗi lá một tô. Bún mớ, còn gọi là bún “ngảo” hay bún kí-lô. “Ngảo” là cái rổ nhỏ thường dùng như một đơn vị đo lường ở các vùng quê của Huế trong khi “kí lô” là đơn vị đo lường mới xuất hiện sau này. Bún mớ là bún sản xuất đại trà với số lượng lớn để buôn bán, đổi chác trên thị trường. Thật ra cả ba loại bún cơ bản là giống nhau, đều có màu ngà đục khi sống và màu trắng trong khi đã luộc chín. Người ta thường dùng danh từ “bún tươi” để chỉ bún mang trực tiếp ra từ lò và “bún luộc” để chỉ con bún được luộc chín từ bún khô. Con bún Huế điển hình có độ dai vừa phải, không “đai hoai” như bột lọc nhưng cũng không bở rệt như bột gạo. Thường người ta dùng đinh 3 phân ( khoảng 1/8 inch) để đục lỗ thoát trong khuôn bún hay để ước lượng độ lớn của con bún. Trong thực tế, bún lớn hay nhỏ là do bàn tay khéo léo của người cầm “rây”. Muốn sợi bún nhỏ, ngay khi những con bún sống đang chảy xuống nồi nước sôi để thành bún chín, chỉ cần đưa cái khuôn đầy bột lên cao; muốn có con bún to thì hạ khuôn xuống thấp. Bún nhỏ là bún kim để làm bún khô hay bún Tàu dùng nấu canh và bún to hơn là bún thô dùng để xào trộn thức ăn trong những dịp giỗ, Tết. Bún con và bún lá thường được cho là ngon hơn có lẽ vì được sản xuất đầu nước nên láng lẩy và tươi tắn hơn: “Bún đầu nước thì ngon, con đầu nước thì dại (?)”. Bún Bò Huế Ngoài cơm và khoai sắn, có thể nói rằng, bún nói chung là món ăn truyền thống được phổ biến rộng rãi nhất đối với người Việt Nam ở trong nước cũng như khắp năm châu. Các loại bún truyền thống miền Bắc thì có bún riêu, bún thang, bún mộc, bún ốc... Bún từ Đàng Ngoài đã theo bước chân Nam tiến đi vào Đàng Trong, rồi chọn đất Thuận Hóa làm nơi nghỉ bước và đâm chồi nẩy lộc thành bún Huế. Bún Huế gồm nhiều loại, mỗi loại có một lịch sử và tính chất độc đáo khác nhau: Bún nước mắm, bún mắm nêm, bún giấm nuốc, bún riêu, bún xáo, bún măng, bún thịt nướng, bún chả tôm, bún bò, bún giò... và bún bò giò heo. Bún bò Huế, tức là bún bò giò heo được ưa chuộng và phổ biến nhất. Theo thời gian và không gian, bún bò Huế có lúc và có nơi chỉ còn là một cái tên nhưng phẩm chất, đặc tính, mùi vị... đã hoàn toàn biến đổi. Nhiều người vẫn tẩn mẩn tự hỏi, không biết tô bún bò Huế thời vua Gia Long lên ngôi năm 1802 và tô bún thời vua Bảo Đại thoái trào năm 1954 có gì khác nhau trong cung đình và ngoài phố chợ. Có điều rõ ràng là khách ăn bún Huế sẽ cảm thấy tô bún An Hoà khác hẳn tô bún An Cựu, nơi nầy có thêm lát chả, nơi kia có thêm miếng huyết, nơi nọ có chút rau thơm và chuối cây xắt mỏng lơ thơ. Càng đi xa, tô bún ở Đà Nẵng không giống tô bún Sài Gòn; tô bún Huế Ca-li khác xa tô bún Huế Texas. Trước 1975, tôi có một người ông bà con, quê ở làng Lương Quán, Nguyệt Biều. Mọi người kêu ông là “Ôn Tứ”, có lẽ vì ông làm quan tứ phẩm của triều đình. Cứ một năm vài ba lần, ông sai tôi chở qua cung An Định để vấn an “Đức Từ”, đó là bà Từ Cung, thân mẫu của cựu hoàng Bảo Đại. “Ôn Tứ” tuổi trên 70 mà vẫn còn đẹp lão như một tiên ông với da dẻ hồng hào và tóc trắng như mây, nhưng hễ cứ mỗi lần tôi khen ông là ông lại nói với giọng nửa như tự hào, nửa như ân năn: - Ôn sống thọ đây là tại trời đày vì tội phạm thượng, dám ăn đồ ăn của vua! Ai cũng biết thuở trước, ông là người hầu cận thân tín của vua Bảo Đại từ Việt Nam qua đến Pháp. Tôi nghe lạ, hỏi ông, ông giải thích: - Ngài Ngự làm vua, nhưng là người Tây học. Ngài xử sự công bằng và lịch sự với tất cả mọi người. Hồi còn ở trong Đại Nội, thường có các cận thần hay hoàng thân quốc thích nấu đủ món sơn hào hải vị dâng lên Ngài ăn khuya. Ngài nhận, nhưng sau đó sợ bị mập nên Ngài cứ đưa hết cho ôn ăn. Con coi, ôn ăn hoài cao lương mỹ vị của hoàng đế, “tội to” như rứa mà Trời không phạt răng được! Trong những lần ngồi đợi ông vấn an đức Từ Cung, trong cái mát lạnh thâm u của cung An Định, tôi có dịp nghe các cuộc mạn đàm của giới thân cận cung đình về các món ăn Huế mà giới quý tộc quan tâm. Bún bò Huế vẫn thường được nhắc đến nhiều nhất. Đặc biệt là cuộc thi nấu các thức ăn đem ra đấu xảo tại chợ Tết Gia Lạc có từ thời Minh Mạng, do Định Viễn Công Nguyễn Phước Bình, con thứ tư của vua Gia Long lập ra. Chợ Gia Lạc nằm giữa chợ Mai và chợ Nam Phổ ngày nay và cũng là vùng đất có Tùng Thiện Vương và Tuy LýVương, hai vị hoàng thân nghệ sĩ đã vang bóng một thời. Lúc đầu chợ chỉ mở ra cho các người trong thân nhân phủ đệ, sau thấy đông vui hấp dẫn, dân thường trong vùng lân cận như Dương Nổ, Nam Phổ, Thế Lại, Ngọc Anh... tìm đến và cũng được các ông hoàng bà chúa cho vào tham gia buôn bán và tổ chức các trò chơi. Hàng năm đến ngày 23 tháng Chạp, chợ Mai đông buổi sáng và chợ Nam Phổ đông buổi chiều để nh��ờng chỗ cho chợ Gia Lạc tưng bừng vui hội Tết. Đông vui và nhộn nhịp nhất là trong ba ngày mồng một, mồng hai và mồng ba Tết Nguyên Đán. Đây là phiên chợ của hàng con vua cháu chúa, nhưng đồng thời cũng mở rộng ra cho bàng dân thiên hạ đến vui Xuân. Theo tương truyền, trong một năm, món bún bò giò heo của Mệ Lựu đã chiếm giải nhất và được phê là “Thập toàn. Ngũ đắc”. Thập toàn là mười diều hoàn thiện của một món ăn ngon, đại khái như: ngọt ngào, thơm tho, đậm đà, bổ dưỡng, tinh khiết, bắt mắt, khéo chọn, khéo tay, khéo nấu, khéo bày, bún bò Huế còn được đánh giá cao là vì tính chất bình dân và phổ thông trong bá tính: Mọi người ai cũng biết được, ai cũng ăn được, ai cũng nấu được, ai cũng tìm được vật liệu ngay tại địa phương, ai cũng có thể có dịp mua được (ngũ đắc). Phải chăng vì bún bò giò heo cũng mang tính truyền thống dân gian như bánh chưng, bánh dày thuở trước. Nếu gặp một người Huế nào đó ở vào lứa tuổi trung niên hoặc già hơn mà hỏi thăm thế nào mới thật là bún bò Huế và bún bò nơi mô ở Huế là ngon nhất, chắc chắn sẽ có hơn chín mươi phần trăm trả lời là, "bún bò Mụ Rớt". “Bún bò Mụ Rớt có nêm sâm nhung quế phụ vô hay răng mà ngon dữ rứa?”. Một lần nào đó đã có người tò mò lên tiếng. Rồi cũng có người đáp lại, “Có chi mô, mụ Rớt cũng ra chợ Đông Ba mua rau, mua thịt như mình nhưng mụ nấu ngon vì có hoa tay”. Hoa tay? Hoa tay của ông đồ Vũ Đình Liên là để thảo những nét chữ như rồng bay, phượng múa, nhưng hoa tay của mụ Rớt là để nấu những tô bún bò thanh nhã, ngọt ngào “ăn ngậm mà nghe”. Chừ ri hỉ...! Cứ tưởng tượng mình đang ở Huế. Vừa thức dậy sau giấc ngủ trưa, một buổi trưa không biết ở thời nào, một buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao, có cu gáy và bướm vàng nữa chứ... Và, có tiếng ve đất cuối mùa kêu sau vườn nhưng nghe như xa lắc. Nắng xế cuối mùa của Huế thường phai như màu tóc muối tiêu. Rồi có tiếng xe đạp của ai đó phanh lại trước sân, ba bốn đứa bạn thân rủ nhau đi ăn bún. Con đường Chi Lăng dẫn về Gia Hội chen giữa hai hàng phố cũ với những căn nhà xưa kiểu Tàu pha một căn hai chái, cột mệ cột con đề huề trông thâm nghiêm nhưng thấp bé một cách tội tình. Trước khi rẽ qua đuờng Ngự Viên đi ngang "mả ông trạng" sau lưng chùa Diệu Đế, hãy ghé lại một căn nhà dãy phố bên phải: Đó là tiệm bún bò Mụ Rớt. Huế làm ăn theo lối "hữu xạ tự nhiên hương", không bảng hiệu, không quảng cáo mà chỉ cần nghe tiếng tìm vào. Khách vô tiệm tự nhiên và lặng lẽ như ghé lại bến đò. Cứ tìm bàn nào trống, ngồi xuống trên chiếc ghế đẩu không có chỗ dựa lưng, ngó một loáng bâng quơ người quen và người lạ, sẽ có người hỏi: - Mấy o, mấy cậu thời bún chi? Khách chỉ có lựa chọn giữa bún khô và bún nước: - Dạ, cho mấy tô bún nước. Lát sau, mấy tô bún bò giò heo bốc khói, mùi thơm tỏa ra dìu dịu, được bưng ra đặt trên bàn. Bún được nấu nướng từ sau bức tường của dãy nhà ngang trông vào có vẻ phòng the hơn là bếp núc. Tô bún bò Huế mới thoạt nhìn, có vẻ đạm bạc và thanh lịch như chiếc áo dài phin trắng nõn nà. Tô bún chỉ lớn hơn bàn tay búp măng xoè ra một tí. Nước bún trong để lộ những tép bún trắng nằm sóng soãi vươn lên miệng tô. Nước bún không mỡ màng, không bị vẩn đục vì gia vị. Vài loáng ớt màu đỏ nhạt, quyện với dầu sả nổi đốm sao trên mặt tô không che được miếng giò heo búp, mỏng bằng hai phần lóng tay. Miếng giò heo trắng ngả màu vàng với lớp da mỏng, ôm khoanh thịt nạc và mảnh xương tròn ở giữa như nhụy hoa nằm bắt mắt và mời gọi, nửa chìm nửa hở trong tô bún. Che mái cho tô bún là ba bốn lát thịt bò bắp xắt mỏng, những lát bò bắp với thớ thịt chắc nịch nâu đỏ và những đường vân vàng nhạt của nạm, gầu, gân, sách. Trên bàn đã có sẵn đũa tre, muỗng sành, nước mắm, ớt tương và rau hành chanh múi. Một dĩa nhỏ hành củ trắng phau và hành lá, rau thơm xanh mưót điểm thêm ngò ta xắt mỏng để rắc lên mặt tô bún cho thêm nồng nàn hương vị. Rau hành của bún không phải là rau sống cuả phở, rau chỉ đóng vai trò “nước hoa” cho tô bún. Trên một góc dĩa là ớt tươi xắt lát. Cái cay của ướt tươi là đậm đà, mọng nước, đủ sức khống chế những cao thủ ớt đã nếm đủ vị giang hồ mà vẫn còn thấy nhạt. Cạnh đó là dĩa ớt tương nhỏ xíu màu huyết dụ; ớt tương của bún bò Mụ Rớt cũng được liệt vào hàng "gia vị bún bò bắc đẩu", nhìn thì có cái vẻ mềm như nhung với màu đỏ sẫm, điểm những hột ớt vàng hoe nhưng nếm vào mới biết thế nào là cái “hiền” của Huế. Gắp một tí ớt tương đầu múi đũa bỏ vào tô là ớt từ từ bung ra như nhụy hoa trên mặt nước bún. Hoa hồng thường có gai, nên nhụy hoa bún cũng làm cho biết bao người cay giọt ngắn, giọt dài! Cung cách nêm tô bún trước khi ăn cũng thể hiện phần nào phong thái của người ăn. Vẻ e dè chờ đợi của khách mới, dáng khoan thai của giới nhàn du, sự xông xáo của người đói bụng, cách lịch lãm của kẻ từng quen... là những biểu hiện thường tình trước tô bún. Khi đã nêm xong, húp một muỗng nước bún khai vị để cảm nhận được cái chất ngọt thanh pha đủ mùi gia vị. Mùi sả, mùi ruốc, mùi xương hầm, mùi thịt luộc, mùi chanh, mùi rau, mùi tiêu hành nước mắm... đã biến chất, đã quyện vào nhau tạo thành mùi bún bò có sức hấp dẫn lạ lùng riêng của nó. Miếng giò heo thanh nhã trong tô bún với lớp da mỏng có bìa da úp quanh miếng thịt nạc như đài hoa chưa nở nên thường gọi là giò “búp”. Cắn miếng giò, những sợi thịt trắng vừa béo, vừa ngọt vẫn còn thơm mùi thịt tươi mới chín nhẹ nhàng bốc hơi trên hai cánh mũi. Gắp lát thịt bò bắp. Lát thịt bò mỏng với những đường gân, sứa thịt và viền mỡ dòn tan giữa hai kẻ răng và vị ngọt béo miên man trên đầu lưỡi. Tô bún bò Huế vơi dần nửa như thách thức, nửa như mời gọi khách rằng, chưa cạn hết tô chưa gác đũa. Tô bún bò Mụ Rớt được xem là đặc trưng cho tô bún Huế là vì nó mang những nét thanh đạm và đơn giản. Có thể nói cái thanh của bún Huế ví như những nét đan thanh của tà áo trắng, tà áo dài mỏng manh cửa đóng then gài ngỡ như là tử cấm thành của phái đẹp thần kinh, nhưng lại kín đáo phô bày trọn vẹn những nét đẹp trên thân thể của người mặc. Người mặc áo Kimono của Nhật chỉ cần một khuôn mặt đẹp, nhưng người mặc áo dài Việt Nam khó mà che dấu được những nét mỹ miều hay thô thiển của thân hình. Cũng tương tự như vậy, một tay nấu bún “hạng lông” có thể nấu một tô bún thập cẩm với tấp nập thịt thà rau cải rềnh rang như chiếc áo Kimono, nhưng lại khó có thể nấu một tô “bún-bò-áo-trắng” kiểu Huế thoạt nhìn tưởng như là quá đơn giản mà ẩn dấu lắm công phu. Linh hồn của tô bún bò Huế là nước bún. Nước bún là nước được hầm từ xương heo, xương bò, gà tươi, và có khi là cây, củ... Phần khó nhất trong việc nấu nước bún là giữ cho nước trong, ngọt thanh, không mỡ màng, không lềnh bềnh gia vị. Những “trường phái” bún bò khác nhau ở Huế thường dấu bí quyết nấu nước bún vừa trong vừa ngọt, nhưng tất cả đều có điểm cơ bản khá giống nhau là cách chọn xương hầm, cách luộc tái rồi đổ nước đầu tiên, cách vớt và lọai bỏ bọt thải đúng lúc, đúng điệu, thường là yếu tố quyết định trình độ cao thấp của “tay nghề”. Bún sợi thật sự là bún tươi, trắng ngà, có độ dẻo và độ lớn vừa phải. Thịt heo trong tô bún chỉ đơn giản một lát giò có đủ da, đủ nạc và xương. Giò luộc vừa chín, không quá lửa làm cong queo, mềm nhũn, thoang thoảng gia vị vừa ăn; thơm nhưng không mất mùi thịt heo nguyên thủy. Thịt bò trong tô bún là bò bắp luộc vừa chín, xắt lát mỏng, xào nhẹ lại với đồ màu và tránh tình trạng quá lửa làm “bò teo, heo nở”. Gia vị chủ lực của bún bò Huế là sả, ruốc và ớt, nước mắm. Tinh dầu của cây sả có mùi thơm rất nồng, đủ mạnh để làm trung hòa mùi ruốc và giúp cho mùi thịt trộn tiêu hành nước mắm trở nên dịu và ngào ngạt hơn. Dầu sả nhẹ hơn dầu mỡ nên làm cho nước bún nổi sao óng ánh, tránh được những váng mỡ nặng nề làm cho người ăn ái ngại. Một cây sả tươi cần chọn đoạn giữa vừa thơm, vừa phong phú tinh dầu. Đừng quên sả gốc nồng và chát, sả ngọn ít thơm và dễ làm cho nước bún nhiễm màu xanh của lá. Trong nồi bún, nếu sả quyết định cho hương thì ruốc quyết định cho vị. Ruốc phải đánh loãng và thải hết chất bã. Ruốc nêm lúc nước còn lạnh để khỏi nặng mùi. Ruốc nêm đúng phân lượng sẽ làm cho nước bún có vị ngọt đậm đà và mùi thơm phảng phất chất mắm muối quen thuộc của đồ ăn Việt Nam. Ruốc nêm thiếu, nước bún sẽ “ỏn”, nghĩa là lạt lẽo, kém vị, thiếu mùi như nước ốc. Ruốc nêm thừa, nước bún sẽ “hăng”, nghĩa là mùi vị nặng nề, không tỏa ngát quanh tô bún mà có vẻ như chìm lỉm trong nồi nước bún. Bên cạnh kỹ thuật và kinh nghiệm của người nấu, chất liệu cũng đóng một vai trò quan trọng cho hương vị của tô bún Huế. Chẳng hạn như thịt heo nấu bún Huế thường lấy từ thịt heo cỏ. Đó là giống heo nhỏ nuôi bằng rau, chuối nấu với cám gạo cốt để vừa lấy phân, vừa lấy thịt. Heo càng lớn càng dài ra và thịt rắn lại chứ không phát triển “sồ sề” như giống heo mẹo nuôi trong kỹ nghệ lấy thịt sau nầy. Giò heo do đó vừa chắc, vừa thơm, vừa ít mỡ. Giò heo lý tưởng cho tô bún là giò sau: “Nấu giò sau, cho nhau giò trước”. Ngoài ra, rau hành, gia vị... thường được các bà Huế nêm theo kiểu “luyện công” nên mọi thứ đều được tính toán chi li vừa đủ phân lượng cần thiết. Có dịp nhìn một bà Mỹ vào bếp với dáng kích động như muốn nhảy “Disco” với soong chảo, một bà Nam nếm đồ ăn trên lò, miệng chưa tắt nụ cười vui sau câu cải lương mùi mẫn... mới thấy được hình ảnh tay cầm đũa, mắt đăm đăm, môi chút chíp nêm đi nếm lại như đang “truyền tâm ấn” của một bà Huế trước nồi bún đang sôi là “thục nữ thần kinh”. Chính yếu tố địa phương, hoàn cảnh và tâm lý đã làm cho tô bún bò Huế trở thành ngon và độc đáo hơn vì nó được chuẩn bị, phục vụ và thưởng thức trong mức độ vừa đủ về lượng cũng như về phẩm. Sự dễ dãi về hoàn cảnh sinh hoạt và phong phú về điều kiện vật chất có vẻ như có một tác dụng nghịch chiều cho tiến trình tạo nên cái vẻ thanh nhã truyền thống của tô bún bò Huế. Bún bò Huế càng tiến về Nam càng được thêm thắt như tà áo trắng biến thành áo gấm với phượng vẽ rồng thêu. Bún Huế chỉ cần vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng là đã đổi khác: Tô lớn hơn, mỡ màng và thịt, gân, rau hành nhiều hơn. Bún Huế tiến vào Sài Gòn thành tô “phở bún” xe lửa tàu bay với nước béo, rau sống, giá sống, thịt chả ê hề. Chính bún bò Mụ Rớt Huế vào Nam cũng đã chuyển mình thành “bún bò Mụ Rớt Nam Bộ”. Bún bò Huế càng được chiếu cố rộng rãi chừng nào, sự “sáng tạo” và biến thể càng nẩy mầm trăm hoa dua nở chừng đó. Đến nỗi, một người thích “khảo” về các món ăn miền Trung gần đây như ông Đinh Miên đã phải lên tiếng “xóa óa” khi nhắc về bún bò Huế tại Mỹ trong bài “Cơm Việt, Quê Người��: “Đi đâu cũng nghe bún bò Huế chính gốc mà không biết gốc gì, nên gốc gì cũng đặng!” (Việt IX - 95). Ông Đinh Miên thuộc về trường phái “chịu chơi” khi luận về bún Huế. Ông cởi mở đón nhận sự chuyển mình của tô bún với vẻ cười cợt hồn nhiên như người đã biết là không thể tắm hai lần trên cùng một giòng sông. Cũng có người muốn “ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng” lên tiếng cho rằng, tại sao những món ăn truyền thống của thế giới như Pizza của Ý, Kabob của Ba Tư, Taco của Mễ, Kentucky Chicken Fried của Mỹ, Mì Triều Châu của Tàu... đi đâu cũng nghe cùng một hương vị, mà Bún Bò Huế lại có người nấu Sở kẻ nêm Tần như vậy, sợ một ngày kia “mất giống” tìm đâu!? Có lẽ không ai trả lời được câu hỏi đó vì món ăn là một phần của văn hóa mà gốc của văn hóa là con người. Khi đất nước và con người còn đó thì ngại gì tô bún đổi thay. Những huyền thoại quanh tô Bún Bò Huế Tuổi già của Huế thích lui về sống ẩn dật với quê hương, gần gũi với bà con làng xóm và mồ mã tổ tiên, nhưng tuổi trẻ lại thích bay xa tới những phương trời mơ ước. Niềm ước mơ của một đứa trẻ lớn lên sau lũy tre làng như tôi là làm sao được lên Huế học. Thành phố Huế cách làng tôi chưa đầy một giờ đi xe đạp nhưng đối với tôi thời nhỏ nó vừa thực vừa mộng như một vùng đất hứa. Có những buổi chiều đứng đầu ngõ nhìn những người lên Huế sắm hàng với các món đồ gói trong giấy, trong hộp đầy màu sắc gọi là “đi Dinh mới về”, tôi ước chi mình sẽ được lên Dinh. Tuy không có quy định thành văn nhưng con đường duy nhất để được lên Dinh ăn học đối với tuổi trẻ ở làng như tôi là phải thi đậu “Càng Cua” (concours) trước đã, đó là kỳ thi tuyển học sinh vào lớp đệ thất trường công mà trong toàn tỉnh Thừa Thiên chỉ có thành phố Huế mới có. Mẹ tôi thường nhắn gởi: “ Chuyến ni mà con thi đậu ỏcàng cuaõ, cực mấy mạ cũng gắng lo cho con lên Dinh học”. Mẹ tôi dắt tôi lên Huế hai ngày trước khi thi “càng cua”, đi qua đi lại trước trường Hàm Nghi (ngày xưa là Quốc Tử Giám) nhiều lần cho quen đường đi nước bước. Tôi ở lại nhà chị Quyến tôi nơi đường Ô Hồ. Buổi sáng ngủ dậy, chị kêu gánh bún vào ăn điểm tâm. Gánh bún õng ẹo trên đôi vai o gánh bún, có khói và hơi bốc nhè nhẹ xung quanh như một đầu máy xe lửa xuống đèo. Nghe chị đặt hàng, tôi có cảm giác hơi là lạ: - O múc cho tô “trung”, bún vừa, nước xắp xắp thôi. Cho giò nạc búp, thêm cái ngoéo. Đổi huyết lấy bò bắp xắt vô. Khoát bớt ớt màu, bỏ hành rau răm rươi rươi thôi, ớt tương nước mắm bỏ riêng... Người bán bún chừng như đã quá quen thuộc với lối đặt hàng rắc rối đó nên làm thinh múc bún. Nồi bún nóng thân tròn, miệng uốn trông như chiếc lư đồng cổ không nắp không chân, đặt trên lò lửa riu riu đỏ. Tay o cầm cái vá cán dài, quây một vòng trong nồi bún với dáng tay nhẹ nhàng và điệu nghệ như cô vũ nữ Thái múa điệu cánh sen. Cái vá dừng ở đâu trong nồi nước bún là “bắt” được ngay miếng thịt, miếng giò đang cần, chính xác như ra-đa tìm thủy lôi. Một lát sau o mới hỏi: - Ai ăn rứa? Chị tôi trả lời một cách hãnh diện: - Thằng em tôi dưới làng lên ở lại thi “càng cua”. Tự nhiên o bán bún coi bộ quan tâm: - Nì, nói chuyện vô duyên chơ học trò đi thi không nên ăn giò búp: búp hoài không nở thì mần ăn chi nữa. Để tui múc cho một cặp giò ngoéo: ngoéo trước, ngoéo sau thì rớt đi mô được, thi đậu chắc nụi! Chị tôi coi bộ cảm động ra mặt vì gặp được “Thầy”... bún, nên nhiệt liệt ủng hộ ngay: - May có o nhắc chớ không thì khổ em tui rồi. Rứa! Múc ngoéo vô đi o! Thật tôi không ngờ bún Huế “linh” như vậy, nên hôm đó ăn tô bún Huế mà cảm thấy trân trọng và ngất ngây như uống rượu thánh. Về làng, tôi thường ăn bún với nước mắm ớt. Mẹ tôi có mấy lu ruốc bự bành ky để ở nhà dưới, nước mắm nhĩ trong vắt nằm một lớp trên mặt. Đem lúa đổi lấy bún vắt hay bún lá, rồi múc nước mắm nhĩ từ trong lu ruốc, ra vườn hái ớt xé vào. Bún tươi chấm với nước mắm nhĩ pha thêm ớt trái mùa Xuân ăn ngon “nhức răng”. Thêm vào đó, một năm đôi ba lần được ăn bún với nước xáo lòng gà, thịt bò nên chú bé quê trong tôi cũng đã bằng lòng lắm với cuộc đời đầy đãi ngộ nầy rồi. Nay được ăn tô bún Huế với những thịt thà thơm phức, với cách nấu bún công phu, cách múc bún điệu nghệ... làm cho tôi cảm thấy được “lây” cái văn minh sang cả của người thành phố. Ngày đi thi, tôi dậy sớm trước khi gà gáy lại, hồi hộp chờ trời sáng để tới trường thi, nhưng trong lòng cũng cảm thấy thinh thích khi nghĩ đến tô bún Huế với cặp giò ngoéo có lớp da mềm mềm bao quanh những thớ gân dòn tan như ăn ổi đỏ ở làng. Hình như mới có hai buổi sáng trôi qua mà tôi nghe như đã bị phố phường cám dỗ. Buổi sớm tôi nghe mẹ tôi bàn bạc to nhỏ với chị tôi, rồi tiếp theo đó có người gánh gánh xôi vào trước hiên. Nhìn dĩa xôi đậu xanh chấm muối mè bày ra trước mặt, tôi bắt đầu hoang mang. Mẹ tôi hối: - Ráng ăn xôi đậu muối mè đi con! Khi tôi ngao ngán ngáp dài kêu mệt quá và muốn ăn bún chứ xôi đậu, muối mè khô khan quá nuốt không vô, mẹ tôi dịu dàng an ủi: - Con thi xong rồi, ưng ăn bún cả gánh mạ cũng cho. Con di thi “càng cua” mà ăn bún vô trơn, nói trời không nghe lỗ miệng, chớ nó truột di thì thi hỏng mất! Lúc trước mấy cậu con thi chi hỏng nấy là vì không nghe lời mệ ngoại, cứ dè ngày thi cử mà ăn bún không kiêng cử nên thi trợt tuốt luốt, phải xếp sách vở về quê đi cày. Chừ con gắng ăn xôi đậu, xôi muối mè dính mô chắc nấy, trời mới cho con đậu. Tôi rướn cổ nuốt cho hết dĩa xôi mè vì thương mẹ hơn là sợ thi trượt. Tới ngày treo bảng, nghe loa đọc tên nhưng tôi không tin là mình đậu “càng cua” thứ nhì trường Hàm Nghi trong số hơn một nghìn thi sinh dự tuyển và có hai trăm trúng tuyển năm đó. Suốt một đời, tôi không làm sao quên được hình ảnh mẹ tôi với hai hàng nước mắt sung sướng chảy dài trên đôi má phong trần vì lặn lội gieo neo nuôi con. Mẹ tôi nói như đã nắm được bí mật cuộc đời: - Chộ chưa! Con nghe lời mạ, ăn xôi đậu nên mới thi đậu. Còn thằng Tý xóm Bàu, thằng Rô xóm Cụt, Thằng Lúi lò rèn to béo xắp hai con, nghe nói mỗi đứa ăn hai tô bún để đi thi nên trượt tuốt luốt. Tôi muốn nói cho mẹ tôi biết bọn thằng Tý, thằng Rô, thằng Lúi... suốt cả mùa Xuân trốn học, thu sách vở trong bụi tre lá ngà đầu làng đi chơi; trong khi tôi học thuộc cháo sách Sử Ký của Trần Đinh, giải hết 1000 bài toán đố của Một Nhóm Giáo Viên, đọc nhuyễn 50 Bài Luận Mẫu và Tâm Hồn Cao Thượng của Hà Mai Anh... Thế nhưng nghỉ sao tôi lại thôi, vì mẹ cũng có một khung trời riêng của mẹ mà tôi chỉ dám núp sau áo mẹ để lặng im chiêm ngưỡng chứ không dám thả cánh chim lý luận làm huyên náo khung trời đó và làm mẹ buồn lòng. Từ đó về sau nầy, tôi thường cố “cữ” ăn bún mỗi lần có thi cử. Ngay cả hơn 30 năm sau, khi tóc đã điểm bạc trên bước đường lưu lạc ở quê người, có những lần đi thi chuyên môn, đi phỏng vấn việc làm, đi thi tốt nghiệp trong trường đại học Mỹ, tôi vẫn “kiêng” ăn bún nhưng chỉ tìm cách né tránh âm thầm chứ không dám nói ra vì sợ bị chọc quê. Thật ra, mỗi lần đụng đến thi cử là tôi lại nhớ mẹ đến quặn lòng, nên tôi cử ăn bún để được cái cảm giác ấm áp thiêng liêng như hôm đó mình đang có mẹ thật gần. Đến khi lên Huế học, những huyền thoại về bún bò Huế càng có vẻ mọc cành mọc lá sum sê hơn. Thế giới học trò cũng nhỏ bé và xinh xinh như thành phố. Phía sau trường Hàm Nghi của tôi là Viện Bảo Tàng và nhà thờ Nguyễn Phước Tộc hay là Tôn Nhân Phủ. Bên kia đường là cửa Hiển Nhơn vào Đại Nội. Kế đó, có hai trường văn nghệ nhất Huế, đó là trường Quốc Gia Âm Nhạc và Cao Đẳng Mỹ Thuật mà lũ học sinh nghịch ngợm của chúng tôi thường chọc mấy anh chị sinh viên bằng cách gọi là “Trường Kèn” và “Trường Cọ”. Sinh viên hai trường Kèn Cọ thường la cà ở quán cà phê Tôn, nơi đó, thật ra chỉ là một chiếc xe kiểu xe sinh tố đặt mé trái trước Tôn Nhân Phủ do vợ chồng bác Tôn đứng bán bún bò và cà phê. Giới nghệ sĩ lang thang thường bàn luận một cách công khai rằng, ngày nào vợ chồng bác Tôn không cãi nhau là ngày đó bún bò không ngon vì thiếu đi cái “tinh thần hào sảng” của cặp vợ chồng bác Tôn khi nấu bún. Giới văn nghệ sĩ cà phê Tôn còn đi xa hơn khi kháo nhau rằng nếu lỡ một mai kia, lịch sử thành thơ đưa họ lên làm lãnh tụ, thì họ sẽ đặt tên con đưòng từ Vỹ Dạ lên Ga Huế là "Đường Cơm Hến" và đường từ cầu An Cựu lên cầu Trường Tiền là "Đại Lộ Bún Bò" vì mỗi buổi sáng tinh sương, dọc trên con đường nầy có cả đoàn bún gánh phát xuất từ An Cựu tỏa ra khắp thành phố Huế. Khói xanh đun nồi bún bay phơ phất trên đường như một sự mời gọi êm đềm: Bún bò An Cựu, cơm hến Đò Cồn, trứng lộn Chợ Dinh, bánh canh Nam Phổ... Cũng may hay cũng buồn, lịch sử không phải là thơ nên tuy Huế có những con đường tình cảm mang tên kỷ niệm và giai nhân bất thành văn như đường Hàng Me, đường Áo Trắng, nhưng vẫn chưa có tên đại lộ Bún Bò. Bản thân tôi từ một vùng quê ruộng đồng lên tỉnh học, sau mấy năm học đòi văn hóa Huế, cũng bị nhiễm bún bò rất nặng. Tôi đã ưu tư nhiều về sự hiện diện của bún bò giò heo kể từ khi làm quen với một cô hàng xóm nhân dịp cô đi xe đạp, vạt áo dài tung bay phất phới và cuốn theo chiều gió mà quấn vào trong giây "sên", trong "ổ líp". Tôi bèn ra tay cứu khổn phò nguy gỡ áo em ra và không quên bôi thêm dầu sên lên tay lên mặt cho ra vẻ lẫm liệt, can trường. Tên cô là Mộng Hoàng, tất nhiên có cái họ đi trước rất chi là thế gia vọng tộc. Chỉ mới cái tên thôi cũng đủ biến tôi thành Trương Chi bên cạnh Mỵ Nương đi xe đạp mất rồi. ễ làng, tôi đi từ xóm trong ra xóm ngoài để sưu tầm những tên giai nhân đẹp nhất thì cũng chỉ có những Nguyễn Thị Gái, Trần Thị Chắt, Lê Thị Dẹp... đào đâu ra có Mộng, có Hoàng. Những buổi sáng, tôi và Hoàng vẫn đạp xe đạp song song chung đường từ Thành Nội, qua cầu Trường Tiền, rồi Hoàng vào Đồng Khánh và tôi vào Quốc Học. Đôi ba lần Hoàng quay sang phía tôi cười, một phiến ớt màu bún bò tí ti đỏ chói nằm trong góc chiếc răng khểnh trắng nõn nà của Hoàng. Tự nhiên tôi cảm thấy hơi mất đi cái cảm giác thanh thoát khi nhìn sự hiện diện vô duyên của ớt màu nằm trên chiếc răng khểnh duyên dáng đã làm tôi xao xuyến bao lần. Tôi lên tiếng, nhẹ nhàng như nắng, sợ làm vỡ những giọt sương tình cảm long lanh. Rồi cả hai đứa dừng lại, đứng khuất sau gốc cây long não, tôi xé mảnh giấy trắng nhất trong tập vở học trò, vo lại thành cây tăm và nín thở khêu chút ớt màu bún bò vô tình nằm chênh vênh không đúng chỗ. Hai đứa nói nhỏ như ngại hàng long não đứng nghe. Hoàng vùng vằng sợ tôi nhìn sâu hơn đáy mắt: - Ngó dữ chưa tề, dị chết! Tôi thanh minh như Vương Tử Trực: - Coi tề, không ngó chộ mô mà khêu! Khi lên xe đạp đi tiếp, Hoàng phàn nàn, cái phàn nàn mà tôi cho rằng đáng lẽ ra là một sự biết ơn: - Me phiền dễ sợ! Sáng mô cũng bắt Hoàng ăn bún bò ớn phát sợ luôn. Cái "ớn phát sợ" của Hoàng lại là cái ước mơ ngoài tầm tay của đám học trò nghèo như tôi. Cứ tưởng tượng mỗi buổi sáng, khi trời Huế còn lành lạnh mà được ăn một tô bún bò giò heo, có váng mỡ vàng mơ ngã hồng trên mặt, nêm thêm một "múi đũa" ớt tương màu huyết dụ chắc sẽ sáng mắt sáng lòng mà học một nhớ mười. So với một chén cháo gạo với muối trắng của tôi hay một chén cơm chan chút nước mắm ớt của tụi bạn cùng hoàn cảnh ăn điểm tâm trước khi đi học, tự nhiên một cảm giác hơi buồn buồn pha chút tủi thân lặng lẽ dâng lên trong lòng. Bún bò tự nó không có giai cấp, nhưng giai cấp tự nó có bún bò: Phận nghèo bấm bụng nằm co. Giàu thời nem chả, bún bò giò heo! Tuổi trẻ của Huế êm đềm và dễ hòa diệu sống như giòng sông Hương. Tôi đã quên rất nhanh hình ảnh tô bún bò của Hoàng và chén cháo gạo của tôi. Hai đứa chưa bao giờ dám nói thương nhau mà chỉ lửng lơ nói chuyện đã cùng "thương con đường đi học". Mỗi cô gái Huế đều có một bà chúa trong hồn và mỗi cậu con trai Huế đều có một ông hoàng trong bụng. Bà chúa thì thích sang mà ông hoàng thì thích ngọt, cho nên tôi đã nhẹ dạ nghe Hoàng dỗ ngọt mà hẹn hò lần đầu lên chùa Thiên Mụ và về ăn bún bò Kim Long. Chúng tôi đã phạm vào hai điều tối kỵ làm tan vỡ bao nhiêu mối tình đầu đẹp như mơ của Huế: Đó là hẹn hò lần đầu không được lên chùa Thiên Mụ và không được ăn bún. Đồi Linh Mụ là đất thần kinh, nơi để chiêm bái chứ không phải là nơi tính chuyện ân tình hò hẹn. Tình cảm trai gái chớm mầm trên đất thánh thì sẽ không bén rễ trong tim người. Còn ăn bún là trơn tru, không níu kéo như gừng cay muối mặn, nên cuộc tình rồi cũng theo bún mà trôi đi! Rất có thể bà Linh Mụ đã nhìn thấy tôi và Hoàng hò hẹn, cho nên mới "xui" về Kim Long ăn bún. Bởi vậy, nên tới Hè, Hoàng giã từ Đồng Khánh, chuyển qua Jeanne d'Arc để chuẩn bị đi Tây. Kỷ niệm chia tay cũng êm đềm mà nhức buốt như những cơn mưa phùn tháng Giêng của Huế. Hoàng gởi cho tôi cuốn sổ lưu bút có giấy pơ-luya màu xanh, màu trắng, màu hồng; có thắt nơ tím với câu thơ tiếng Tây quá quen thuộc với tuổi học trò của Huế ghi nắn nót ở trang đầu: "Partir, c'est mourir un peu!... Ra đi là chết trong lòng một ít. Biết nói sao bây giờ?!". Tôi là học trò ban B (Toán - Lý Hóa toàn ròn) nên trong đầu lúc nào cũng lùng bùng ròng những đạo hàm và ẩn số của thầy Trần Tuệ và thầy Hồng Giũ Lưu. Huế lại là vùng đất ưa hò vay trả. Đào đâu cho ra chút văn chương man mác nòi tình mà đáp lại cho Hoàng đây. Tôi bỏ cả việc đi trại Hè để cố đào cho ra dăm câu thơ nếu không “ác liệt” thì ít ra cũng có vẻ môn đăng hộ đối với Hoàng. Bên tê dẫn thơ Tây thì bên ni phải trích thơ Mỹ. Tôi vô thư viện, tìm mục thơ tình lãng mạn để kiếm vài câu làm thuốc. Thơ tình chết tiệt rủ nhau trốn đâu mất cả. Bí quá, bỗng vớ được vài câu thơ đề tựa cuốn sách của Helen Steiner Rice, tôi thấy như mở cờ trong bụng: “Somebody loves you than you know. And will always be with you wherever you go!” (Ai nào thấu hết tình ai. Chân mây góc biển thương hoài ngàn năm). Và, để phụ đề Việt ngữ tôi chọn hai câu thơ của Hàn Mặc Tử, đọc đi đọc lại đắc ý nổi da gà: “Người đi một nửa hồn tôi mất, Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ!”. Kèm với thơ thẩn là cái lược bằng gỗ trầm hương, vật kỷ niệm của mẹ, tôi xin và tặng lại cho Hoàng mà bỗng tự cảm thấy mình sâu sắc như một người tình trong chuyện thần thoại. Năm 1992 về lại con đường cũ, đọc thơ Xuân Hoàng mà nhớ bâng khuâng đốm ớt bún bò và nét cười răng khểnh: Tôi đi trên đường Lê Lợi dọc sông Hương Nắng trong suốt lọc qua hai hàng long não Đất nước đổi thay qua bao mùa giông bão Con đường xưa vẫn dáng dấp diệu kỳ... Hơn mười năm, tôi mới có dịp trở lại chen chân trên đường phố Huế vào một buổi chiều 29 Tết. Đi trong nắng cuối Đông dìu dịu thương quen của Huế mà cứ ngỡ như mình mới xa Huế hôm qua. Nghĩ đến mai xa Huế tự nhiên tôi có cảm gíác như mình là kẻ phụ tình với Huế. Huế vẫn lặng lẽ chờ đợi như người tình trăm năm mà tôi thì cứ dứt áo ra đi lang bạt kỳ hồ. Rồi quả đất cũng tròn và thế giới nầy cũng nhỏ nên “những kẻ phụ tình với Huế” vẫn có lúc gặp nhau ở quê người như một sự tình cờ của định mệnh. Hơn 30 năm sau, rất tình cờ, tôi gặp lại Mộng Hoàng ở Little Sàigòn, Quận Cam Ca-li. Tôi nhận ra Hoàng, bà chủ tiệm ăn có tên vừa Tây vừa Huế, nhờ chiếc răng khểnh "thương bắt chết" vẫn tô điểm cho nụ cười duyên dáng ngày xưa. Tất nhiên, tôi từ phương xa ghé vào đây cũng vì món "bún bò Huế chính gốc". Nhắc chuyện cũ, cả hai đứa cùng cười ngặt nghẽo. Giọng Hoàng tuy phảng phất một chút âm vang trời Tây nhưng vẫn chưa phai màu Huế: - Thời nớ, răng tụi mình dễ thương dễ sợ hí! Tôi cười cười nhắc lại: - Sau nớ, còn ai khêu ớt trên răng cho Hoàng nữa không? Mắt Hoàng bỗng thoáng một chút trầm tư "nhắc làm chi sương khói thuở xa xăm" và ánh lên màu kỷ niệm: - Lạ chưa tề. Nhắc chi nữa, dị chết! Tôi nhìn Hoàng. Mắt bâng quơ đậu trên vài ba sợi tóc loà xòa điểm bạc. Hoàng biết và ngúng nguẩy che đi. Hoàng nói thật bất ngờ, giọng trang đài như đọc câu thơ tình thời cổ: - Chải lược trầm hương nên sớm thành tóc bạc! Tôi hiểu Hoàng nói gì nhưng phản ứng như anh học trò cả ngố: - Thơ của ai rứa Hoàng? Hoàng trả lời “mần đày”: - Thơ ai? Thơ ông cai bến đò! Đàn bà Huế mà đã “mần đày” thì Tần Thủy Hoàng cũng phải biết rằng mình đã lỡ vô tình, cần lẳng lặng chui vào ổ rơm nằm ngủ qua đêm. Rứa đó! Dân Huế suốt đời vẫn là những đứa trẻ thơ mỗi lần nhớ Huế, nhớ những kỷ niệm đã thiu thiu ngủ trong ký ức và trên quê mẹ của mình. Xa quê, rủ nhau ăn một tô bún bò Huế nấu bằng heo Mỹ, bò Anh, ruốc Tàu, bún Nhật... Miếng ăn có thể khác nhau vì ngon hay dở, nhưng nỗi nhớ quê nhà thì vẫn hiu hắt giống nhau trong cùng thẳm của mỗi tấm lòng. Bún bò Huế đã vượt sông Mỹ Chánh ra Bắc, vượt đèo Hải Vân vô Nam, vượt trùng dương sang Âu tới Mỹ. Giữa những phố phường xa lạ quê người, đọc trên một tấm biển của một tiệm ăn nào đó có ghi “Bún Bò Huế”, người Việt tha hương nào mà khỏi thấy lòng mình ấm lại. Bún Bò Huế không còn là riêng của Huế mà hương sả nồng, vị ớt cay, mùi ruốc mặn đã thấm vào mạch đất quê hương và lòng dân tộc Việt đầy yêu thương nhưng cũng lắm đoạn trường chưa có ngày sum họp. Trần Kiêm Đoàn
0 notes