#Phương thuốc trị khổ đau
Explore tagged Tumblr posts
Text
Chánh Niệm Là Gì?
Viết theo chữ Hán là 正念. Chữ “正” đọc là chánh, nghĩa là đúng, chính , ngay thẳng. Còn chữ “念” đọc là niệm , nghĩa là nghĩ tới, nhớ tới. Trong chữ niệm “念” này có chữ “今” (kim) có nghĩa là hiện tại, đứng trên chữ “心” (tâm) có nghĩa là tâm tư, ý niệm. Do đó, Chánh niệm có ý nghĩa là chú tâm vào giây phút hiện tại, không sống với quá khứ và cũng không kỳ vọng hay dự đoán về tương lai. Continue…
View On WordPress
0 notes
Text
Phân tích Chí Phèo của nhà văn Nam Cao để thấy được cuộc sống cùng cực của những kẻ yếu thế sống trong một xã hội đầy rẫy áp bức nhưng vẫn khao khát trở thành những con người lương thiện. Đi sâu phân tích tác phẩm Chí Phèo để làm sáng tỏ nội dung nhân đạo sâu sắc mà Nam Cao muốn gửi gắm thông qua tác phẩm, để thấy được rằng những kiếp lầm than, không có chỗ đứng và tiếng nói trong chính cuộc sống của mình trong cái xã hội phong kiến đầy sự áp bức vẫn luôn khao khát muốn được trở thành người lương thiện. Cùng tham khảo hướng dẫn chi tiết dưới đây để nắm được cách làm dạng bài phân tích Chí Phèo em nhé! Đề bài: Em hãy viết một bài văn phân tích truyện Chí Phèo của nhà văn Nam Cao Hướng dẫn phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao 1. Phân tích yêu cầu đề bài - Yêu cầu về nội dung: Phân tích nội dung, nghệ thuật thể hiện trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao. - Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: các từ ngữ, chi tiết, hình ảnh trong tác phẩm Chí Phèo - Phương pháp lập luận chính: phân tích. 2. Hệ thống luận điểm phân tích Chí Phèo - Luận điểm 1: Làng Vũ Đại - không gian nghệ thuật của truyện ngắn. - Luận điểm 2: Nhân vật Bá Kiến - điển hình cho loại địa chủ cường hào ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng. - Luận điểm 3: Hình tượng nhân vật Chí Phèo. 3. Sơ đồ tư duy phân tích Chí Phèo Sơ đồ tư duy chi tiết phân tích tác phẩm Chí Phèo (Nam Cao) 4. Kiến thức mở rộng a) Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao - Phê phán sự thoát li, khẳng định giá trị văn học nghệ thuật: Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than - Văn học chân chính là văn học thấm đượm tư tưởng nhân đạo, vừa mang nỗi đau, vừa tiếp thêm sức mạnh cho con người trong cuộc đấu tranh vươn tới cuộc sống nhân ái, công bằng, hòa hợp, làm cho người gần người hơn. - Đề cao sự tìm tòi sáng tạo trong nghề văn - Nhà văn phải có lương tâm, nhân cách và trách nhiệm với nghề nghiệp của mình => Đây là những quan niệm đúng đắn toàn diện thể hiện quan niệm sống cùng nhân cách của nhà văn. b) Ý nghĩa tiếng chửi của Chí Phèo mở đầu tác phẩm - Thể hiện bản chất côn đồ, lưu manh của Chí Phèo, hắn dường như mất hết tính người, giao tiếp với đời, với người bằng những tiếng chửi. - Chí Phèo đặt mình trong tư thế quay lưng với tất cả. - Tiếng chửi rơi vào im lặng, không một ai đáp trả -> Thể hiện sự cô độc, lẻ loi, đáng thương của Chí. - Khát khao hòa nhập của Chí. c) Ý nghĩa cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở: Sự xuất hiện của Thị Nở làm thay đổi cuộc đời Chí Phèo, giúp Chí Phèo thức tỉnh, khao khát hoàn lương. d) Ý nghĩa bát cháo hành của Thị Nở : Là liều thuốc giải cảm, liều thuốc giải những độc tố bên trong con người Chí, đánh thức trong con người Chí những rung động mà trước đây hắn chưa từng có, mở đường cho khao khát hoàn lương. e) Một số nhận định về tác giả, tác phẩm - "Dù viết về đề tài nào, truyện của Nam Cao cũng thể hiện một tư tưởng chung: nỗi băn khoăn đến đau đớn trước thực trạng con người bị hủy hoại về nhân phẩm do cuộc sống đói nghèo đẩy tới”, “Viết về người trí thức tiểu tư sản nghèo, Nam Cao đã mạnh dạn phân tích và mổ xẻ tất cả, không né tránh như Thạch Lam; không cực đoan, phiến diện như Vũ Trọng Phụng, cũng không thi vị hóa như Nhất Linh, Khái Hưng, ngòi bút của Nam Cao luôn luôn tỉnh táo đúng mực". (Hà Minh Đức) - "Trong các trang truyện của Nam Cao, trang nào cũng có những nhân vật chính hoặc phụ đang đối diện với cái chỗ kiệt cùng với đời sống con người để rồi từ đó bắt buộc người ta phải bộc lộ mình ra, trước hết là tâm lý, nhân cách rồi tiếp đến sau cùng là cái nỗi đau khôn nguôi của con người". (Nguyễn Minh Châu) - “Nam Cao lạnh lùng quá, kéo mép lên mới nở được một nụ cười khó nhọc (…) thật ra mặt anh ta lạnh nhưng lòng anh ta sôi nổi”. (Tô Hoài) - “Con người Nam Cao mảnh khảnh, thư sinh, ăn nói ôn tồn nhiều khi đến rụt rè, mỗi lúc lại đỏ mặt mà kì thực mang trong lòng một sự phản kháng mãnh liệt”. (Nguyễn Đình Thi) - “Trong văn xuôi trước cách mạng, chưa có ai có được ngòi bút sắc sảo, gân guốc soi mói như của Nam Cao”.
(Lê Định Kỵ) - “Năm năm cho một sự nghiệp không lẫn với ai, năm năm trung thành với hướng đi không nghiêng ngả… năm năm cày xới để tự biếm họa, tự khẳng định, để có Nam Cao như hiện nay ta có”. (GS Phong Lê) - "Giữa lúc người ta đang đắm mình trong những chuyện tình thơ mộng và hùa nhau phụng sự cái thị hiếu tầm thường của độc giả, ông Nam Cao đã mạnh dạn đi theo một lối riêng... Những cạnh của tài ông đã đem đến cho văn chương một lối văn mới, sâu xa, chua chát và tàn nhẫn của con người biết tin ở tài năng của mình, ở thiên chức của mình." (Lê Văn Trương) - "Trong nền văn học hiện thực đang tìm đường và đang chiến đấu với các xu hướng phản động bấy giờ, thiên chuyện Chí Phèo của Nam Cao nổi bật lên, thật xuất sắc". (Nguyễn Đình Thi) - "Chí Phèo là nhân vật chính, là linh hồn của tác phẩm, là nơi hội tụ sức mạnh tư tưởng và nghệ thuật độc đáo của cây bút Nam Cao". >>> Đọc thêm hướng dẫn soạn bài Chí Phèo phần 2 (tác phẩm) chi tiết nhất Chi tiết dàn ý phân tích Chí Phèo 1. Mở bài - Vài nét tiêu biểu về tác giả Nam Cao: Là một trong những cây bút xuất sắc của trào lưu hiện thực phê phán thời kỳ 1940 - 1945 thế kỷ XX và có những đóng góp quan trọng trong việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ này. - Giới thiệu tác phẩm Chí Phèo: là một truyện ngắn nổi tiếng của Nam Cao mang giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. 2. Thân bài phân tích tác phẩm Chí Phèo a) Làng Vũ Đại - không gian nghệ thuật của truyện ngắn - Đây chính là không gian nghệ thuật của truyện bởi toàn bộ những chuyện của Chí Phèo đều diễn ra tại đây. - Chứa đựng hai mâu thuẫn cơ bản: + Nội bộ chính quyền cường hào ác bá: ngoài mặt cùng nhau bòn rút dân làng nhưng trong bụng lúc nào cũng mong cho nhau ra rìa để trèo lên đầu lên cổ nhau. + Mâu thuẫn giai cấp địa chủ với nông dân: mâu thuẫn giai cấp gay gắt, âm thầm mà quyết liệt, không khí tối tăm, ngột ngạt. - Đời sống của người nông dân vô cùng khổ cực, bị đẩy vào đường cùng không lối thoát, bị tha hóa. - Bức tranh làng Vũ Đại tăm tối thối nát cũng là bối cảnh chung của xã hội lúc ấy, là cái lò sản sinh ra những Chí Phèo. => Không gian nghệ thuật làm cơ sở đi sâu khai thác hình tượng nhân vật, đồng thời thấy được giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm. b) Phân tích nhân vật Bá Kiến - Xuất thân trong một gia đình từng làm bốn đời lý trưởng. - Mưu mô, thủ đoạn, khôn khéo leo lên đỉnh cao danh vọng “khét tiếng đến cả trong hàng huyện”. - Tiếng cười Tào Tháo, mềm nắn rắn buông, dùng đầu bò trị đầu bò, giọng nói ngọt nhạt mà thâm hiểm chết người, “thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân”,.… => Xảo quyệt, gian hùng, thủ đoạn. - “Cái giọng quát rất sang”, bao giờ cũng quát để thử dây thần kinh của người khác. - Nhân cách ti tiện bỉ ổi, dâm đãng, ghen tuông và độc ác. => Bá Kiến điển hình cho loại địa chủ cường hào ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng: bất nhân, vô lương tâm, nham hiểm, gian hùng, thối nát, bỉ ổi, là “kẻ già đời trong nghề đục khoét”. c) Phân tích hình tượng nhân vật Chí Phèo - Sự xuất hiện của nhân vật + "Hắn vừa đi vừa chửi...": sự xuất hiện tự nhiên. + Qua tiếng chửi, chân dung nhân vật hiện lên: Kẻ lưu manh cứ rượu vào là chửi nhưng đằng sau đó thấy Chí Phèo mong muốn được coi là người bình thường. - Lai lịch, cuộc đời Chí Phèo trước khi ở tù: + Hoàn cảnh xuất thân: không cha, không mẹ, không nhà, không cửa. + Tuy vậy, Chí vẫn giữ những phẩm chất tốt đẹp: là một con người lương thiện làm ăn chân chính với ước mơ giản dị và có lòng tự trọng. - Sự biến đổi của Chí Phèo sau khi ra tù: + Sự kiện Chí Phèo bị bắt vào tù: Vì Bá Kiến ghen với vợ hắn.Chế độ nhà tù thực dân đã biến Chí trở thành lưu manh, có tính cách méo mó và quái dị. + Hậu quả của những ngày ở tù: Hình dạng: biến đổi thành con quỷ dữ -> Chí Phèo đã đánh mất nhân hình.Nhân tính: triền miên trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá phách và làm công cụ cho Bá Kiến -> Chí Phèo đã đánh mất nhân tính.
+ Quá trình tha hóa của Chí Phèo: Đến nhà Bá Kiến trả thù -> Chí mắc mưu, trở thành tay sai cho Ba Kiến. => Sau khi ra tù, Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. - Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở: + Tình yêu thương của Thị Nở đã đánh thức bản chất lương thiện của Chí Phèo. Về nhận thức: Nhận biết được mọi âm thanh trong cuộc sống.Nhận ra bi kịch trong cuộc đời của mình và sợ cô đơn, cô độc.Về ý thức: Chí Phèo thèm lương thiện và muốn làm hòa với mọi người. - Hình ảnh bát cháo hành là hình ảnh độc đáo, chân thật và giàu ý nghĩa: lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Chí được ăn trong tình yêu thương và hạnh phúc. => Chí Phèo đã hoàn toàn thức tỉnh sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở. - Bi kịch bị cự tuyệt: + Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo -> định kiến của xã hội. + Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo: Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở.Sau Chí hiểu ra mọi việc: xách dao đến nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát. => Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống làm người. d) Phân tích nhân vật Thị Nở * Ngoại hình - Một người “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn”: + Hành động ngẩn ngơ theo bản năng. + Xấu ma chê quỷ hờn, từng đường nét trên khuôn mặt không giống với những gì nên có trên khuôn mặt con người. - Thị nghèo và là con nhà có ma hủi, khó có được hạnh phúc bởi một con người mang trên mình toàn những điều bất lợi. * Vẻ đẹp của Thị Nở Việc xây dựng hình tượng nhân vật Thị Nở xấu ma chê quỷ hờn là dụng ý của Nam Cao nhằm làm nổi bật nội tâm đầy tình thương của Thị Nở chứ không phải để miệt thị. - Thị Nở là con người với phẩm chất tốt đẹp, giàu tình người: + Sau cuộc gặp gỡ vào đêm định mệnh, Thị Nở dành sự quan tâm cho Chí Phèo, nấu cháo hành cho Chí ăn. + Thị Nở đã suy nghĩ về Chí Phèo: “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người” => Với Chí, Thị Nở có một cái nhìn khác so với những người dân làng Vũ Đại. + Tình cảm và sự quan tâm của Thị Nở với Chí Phèo đã như một liều thuốc chữa lành bao nhiêu “vết thương, vết rạch” để Chí Phèo quay trở lại thành một người với sự lương thiện trong căn tính. => Chính tình thương và sự quan tâm khiến Thị trở nên có duyên trong mắt Chí. - Thị Nở còn là người có khát khao hạnh phúc gia đình: + Thị thích cuộc sống gia đình có vợ có chồng + Suy nghĩ rất nghiêm túc về mối quan hệ với Chí + Đối với Chí, cảm giác “ngượng ngượng mà thinh thích” + Thị khát khao và suy nghĩ nghiêm túc về hạnh phúc gia đình nên đã trở về xin phép bà cô, tức giận khi bà cô từ chối. - Thị Nở là nhân vật góp phần làm nổi bật chủ đề tác phẩm - bi kịch cuộc đời Chí Phèo: + Nam Cao xây dựng nhân vật Thị Nở nhằm muốn làm trọn vẹn thêm vấn đề trung tâm của tác phẩm, đó là bi kịch cuộc đời bi thảm của Chí Phèo. + Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau ban đầu chỉ bởi sự chung đụng về mặt thể xác, sau đó tình thương của Thị Nở đã làm thức tỉnh sự lương thiện vốn có trong Chí. + Khi bị Thị Nở từ chối, Chí từ chỗ khát khao và hạnh phúc đến tột cùng bị đẩy xuống tận cùng của nỗi tuyệt vọng, dẫn đến những hành động sau này là uống rượu, xách dao đi giết Bá Kiến và tự sát. => Thị Nở là nhân vật thúc đẩy sự phát triển của câu chuyện, đồng thời cho người ta cảm nhận sâu sắc hơn bi kịch của nhân vật chính Chí Phèo. e) Đặc sắc nghệ thuật - Xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. - Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo. - Ngôn ngữ giản dị, diễn đạt độc đáo. - Kết cấu truyện mới mẻ, tưởng như tự do nhưng lại rất chặt chẽ, lôgic. - Cốt truyện và các tình tiết hấp dẫn, biến hóa giàu kịch tính. 3. Kết bài - Khẳng định lại giá trị của tác phẩm: Nam Cao đã tố cáo mạnh mẽ xã hội thực dân nửa phong kiến và đồng thời trân trọng, phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp của con người ngay cả khi tưởng chừng họ đã biến thành quỷ dữ.
- Cảm nhận của em về tác phẩm. TOP 10 bài văn đặc sắc phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao Bài văn mẫu 1 Phân tích tác phẩm Chí Phèo ngắn nhất Nam Cao được biết đến là một cây bút tài hoa trên diễn đàn văn học Việt Nam, những tác phẩm ra đời mang màu sắc hiện thực sâu sắc. Những tác phẩm của ông mang cái nhìn về thời đại và cuộc sống hoàn toàn mới, cũng như hình ảnh trong các tác phẩm cũng đa dạng và phong phú,mang những mảng tính cách mà sự pha trộn sáng tối lại như được tương phản rõ rệt. Chí Phèo là một tác phẩm điển hình khi nhắc tới Nam Cao. Đây là câu chuyện về đoạn cuối cuộc đời của một con người trong xã hội thực dân phong kiến diễn ra và được ghi lại bởi Nam Cao, câu chuyện cũng gợi một những ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm mở đầu thật đặc sắc và đầy ấn tượng với tiếng vừa đi vừa chửi của Chí Phèo, và xung quanh hắn chỉ có mấy con chó đứng chầu chực sủa. Ngoài mấy con chó, không có ai đáp lời hắn. Mở đầu truyện ngắn rất đỗi tài tình và tự nhiên, giống như chúng ta đang chứng kiến khung cảnh ấy vậy. Những âm thanh hay cụ thể là những tiếng chửi của Chí Phèo lại làm cho mọi thứ trở nên sống động, mọi hình ảnh như mở ra trước mắt. Có thể nói hình ảnh Chí say rượu, vừa đi vừa chửi, chửi những gì mà hắn thấy. Có lẽ, dường như mọi người ở cái làng Vũ Đại đã quen với hình ảnh này của nó, cho nên cứ khi nào hắn chửi mọi người cũng chẳng để ý và nghĩ rằng: "Chắc hắn trừ mình ra”. Tới đây ắt hẳn mọi người lại ngạc nhiên tại sao hắn lại có hành động như vậy, theo thông thường người ta chửi bới khi uất ức một chuyện gì hay quá áp lực. Quả là như vậy, hắn vốn là đứa trẻ từ khi mới đẻ ra đã bị bỏ rơi trong cái lò gạch bỏ hoang, được người làng nhặt về nuôi, đi ở cho nhiều nhà khác nhau, cuối cùng đến năm 20 tuổi thì về làm canh điền cho Lí Kiến. Vì ghen tuông với sự trẻ trung lực lưỡng của hắn và vì bà Ba để ý tới hắn, nên Bá Kiến tìm cách bỏ tù hắn, để hắn không thể xuất hiện nữa. Như có một sự vô cớ, Chí Phèo vốn dĩ là một người lương thiện, nghèo đói nên đi ở, nhưng trong xã hội đó, ai có tiền có quyền người đó được làm mọi thứ, và cứ thế từ một con người lương thiện, Chí dần bị đẩy vào con đường tha hóa và lưu manh hóa. Sau khi được thả tù, bộ dạng Chí thay đỏi hẳn, với cái đầu cạo trọc và hàm răng trắng hếu, trên mặt hiện lên vết sẹo dài. Trông hắn chẳng khác gì một con quỷ, quỷ đội lốt trong hình hài của một con người. Và người hắn tìm đến đầu tiên không ai khác chính là Bá Kiến. Khi biết Chí đứng trước nhà mình vừa say vừa ăn vạ, Lí Cường ra mắng hắn, nhưng ngay sau đó, Chí Phèo đã rạch mặt, những vết máu trên khuôn mặt đầy sẹo dọc ngang nằm trước cổng nhà Bá Kiến dưới nhiều con mặt dò xét của người dân nơi đây. Khác với Lí Cường, Bá Kiến là người khôn khéo, khi thấy hình ảnh đó, quay sang Lí Cường mắng sa sả như tỏ ra nhượng bộ, rồi đỡ Chí Phèo dậy. Hắn biết tên Chí Phèo luôn luôn ưa nhẹ, lại thích được mềm mỏng nên sau đó hắn đã mời Chí vào nhà và cho ăn uống hậu hĩnh. Lần thứ hai, Chí đến nhà Bá Kiến xin đi ờ tù lần nữa vì Chí cho rằng đi tù còn có cơm ăn, ở làng mảnh đất cắm dùi cũng không có mà cái ăn cũng không, Bá Kiến lợi dùng cơ hội này nhờ hắn đi đòi nợ Đội Tảo 50 đồng và hứa sẽ, có vườn cho Chí. Sau khi Chí đã hoàn thành công việc được giao, Bá Kiến cho vài hào uống rượu và cắt cho hắn 5 sào vườn ở bãi sông. Bắt đầu từ lúc này Chí bõng nhiên trở thành kẻ đâm thuê chém mướn, một công cụ đắc lực của Bá Kiến nhằm ức hiếp dân lành và thanh toán những kẻ có máu mặt trong làng nhưng không cùng vây cánh. Dường như cuộc sống và con người của Chí Phèo lúc này đây đã thực sự thay đổi khi một lần trong lúc uống say ,hắn trở về túp lều ven sông định bước xuống tắm, tình cờ nhìn thấy Thị Nở đang nằm ngủ. Thị Nở được khắc họa là người nghèo rót mồng tơi, xấu ma chê quỷ hờn lại ngẩn ngơ như người đần trong cổ tích và Họ đã ăn nằm với nhau và thứ tình cảm đó đánh thức tình cảm bình thường cùng mong muốn làm một người bình thường trong Chí. Có lẽ hình ảnh bát cháo hành của Thị như liều thuốc tiên đánh thức con người lương thiện luôn giấu kín trong một bộ dạng quỷ dữ của hắn.
Cái mùi cháo hành thơm kia như đã bốc lên và cử chỉ quan tâm của Thị đã khiến chí bùi ngùi và chợt nhận ra, anh muốn có một gia đình, với vợ dệt vải chồng đi làm, cứ thế cuộc sống êm đềm trôi qua. Nhưng, dường như niềm vui sướng chưa được bao lâu thì người bà cô đã khuyên Thị không nên ở với hắn,rồi Thị cũng là người duy nhất quay lưng lại với hắn thì cuối cùng cũng bỏ đi. Chiếc thang bắc cầu cho lòng lương thiện của Chí được sang bến bờ được sống như một người bình thường giờ đây hắn cũng không còn nữa. Chính vì thế mà Chí Phèo đã mang dao tới nhà bá Kiến kết thúc đời bá Kiến và sau đó cũng tự sát, hắn không còn một lựa chọn nào khác. Khi nghe được tin này, nhiều người tỏ ra hả hê, còn riêng Thị Nở lại nhìn xuống bụng và nghĩ tới cái lò gạch bỏ hoang không người qua lại. “Chí Phèo” là một trong những truyện ngắn đặc sắc mà dường như dung lượng hiên thực được phản ánh trong trạng thái dồn nén, chứa nhiều mâu thuẫn, với nhiều nhân vật và tình huống khác nhau… tác phẩm như mang tầm vóc của một tiểu thuyết. Chúng ta có thể dễ nhận thấy và phân tích theo vấn đề ý nghĩa nhân sinh của truyện, có thể phân tích theo tuyến nhân vật, hoặc cũng có phân tích từng mối quan hệ giữa nhân vật chính là Chí Phèo với làng Vũ Đại và một số nhân vật có quan hệ trực tiếp (Bá Kiến, thị Nở). Dù là theo cách nào đi chăng nữa thì tất cả đều làm nổi bật nghệ thuật xây dựng tình huống, nghệ thuật miêu tả nhân vật và ngôn ngữ truyện. Dường như hình ảnh làng Vũ Đại được ví như một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng ,hiện thực cuộc sống được khơi ra từ những tình huống truyện đặc sắc và những chi tiết nhỏ nhất nhưng khiến độc giả không thể bỏ qua. Truyện ngắn “Chí Phèo” mở đầu và kết thúc theo kết cấu vòng, khi mở đầu truyện với hình ảnh cái lò gạch bỏ hoang thì kết thúc truyện cũng như vậy, đó là chi tiết khi biết chí phèo tự sát, Thị Nở bỗng đã nhìn ngay xuống bụng mình và lại nghĩ ngay tới hình ảnh cái lò gạch, không biết một cuộc sống sẽ bắt đầu như thế nào, kết thúc mở khiến cho độc giả có nhiều liên tưởng thú vị. Ngôn ngữ trong tác phẩm là một điều không thể bỏ qua, lời trần thuật được xáo trộn, lắp ghép, đan xen không luân theo trình tự tuyến tính của.cốt truyện. Nam Cao dường như đã bắt đầu bằng hình ảnh Chí khật khưỡng say và vừa đi vừa chửi. Chân dung nhân vật bước đầu hiện ra với những đường nét thật ấn tượng, buộc người đọc chú ý ngay từ khi mới đặt tay lên trang giấy. Ông đã thật tài tình khi đan xen, trộn lẫn lời nhân vật và lời người kể truyện, nhiều đơn vị lời văn có thể là của nhân vật vừa là của người kể chuyện. Thông qua đây, việc sử dụng này có ý nghĩa rất lớn đến việc đi sâu vào thẻ giới nội tâm rất phức tạp và tinh tế của nhân vật. Chính bởi nhờ vậy chân dung nhân vật hiện ra hết sức chân thực và sống động. Tác phẩm Chí Phèo là một tiếng nói tố cáo đanh thép xã hội phong kiến và thực dân nửa phong kiến tàn ác, đồng thời thể hiện niềm tin vào bản chất lương thiện của con người. Tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc nhiều suy nghĩ, trăn trở về số phận con người và xã hội. Qua tác phẩm Chí Phèo, chúng ta cần rút ra bài học về trách nhiệm của bản thân đối với xã hội. Cần chung tay xây dựng một xã hội công bằng, văn minh để không còn những bi kịch như Chí Phèo. Bài văn mẫu 2 Phân tích Chí Phèo sự kết tinh của ngòi bút Nam Cao về đề nông dân Chỉ là truyện ngắn, lại là truyện ngắn sáng tác sớm của Nam Cao về đề tài nông dân, nhưng Chí Phèo thật sự tổng hợp sự kết tinh của ngòi bút Nam Cao về đề tài này. Nếu như Nam Cao có thể được coi là "nhà văn của nông dân" - cùng với Ngô Tất Tố - thì trước hết vì công có Chí Phèo. Khác với nhiều truyện ngắn cùng đề tài của tác giả, Chí Phèo có phạm vi hiện thực phản ánh trải ra cả bề rộng không gian (một làng quê) và cả bề dài thời gian. Có thể nói, làng Vũ Đại trong truyện chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông thôn Việt Nam đương thời. Những năm 1940 - 1945, nông thôn vẫn là đề tài lớn trong văn xuôi khu vực hợp pháp. Các nhà văn đã đi vào đề tài này theo nhiều hướng khác nhau.
Trước hết là đi vào phong tục tập quán dân quê. Trần Tiêu, Tô Hoài, Bùi Hiển, Kim Lân… đều có thể coi là những cây bút tiêu thuyết phong tục sắc sảo của các vùng quê của họ. Một hướng khác đi vào khảo sát lục đục giữa vợ cả và vợ lẽ, mẹ chồng và nàng dâu, dì ghẻ và con chồng, anh và em, chú bác cô cậu và những đứa cháu bên nội bên ngoại…cũng có thể coi đây là một dạng của đời sống thôn quê. Tiêu biểu là Thanh Tịnh "muốn làm người mục đồng ngồi giữa bóng tre thổi sáo để ca hát những đám mây và những làn gió lướt bay trên cánh đồng…" (Lời Thạch Lam trong bài tựa tập Quê mẹ). Không còn có thể nói hồ đồ rằng, những khuynh hướng đó là "lãng mạn tiêu cực" hoặc "tự nhiên chủ nghĩa"… Khuynh hướng nào kể trên cũng có những sáng tác đặc sắc có giá trị về nghệ thuật và về tư tưởng của những nhà văn thật sự tài năng mà lịch sử văn học không thể bỏ qua. Song dù vậy, vẫn phải thừa nhận rằng, các hướng tiếp cận thực tại đó đã hạn chế nhiều tầm khái quát xã hội của các nhà văn. Các cây bút tả chân xã hội thời kỳ này rất quan tâm viết nhiều về nông thôn, song trào lưu văn học hiện thực từ năm 1940 đến 1945, dù có những mặt đặc sắc, tiến bộ so với trước, vẫn có những mặt yếu đi trông thấy, "phạm vi của đề tài bị thu hẹp lại rõ rệt, không có những bức tranh xã hội rộng lớn với xung đột giai cấp quyết liệt như ở Giông tố, Bước đường cùng… của thời Mặt trận dân chủ." Chí Phèo của Nam Cao không thuộc các hướng viết đó. Trên bối cảnh chung của văn học hiện thực thời kỳ 1940 - 1945 như vậy, Chí Phèo là một hiện tượng đột xuất. Giống như Tắt đèn, Bước đường cùng, Giống tố … thời Mặt trận dân chủ, Chí Phèo cũng là "bức tranh xã hội rộng lớn với những xung đột giai cấp quyết liệt". Tác phẩm gây ấn tượng đậm nét về tính đầy đặn, đa dạng, nhiều màu sắc của bức tranh về đời sống xã hội nông thôn. Đó là ấn tượng về hệ thống tôn ti, trật tự, ngôi thứ rõ ràng của làng Vũ Đại. Trên cùng là "cụ tiên chỉ" bá Kiến, rồi đến lớp "đàn anh" và bọn cường hào; bên dưới là hạng "đàn em" dân đinh cổ cày vai bừa, trong số này, có hạng cùng hơn cả dân cùng…Đó là ấn tượng về tình trạng khép kín của làng xã phong kiến thời xưa. Song nếu tác phẩm thực sự là bức tranh xã hội thì trước hết nó đã phơi bày sáng tỏ các mối quan hệ phức tạp của hiện thực, đã "miêu tả trung thực những quan hệ thực". Ngòi bút phân tích xã hội khi vạch ra mối "quan hệ thực" trong nội bộ bọn cường hào. Chẳng phải vì đất làng Vũ Đại có cái thế "quần ngư tranh thực" như lời ông thầy địa lý nào đó nói "hồi năm nọ" nên bọn cường hào làng này chia thành năm bè bảy cánh đối nghịch nhau, mà chính là do bọn "chúng chỉ là một đàn cá tranh mồi, mồi ngon đấy, nhưng mà năm bè bảy mối, bè nào cũng muốn ăn. Ngoài mặt thì tử tế với nhau nhưng trong bụng lúc nào cũng muốn cho nhau lụn bại để cưỡi lên đầu lên cổ". Tình trạng bè cánh tranh ăn trong bọn cường hào rất là phổ biến và có tính quy luật ở nông thôn, có ảnh hưởng sâu sắc tới nhiều mặt đời sống xã hội, trước hết là tới số phận người nông dân nghèo - những ruồi muỗi chết oan uổng khi trâu bò húc nhau. Tình trạng này cũng đã được Nguyễn Công Hoan phản ánh tỉ mỉ trong cuốn tiểu thuyết dày dặn Cái thủ lợn (1939). Cũng chính là trực tiếp kế thừa và phát huy mạch cảm hứng đó của văn học hiện thực thời kỳ Mặt trận dân chủ, Chí Phèo của Nam Cao đã xây dựng một hình tượng điển hình được khắc họa hoàn chỉnh về các lực lượng thống trị. Những bà phó Thụ, lão Cựu Túy, bà Chánh Liễu, lão Hải Nam… chỉ là những nhân vật thấp thoáng ở hậu cảnh mà thôi. Chân dung lão cường hào cáo già bá Kiến dần dần hiện rõ trong tác phẩm với những nét tính cách được thể hiện hết sức sinh động, đầy ấn tượng. Đó là giọng quát rất sang (bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần kinh con người), lối nói ngọt nhạt, và nhất là cái cười Tào Tháo (cụ vẫn tự phụ hơn đời cái cười Tào Tháo ấy). Tất cả đều cho thấy bản chất gian hùng của lão cường hào khôn róc đời này. Nam Cao cũng hé cho thấy tư cách nhem nhuốc của cụ tiên chỉ: đó là thói ghen tuông thảm hại của lão cường hào háo sắc mà sợ vợ - lão
cay đắng nhận ra mình già yếu quá mà bà tư thì cứ trẻ, cứ phây phây, nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ… khác gì nhai miếng thịt bò lựt sựt khi rụng gần hết răng; đó là chuyện lão gỡ gạc tồi tệ đối với người vợ lính vắng chồng… và bổ sung vào đó, để cho sự thối nát của nhà cụ bá được hoàn chỉnh, còn có bà tư quỷ cái thường gọi canh điền lên bóp chân mà lại cứ bóp lên trên, trên nữa… Nhà văn chỉ kể qua, nhẹ nhàng tuy không kém phần thâm thúy, chứ không sa đà trong việc soi mói đời tư thối tha của lão cường hào. Ông tập trung ngòi bút vào việc soi sáng bản chất xã hội của nhân vật, chủ yếu thể hiện trong mối quan hệ với người nông dân bị áp bức. Đoạn độc thoại nội tâm rất mực sinh động của cụ tiên chỉ làng Vũ Đại về cái nghề tổng lý cho thấy Nam Cao chẳng những soi thấu tim đen của nhân vật mà còn tỏ ra hiểu sâu sắc các mối quan hệ xã hội ở nông thôn. Bá Kiến đang lặng lẽ nghiền ngẫm về nghề thống trị, rút ra từ bốn đời tổng lý những phương châm, thủ đoạn thống trị khôn ngoan: mềm nắn rắn buông, bám thằng có tóc ai bám thằng trọc đầu, thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân, chỉ bóp đến nửa chừng, hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn. Còn đây là những sách lược dùng người của lão: Không có những thằng đầu bò, thì lấy ai cai trị những thằng đầu bò, thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi tù, những thằng ấy chính là những thằng được việc. Khi cần đến chỉ cho nó dăm ba đồng uống rượu thì có thể sai nó đến hại bất cứ anh nào không nghe mình. Có chúng nó sinh chuyện thì mình mới có dịp mà ăn. Tất cả đều nhằm sao cho vừa bóp nặn được nhiều nhất, vừa giữa chắc cái ghế thống trị. Tâm địa thâm độc tới mức ghê sợ của lão còn thể hiện trong việc hắn nhẹ nhàng "khích" Chí Phèo đòi nợ đội Tảo, đẩy những kẻ sẵn sàng đâm chém ấy vào chỗ chém nhau, để kẻ nào chết cũng có lợi cho cụ cả! thật là một con hề biết cười. Thế giới nhân vật nông dân Nam Cao tuy không đông đúc gì lắm nhưng thật phức tạp, sống động, nên không phải không làm cho người nghiên cứu lúng túng khi phân loại. Song dù vậy, nhìn trên đại thể, có thể thấy Nam Cao đặc biệt quan tâm tới hai hạng người (cũng là hai phương diện trong nỗi khổ không cùng của người nông dân): một là những người thấp cổ bé họng nhất, bị ức hiếp bất công nhất, càng "ở hiền" thì lại càng "không gặp lành"; hai là những người bị hắt hủi, bị xúc phạm về nhân phẩm, bị lăng nhục một cách bất công, độc ác. Chí Phèo đích thực là nhân vật của Nam Cao: vừa là một thằng cùng hơn cả dân cùng, vốn hiền như đất - tội nghiệp cho hắn. Có lần thấy hắn vừa bóp đùi cho bà ba vừa run run, nhưng càng thêm hiền lành thì càng bị đạp giúi xuống… đồng thời vừa là một trường hợp con người bị miệt thị phũ phàng, bị gạt ra ngoài hệ thống giá trị của cộng đồng. Từ khi đi tù về, Chí Phèo không thể sống như trước và hắn không còn được gọi là con người nữa. Vạch khổ cho người nông dân bị áp bức bóc lột, Nam Cao không đi vào nạn sưu thuế, nạn chiếm đoạt ruộng đất, nạn tô tức, quan lại tham nhũng, thiên tai địch họa… mà ở Chí Phèo - và ở nhiều chuyện khác nữa - nhà văn đi vào một phương diện khác: người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt nhân tính, do đó, bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo không phải ở chỗ tất cả cuộc đời người nông dân cố cùng này chỉ là một số không, không nhà cửa, không cha mẹ, không họ hàng thân thích không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề biết đến một bàn tay cham sóc đàn bà nếu không gặp thị Nở,… mà chính là ở chỗ anh đã bị xã hội rạch nát cả bộ mặt người, cướp đi linh hồn đau đớn, tuyệt vọng. Không, tiếng chửi của Chí Phèo không hẳn là bâng quơ, hắn từ chửi trời đến chửi đất rồi chửi ngay cả làng Vũ Đại… và hắn bỗng tức tối khi không ai lên tiếng cả… Trong cơn say, hắn vẫn cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm thía "nông nỗi" khốn khổ của thân phận. Đó là "nông nỗi" không có người nào chịu chửi lại hắn! Có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoát không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn bằng lòng giao tiếp, đối thoại với hắn.
Chỉ Phèo chửi cả làng… với hy vọng được người nào đó chửi lại. Những tín hiệu yêu cầu giao tiếp phát đi liên tục đó lại chỉ gặp sự yên lặng đáng sợ. Và chỉ còn lại một mình Chí Phèo trong sa mạc cô đơn: hắn cứ chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu… … Chí Phèo trước hết là một "hiện tượng có tính chất quy luật", tính phổ biến, sản phẩm của tình trạng áp bức bóc lột tàn tệ ở nông thôn Việt Nam trước đây. Đó là hiện tượng những người nông dân lao động bị đè nén thái quá đã chống trả lại để tồn tại bằng con đường lưu manh, đẩy anh canh điền hiền lành vào tù; nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cường hào đã giết chết phần người trong con người Chí, biến Chí thành Chí Phèo, biến một người nông dân lương thiện thành một con quỷ dữ. Với ngòi bút hiện thực tỉnh táo ông vạch ra rằng, những người nông dân khốn khổ phải giành lấy sự tồn tại sinh vật bằng việc bán cả nhân phẩm ấy, đã trở thành lực lượng phá hoại mù quáng, dễ dàng bị bọn thống trị thâm độc lợi dụng. Vì thế mà Chí Phèo từ chỗ hung hăng đến nhà, tuyên bố liều chết với bố con lão, chỉ cần mấy câu nói ngọt xớt, chuỗi cười Tào Tháo và mấy hào chỉ, đã trở thành tên tay sai mới của lão. Hiện tượng mỉa mai, đau xót đó cũng rất phổ biến và có tính quy luật mà ngòi bút phân tích xã hội sâu sắc của Nam Cao đã vạch ra. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí Phèo sau đêm gặp gỡ với thị Nở, một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc bất ngờ của ngòi bút Nam Cao. Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy muộn lòng bâng khuâng, mơ hồ buồn. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, Chí Phèo mới cảm thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá… Những âm thanh quen thuộc trong cuộc sống lao động xung quanh ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay bỗng trở nên vang động sâu xa trong lòng Chí Phèo, trở thành những tiếng gọi thiết tha của cuộc sống vẳng đến đôi tai lần đầu tiên tỉnh táo của anh. Cuộc gặp gỡ với thị Nở đã lóe sáng như một tia chớp trong cuộc đời tăm tối dằng dặc của Chí Phèo. Dưới ánh sáng của tia chớp ấy, Chí Phèo bỗng nhìn thấy rõ tất cả cuộc đời mình: những ngày xưa rất xa xôi đã từng ao ước một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm; cái hiện tại đáng buồn: già mà vẫn còn cô độc; cái tương lai còn đáng buồn hơn đói rét và ốm đau. Nếu như bao năm nay Chí Phèo bao giờ cũng say, say vô tận, có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh, để nhớ rằng có hắn ở đời, thì hôm nay lần đầu tiên Chí Phèo tỉnh táo, tỉnh táo để ý thức được về thân phận mình. Khi thấy thị Nở bưng cháo hành đến, hắn rất ngạc nhiên và hết sức xúc động bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Hắn ăn bát cháo hành từ tay thị Nở và bỗng nhận thấy rằng, cháo hành ăn rất ngon. Bởi vì hương vị của cháo hành lúc này chính là hương vị của tình yêu thương chân thành, của hạnh phúc giản dị mà có thật, lần đầu tiên đến với Chí Phèo. Lần đầu tiên, Chí Phèo mắt như ươn ướt, ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt, trở lại là anh canh điền trong trắng năm xưa cảm thấy bị xúc phạm khi cái bà ba quỷ cái gọi lên bóp chân, trở lại anh nông dân lương thiện từng mơ ước cuộc sống gia đình hạnh phúc hết sức bình dị khiêm nhường trong lao động. Đó là cái bản tính của hắn, ngày thường bị lấp đi… Như vậy là lòng yêu thương, cái tình người chân thành đã làm sống lại trongChí Phèo cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lao động bao lâu nay bị che lấp, vùi dập nhưng vẫn không tắt. Bọn cường hào và nhà tù thực dân, nói rộng ra là cả cái xã hội tàn bạo ấy, ra sức giết chết cái "bản tính tốt" ấy của anh. "Trần trụi giữa bầy sói" anh không thể hiền lành, trong trắng, mà để tồn tại, anh phải cướp giật ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều và mạnh; những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn say, hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm. Xét đến cùng, Chí Phèo không chịu trách nhiệm về những hành động của mình: linh hồn của anh ta đã bị cướp đi rồi.
Nhưng hôm nay, tình yêu đã thức tỉnh anh ta và linh hồn đã trở về. Anh bỗng thấy thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao! Anh như rưng rưng và bẽn lẽn trong sự phục sinh của linh hồn đó. Anh mong được nhận lại vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Tình yêu của thị Nở chẳng những đã thức tỉnh anh mà còn hé cho anh con đường trở lại làm người, trở lại cuộc đời và anh đã hồi hộp hi vọng. Tư tưởng nhân đạo và bút lực phi thường đó còn thể hiện ở đoạn miêu tả tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo. Truyện ngắn đầy ấp dẫn này càng về cuối càng đặc biệt hấp dẫn, không hải chỉ vì cốt truyện, tình tiết đầy tính kịch, biến hóa khôn lường, mà còn vì tầm tư tưởng càng ngày càng nâng cao một cách bất ngờ của tác phẩm. Nhiều người cũng nói đến Chí Phèo như một bi kịch số phận, song nếu hiểu cho thật chặt chẽ, chính xác thì từ nhân vật này đã thức tỉnh linh hồn, khát khao trở lại làm người nhưng bị cự tuyệt lạnh lùng, thì chỉ đến khi đó, Chí Phèo mới thật sự rơi vào tình thế bi kịch: bi kịch của con người bị từ chối không được làm người. Khi hiểu ra rằng, xã hội không công nhận mình, Chí Phèo vật vã, đau đớn. Hắn lại uống, nhưng điều lạ hôm nay hắn càng uống càng tỉnh ra. Đúng hơn là tuy say, trong tâm thức Chí Phèo lúc này vẫn có một điểm tỉnh: nỗi đau khốn cùng về thân phận. Và hắn ôm mặt khóc rưng rức. Rồi như để chạy trốn, bản thân chạy trốn nỗi đau, hắn lại uống… lại uống… đến say mềm người. Rồi hắn đi với con dao, và vừa đi vừa chửi… như mọi khi. Nhưng lại hoàn toàn khác mọi lần: hôm nay Chí Phèo quằn quại đau đớn vì tuyệt vọng, càng thấm thía hơn bao giờ hết tội ác của kẻ thù, đã đến thẳng trước Bá Kiến, trợn mắt chỉ tay vào mặt lão dõng dạc đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt đã bị vằm nát của mình. Kẻ chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, anh không thể chấp nhận trở lại kiếp sống thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống, chết trong tâm trạng bị đau đớn. Thế là trước đây, để bám lấy sự sống, Chí Phèo phải từ bỏ nhân phẩm, bán linh hồn cho quỷ; giờ đây, ý thức nhân phẩm thức dậy, linh hồn trở về, Chí Phèo lại chết. Có người nghi ngờ tấm lòng Nam Cao đối với nhân dân, vì thấy người nông dân của nhà văn phần nhiều xấu xí, dữ tợn. Vậy mà chính những người khốn khổ có bộ mặt và tính cách không mấy "đáng yêu" đó, nhiều khi ý thức nhân phẩm còn mạnh hơn cả cái chết. Lão Hạc bề ngoài dường như lầm cẩm, gàn dở nhưng lão đã lặng lẽ tìm đến cái chết để giữ trọn lòng tự trọng trong cảnh cùng đường (Lão Hạc), Lang Rận cũng tìm đến cái chết vì không chịu nổi điều nhục nhã đang chờ ông ta hôm sau (Lang Rận). Và ở đây là Chí Phèo. Chí Phèo đã chết quằn quại trên vũng máu trong niềm đau thương vô hạn vì khao khát lớn lao, thiêng liêng là được làm người lương thiện đã không thực hiện được. Lời nói cuối cùng của Chí Phèo, vừa đanh thép, chất chứa phẫn nộ, vừa mang sắc thái triết học và âm điệu bi thống đầy ám ảnh, làm người đọc sững sờ và day dứt không thôi: "Ai cho tao lương thiện?". Làm thế nào để con người được sống cuộc sống con người? Đó là "một câu hỏi lớn không lời đáp", chẳng những không thể hiểu mà xã hội khi ấy cũng chưa thể trả lời. Câu hỏi ấy được đặt ra một cách bức thiết, day dứt trong hầu như toàn bộ sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng. Và đặt ra bằng một tài năng lớn độc đáo, khiến cho nhiều sáng tác của Nam Cao - trước hết là Chí Phèo - thuộc vào những trang hay nhất của nên văn xuôi Việt Nam. Bài văn mẫu 3 Phân tích Chí Phèo tác phẩm đã đưa tên tuổi của Trần Hữu Tri chính thức trở thành Nam Cao “Khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta mới thấy đây là hiện thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là cùng khổ của người dân cày trong một xã hội thuộc địa: bị dày đạp, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình.” (Nguyễn Đăng Mạnh). Người ta vẫn coi Chí Phèo như một hiện tượng lạ của văn học và đời sống, một sáng tạo đặc biệt của Nam Cao mà qua đó, bao lớp hiện thực được lật dở, bao tầng tư tưởng được cày xới. “Chí Phèo” thật sự đã đưa tên tuổi của Trần Hữu Tri chính thức trở thành Nam Cao.
Vốn là một nhà văn hiện thực đến sau, bước vào làng văn khi mà mảnh đất về người nông dân đã được lật xới nhiều lần, Nam Cao vẫn cày được những đường cày thật đẹp và nâng tác phẩm của mình trở thành tuyệt tác. Tôi cho rằng “Chí Phèo” là tác phẩm Nam Cao viết hay và sâu sắc nhất về người nông dân bởi tính hiện thực và tư tưởng nhà văn gửi trong đó. Đi theo cách nhà văn muốn dẫn dắt người đọc, Nam Cao đã đẩy Chí Phèo ra giữa sân khấu cuộc đời với trạng thái say và chửi – một trạng thái đầy ấn tượng và ám ảnh: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng vậy, cứ rượu xong là hắn chửi.” Hắn – cái cách mà Nam Cao gọi Chí Phèo – là một kẻ đang đằm mình trong men rượu và đối thoại với đời bằng tiếng chửi. Tiếng chửi có lớp có lang, có gần có xa, từ chửi trời, hắn chửi đời, rồi chửi sang cả dân làng Vũ Đại, chửi đứa nào không chửi nhau với hắn, và sau cùng là chửi “đứa chết mẹ nào đã đẻ ra hắn”. Tiếng chửi như đã trở thành quy luật sống của một kẻ say, Nam Cao đã cho ta thấy trạng thái tồn tại cụ thể nhất của nhân vật, thấy được chất lưu manh trong con người hắn, và phần nào thấy được bi kịch bị cự tuyệt của Chí Phèo. Trong tiếng chửi dường như có sự cô độc. Dân làng Vũ Đại không ai ra điều, đáp lại hắn chỉ là tiếng sủa của ba con chó dữ. Chí Phèo bị gạch tên ra khỏi xã hội chăng? Vì đâu mà hắn bị cả xã hội ghê sợ và lảng tránh? Những câu hỏi gợi mở Nam Cao đặt ra từ đầu truyện đã cho ta lần bước tìm hiểu về nhân vật… Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí “chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã và không sao gượng dậy được. Đó là lúc Chí bị Bá Kiến đẩy vào tù chỉ vì một cơn ghen bạo chúa, bi kịch lưu manh hóa cũng bắt đầu từ đó. Chí ra tù, mang theo sự biến đổi nhân hình và nhân tính đến méo mó dị dạng. Từ một anh canh điền khỏe mạnh, Chí trở nên là một đứa “đặc như thằng săng đá”, với “cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm gườm. Người ta tưởng như một con quỷ dữ về làng. Chuỗi ngày sau khi ra tù, hắn ngụp l��n trong trạng thái tinh thần say miên man. Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say. Đau đớn hơn, sự tha hóa không chỉ hiện lên thành hình, nó còn đang dần gặm nhấm từ bên trong khi mà Chí đã tự mình bán rẻ linh hồn cho Bá Kiến. Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Vậy là chỉ sau những lời mời dụ ngọt nhạt của tên gian hùng lọc lõi như Bá Kiến, Chí đã trở thành một tay đi đòi nợ thuê, chém giết thuê. “Hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao người dân lương thiện”. Chí Phèo đã thực hiện đúng mưu đồ của cha con nhà Bá Kiến: “Lấy thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò”. Chất Người trong hắn dường như đã cạn kiệt, linh hồn quỷ xâm chiếm và tàn phá hắn. Nhưng cũng chính từ bi kịch ấy mà ta nhìn thấy bản chất, bộ mặt của cả một xã hội – một
xã hội vô nhân với những những con người cạn sạch tính người, một xã hội mà Vũ Trọng Phụng gọi là “chó đểu”. Ở đó, có những tên cường hào ác bá như Bá Kiến nắm mọi quyền lực, có thể tuyệt đường sống của người dân lương thiện bất cứ lúc nào, có nhà tù thực dân bắt vào một người lương thiện và thả ra một con quỷ dữ, có những người như dân làng Vũ Đại khước từ sự dung nạp và chấp nhận một người như Chí Phèo. Tưởng như Chí đã trượt dài và lún sâu trong tấn bi kịch đời mình, nhưng Nam Cao vẫn đủ tin tưởng và trái tim nhà văn vẫn rất nhân đạo khi “cố tìm mà hiểu” chất Người trong tâm hồn của một kẻ mà phần Con đã chiếm thế. Đó là lúc Chí gặp Thị Nở – một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Qua cái đêm ăn nằm như vợ chồng với thị, Chí tỉnh dậy và bao nhiêu sự hồi sinh đã được đánh thức. Hồi sinh ý thức về không gian, thời gian, về tình cảm và tiếng nói con người. Lần đầu tiên trong cuộc đời, Chí nghe thấy “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”. Cũng lần đầu, hắn ý thức được về tuổi tác của mình, về hiện tại “đã già mà vẫn còn cô độc”, về quá khứ với ước mơ lành thiện khi xưa, về tương lai với “đói rét, ốm đau và cô độc”. Con người ấy lần đầu có những cảm giác rất người, thức dậy cả về lương tri và lương tâm. Hắn biết lo, biết sợ, biết xúc động rưng rưng trước bát cháo hành tỏa nồng hơi ấm, biết ăn năn hối cải về tội ác của mình. Chính bàn tay của một người phụ nữ có dòng dõi mả hủi đã cứu đỡ hắn ra khỏi bờ vực tha hóa, để rồi không chỉ bộc lộ bản chất lương thiện vẫn luôn sẵn có trong con người, Chí Phèo còn trỗi dậy cả khao khát hoàn lương – trở về với xã hội loài người. Hắn tin rằng “Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”; “Thị có thể làm hòa với hắn sao mọi người lại không thể”. Chưa bao giờ, ước muốn được quay trở về làm người lương thi���n lại mãnh liệt đến thế. Chính đôi mắt tinh tế và tấm lòng cảm thương của Nam Cao đã nhìn thấy mầm thiện của một con người vốn sống lương thiện, bị xã hội tàn ác vùi dập và đày đọa Nhưng hiện thực vẫn là hiện thực. Ngòi bút trung thành với hiện thực của Nam Cao đã không chối bỏ một sự thật khác, rằng sống trong xã hội đầy rẫy những định kiến cổ hủ lạc hậu, con người không thể sống yên ổn theo đúng nghĩa. Một lần nữa, Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người bởi định kiến của bà cô Thị Nở. Người đàn bà ấy đã dõng dạc tuyên bố rằng: “Trai làng đã chết hết hay sao mà đi đâm đầu lấy một thằng không cha, lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Cái loa của định kiến làng xã đã đưa bước chân Thị Nở đến từ chối thẳng thừng khát vọng hoàn lương và hạnh phúc của Chí Phèo. Giây phút nhân vật nửa tin nửa ngờ, nửa say nửa tỉnh, cố níu mà không thể giữ, bàng hoàng đến đau đớn đã biến Chí Phèo trở thành một kẻ thật sự tội nghiệp và đáng thương. Thị Nở bước đi, cánh cửa dẫn lối về xã hội loài người đóng sầm ngay trước mặt. Chí Phèo tìm đến tên kẻ thù lớn nhất của đời mình để trả thù và cũng kết liễu luôn đời mình. Chết là một kết cục bi thảm đau đớn, nhưng là lẽ tất yếu khi sống trong xã hội đầy nhơ nhuốc ấy. Không được dung nạp vào xã hội chung, Chí Phèo cũng không thể trở lại làm quỷ dữ, bởi lương tri và lương tâm đã trở về. Chí có chết mới là cách giải quyết tốt nhất, dù nó thật đau đớn. Đó là cái chết bảo toàn nhân phẩm, cái chết cảnh tỉnh cho cả một xã hội, để rồi ngày nay, tiếng hỏi “Ai cho tao lương thiện?” vẫn không ngừng vang vọng và ám ảnh. Để làm nên thành công của tác phẩm trong việc xây dựng nhân vật, không thể không kể đến nghệ thuật phân tích tâm lý bậc thầy của Nam Cao, nghệ thuật kết cấu linh hoạt theo dòng tâm lý và sử dụng những đoạn độc thoại, đối thoại phù hợp. Ngòi bút của Nam Cao đã điển hình hóa một kiểu người, một số phận trong xã hội, để ngày nay Chí Phèo vẫn là cái tên đầu tiên khi người ta nhớ về Nam Cao. Bài văn mẫu 4 Phân tích Chí Phèo cách nhìn nhận một tình cảm mới về những điều, những việc ai cũng biết cả rồi Đã có quan niệm cho rằng: “Sáng tạo là cái cần có của mỗi nhà văn, anh không
thể là nhà văn thực thụ khi không có giọng riêng mà không thể tìm ở bất kỳ cổ họng của một người nào khác”. Đúng như vậy, nhà văn phải có một phong cách riêng, một lối đi riêng thì mới có thể gây được ấn tượng sâu đậm và chiếm lĩnh trái tim người đọc. Phong cách chính là cái nhìn nhận, cái cảm xúc riêng mà mỗi nhà văn đều thể hiện trong những đứa con tinh thần của mình. Bàn về vấn đề này, Nguyễn Đình Thi cho rằng tác phẩm văn học lớn, hấp dẫn người ta bởi cách nhìn nhận mới, tình cảm mới về những điều những việc ai cũng biết cả rồi và minh chứng rõ nét nhất là ý kiến của Nguyễn Đình Thi chính là truyện ngắn Chí Phèo - Nam Cao. Một sự thám hiểm thật sự không cần những vùng đất mới mà cần những đôi mắt mới. Đúng thế, phong cách làm nên tên tuổi của mỗi nhà văn, họ nhìn người nhìn đời bằng những đôi mắt khác nhau, họ lùng sục và tìm kiếm cũng chỉ cho ra những cách nhìn nhận mới và có thể thể hiện những tình cảm mới đó chính là sứ mệnh cao cả của văn chương. Cách nhìn nhận mới tức là dấu ấn chủ quan của mỗi tác giả là cách nhìn riêng biệt không tìm thấy trong cổ họng của bất kỳ ai, tạo nên phong cách của mỗi nhà văn. Họ tuy có thể cùng hướng về một đề tài nhưng cách khai thác của mỗi người về đề tài ấy lại khác nhau, điều đó dẫn đến những tình cảm mới trong sáng tác văn chương của mỗi nhà văn. Đó là những thái độ những cảm xúc của mỗi nhà văn dành cho nhân vật họ phản ánh. Đó có thể là sự thương xót, sự cảm thông hay đưa nhân vật của họ tới một nơi khác, tình cảm đó cũng là sự bộc lộ dấu ấn mang tính chủ quan của tác giả. Ý kiến của Nguyễn Đình Thi muốn đề cao tới phong cách riêng, cách nhìn nhận hiện thực đời sống riêng, cách bày tỏ tình cảm, cảm xúc riêng của mỗi tác giả trong sáng tác văn học. Những điều mà Nguyễn Đình Thi khẳng định đã được thể hiện rất rõ trong tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao. Nam Cao là một đại biểu ưu tú trong dòng văn học hiện thực phê phán thời kỳ 1930 - 1945 là một người bề ngoài có vẻ lạnh lùng, ít nói nhưng đời sống nội tâm của ông lại vô cùng sâu sắc, đậm đà. Phải chăng vì thế mà văn của ông vừa day dứt, vừa quằn quại, vừa thương, lại vừa trách hờn khiến người đọc đứng ngồi không yên. Đọc văn của Nam Cao người đọc như lạc vào một thế giới với những nhân vật kỳ dị, khác thường nhưng lại có những phẩm chất tốt đẹp thể hiện tư tưởng của nhà văn. Điều đó được thể hiện rất rõ qua tác phẩm Chí Phèo - một trong những tác phẩm được Nam Cao viết từ sớm. Nếu như ông được xem là nhà văn của nông dân cùng với Ngô Tất Tố thì cũng vì trước hết ông có Chí Phèo. Chí Phèo là một truyện ngắn đã thể hiện rất rõ cách nhìn nhận mới của Nam Cao về cuộc sống bần cùng hóa của người nông dân trước cách mạng. Không đi vào sưu cao thuế nặng, không đi vào nỗi khổ về vật chất mà cái nhìn của Nam Cao về người nông dân chính là nỗi khổ về gánh nặng, bi kịch tinh thần. Chí Phèo là một đứa trẻ ngay từ khi sinh ra đã bị bỏ rơi bên cạnh cái lò gạch cũ, được một anh đi thả ống lươn nhặt về nuôi rồi lớn lên qua sự truyền tay nhau của dân làng Vũ Đại. Chí Phèo lớn lên đã trở thành canh điền cho cụ Bá Kiến. Tuy bất hạnh nhưng Chí Phèo vẫn là một người lương thiện, hiền lành. Anh khỏe mạnh cày thuê làm mướn cho cụ Bá với tính cách chịu khó của một người nông dân, anh đã tự nuôi sống mình bằng chính đôi tay của mình. Anh có một ước mơ hiền lành lương thiện như bao người khác “có một gia đình nho nhỏ chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại nuôi một con lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”, một ước mơ rất đỗi bình dị làm sao. Ngoài ra Chí còn là một người giàu lòng tự trọng, khi bị bà Ba gọi lại bóp chân mà cứ đòi bóp cao lên nữa thì Chí thấy nhục hơn là thấy thích, là một con người sinh ra đã gánh lấy chữ bất hạnh vào mình thế nhưng Chí vẫn là một người tốt, sống trong cộng đồng của những người lương thiện. Khi nhìn thấy cảnh Chí Phèo bóp đùi của vợ mình, tên cáo già Bá Kiến đẩy anh vào tù, sau nhiều năm với sự nhào nặn của nhà tù thực dân Chí đã biến thành một con người hoàn toàn khác. Nếu như đọc Lão Hạc người
ta đọc xót xa bởi anh con trai của lão đi đồn cao su không biết sống chết thế nào bởi “cao su đi dễ khó về” thì đến với Chí Phèo sau những năm đi biệt tích thì lúc về không ai muốn Chí lại thành ra như vậy. Chí lần này trở về trông khác hẳn “cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, mặt đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết… trên tay chạm trổ những hình con rồng, con phượng...” Ngoại hình của Chí đã thay đổi hoàn toàn từ một người nông dân hiền lành, khỏe mạnh thì giờ trông hệt thằng săng đá. Mới về hôm qua, hôm nay đã thấy hắn ngồi uống rượu ở quán thịt chó từ sáng đến xế chiều… Chí chìm ngập trong những cơn say, ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, chửi trong lúc say, thức dậy vẫn còn say. Những cơn say đó cứ nối tiếp nhau thành một cơn say dài miên man không dứt. Chí say để làm gì? Phải chăng vì để trốn tránh quá khứ đau buồn. Nhưng không phải vậy, Chí say bây giờ là cảnh say của thằng lưu manh, say để rạch mặt ăn vạ, say để đến chửi lão Bá Kiến. Chí đến nhà Bá Kiến lúc đang say, rạch mặt ăn vạ khiến cho dân làng đổ xô đến xem. Chí chửi trời, chửi đất chửi dân làng Vũ Đại, chửi những ai không chịu chửi nhau với hắn, cuối cùng là chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ thế này. Và với cái ngoại hình của một thằng săng đá nên Chí đã bị loại bỏ khỏi cộng đồng người lương thiện nên đáp lại Chí chỉ là ba con chó dữ. Từ người Chí đã bị đánh tụt nhanh với con vật mà lại là con vật lạ, càng cho thấy sự “quái đảm với người, lạc loài với vật” của Chí Phèo. Hắn ăn vạ Bá Kiến nhưng với cái lão già khôn “dóc đời” thì việc thuần hóa Chí Phèo chỉ là một việc đơn giản, hắn đã nịnh Chí Phèo nhận họ hàng, thiết đãi cơm rượu cho Chí Phèo yên trí càng lún sâu vào tội lỗi, hắn đã mua chuộc Chí khiến Chí trở thành một công cụ đắc lực trong việc trị những kẻ muốn chống lại lão. Chí Phèo từ đó đã đi sâu vào tội lỗi, lún sâu vào ác nghiệt, làm chảy máu và chảy nước mắt của bao người dân vô tội. Trong mắt dân làng bây giờ hắn thực sự là một con quỷ dữ. Thế nhưng trong một đêm không may ăn nằm với Thị Nở trong bụi chuối, đến sáng hôm sau khi tỉnh dậy và lòng mơ hồ buồn. Hắn nghĩ về quá khứ, hiện tại và tương lai. Được một bàn tay phụ nữ chăm sóc, hắn dường như đã cảm động, mắt ươn ướt bởi từ lúc cha sinh mẹ đẻ đến giờ hắn chỉ đi phục vụ người khác chứ có ai chăm sóc hắn bao giờ đâu? Thị Nở là một người đàn bà xấu, ma chê quỷ hờn lại nghèo. Thế nhưng trong mắt Chí Phèo, Thị lại là một người phụ nữ đẹp, chỉ ăn cháo hành Thị nấu cho mà cảm động mà yêu Thị, thương Thị biết bao. Chí tỏ tình với Thị thật chân thành, bình dị mà cũng thật sâu sắc tình tứ: “Hay mình sang đây ở với tôi một nhà cho vui” và cũng chính Chí hiểu rằng Thị chính là cái cầu nối giúp Chí trở lại cộng đồng bằng phẳng của người lương thiện, giúp Chí trở lại là một anh thanh niên khỏe mạnh, hiền lành như trước kia và Chí muốn cùng Thị xây dựng một hạnh phúc gia đình như hắn đã mong muốn trước kia. Thế nhưng Thị Nở vốn là một người đàn bà dở hơi, sống với Chí Phèo được 5 ngày Thị mới nhớ rằng mình có một người bà cô, Thị về bày tỏ tâm sự của mình với bà cô. Lúc đầu, bà ta cứ tưởng cháu gái mình nói đùa thế nhưng nhận ra cháu mình vốn là một đứa dở hơi. Bà không đồng ý và quát mắng “đã nhịn đến này thì nhịn hẳn đi ai lại đâm đầu đi lấy thằng không cha như thằng Chí Phèo”. Bực tức, Thị sang trút hết những cơn giận dỗi lên Chí Phèo, ban đầu hắn tưởng là Thị đùa nên cười, nhưng lúc sau thì hắn lại nhận ra vẻ như thất vọng. Thị ra về, hắn chạy theo ôm lấy Thị, nhưng đáp lại người đàn bà ấy đã dúi cho Chí một cái ngã lăn khèo xuống sân. Chí đã hoàn toàn tuyệt vọng và tìm đến rượu, nhưng kỳ lạ thay lần này hắn càng uống càng tỉnh. Càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Bi kịch sinh ra là một con người nhưng lại không được chấp nhận là một con người. Chí nhận ra bi kịch ôm mặt khóc rưng rức, hắn cầm dao và đi đến nhà Thị Nở để định giết chết con khọm già và con đĩ Nở kia nhưng lương tri lại mách bảo hắn, đưa hắn đến nhà Bá Kiến. Bởi đây mới chính là kẻ thù cướp đi nhân hình và nhân tính của hắn.
Hắn đã đến và đòi Bá Kiến “Tao muốn làm người lương thiện” câu hỏi nhức nhối đó cứ ám ảnh trái tim người đọc và một nhát dao đã giải quyết tất cả, Chí giết chết Bá Kiến đồng thời cũng tự kết liễu cuộc đời mình. Nam Cao đã đi vào một bi kịch của con người, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người khác với Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… Họ đi vào nỗi khổ về vật chất, khi có chị Dậu có anh Pha người ta đã thấy cảnh của người nông dân thật khổ sở biết bao. Thế nhưng, khi Chí Phèo của Nam Cao ngất ngưởng bước ra thì người ta mới hiểu thế nào là khổ cùng cực. Đó chính là sự bị tước đoạt quyền làm người. Nổi khổ đau đớn, cay đắng, ám ảnh nhất như có bài thơ đã từng viết: “Nam Cao chết và Chí Phèo vẫn sống Nào có dài chi một kiếp người Nhà văn mất nhân vật từ trong sách Vẫn ngày ngày lăn lóc giữa trần ai.” Bên cạnh về cách nhìn nhận mới thì Chí Phèo cũng thể hiện một tình cảm mới của Nam cao, một tình cảm nhân đạo sâu sắc. Mối tình Thị Nở - Chí Phèo chính là sự xoa dịu cho độc giả. Nhà văn đã cho thấy nhân vật của mình một quãng thời gian hạnh phúc ngắn ngủi trong cuộc đời bất hạnh. Nhà văn đã thể hiện một cách sâu sắc niềm cảm thông của mình. Ông phát hiện ra trong cái lốt của một con quỷ dữ kia, phần người vẫn tiềm tàng. Chỉ cần một cơn gió tình yêu thổi qua là bùng cháy dữ dội. Đó chính là tấm lòng nhân đạo sâu sắc của một nhà văn dành cho nhân vật của mình. Bản chất của văn chương là sáng tạo, nhà văn phải biết khơi nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa ai có. Đó chính là một trong những điều kiện làm nên danh tiếng và tên tuổi của một nhà văn. Chí Phèo có thể coi như một “áng văn đáng thờ” vì nó đã phản ánh một cách nhức nhối hiện thực của người nông dân trước cách mạng. Đó là người nông dân bị tước đoạt cả nhân hình lẫn nhân tính. Tác phẩm văn học lớn hấp dẫn người ta bởi “cách nhìn nhận mới, tình cảm mới, về những điều, những việc mà ai cũng biết cả rồi” ý kiến đó của Nguyễn Đình Thi có thể xem là một tiêu chuẩn một thước đo để đánh giá những tác phẩm văn học đó là cách nhìn mới và tình cảm mới. Chí Phèo một áng văn hiện thực xuất sắc của Nam Cao, đáp ứng đủ những yêu cầu đó và có lẽ chính vì điều đó nên Chí Phèo mãi là một áng văn có giá trị lưu dấu ấn mãi trong trái tim người đọc hôm nay và cả mai sau. Bài văn mẫu 5 Phân tích Chí Phèo - Cái nhìn mới mẻ cùng những dư âm khó phai trong lòng người đọc Quả thực, giữa những ngã rẽ nhộn nhịp của “nghệ thuật” và “cuộc đời”, nhà văn hiện thực luôn là người dẫn dắt người đọc dấn thân vào một cuộc đời đau khổ, những vòng lặp luẩn quẩn bế tắc mà ẩn chứa bề sâu khôn cùng và mở ra những suy tư, trăn trở mới. Đến với Nam Cao, ta được chứng kiến tấn bi kịch đau thương tha hóa tính người trong xã hội cũ qua tác phẩm “Chí Phèo”. Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo vừa sâu sắc, mới mẻ, vừa độc đáo. Ông chuyên viết về hai đề tài: người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ và người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trước Cách mạng tháng Tám. Trong đó, “Chí Phèo” là một kiệt tác trong văn xuôi Việt Nam hiện đại được ông viết vào năm 1941. Mở đầu cho tác phẩm, tiếng chửi của Chí Phèo đã để lại ấn tượng sâu sắc về hình ảnh một kẻ say rượu, đang “vừa đi vừa chửi”. Chí chửi trời, trời cao quá không sao nghe được, Chí chửi đời, đời rộng quá bao la quá và cũng “chẳng là ai” và rồi Chí chửi ngay cả làng Vũ Đại nhưng chẳng ai trả lời vì họ nghĩ “chắc nó trừ mình ra”. Có lẽ với Chí Phèo, điều duy nhất mà Chí có thể đối thoại với cuộc đời là tiếng chửi. Và rồi, Chí lại cất tiếng chửi, “chửi đứa chết mẹ nào không chửi nhau với hắn”. Nhưng một lần nữa, thứ Chí nhận lại được chỉ là sự im lặng, sự thờ ơ đến rợn người. Chí chửi người có lẽ chỉ là cách để hắn thu hút sự chú ý, để được “làm hòa”, được giao tiếp, trò chuyện cùng mọi người. Đau đớn tột cùng là khi hắn cứ chửi “đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn”. Chí bấy giờ chỉ là một cái bóng, một kẻ tha hóa trong lòng người dân Vũ Đại, là một con quỷ dữ bên lề xã hội. Người dân trong làng không công nhận Chí là một con người, dù chỉ là người dưới đáy xã hội.
Cuộc đời yên lặng, lòng người lạnh lùng để lại một Chí Phèo với một khoảng không gian cô độc và sự cô đơn tuyệt đối, một con quỷ dữ “mồ côi” thiếu tình thương từ nhỏ và lớn lên không được làm người. Trước kia, Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Chí sinh ra là một đứa con hoang, bị bỏ rơi nơi lò gạch cũ khi vừa mới lọt lòng, được người làng truyền tay nhau nuôi, đến khi hắn đi ở cho Bá Kiến. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được cho là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm dục đáng khinh bỉ, nhục nhã. Nhưng Chí đã bị quật ngã ngay lúc Bá Kiến đẩy anh vào tù chỉ vì một cơn ghen bạo chúa và vô lý, bi kịch lưu manh hóa cũng bắt đầu từ đó. Khi Chí ra tù, chàng trai hiền lành, lương thiện mang theo sự biến đổi nhân hình và nhân tính đến tha hóa dị dạng. Từ một anh canh điền khỏe mạnh, Chí trở nên là một đứa “đặc như thằng săng đá”, với “cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm gườm”. Người ta tưởng như một con quỷ dữ về làng. Xã hội đã cướp đi nhân cách, bản tính lương thiện và cả ước muốn làm người của Chí Phèo. Hắn trở về từ nhà tù, biến thành một kẻ chuyên đi rạch mặt ăn vạ, hắn phá tan đi bao nhiêu gia đình ở làng Vũ Đại. Cả làng ai cũng sợ hắn, vì bộ mặt gớm ghiếc và hành động tàn bạo. Tính người trong Chí dường như đã cạn kiệt, linh hồn ác quỷ xâm chiếm và tàn phá anh nông dân hiền lành năm nào. Tưởng như Chí đã trượt dài và lún sâu trong tấn bi kịch đời mình, nhưng Nam Cao vẫn đủ tin tưởng và trái tim nhà văn vẫn rất nhân đạo khi “cố tìm mà hiểu” chất “người” trong tâm hồn của một kẻ mà phần “con” đã chiếm thế. Đó là lúc Chí gặp Thị Nở - một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Đêm hôm ấy, Chí Phèo uống rượu với Tự Lãng trong trạng thái cô đơn, điên khùng, đau đớn đến cùng cực của một kẻ bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. Chí phanh ngực, vừa đi vừa gãi, lần đường tìm về mảnh vườn và cái lều của hắn. Chính trong đêm trăng ấy, Chí đang “bứt rứt quá, ngứa ngáy quá” thì hắn bắt gặp thị Nở đang nằm ngủ, “cái mồm mụ há hốc lên trăng mà ngủ”. Chí Phèo đã xông tới người đàn bà “xấu ma chê quỷ hờn” mà không chút đắn đo. Đêm hôm ấy, hành động của Chí chỉ mang tính bản năng sinh vật ở một gã đàn ông say rượu. Nhưng thật kì lạ, sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và sự yêu thương mộc mạc, chân thành của thị Nở trở thành nguồn sáng ấm áp chiếu rọi vào trái tim của Chí Phèo, thắp lên ngọn lửa, khao khát được hoàn lương, được trở về với thế giới loài người của Chí. Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy “lòng bâng khuâng mơ hồ buồn”. Tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ cười nói, tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo đuổi cá... Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Lòng hắn buồn “Chao ôi là buồn!". Lương tâm hắn bị lay động. Tiếng vọng của đời thường đã đánh thức linh hồn Chí. Hắn nhớ lại những ngày xưa, một thời từng mơ ước, cái ước mơ bình dị của những người dân cày nghèo khổ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”, nuôi lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Càng hồi tưởng càng buồn càng lo âu. Ngoài bốn mươi tuổi đầu, Chí cảm thấy “đã tới cái dốc bên kia cuộc đời”, và hắn lo, hắn sợ “đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Chí Phèo bị cảm, bát cháo hành của thị Nở làm cho Chí Phèo gần như thay đổi hẳn. Lần đầu tiên hắn được nếm mùi cháo: “Trời ơi cháo mới thơm làm sao!”. Mấy chục năm qua, hắn muốn ăn thì phải dọa, phải cướp, thế mà “lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”. Và cũng là người đàn bà độc nhất trong làng Vũ Đại nhận biết bản chất lương thiện của Chí Phèo. Thị nhìn Chí Phèo ăn cháo hành rồi thét lên: “Ôi sao mà hắn hiền…”. Chỉ có thị Nở mới cảm nhận được: “hắn cười nghe thật hiền…” Chí Phèo vừa húp cháo hành vừa trìu mến nhìn thị Nở, rồi hắn vẩn vơ nghĩ gần nghĩ xa. Thằng lưu manh “chỉ
mạnh về liều”, sẽ có một lúc nào đó “không thể nào liều được nữa” thì bấy giờ mới nguy! Việc Thị Nở chăm sóc cho Chí khi bị cảm gió ngoài vườn thực ra chỉ là cử chỉ của một lòng tốt bình thường của một con người dành cho một con người. Nhưng trong cái thế giới ngày càng vô tình, tha hóa của làng Vũ Đại, đây là lòng tốt hiếm hoi duy nhất mà Chí nhận được kể từ ngày về làng. Vì thế nó quý giá, nó mới làm cảm động Chí Phèo sâu xa đến thế. Quả thật, cái mà nhân loại thiếu không phải một lòng tốt xa vời và hư ảo của một ông thánh, cũng không phải lòng tốt suông của những nhà lập thuyết viển vông: “Cái mà nhân loại thiếu, đó là một lòng tốt bình thường”, lời nói đó đã luôn vang lên như một điệp khúc khắc khoải trong tác phẩm của Rơmác. Đó là một cái nhìn sâu sắc với tấm lòng xót thương đầy tình người của Nam Cao đối với con người nghèo khổ, lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi. Linh hồn thức tỉnh, bản tính bị lấp đi dần dần lộ ra. Chí Phèo bỗng thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Hắn khao khát được mọi người “sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. “Vẻ đẹp không nằm ở đôi má hồng của người thiếu nữ mà ở trong mắt của kẻ si tình”. Người phụ nữ ấy xấu ma chê quỷ hờn đấy nhưng Chí “say thị lắm!”. “Với một vẻ mặt rất phong tình”, hắn bảo thị Nở: “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Câu nói ấy đã biểu lộ chân tình cái khao khát muốn được làm người, “thèm lương thiện” và “muốn làm hòa với mọi người” của Chí Phèo. Có nghe hắn chửi, có nhìn thấy hắn rạch mặt, ăn vạ, có mục kích hắn say rượu vác dao đi đâm người… thì ta mới thấy xúc động vô cùng trước những khao khát bình dị ấy của Chí Phèo, của con người đau khổ bất hạnh! Câu trả lời của thị Nở sẽ quyết định số phận của hắn. Ngô Văn Giá đã từng nhận xét thị Nở là “một khối không đồng nhất giữa các mặt của một tính cách”, thị vừa hồn nhiên, giàu tình cảm lại vừa mong manh dễ vỡ, dễ đổi thay. Và bị kịch lại một lần nữa xuất hiện, con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa được hé mở ra đã bị đóng sầm lại! Bà cô đã đay nghiến thị Nở, bà thấy cháu bà "sao mà đĩ thế?”. Bà quyết không cho phép cháu bà “đi lấy một thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Nhưng làm sao trách được khi mọi người làng Vũ Đại lâu nay nhìn Chí chẳng khác nào con quỷ mang hình người. Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần, đau đớn, quằn quại. Hắn “ngẩn người” khi nhìn và nghe Thị nói. Hắn “sửng sốt” đứng lên gọi Thị. Hắn đuổi theo “nắm lấy tay” Thị nhưng bị thị gạt ra, dúi thêm cho một cái ngã “lăn khoèo xuống sân”. Ấy là lần duy nhất hắn níu kéo một mối quan hệ người cũng là giây phút thảng thốt, chới với của một sinh linh đáng thương biết mình đã bị ruồng bỏ. Kẻ không nhận ra nỗi đau của mình sẽ không thể cảm thấy đau được, nhưng Chí Phèo đã không còn say nữa, cho dù uống rượu thì hắn “càng uống càng tỉnh”, lương tri đã tìm về và hắn đủ tỉnh táo để nhận ra bi kịch của mình. Ấy là lần duy nhất hắn níu kéo một mối quan hệ người cũng là giây phút thảng thốt, chới với của một sinh linh đáng thương biết mình đã bị ruồng bỏ. Như Nam Cao đã từng nói: “Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ ngoài kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Giờ đây, nỗi đau tột cùng của Chí như vang vọng khắp câu chữ. Nó đã chuyển hóa thành sự căm phẫn tột độ. Hắn phải “đâm chết con đĩ Nở kia”, “đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Hắn lại uống, lại uống… nhưng “càng uống càng tỉnh ra”, tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình: quyền làm người được sống lương thiện đã bị xã hội và đồng loại dứt khoát cự tuyệt. Rồi “hắn ôm mặt rưng rức” cho đến khi đã say mềm người rồi hắn đi. Hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng với câu nói lảm nhảm: “Tao phải đâm chết nó”. Có lẽ, hắn đã biết kẻ thù của hắn đang ở đâu, kẻ đã gây ra bi kịch cho cuộc đời hắn, khiến hắn phải bán đi linh hồn của mình để rồi suốt đời quẩn quanh, bế tắc trong vòng tội lỗi. Đó chính là Bá Kiến - ngọn nguồn của mọi tội lỗi trong cuộc đời Chí.
Nam Cao cũng giống như Ngô Tất Tố đã thấy trước cái không khí không yên ổn ở nông thôn ta lúc bấy giờ. Đó là mối xung đột giai cấp giữa nông dân và tầng lớp thống trị, giai cấp địa chủ độc ác, khôn lỏi như Bá Kiến tuy im ỉm ngấm ngầm nhưng thực chất có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Và cái chết của Bá Kiến chính là một minh chứng rõ ràng cho mối xung đột lên tới đỉnh điểm. Chính vào buổi trưa “trời nắng, đường vắng” ấy, Chí Phèo lần thứ ba đến gặp Bá Kiến “không đòi tiền” như mọi khi mà đòi lương thiện, đòi quyền “làm người lương thiện!”. Câu nói của Chí Phèo: “… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được hết những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!…”, đó là những lời đanh thép vạch mặt, kết án tên cường hào xảo quyệt Bá Kiến, đồng thời là tiếng kêu thương tuyệt vọng của một kiếp người đau khổ! Chí Phèo “văng dao tới” giết Bá Kiến rồi tự sát. Chí đã giết chết con quỷ dữ làng Vũ Đại đã làm hại đời anh. Chí không thể sống kiểu lưu manh, không thể làm quỷ dữ, sống như thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết bi thảm, quằn quại trên vũng máu của mình, chết trong tiếng kêu uất hận đau thương, đầy xót xa ám ảnh. Anh ta đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa cuộc đời đóng chặt trước mặt anh. Đó là khi nào xã hội còn tồn tại cường quyền bạo ngược thì cuộc sống của người nông dân vẫn mãi không thể ngóc đầu lên được. Người dân làng cứ bàn tán xôn xao mà chẳng biết nguyên nhân Chí Phèo giết Bá Kiến rồi tự tử, họ cũng chẳng ngờ rằng vẫn còn những thế lực như Bá Kiến tồn tại ngất ngưởng ở trên đời. Thế cho nên cuộc sống của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám thực sự mãi là một vòng bi kịch lẩn quẩn trong ao tù bế tắc. “Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm”. Chi tiết cuối cùng của tác phẩm lại là hình ảnh “cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại...” là một ám ảnh về nỗi buồn nhân sinh của Nam Cao. Nơi đó, thằng bé Chí đã từng bị vứt vào đời, bị cuộc đời chối bỏ. Cái lò gạch cũ là chứng tích của bao số phận bất hạnh, như là bản cáo trạng về một xã hội thù địch với những khát vọng làm người lương thiện, không thừa nhận tình người tình yêu vượt qua khuôn phép. Nam Cao đã kết thúc tác phẩm bằng nỗi buồn dằng dặc của những kiếp người mà ngay lúc ra đời đã là một sự vô nghĩa lý. “Khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta mới thấy đây là hiện thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là cùng khổ của người dân cày trong một xã hội thuộc địa: bị dày đạp, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình.” (Nguyễn Đăng Mạnh). Tác phẩm “Chí Phèo” mang giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện tấm lòng yêu thương, trân trọng của Nam Cao đối với những người khốn khổ. “Chí Phèo” còn là tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh. Hãy bảo vệ và đấu tranh cho quyền được làm người của những con người lương thiện. Họ phải được sống và sống hạnh phúc, không còn những thế lực đen tối của xã hội đẩy họ vào chỗ cùng khốn, bế tắc, đầy bi kịch xót xa. “Chí Phèo” là một tác phẩm văn học chân chính như trong quan niệm của Nam Cao: “Tác phẩm văn học có giá trị là tác phẩm phải thể hiện nỗi đau của con người, nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình, nó làm cho người gần người hơn”. Nam Cao đã thể hiện ngòi bút tài tình của mình qua nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình như Bá Kiến, Chí Phèo, vừa tiêu biểu cho những loại người có bề dày trong xã hội, vừa là những cá tính độc đáo và có sức sống mạnh mẽ. Tâm lí nhân vật được miêu tả thật tinh tế sắc sảo, tác giả có khả năng đi sâu vào nội tâm để diễn tả những diễn biến tâm lý phức tạp của nhân vật. Bên cạnh đó, ngôn ngữ kể chuyện vừa là ngôn ngữ tác giả, có khi vừa là ngôn ngữ nhân vật. Tác giả như nhập vai vào từng nhân vật, chuyển từ vai này sang vai khác một cách linh hoạt, tự nhiên. Lev Tolstoy đã từng thắc mắc: “Khi một nhà văn mới xuất hiện, chúng ta bao giờ cũng tự hỏi: Anh ta là người như thế nào? Liệu anh ta có mang lại điều gì mới trong cách nhìn đời của chúng ta?”. Và câu trả lời đã được phơi bày khi Nam Cao xuất hiện trong giới văn học.
Qua tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao đã đem lại cái nhìn mới mẻ cũng những dư âm khó phai trong lòng người đọc. Trong tâm niệm còn nguyên vị đắng của cuộc đời quẫn bách, ta vẫn tìm thấy ở Nam Cao niềm tin và tình yêu thương của ông dành cho người nông dân cùng khổ nơi Chí Phèo. Hắn như sống mãi trong những trang sách, trong vị đắng chát của cuộc đời nghiệp ngã và trong trái tim luôn thổn thức của người đọc, thắp lên trong tim ta ngọn hải đăng sáng lòa giữa mịt mùng biển khơi để soi lối cho ta tìm về với cõi trong trẻo, hồn hậu, thẳm sâu của lương thiện. Bài văn mẫu 6 Phân tích Chí Phèo - tác phẩm phơi bày bộ mặt xã hội đen tối, bất công "Chí Phèo" chỉ là một truyện ngắn và là một truyện ngắn sáng tác trong những ngày đầu mới cầm bút của Nam Cao viết về đề tài nông dân, nhưng tác phẩm chính là sự tổng hợp, kết tinh đỉnh cao của ngòi bút nhà văn. Có thể nói rằng, "Chí Phèo" là một bản án cáo trạng đanh thép đối với một xã hội phong kiến đầy bất công đã đẩy người nông dân vào con đường bần cùng hóa trước Cách mạng. Đồng thời, tác phẩm cũng là một câu chuyện chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Trước hết, tác phẩm "Chí Phèo" của Nam Cao đã khắc họa tấn bi kịch của người nông dân trước Cách mạng. Trong tác phẩm này, Nam Cao không đi vào nạn sưu thuế hay thiên tai dịch họa mà nhà văn lại hướng đến một phương diện khác, đó là hình tượng người nông dân cố cùng bị xã hội phá hủy về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính và bị phủ nhận tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo chính là bị cướp đi hình hài của một con người, bị đẩy ra khỏi xã hội loài người và phải sống kiếp sống đớn đau như thú vật. Chí từ một anh canh điền lương thiện khỏe mạnh, vì hầu hạ bà Ba, khiến cụ Bá ghen ghét đẩy vào lao tù. Từ đây, con đường tha hóa của người nông dân chất phác bắt đầu như trượt dốc không phanh. Ra khỏi tù, người ta không nhận ra thằng Chí Phèo trước đây nữa mà thay vào đó là một hình hài quỷ dữ: "Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm [...]. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!" Với ngòi bút hiện thực, nhà văn Nam Cao đã chỉ ra rằng, để tồn tại thì những người nông dân hiền lành khốn khổ đã dần trở nên lưu manh hóa và bất cần. Họ không chỉ bị tha hóa về nhân hình mà còn bị tha hóa cả về nhân tính. Ở tù về, Chí như biến thành một con quỷ dữ, chuyên rạch mặt ăn vạ, la làng ầm ĩ. Trở thành tay sai đòi nợ cho Bá Kiến: "Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện". Không những thế, những hành động dã man ấy hắn đều làm trong lúc say: "ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, [...] đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say". "Những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang" khiến cho hắn chưa bao giờ tỉnh táo để ý thức về những việc mình đã và đang làm. Chính vì trở thành "con quỷ dữ của làng Vũ Đại" mà tất cả mọi người đều cố tránh xa hắn, ngay cả khi hắn "kêu làng, không bao giờ người ta vội đến" bởi đã quá quen với cảnh hắn la làng ăn vạ. Không ai thèm chửi nhau với hắn, không ai công nhận hắn, ngay cả Thị Nở - người phụ nữ "xấu ma chê quỷ hờn" cũng không cần hắn. Khi ấy, hắn mới tỉnh ngộ nhận ra bi kịch thê lương của mình: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Hắn kêu lên: "Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa". Đó là những câu hỏi đầy cay đắng và không có lời giải đáp. Lương thiện của con người là ở trong chính mỗi người chúng ta. Vậy mà Chí lại phải đi "đòi" lương thiện. Chính cái xã hội vô nhân tính đã cướp mất lương thiện và còn khốn nạn hơn, ngay cả cái quyền được làm một con người tử tế cũng bị xã hội ấy tước đoạt mất. Qua tấn bi kịch của Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã cho người đọc thấy một hiện thực xót xa về cuộc sống và số phận của người nông dân trước Cách mạng. Đó chính là cuộc sống bế tắc và bần cùng, người nông dân từ tha hóa đã dẫn đến lưu manh hóa.
Phản ánh bi kịch ấy, nhà văn Nam Cao cũng chỉ rõ nguyên nhân là mẫu thuẫn xã hội sâu sắc đã đẩy người nông dân đến bước đường cùng. Trong tác phẩm, một bên, nhà văn xây dựng hình tượng giai cấp phong kiến thống trị mẫu thuẫn với một bên là người nông dân lương thiện nghèo đói. Hình tượng điển hình cho giai cấp phong kiến thống trị ở nông thôn chính là nhân vật Bá Kiến. Chân dung lão cường hào cáo già Bá Kiến dần dần hiện rõ trong tác phẩm những nét tính cách được thể hiện hết sức sinh động, đầy ấn tượng. Đó là cái lối quát "rất sang", lối nói ngọt nhạt và nhất là "cái cười Tào Tháo". Chính sách cai trị của hắn rất khôn ngoan, rảo hoạt: "mềm nắn, rắn buông", "bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu", "chỉ bóp đến nửa chừng" và "hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại vớt nó lên để nó đền ơn", dùng thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò, bởi "Khi cần đến chỉ cho nó dăm hào uống rượu là có thể sai nó đến tác oai tác quái bất cứ anh nào không nghe mình"... Tất cả đã cho thấy tâm địa thâm độc tới ghê sợ của Bá Kiến, lợi dụng cái ác để trục lợi cho mình và dùng cái ác để làm nên cái ác lớn hơn. Trong khi giai cấp thống trị lọc lõi khôn đời thì người nông dân thấp cổ bé họng lại lâm vào đường cùng, trở thành nạn nhân bị bóc lột và bị đẩy vào con đường tha hóa đến tội nghiệp. Bị đẩy vào tù một cách oan ức, ra tù, Chí muốn tìm đến nhà Bá Kiến để tính sổ. Vậy mà từ chỗ hung hăng đòi "liều chết với bố con" lão Bá Kiến, chỉ sau mấy câu ngọt nhạt và mấy hào lẻ của cụ Bá, Chí Phèo đã trở thành một tên tay sai mới của lão. Xây dựng nên hình tượng nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã cho người đọc thấy được số phận, tình cảnh của người nông dân trước Cách mạng bị xã hội phong kiến đầy bất công đẩy vào con đường tha hóa, bị tước hết giá trị và tư cách của một con người. Mâu thuẫn giữa người nông dân và giai cấp địa chủ ấy được đẩy lên cao trào khi mà Chí đã nhận ra người đã đẩy mình đến cảnh tha hóa chính là Bá Kiến và người cần giết cũng chính là lão ta. Tuy Chí Phèo đã thức tỉnh được tình cảnh tha hóa của mình và nhận diện được kẻ thù của mình nhưng lúc đó đã là quá muộn. Đây cũng chính là một bi kịch đau đớn của người nông dân và của một con người. "Chí Phèo" là một bản cáo trạng đanh thép đối với xã hội phong kiến bất công đã đẩy con người ta và con đường tha hóa cùng cực nhất. Tuy vậy, nhưng tác phẩm cũng là một minh chứng về tình yêu thương và sự thực tỉnh lương tri của con người. Tình cờ gặp Thị Nở trong một đêm say đã khiến Chí trở thành một con người khác. Sáng hôm sau tỉnh dậy, Chí cảm thấy bao nhiêu điều mới mẻ: thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng huyên náo của những ngwoif đàn bà đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Hắn thấy lòng "bâng khuâng", "mơ hồ buồn" và lần đầu tiên cảm thấy sợ tuổi già, đói rết, ốm đau và cô độc. Được Thị Nở chăm sóc, thương yêu, hắn bỗng nhớ lại mơ ước về một mái ấm gia đình "chồng cày thuê cuốc mướn, vợ ở nhà dệt vải" thời trai trẻ. Có thể thấy rằng, dù Thị Nở là người đàn bà dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn nhưng lại là người không hề chê bai Chí, là người săn sóc, quan tâm đến anh ta một cách dịu dàng và ân cần nhất. Chính tình yêu ấy làm cho "Xấu mà e lệ thì cũng đáng yêu", làm cho con quỷ dữ bao năm đã biến mất, thay vào đó là một con người khao khát lương thiện, khao khát làm người chân chính. "Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui" như một lời cầu hôn của Chí với Thị Nở. Bày tỏ mong muốn ấy một cách rất chân thực, giản dị mà chất phác đúng kiểu một anh nông dân, Chí mong muốn được làm lại từ đầu, được sống một cuộc đời khác, cuộc đời bình dị giống như bao người mà Thị Nở chính là cầu nối, là người vun trồng cùng hắn xây dựng. Phải nói rằng, tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết đắt giá để qua đó thể hiện ý nghĩa của sự hồi sinh và khẳng định sức sống của thiên lương, lương thiện trong mỗi con người. Phát hiện và miêu tả tài tình sự thức tỉnh lương tri của Chí Phèo chính là một thành công nghệ thuật đặc sắc của Nam Cao. Thế nhưng, điều đáng nói là con người đã biết hoàn lương nhưng xã hội ấy lại không thể nào chấp nhận lại họ được nữa.
Chí Phèo vừa mới mơ ước về một gia đình thì đã bị bà cô Thị Nở tạt ngay cho một gáo nước lạnh. Chí hiểu rằng, mình có cố gắng làm sao đi nữa thì cũng không thể xóa hết những tội lỗi mà mình gây ra, không thể nào mà trở về hòa nhập với cuộc sống được nữa. Ý thức được điều này, cũng là ý thức được kẻ gây ra bi kịch cho mình, Chí đã tìm đến nhà Bá Kiến kết liễu lão ta và cả chính mình. Điều này là tất yếu bởi lẽ, cánh cửa hoàn lương của Chí đã đóng sầm trước mắt. Để giải quyết sự bế tắc đó, Chí chỉ còn cách là kết thúc cuộc đời mình và kẻ gây nên tội ác. Cái chết ấy là cái chết của một bi kịch đau đớn trước ngưỡng cửa trở về làm người, là tiếng kêu cứu về quyền làm người. Với tác phẩm "Chí Phèo", Nam Cao không chỉ phơi bày bộ mặt xã hội đen tối, bất công mà nhà văn còn đồng cảm với những bi kịch khổ đau của người nông dân thấp cổ bé họng trước Cách mạng. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của con người và khao khát thay đổi thực tại để vươn đến một cuộc sống tốt đẹp hơn. Bài văn mẫu 7 Phân tích tác phẩm Chí Phèo - khám phá về nội dung và phát minh sáng tạo về hình thức của Nam Cao Nam Cao là một nhà văn luôn thành công ở hai phương diện của sáng tác đó là khám phá về nội dung và phát minh sáng tạo về hình thức. Chính điều đó đã nâng tầm vóc nhà văn Nam Cao thành một nhà văn lớn, một tác gia lớn của nền văn xuôi hiện đại. Truyện ngắn Chí Phèo (1941) đã được xếp vào hàng kiệt tác bởi Nam Cao đã “khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có” cả về nội dung và nghệ thuật. Ở tác phẩm này nhà văn Nam Cao đã thể hiện được một trình độ bậc thầy về nghệ thuật xây dựng nhân vật sống động, khám phá miêu tả sâu sắc tâm lí nhân vật, kết cấu tác phẩm một cách độc đáo và có một vốn ngôn ngữ phong phú sinh động cho mọi loại hinh nhân vật. Theo dõi từng trang truyện ngắn đặc sắc này chúng ta sẽ thấy rât rõ tài nghệ đó của Nam Cao. Nói đến văn xuôi là nói đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, mỗi nhà văn có một cách thể hiện khác nhau và thành công ở những mức độ khác nhau. Đối với nhà văn Nam Cao ở tác phẩm này thì ông đã xây dựng được thành công cả tuyến nhân vật chính diện và phản diện và không những thành công mà thành công ở cấp điển hình. Về các nhân vật phản diện, nhà văn tập trung vào ba nhân vật đó là Bá Kiến, Lí Cường và Đội Tảo. Trong đó tác giả tập trung khắc họa bản chất của nhân vật Bá Kiến, Bá Kiến thức sự là một con hổ biết cười. Đối với một con mồi như Chí Phèo khi thì Bá Kiến nhỏ nhẹ để làm mềm nhũn Chí Phèo, có khi thì Bá Kiến doạ nạt bằng những lời lẽ có gang có thép. Ngoài cái thủ đoạn đó thì Bá Kiến được tác giả liệt kê ra nhiều thủ đoạn thâm độc xảo quyệt. Với những nét khắc họa đó nhà văn đã dựng lên được một Bá Kiến rất sống động, rất điển hình cho bọn cường hào ác bá ở nông thôn trước cách mạng tháng Tám. Về nhân vật chính diện, nhà văn tập trung vào hai nhân vật và mối quan hệ của hai nhân vật đó là Chí Phèo và Thị Nở. Hai nhân vật này có số phận khác nhau nhưng lại làm sáng tỏ cho nhau. Trong đó Thị Nở thực chất là nhân vật để làm nổi bật con người Chí Phèo, bi kịch Chí Phèo. Chí Phèo hiện hình dưới ngòi bút của Nam Cao có số phận rất duyên từ xuất thân đến đời sống, nhưng Chí Phèo là nhân vật điển hình vì bên cạnh Chí Phèo còn có Năm Thọ, Binh Chức là những hình đồng dạng với Chí Phèo. Có thể khẳng định thành công nhất về mặt nghệ thuật của tác phẩm Chí Phèo là xây dựng được hai điển hình văn học, trong đó điển hình nổi bật nhất là nhân vật Chí Phèo. Nói đến văn xuôi là nói đến nhân vật, nói đến nhân vật là nói đến tâm lí tính cách nhân vật. Nói đến tác phẩm Chí Phèo là người ta nghĩ ngay đến cái tinh tế của nhà văn trong việc phát hiện ra được những nét tâm lí rất thật rất đúng của những con người tưởng là không có những nét tâm lí đó. Mỗi nhân vật sở dĩ thành công bởi những nét tâm lí tính cách khác nhau. Tâm lí của Bá Kiến là biết tâm lí của người đời, biết mềm nắn rắn buông, tâm lí của vợ Bá Kiến là hiếu kì lẳng lơ, tâm lí của người nông dân là sợ tai họa. Khả năng miêu tả
tâm lí sâu sắc nhất của Nam Cao trong tác phẩm này là đã khám phá được diễn tả được tâm lí của nhân vật chính đó là Chí Phèo và Thị Nở. Người đọc rất tâm đắc với nhà văn rất cảm phục nhà văn khi Nam Cao phát hiện được tâm lí của Chí Phèo khi gặp Thị Nở. Khi Chí Phèo nhận được bát cháo hành từ tay Thị Nở, Chí Phèo từ ngạc nhiên rồi sau đó là mắt ươn ướt cảm động và tiếp đến là có cái gì đó như là ăn năn muốn làm hòa với mọi người rồi làm nũng với Thị như với mẹ, đó là những nét tâm lí rất thật của những con người muốn được tái sinh. Cái sâu sắc của Nam Cao chính là chỗ đó. Một biểu hiện nghệ thuật độc đáo của tác phẩm đó là cách tổ chức kết cấu tác phẩm. Đó là một cách kết cấu vừa linh hoạt vừa độc đáo vừa đa dạng. Cái độc đáo đầu tiên của kết cấu tác phẩm là tác giả đã đảo ngược thời gian đi từ hiện tại rồi đến quá khứ rồi đến hiện tại. Một biểu hiện của kết cấu không mới nhưng lại rất hợp lí ở tác phẩm này đó là kết cấu theo lối khép kín. Nhà văn mở đầu tác phẩm bằng một lò gạch cũ nơi Chí Phèo ra đời rồi kết thúc tác phẩm cũng một lò gạch cũ với một sự liên tưởng một Chí Phèo con sắp ra đời. Cái vòng luẩn quẩn của cuộc đời Chí Phèo vẫn cứ tiếp diễn đó là vòng luân hồi nhưng lại bế tắc. Ý nghĩa của tác phẩm toát ra rất sâu sắc từ kết cấu này. Ngoài hai kiểu kết cấu trên nhà văn đã tổ chức được một sự đa dạng của hành văn khi thì độc thoại khi thì đối thoại, khi thì kể, khi thì tả, khi thì tường thuật. Một phương diện nghệ thuật mà nhà văn rất thành công ở truyện ngắn Chí Phèo, đó là cách sử dụng ngôn ngữ rất phù hợp với từng đối tượng nhân vật. Ngôn ngữ của bọn Bá Kiến, Lí Cường là ngôn ngữ của bọn bề trên khi mềm mỏng khi đanh rắn rất biến hóa. Ngôn ngữ của các nhân vật như Chí Phèo, Thị Nở thì rất quê mùa có khi là tục tằn thô lỗ đó là loại ngôn ngữ phù hợp với tính cách nhân vật. Nhìn chung tác phẩm viết về đề tài người nông dân nên ngôn ngữ mà tác giả sử dụng trong tác phẩm là loại ngôn ngữ bình dân chân quê, rất phù hợp với cảnh và tình của tác phẩm. Truyện ngắn Chí Phèo là một trong những truyện ngắn xuất sắc tiêu biểu của văn học hiện thực trước cách mạng tháng Tám nói chung và của nhà văn Nam Cao nói riêng. Tác phẩm này thành công trên nhiều phương diện cả nội dung và hình thức, nhưng đặc biệt nhất vẫn là nghệ thuật xây dựng kết cấu tác phẩm. Cùng một vấn đề rất phổ biến của xã hội lúc bấy giờ nhưng với tài nghệ của mình Nam Cao dẫn điển hình hóa được cả hai loại nhân vật chính diện và phản diện. Đọc tác phẩm này chúng ta vừa cảm phục được cái tâm của tác giả lại vừa cảm phục cái tài của tác giả. Cái tâm và cái tài đó là tiền đề để nhà văn thành công ở tác phẩm này. Bài văn mẫu 8 Phân tích Chí Phèo bài văn được đánh giá cao của học sinh chuyên văn Nam Cao là nhà văn tiêu biểu với những sáng tác về người nông dân, tác phẩm Chí Phèo được coi là kiệt tác, khẳng định tài năng và phong cách nghệ thuật của ông. Nhà văn đã dựng lên bức tranh về cuộc sống của những người nông dân dưới sự áp bức của địa chủ cường hào, đã đẩy họ con đường tha hóa và xuống tận cùng của xã hội. Truyện Chí Phèo đã tái hiện lại hình ảnh nông thôn Việt Nam, của xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Xã hội này được đặc trưng, một bên bởi những bộ mặt như Bá Kiến, Lí Cường, Đội Tảo, Bát Tùng và những bè đảng xung quanh chúng, sống phè phỡn, gian ác, bạo ngược, vừa “du lại với nhau để bóc lột con em, nhưng ngấm ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở để mà trị nhau”; một bên là đông đảo những người dân quê thấp cổ bé họng, nơm nớp lo sợ, nhẫn nhục, quanh năm đầu tắt mặt tối vẫn không đủ ăn. Tầng lớp những người như Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức họp thành một nhóm riêng. Họ là những dân thường, những người lao động nghèo, nhưng đã lưu manh hóa, bị mua chuộc và trở thành tay sai của bọn cường hào, lí dịch, gây nên không biết bao nhiêu tai vạ cho những người lương thiện. Dưới ngòi bút của Nam Cao, bức tranh xã hội hiện ra đầy kịch tính, chất chứa những xung đột bùng nổ. Thông qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã trực tiếp nêu lên vấn đề con người bị tha hóa, bị vong thân, mất nhân tính, nhân cách vì bị áp bức bóc lột, vì đói khổ, cùng cực.
Tác giả đã mổ xẻ vấn đề cuộc sống và số phận mỗi con người, ý thức về quyền sống, quyền làm người, ý thức về nhân cách, nhân phẩm ngay ở những con người bị cộng đồng khinh bỉ, hắt hủi, gạt ra bên lề xã hội, ngay ở một “thằng cùng hơn cả dân cùng”, tưởng như đã bị hủy hoại hoàn toàn cả nhân hình và nhân tính. Bên cạnh đó, truyện Chí Phèo còn giúp người đọc có cơ sở để chia sẻ với những dằn vặt, đau khổ của con người khi không được làm người, chỉ mong ước được sống bình thường, “được làm người lương thiện” như mọi người khác mà không được. Sự kết hợp hai mặt xã hội và nhân bản trong chủ đề mà truyện ngắn Chí Phèo đặt ra càng làm cho tác phẩm này có giá trị văn học sâu hơn, có sức ngân vang lớn hơn. Các nhân vật trong truyện của Nam Cao đều có những nét tính cách đặc sắc, từ Chí Phèo, Thị Nở, cho đến Bá Kiến, Lí Cường, Năm Thọ, Binh Chức, Đội Tảo, Tự Lãng, bà cô Thị Nở… Tất nhiên, trong các nhân vật này, gây ấn tượng mạnh mẽ nhất ở người đọc là Chí Phèo, Bá Kiến, Thị Nở. Mỗi nhân vật đúng là một cá tính, là “con người này”, không lẫn vào đâu được, với ngoại hình và tính cách riêng, lối sống riêng, ngôn ngữ riêng, số phận riêng, đồng thời lại tiêu biểu cho một loại người nào đó về mặt xã hội, sinh hoạt, tâm lí. Bá Kiến là điển hình của bọn lí dịch cường hào ở nông thôn. Chúng đều có những nét chung: hống hách, gian ác, dâm ô, đầy thủ đoạn mưu mô để giành giật và củng cố chức quyền cho cá nhân và con cái, đục khoét, ức hiếp dân lành, hãm hại những kẻ không ăn cánh và chống đối. Bá Kiến càng tỏ ra ranh ma quỷ quyệt trong nghề làm tổng lí, đặc biệt khi phải đối phó với những tên vai vế tranh chấp chức quyền với hắn hoặc những kẻ cố cùng liều thân. Tùy người, tùy việc, y biết lúc nào thì quát tháo, dọa nạt, lúc nào thì nhẹ nhàng, dụ dỗ, mua chuộc. Chính nhờ vậy lão mới thực hiện được mọi ý đồ đen tối của mình, khuất phục được bọn đầu bò đầu bướu, hạ được các phe cánh đối nghịch trong làng, quyền thế ngày càng thăng tiến và vững vàng. Con người khôn ngoan lõi đời ấy đã khống chế lừa bịp được Chí Phèo lâu dài, nhưng cuối cùng đã bị Chí Phèo giết chết, vì từ trong thâm tâm, trong tiềm thức, Chí đã nhận ra lão chính là kẻ thù của mình, kẻ đã tước đoạt quyền làm người của mình. Đối với Bá Kiến thì Chí Phèo cũng chỉ là một trong số những tên dân cùng liều lĩnh như Năm Thọ, Binh Chức, cho nên cách xử sự của lão đối với Chí Phèo nói chung cũng giống “sách lược” đối với hạng đầu bò đầu bướu: dọa nạt, trấn áp công khai hoặc ngấm ngầm; hoặc nếu cần thì vô hiệu hóa, mua chuộc, lợi dụng làm tay chân. Và Chí Phèo cũng như Năm Thọ, Binh Chức đều biết rõ bản chất, chỗ mạnh và chỗ yếu của Bá Kiến và hạng người như lão. Nhưng Chí Phèo phục vụ cho Bá Kiến lâu dài hơn, đắc lực hơn, ngay từ lúc là một anh canh điền chất phác, khỏe mạnh và cả sau khi đi tù về trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chí Phèo cũng bị lão hành hạ, đày đọa, làm nhục nhiều hơn. Và do vậy, Chí Phèo hiểu rõ lão hơn, nặng oán thù hơn đối với lão. Lúc tỉnh táo, Chí Phèo đã ý thức rõ về cảnh tủi nhục phải hầu hạ mụ vợ ba của Bá Kiến, về chuyện bị Bá Kiến hãm hại đẩy vào tù. Sau khi ở tù ra, hắn đã biến thành một con người khác. Từ một thanh niên hiền lành, rụt rè, hắn đã biến thành một tên lưu manh, liều lĩnh, hung dữ, rượu chè say khướt, chửi bới suốt ngày. Nhưng lúc tỉnh cũng như lúc say, trong ý thức và trong tiềm thức, hắn vẫn không bao giờ quên Bá Kiên. Bá Kiến đúng là nỗi ám ảnh của hắn. Trong suốt thiên truyện, tác giả chỉ miêu tả ba lần Chí Phèo gặp Bá Kiến, sau khi hắn ở tù ra. Lần thứ nhất, sau khi uống rượu say, hắn xách một cái vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến gọi tên tục của lão ra mà chửi. Hắn định đến để gây sự. Gây sự, chửi bới, chống đối một người như Bá Kiến vừa để thỏa sự căm giận, vừa có dịp để lên mặt với những người xung quanh, vừa có thể vòi tiền uống rượu. Với một người như Chí Phèo, một người mà sự liều lĩnh hung dữ là một cách để tự giới thiệu mình, để tồn tại và cũng là để che đậy sự sợ hãi cố hữu, thì không có gì có thể nói trước được về dự định và hành động. Tất cả tùy thuộc vào tình huống cụ thể.
Gặp Lí Cường, bị Lí Cường quát mắng, tát tai, hắn rạch mặt, la làng, lăn đùng ra ăn vạ. Nhưng khi Bá Kiến “dịu dàng” chào hỏi, mời mọc, tỏ vẻ ân cần săn sóc, cho tiền, thì hắn lại nguôi ngoai, thích chí, hả hê. Lần thứ hai, sau khi uống rượu say, hắn lại ngật ngưỡng đến nhà Bá Kiến nói là để đòi nợ. Gặp Bá Kiến, hắn xin đi ở tù, vì “ở tù còn có cơm ăn, còn ở làng ở nước thì không làm gì nên ăn, không mảnh đất cắm dùi”. Và, tất nhiên, kèm theo yêu cầu kì quặc ấy, là những lời dọa dẫm úp mở mà Bá Kiến rất hiểu rõ. Nhưng lần này lão Bá Kiến khôn ranh lại đẩy Chí Phèo đi đòi nợ Đội Tảo cho lão. Lão nghĩ bất kì kết cục nào cũng đều có lợi cho lão. Ngẫu nhiên, Chí Phèo lại đòi được nợ và được Bá Kiến cho mấy sào vườn ở bãi sông cắm thuê của một người làng trước đó. Và cũng từ đó, Chí Phèo bao giờ cũng say và khi hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm, gây ra bao nỗi khiếp sợ và tai vạ cho dân làng. Lần thứ ba, Chí Phèo gặp Bá Kiến sau khi bị Thị Nở từ chối không nhận làm vợ hắn. Cùng quẫn, phẫn chí, Chí Phèo uống rượu say, cầm dao đi định “đâm chết cả nhà nó”. Nhưng Chí Phèo lại quên rẽ vào nhà Thị Nở mà lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến, đòi được làm người lương thiện và Chí đã đâm chết Bá Kiến rồi tự sát. Kết thúc này bề ngoài có vẻ ngẫu nhiên, thật ra lại rất tất yếu, bộc lộ rõ tính cách của Chí Phèo, ý đồ tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đây là một kết thúc khiến cho người đọc phải suy nghĩ rất nhiều về thực trạng và mâu thuẫn xã hội, về cuộc sống và bi kịch của đời người. Câu chuyện đã tạo nên một ngã rẽ cho cuộc đời Chí từ khi gặp thị Nở. Sau những ngày hạnh phúc ngắn ngủi với thị, Chí càng cảm thấy thêm cay đắng, khổ sở vì thân phận và điều này càng đẩy nhanh Chí đến một hành động tuyệt vọng. Chí không chỉ say, hung dữ, liều lĩnh, gây tội ác, mà còn biết sợ, tính toán, nhận diện được kẻ thù. Chí suy nghĩ, đau khổ về kiếp sống không bình thường, không ra người, không lương thiện của mình. Trong những ngày được hạnh phúc với Thị Nở, Chí cũng biết vui, biết mơ ước, biết buồn, biết ăn năn. Bị Thị Nở từ chối, đối với Chí, là một đòn đau không chịu đựng nổi. Từ kinh nghiệm sống, từ tiềm thức vô thức, Chí cảm nhận tình trạng bế tắc vô vọng của mình có nguyên nhân sâu xa hơn là từ tội ác của Bá Kiến. Giết Bá Kiến cũng không có được sự giải thoát. Và hắn đã tự sát. Dưới ngòi bút của Nam Cao, Chí Phèo không chỉ là hình ảnh những tên cố cùng liều thân hoặc là điển hình của những người nông dân lưu manh hóa vì sự áp bức bóc lột của bọn thực dân phong kiến, mà còn thể hiện bi kịch của con người bị tước đoạt quyền sống, quyền làm người, quyền được hưởng hạnh phúc. Cái điều rất nghiêm trang, rất đau lòng, rất tội nghiệp mà Nam Cao đã ghi lại và muốn nhắn gửi cho người đời thông qua một câu chuyện tưởng như chẳng có gì, một số nhân vật dị dạng và một giọng văn pha nhiều tính chất hài hước, nội dung thông điệp đó nhiều thế hệ độc giả đã hiểu và càng đánh giá cao tác giả. Xây dựng lên những nhân vật tiêu biểu, nhà văn đã dùng những ngôn ngữ của đời sống, ngôn ngữ được quần chúng nhân dân sử dụng hằng ngày, rất phong phú, sinh động, giàu hình ảnh. Có thể nói hơn bất kì một nhà văn nào khác cùng thời, ngôn ngữ Nam Cao cho đến bây giờ vẫn tỏ ra không cũ với thời gian, cả về mặt từ vựng, ngữ nghĩa, cú pháp. Phải có sự cảm thông sâu sắc với thân phận những người nông dân Nam Cao mới có mới có một tác phẩm giá trị như vậy. Ông đã khắc họa lên bức tranh xã hội với những bọn địa chủ cường hào gian ác, những con người nông dân tội nghiệp, bị chèn ép, bóc lột, không để cho họ một con đường sống. Có thể bạn quan tâm: Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí phèo Bài văn mẫu 9 Phân tích truyện Chí Phèo để thấy bức tranh xã hội phong kiến nhiều ám ảnh Nam Cao, cây bút cuối của văn học giai đoạn 1930 - 1945, nhưng nhờ có ông và các phẩm xuất sắc của mình, Nam Cao đã làm bừng sáng cả một giai đoạn văn học, ông đã góp phần không nhỏ vào mảng tranh hiện thực xã hội Việt Nam trước cách mạng. Hai đề tài chủ yếu của ông gồm người nông dân và người trí thức, trong đó đề tài người nông dân là nổi bật hơn cả.
Với đề này truyện Chí Phèo đã trở thành áng văn bất hủ của Nam Cao nói riêng và của văn học Việt Nam nói chung. Tác phẩm ban đầu có tên là Cái lò gạch cũ do chính nhà văn đặt, nhưng sau đó đổi thành Đôi lứa xứng đôi, do nhà xuất bản đổi, nhằm tăng tính giật gân, gây chú ý với bạn đọc. Cuối cùng Nam Cao đổi tên tác phẩm thành Chí Phèo, nhằm làm nổi bật nhân vật trung tâm của tác phẩm, đề cao giá trị hiện thực và nhân đạo qua nhân vật này. Chí Phèo là một đứa trẻ mồ côi, bị bỏ rơi ở lò gạch cũ, Chí được anh thả ống lươn nhìn thấy nhặt về, mang cho một bà góa mù nuôi, sau đó bà góa mù bán cho bác phó cối không con, bác phó cối mất đi thì sống trong sự đùm bọc của dân làng. Khi Chí lớn lên làm canh điền cho Bá Kiến, là một con người lương thiện, chăm chỉ làm lụng, nhưng vì bị bà ba gọi vào bóp chân, Bá Kiến thấy được nổi cơn ghen nên đã đẩy Chí Phèo vào tù. Từ một người nông dân hiền lành, chất phác, mang trong mình những mơ ước giản dị, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải,… Chí Phèo đã bị Bá Kiến và nhà tù thực dân làm cho tha hóa, biến chất. Hắn ở tù về đã trở thành một người khác hẳn: Cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt cơng cơng, hai mắt gườm gườm…, mặc bộ quần áo tây vàng với quần nái đen, phanh áo để lộ hình xăm. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, uống rượu say khướt để chửi trời, chửi đời, hắn lăn ra ăn vạ mọi người,… Chí Phèo lương thiên đã trở thành thằng lưu manh, liều lĩnh, lấy sự lưu manh để kiếm sống qua ngày. Bị Bá Kiến lợi dụng, Chí Phèo trở thành tay sai cho cái ác, hắn triền miên trong cơn say, làm bất cứ điều gì mà người tay sai bảo, gây nên biết bao tội ác và thực sự trở thành con quỷ của làng Vũ Đại. Trong những cơn say triền miên, chưa từng có lúc nào Chí sống trong sự tỉnh táo. Nhưng hôm ấy là một ngày rất khác, Chí uống say ở nhả Tự Lãng, trên đường về nhà thấy ngứa ngáy nên Chí ra sông tắm, ở đây Chí gặp Thị Nở, họ ăn nằm với nhau. Nửa đêm Chí bị cảm nôn mửa, nhờ có Thị Nở nếu không có lẽ Chí đã chết. Sau những cơn say triền miên, đây là lần đầu tiên Chí tỉnh, hắn nhận thức được cuộc sống xung quanh: mặt trời đã lên cao với ánh nắng vàng rực rỡ, những âm thanh của cuộc sống nghe vui vẻ quá đó là tiếng chim, tiếng những người đàn bà đi chợ bán vải về, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh mà bấy lâu nay Chí không còn nghe, không còn để ý nữa. Từ nhận thức về cuộc sống, Chí chuyển về nhận thức chính mình: hắn nhớ về quá khứ tươi đẹp, với mơ ước giản dị, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải,… mong ước thật giản dị và đẹp đẽ. Nhưng hiện tại chỉ là con số không tròn trĩnh, Chí nhận ra mình không vợ, không con, không tài sản, không được công nhận và bản thân đã đi sang dốc bên kia cuộc đời. Tương lai đáng sợ mở ra trước mắt, đói rét, bệnh tật và cô độc. Nhưng chính trong lúc hắn đang miên man suy nghĩ, thị Nở xuất hiện với bát cháo hành trên tay, hắn đón nhận bằng tất cả sự xúc động và biết ơn. Hắn ăn cháo hành và chưa bao giờ thấy nó ngon đến vậy, hắn khóc, nước mắt của một kẻ tưởng chừng đã bị cướp mất nhân tính vĩnh viễn. Ngạc nhiên và cảm động (“mắt ươn ướt”) vì đây là lần đầu tiên được đàn bà cho, đây là lần đầu tiên Chí Phèo được ăn cháo, lần đầu được săn sóc bởi bàn tay đàn bà. Năm ngày sống với thị Nở đã giúp Chí hồi sinh, khao khát được làm lành với mọi người, được làm người lương thiện và thị Nở sẽ là người mở đường cho hắn. Niềm hạnh phúc không được bao lâu, thị Nở trình bày với bà cô về ý định nên duyên với Chí và bị gạt phắt đi. Thị Nở - một người dở hơi, đùng đùng đến cự tuyệt Chí. Ban đầu hắn cười vì nghĩ Thị trêu đùa mình, rồi hắn nghĩ ngợi và hình như đã hiểu sự việc, hắn ngẩn người ra không nói được gì. Thị Nở bỏ về, Chí có đuổi theo cũng chỉ là vô nghĩa, Chí đau đớn, phẫn uất đến tận cùng. Hắn uống nhưng uống lại càng tỉnh, hơi cháo hành thoang thoảng đâu đây, hắn ôm mặt khóc rưng rức. Trong nỗi đau tột cùng hắn xách dao tìm đến nhà thị Nở để đâm chết cả nhà Thị, nhưng cuối cùng hắn đến nhà Bá Kiến như một thói quen. Nhưng đồng thời Chí Phèo mơ hồ nhận
ra kẻ thù đích thực, nhận ra nguyễn nhân gốc rễ đẩy mình vào bi kịch không phải cô cháu Thị Nở mà là Bá Kiến. Chí giết Bá Kiến và tự hủy hoại chính mình. Đây là lựa chọn duy nhất của Chí, bởi hắn không thể làm người lương thiện vì làng Vũ Đại không chấp nhận hắn. Hắn cũng không thể làm con quỷ vì bản thân đã thức tỉnh. Chết là lựa chọn duy nhất của Chí Phèo. Cái chết của Chí là lời tố cáo đánh thép, sắc bén vào xã hội đương thời đã đẩy con người vào bước đường cùng. Ngoài nhân vật Chí Phèo, Thị Nở cũng là một nhân vật đặc sắc trong tác phẩm. Thị Nợ là người quá lứa, lỡ thì, xấu ma chê quỷ hờn, lại thêm tính dở hơi ngẩn ngơ những người đần trong cổ tích, có dòng giống mả hủi. Bản thân thị Nở hội tụ đầy đủ những yếu tố không có cơ hội tìm kiếm cơ hội hạnh phúc cho bản thân. Số phận của thị cũng hết sức bi đát, thảm hại. Nhưng bản thân thị lại là người biết yêu thương, chăm sóc những người xung quanh. Trong đêm gặp Chí, Chí bị cảm lạnh, Thị là người đưa Chí về và chăm sóc chu đáo, đắp manh chiếu cho Chí rồi mới về. Dường như về rồi Thị Nở vẫn chưa yên tâm, thị động lòng thương thức dậy nấu cháo cho Chí. Thị cũng như bao người phụ nữ khác khao khát yêu thương và được yêu thương. Thị Nở sẵn sàng vượt qua định kiến, đến ở với Chí Phèo năm ngày, đó là quãng thời gian đẹp đẽ nhất, hạnh phúc nhất trong đời Thị. Nhưng cuối cùng Thị vẫn không thể vượt qua những định kiến, nghe lời bà cô, Thị Nở đã cự tuyệt tình cảm của Chí, khước từ mở đường cho Chí về với con người lương thiện. Xây dựng nhân vật Thị Nở góp phần làm nổi bật nhân vật Chí Phèo, thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Không chỉ vậy, nhờ có Thị Nở Chí Phèo mới được hồi sinh, qua đó thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm, niềm tin vào bản chất lương thiện của con người. Nhưng cũng chính Thị Nở là người đẩy Chí Phèo vào bị kịch bị cự tuyệt làm người. Tác phẩm đã truyền tải giá trị hiện thực: vạch trần bộ mặt xấu xa của xã hội thực dân nửa phong kiến. Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc: Chí Phèo điển hình cho người nông dân Việt Nam bị tha hóa trước cách mạng; nghệ thuật phân tích diễn biên tâm lí nhân vật hợp lí, giàu ý nghĩa. Cốt truyện giàu kịch tính, mang đến những bất ngờ, hấp dẫn cho người đọc. Ngôn ngữ sống động, điêu luyện, gần gũi như lời ăn tiếng nói hàng ngày nhưng vẫn giàu giá trị nghệ thuật. Với tác phẩm Chí Phèo, tác giả đã phơi bày, vạch trần bộ mặt của xã hội thực dân nửa phong kiến phi nhân tính, đã đẩy con người vào bước đường cùng, tha hóa về nhân hình và nhân tính. Nhưng bên cạnh đó còn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc, niềm tin vào bản chất tốt đẹp trong mỗi con người. Qua tác phẩm cũng thể hiện lòng cảm thương với số phận người nông dân bất hạnh. Tham khảo thêm: Bài văn phân tích quá trình tha hóa của Chí Phèo Bài văn mẫu 10 Phân tích truyện Chí Phèo - Bức tranh về đời sống xã hội phong kiến nông thôn Việt Nam Chỉ là một truyện ngắn, lại là truyện ngắn sáng tác sớm của Nam Cao về đề tài nông dân, nhưng Chí Phèo là sự tổng hợp, sự kết tinh của ngòi bút Nam Cao về đề tài này. Nếu như Nam Cao có thể được coi là "nhà văn của nông dân", cùng với Ngô Tất Tố, thì trước hết vì ông có Chí Phèo. Khác với truyện ngắn cùng đề tài của tác giả, Chí Phèo có phạm vi hiện thực được phản ánh trải ra cả bề rộng không gian (một làng quê) và cả bề dài thời gian. Có thể nói, làng Vũ Đại trong truyện chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông thôn Việt Nam đương thời. Những năm 1940 - 1945, nông thôn vẫn là một đề tài lớn trong văn xuôi khu vực hợp pháp. Các nhà văn đã đi vào đề tài này theo chiều hướng khác nhau. Trước hết là đi vào phong tục tập quán dân quê, sự lục đục giữa vợ cả và vợ lẽ, mẹ chồng và nàng dâu, dì ghẻ và con chồng, anh và em, chú bác, cô cậu và những đứa cháu bên nội, bên ngoại. Trên bối cảnh chung của văn học hiện thực thời kì 1940 - 1945, Chí Phèo là một hiện tượng đột xuất. Giống như Tắt đèn, Bước đường cùng, Giông tố.... thời Mặt trận dân chủ, Chí Phèo cũng là "bức tranh xã hội rộng lớn với những xung đột giai cấp quyết liệt". Tác phẩm gây ấn tượng đậm nét về tính đầy đặn, đa dạng nhiều màu sắc của bức tranh về đời sống xã hội nông thôn.
Song, dựng lên bức tranh xã hội ở nông thôn, Nam Cao trước hết tập trung nổi bật mối xung đột giai cấp đối kháng giữa bọn địa chủ cường hào thống trị và người nông dân bị áp bức bóc lột. Tức là, cũng như tác giả Tắt đèn, Bước đường cùng... Nam Cao đã phản ánh hiện thực nông thôn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp. Chí Phèo của Nam Cao đã xây dựng một hình tượng điển hình khá hoàn chỉnh về giai cấp phong kiến thống trị ở nông thôn: Bá Kiến. Chân dung lão cường hào cáo già Bá Kiến dần dần hiện rõ trong tác phẩm những nét tính cách được thể hiện hết sức sinh động, đầy ấn tượng. Đó là khái quát "rất sang" ("bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần kinh mọi người"), lối nói ngọt nhạt, và nhất là "cái cười Tào Tháo" ("cụ vẫn tự phụ hơn đời cái cười Tào Tháo ấy") - tất cả đều cho thấy bản chất gian hùng của lão cường hào "khôn róc đời" này. Nam Cao cũng hé cho thấy tư cách nhem nhuốc của "cụ tiên chỉ": đó là thói ghen tuông thảm hại của lão cường hào háo sắc mà sợ vợ - lão cay đắng nhận ra mình "già yếu quá" mà "bà Tư" thì "cứ trẻ, cứ phây phây", "nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ... khác gì nhai miếng bò lựt sựt khi rụng gần hết răng". Đó là chuyện lão gỡ gạc tồi tệ đối với người vợ lính vắng chồng... Và bổ sung vào đó, để cho sự thối nát của nhà "cụ Bá" được hoàn chỉnh, còn có "Bà Tư" quỷ cái "thường gọi canh điền lên bóp chân mà lại "cứ bóp lên trên, trên nữa''... Nhà văn chỉ kể qua, nhẹ nhàng, tuy không kém thâm thúy, chứ không sa đà trong việc soi mói đời tư thối tha của lão cường hào. Ông tập trung ngòi bút vào việc soi s��ng bản chất xã hội của nhân vật, chủ yếu thể hiện trong mối quan hệ với người nông dân bị áp bức. Đoạn độc thoại nội tâm rất mực sinh động của "cụ tiên chỉ làng Vũ Đại" về cái "nghề tổng lí"cho thấy Nam Cao chẳng những soi thấu tim đen của nhân vật mà còn tỏ ra hiểu rất sâu các mối quan hệ xã hội ở nông thôn. Bá Kiến đã lặng lẽ nghiền ngẫm về nghề thống trị, rút ra từ bốn đời tổng lí những phương châm, thủ đoạn thống trị khôn ngoan: "mềm nắn, rắn buông", "bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu", "thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân", "chỉ bóp đến nửa chừng", "hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn"... Còn đây là chính sách dùng người của lão: "không có những thằng đầu bò thì lấy ai trị những thằng đầu bò", "thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi tù. Những thằng ấy chính là những thằng được việc. Khi cần đến chỉ cho nó dăm hào uống rượu là có thể sai nó đến tác oai tác quái bất cứ anh nào không nghe mình (...) có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn...", ... Tất cả đều nhằm sao cho vừa bóp nặn được nhiều nhất, vừa giữ chắc cái ghế thống trị. Tâm địa thâm độc tới ghê sợ của Bá Kiến còn thể hiện trong việc hắn nhẹ nhàng "khích" Chí Phèo đòi nợ đội Tảo, đẩy những kẻ sẵn sàng đâm chém ấy vào chỗ chém nhau, để kẻ nào sống "cũng có lợi cụ cả"! Bá Kiến thật là một con hổ biết cười! Vạch khổ cho người nông dân bị áp bức bóc lột, Nam Cao không đi vào nạn sưu thuế, nạn chiếm đoạt ruộng đất, nạn tô tức, quan tham lại nhũng, thiên tai địch họa.... Ở Chí Phèo và nhiều truyện nữa, nhà văn đi vào một phương khác: người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó, bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo không phải ở chỗ tất cả cuộc đời người nông dân cố cùng này chỉ là một không: không nhà, không cửa, không cha không mẹ, không họ hàng thân thích không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề biết đến một bàn tay chăm sóc của đàn bà nếu không gặp Thị Nở..., mà chính là ở chỗ anh đã bị xã hội rạch nát cả bộ mặt người, cướp đi linh hồn người, để bị loại ra khỏi xã hội loài người, phải sống kiếp sống tối tăm của thú vật. Mở đầu truyện là hình ảnh hết sức sống động, độc đáo của Chí Phèo khật khưỡng vừa đi vừa chửi. Nhưng đằng sau cái chân dung gã say rượu chửi lảm nhảm được vẽ bằng những nét bút tưởng đâu là kí họa gây cười ấy, nếu đọc kĩ còn có thể thấy một cái gì như là sự vật vã của một linh hồn đau đớn, tuyệt vọng.
Không, tiếng chửi của Chí Phèo không hẳn là bâng quơ. Hắn từ "chửi trời" đến "chửi đời" rồi "chửi ngay tất cả làng Vũ Đại...". Và hắn bỗng tức tối khi thấy "không ai lên tiếng cả"... Trong cơn say hắn vẫn cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm thía "nông nỗi" khốn khổ của thân phận. Đó là "nông nỗi" không có người nào chịu chửi lại hắn! Có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoát không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người, là còn bằng lòng giao tiếp, đối thoại với hắn. Chí Phèo chửi cả làng với... hi vọng được người nào đó chửi lại. Những tín hiệu yêu cầu giao tiếp phát đi liên tục đó chỉ gặp sự im lặng đáng sợ. Và vẫn còn lại một mình Chí Phèo trong sa mạc cô đơn: Hắn cứ "chửi rồi lại nghe", "chỉ có ba con chó dữ một thằng say rượu!... Cảnh mở đầu đột ngột của thiên truyện đó chẳng những đã giới thiệu hấp dẫn tính cách độc đáo của nhân vật mà còn hé thấy tình trạng bi đát của một số phận. Chí Phèo trước hết là một hiện tượng có tính quy luật, tính phổ biến, sản phẩm của tình trạng áp bức bóc lột tàn tệ ở nông thôn Việt Nam trước đây. Đây là hiện tượng những người nông dân lao động bị đè nén thái quá đã chống trả lại để tồn tại bằng con đường lưu manh. Bá Kiến đẩy anh canh điền hiền lành vào tù; nhà tù thực dân - chỗ dựa tin cậy của bọn phong kiến trong việc đàn áp nông dân - đã tiếp tay lão cường hào để giết chết phần người trong con người Chí, biến Chí thành Chí Phèo, biến một người nông dân lương thiện thành một con quỷ dữ. Với ngòi bút hiện thực tỉnh táo ông vạch ra rằng, những người nông dân khốn khổ phải giành lấy sự tồn tại sinh vật bằng việc bán cả nhân phẩm ấy, đã trở thành lực lượng phá hoại mù quáng, dễ dàng bị bọn thống trị thâm độc lợi dụng. Vì thế mà Chí Phèo từ chỗ hung hăng đến nhà Bá Kiến, tuyên bố "liều chết với bố con" lão, chỉ cần mấy câu nói ngọt xớt, chuỗi cười Tào Tháo và mấy hào chỉ, đã trở thành tên tay sai mới của lão. Hiện tượng mỉa mai, đau xót rất phổ biến và có tính quy luật mà ngòi bút phân tích xã hội sâu sắc Nam Cao đã vạch ra. Giá trị điển hình, sức mạnh tố cáo to lớn của hình tượng Chí Phèo trước hết là ở chỗ làm nổi bật lên cái hiện tượng có tính quy luật vẫn hằng diễn ra ở xã hội nông thôn đầy bất công và tội ác đương thời đó. Vấn đề của Chí Phèo là vấn đề nông dân - với ý nghĩa đó, vẫn có thể nói Chí Phèo là một hình tượng điển hình về nông dân. Truyện ban đầu được tác giả đặt tên là Cái lò gạch cũ; hình ảnh cái lò gạch cũ được xuất hiện ở phần mở đầu và cả khi kết thúc truyện. Rõ ràng đó là ý nghệ thuật của Nam Cao. Cái lò gạch cũ như là một biểu tượng về sự hiện tất yếu của hiện tượng Chí Phèo, gắn liền với tuyến chủ đề chính của tác phẩm. Câu chuyện mối tình Chí Phèo - Thị Nở quả là hấp dẫn đặc biệt. Song mặc dù giọng văn bông lơn, có lúc như chế giễu, mặc dù đối với một số người, đó là sự hấp dẫn của loại truyện tình bờ hụi của hạng nữa người ngợm, ngưu tầm ngưu mã tầm mã, "đôi lứa xứng đôi", thì đây vẫn thật sự là truyện có một nội dung hết sức nghiêm túc, chứa đựng một tư tưởng nhân đạo thật mới mẻ, độc đáo đem lại cho tác phẩm một tầm vóc bất ngờ. Ban đầu, Chí Phèo đến với Thị Nở một cách rất... Chí Phèo. Trong một đêm "rười rượi những trăng", có những tầu chuối nằm ngửa ưỡn cong cong lên hứng lấy trăng xanh rười rợi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lại giãy lên đành như là "hứng tình", Chí Phèo rất say và cảm thấy "bứt rứt", "ngứa ngáy" da thịt, đã xông tới người đàn bà khốn khổ "dại dột đã nằm ềnh ệch mà ngủ ngay gần nhà hắn". Khi Thị Nở hốt hoảng kêu làng, thì "cái thằng trời đánh không chết ấy lại kêu to hơn, "vừa kêu vừa dằn người đàn bà xuống"! Trâng no, lì lợm đến thế là cùng! Nhưng điều kì diệu đã xảy ra là, nếu như ban đầu, Thị Nở chỉ khơi dậy bản năng giống đực ở gã đàn ông Chí Phèo, thì sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và lòng yêu thương mộc mạc mà chân thành của đàn bà khốn khổ ấy đã làm thức dậy bản chất lương thiện của người lao động trong Chí Phèo. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí Phèo sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, là một đoạn
tuyệt bút, đầy chất thơ và tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc bất ngờ cùa ngòi bút Nam Cao. Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy muộn và lòng "bâng khuâng", "mơ hồ buồn". Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, Chí Phèo mới lại nghe thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ nể chèo đuổi cá... Những âm thanh quen thuộc trong cuộc sống lao động xung quanh ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay bỗng trở nên vang động sâu xa trong lòng Chí Phèo, trở thành những tiếng gọi tha thiết của cuộc sống vẳng đến bên tai lần đầu tiên tỉnh táo của anh. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã lóe sáng như một tia chớp trong cuộc đời tăm tối dằng dặc của Chí Phèo. Dưới ánh sáng của tia chớp ấy, Chí Phèo bỗng nhìn rõ tất cả cuộc đời mình: những ngày xưa "rất xa xôi" đã từng "ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng! Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Cái hiện tại đáng buồn: "già mà vẫn cô độc", cái tương lai còn đáng buồn hơn: "đói rét và ốm đau và cô độc cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau". Nếu như bao nhiêu năm nay, Chí Phèo "bao giờ cũng say", "say tận", "có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở đời", thì hôm nay lần đầu tiên Chí Phèo tỉnh táo, tỉnh táo để tự ý thức về thân phận. Trước kia Chí Phèo sống và hành động hoàn toàn vô thức, hắn không thể biết và không cần biết hắn là gì và đã làm những gì: "hắn không biết rằng hắn là con quỷ... của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng (...). Hắn biết đâu vì làm tất cả những việc ấy trong khi người hắn say... Giờ đây, lần đầu tiên, Chí Phèo nhận ra sự hiện hữu của mình, đối mặt với chính mình, và đồng thời, cũng lần đầu tiên, nhận ra sự bế tắc tuyệt vọng của thân phận mình. Khi thấy Thị Nở bưng cháo hành đến, hắn "rất ngạc nhiên" và hết sức xúc động. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho". Hắn ăn bát cháo từ tay Thị Nở và bỗng nhận thấy rằng cháo hành ăn rất ngon. Bởi vì hương vị cháo hành này chính là hương vị của tình yêu thương chân thành, của hạnh phúc giản dị, mà có thật, lần đầu tiên đến với Chí Phèo. Lần đầu tiên, Chí Phèo mắt "như ươn ướt", "ôi sau mà hắn hiền, ai dám bảo đó là thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt của mình". Trở lại là anh canh điền trong trắng năm xưa cảm thấy bị xúc phạm khi bị cái bà ba "quỷ cái" gọi lên bóp chân, trở lại anh nông dân lương thiện từng mơ ước cuộc sống gia đình hạnh phúc hết sức bình dị khiêm nhường trong lao động... "Đó là cái bản tính của hắn ngày thường bị lấp đi... ". Như vậy là, lòng yêu thương, cái tình người chân thành đã làm sống lại trong Chí Phèo cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lao động, bao lâu nay bị cho lấp, vùi dập nhưng vẫn không tắt. Bọn cường hào và nhà tù thực dân, nói rộng ra là cả cái xã hội tàn bạo ấy, ra sức giết chết cái "bản tính tốt" ấy của anh "Trần trụi giữa bầy sói", anh không thể hiền lành, trong trắng, mà để tồn tại anh phải cướp giật, ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều và mạnh, những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn luôn say, "hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm" - xét cho cùng, Chí Phèo không chịu trách nhiệm về những hành động của mình: linh hồn của anh đã bị cướp đi rồi. Nhưng hôm nay, tình yêu đã thức tỉnh anh và linh hồn anh đã trở về. Anh thấy "thèm lương thiện", "muốn làm hòa với mọi người biết bao!", Anh như rưng rưng và bẽn lẽn trong sự phục sinh của linh hồn đó. Anh mong được nhận vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Tình của Thị Nở chẳng những đã thức tỉnh anh mà còn hé mở cho anh con đường trở lại làm người, trở lại cuộc đời, và anh hồi hộp hy vọng. Đã hơn một lần, Nam Cao viết về những mối tình của những kẻ bị cả xã hội miệt thị, lăng nhục độc ác: Lang Rận - mụ Lợi, Đức - Nhi, Chí Phèo - Thị Nở... Tuy vẫn giữ giọng văn khách quan, hài hước, nhà văn đã dứt khoát đứng ra làm luật sư cãi trắng án cho những con người bất hạnh, bị mọi người hắt hủi đó, nhất là khi họ bị ném vào tình thế nhục nhã, trở thành cái đích cho những mũi tên chế giễu độc ác của người đời đầy thành kiến mu muội.
Ông đã đanh thép bênh quyền được yêu của họ và khẳng định tính chính đáng của những mối tình như thế. Có gì là không chính đáng nếu như những con người trong khi bị cả xã hội xua đuổi ấy đã đến với nhau, tìm thấy ở nhau sự giao cảm, chia sẻ nỗi lòng? Vì nếu tình yêu chân chính là tình yêu làm nhân đạo hóa con người, nâng cao sống, thì đã có mấy lần tình yêu có tác dụng nhân đạo hóa kì diệu, cảm động như mối tình Thị Nở - Chí Phèo? Chẳng phải tình yêu thương tuy đơn giản, có phần thô lỗ của người đàn bà xấu xí ấy đã gọi dậy linh hồn người trong con quỷ dữ Chí Phèo, đưa hắn từ cõi địa ngục trở về cõi người đó sao? Chẳng phải một sự hóa giải thần bí nào mà chỉ là một tình yêu rất mực trần tục, nhưng là tình yêu đích thực con người, thật lành mạnh, khỏe khoắn. Mô típ nghệ thuật này được xử lí bằng một tư tưởng nhân đạo lớn lao và một bút lực phi thường, chỉ có Nam Cao. Tư tưởng nhân đạo và bút lực phi thường đó còn thể hiện ở đoạn văn miêu tả tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo. Truyện ngắn đầy hấp dẫn này càng về cuối càng đặc biệt hấp dẫn; không phải chỉ vì cốt truyện, tình tiết đầy tính kịch, biến hóa khôn lường, mà còn vì tầm tư tưởng càng ngày càng nâng cao một cách bất ngờ của tác phẩm. Nhiều người cũng nói đến Chí Phèo như là một bi kịch số phận, song nếu hiểu cho chặt chẽ, chính xác thì chỉ từ nhân vật này đã thức tỉnh linh hồn, khao khát trở lại làm người nhưng bị cự tuyệt lạnh lùng, thì chỉ đến khi đó, Chí Phèo mới thật sự rơi vào tình thế bi kịch: bi kịch của con người bị từ chối không được làm người. Khi hiểu ra rằng xã hội không công nhận mình, Chí Phèo vật vã đau đớn. Hắn lại uống, nhưng điều lạ là, hôm nay "hắn càng uống càng tỉnh ra". Đúng hơn là tuy say, trong tâm thức Chí Phèo lúc này vẫn có một điềm tĩnh: nỗi đau khôn cùng về thân phận, và "hắn ôm mặt khóc rưng rức". Rồi như để chạy trốn bản thân, chạy trốn nỗi đau, hắn "lại uống... lại uống... đến say mềm người". Rồi hắn đi với một con dao và vừa đi vừa chửi... như mọi lần. Nhưng lại hoàn toàn khác mọi lần: hôm nay, Chí Phèo quằn quại đau đớn vì tuyệt vọng, càng thấm thía hơn bao giờ tội ác của kẻ thù, đã đến thẳng trước Bá Kiến "trợn mắt, chỉ tay vào mặt" lão, dõng dạc đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt người đã bị vằm nát của mình. Kẻ chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, anh không thể chấp nhận trở lại kiếp sống thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống, chết trong tâm trạng bi kịch đau đớn. Thế là, trước đây, để bám lại sự sống, Chí Phèo phải từ bỏ nhân phẩm, bán linh hồn cho quỷ; giờ đây, ý thức nhân phẩm thức dậy, linh hồn trở về. Nhiều người nghi ngờ tấm lòng của Nam Cao đối với nông dân, vì thấy người nông dân của nhà văn phần nhiều xấu xa dữ tợn. Vậy mà chính ở những người khốn khổ có bộ mặt và tính cách không mấy "đáng yêu" đó, nhiều khi ý thức nhân phẩm còn mạnh hơn cả cái chết. Lão Hạc bề ngoài dường như lẩm cẩm, gàn dở nhưng lão đã lặng lẽ tìm đến cái chết để giữ trọn lòng tự trọng trong cảnh cùng đường (Lão Hạc). Lang Rận cũng tìm đến cái chết vì không chịu nổi điều nhục nhã đang chờ ông ta hôm sau (Lang Rận) và ở đây là Chí Phèo? Chí Phèo đã chết quằn quại trên vũng máu trong niềm đau thương vô hạn, khao khát lớn lao, thiêng liêng là được làm người lương thiện đã không thực hiện được. Lời nói cuối cùng của Chí Phèo, vừa đanh thép, chất chứa phẫn nộ vừa mang sắc thái triết học và âm điệu bi thống đầy ám ảnh, làm người đời sững sờ và day dứt không thôi... "Ai cho tao lương thiện?". Làm thế nào để con người được sống cuộc sống con người? Đó là "một câu hỏi lớn không lời đáp chẳng những Bá Kiến không thể hiểu mà xã hội khi ấy cũng chưa thể trả lời. Câu hỏi ấy được đặt ra một cách bức thiết, day dứt trong hầu như toàn bộ sáng tác Nam Cao trước cách mạng. Và đặt ra bằng một tài năng lớn, độc đáo, khiến cho nhiều sáng tác của Nam Cao - trước hết là Chí Phèo - thuộc vào những trang hay nhất của nền văn xuôi Việt Nam. Xem thêm: Diễn biến tâm trạng của Chí phèo sau khi gặp Thị N -/- Trên đây là những gợi ý chi tiết và một số bài văn mẫu phân tích Chí Phèo của Nam Cao mà THPT Ngô Thì Nhậm đã tổng hợp và biên soạn.
Hy vọng bài viết sẽ là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho các em trong quá trình học về tác phẩm Chí Phèo. Đừng quên tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu 11 được chúng tôi cập nhật đầy đủ tại doctailieu.com. Chúc các em học tốt!
0 notes
Text
Những phương pháp sống khỏe theo lời Phật dạy
- Đức Phật luôn khuyến khích con người sống một lối sống lành mạnh, bằng cách thay đổi tư duy về ăn uống, nghỉ ngơi và làm việc để có một thân thể quân bình cả thân lẫn tâm.
Đức Phật dạy phải quán Năm uẩn là vô thường, là khổ đau, là trống rỗng, từ đó sẽ đưa đến vô ngã. Bởi nếu “không liễu tri ngũ uẩn thì không thể đoạn tận khổ đau”
>> Xem chi tiết: https://adidaphat.gn.com.vn/dao-phat
Về ăn uống
Ăn uống một cách vô độ không những không giúp ích gì mà là nguyên nhân chính đưa đến tàn phá cơ thể, như người xưa có câu: “Bệnh tùng khẩu nhập”. Thời Phật tại thế, bữa ăn của vua Pasenadi rất thịnh soạn, nhưng không được Đức Phật đánh giá cao về vấn đề cung cấp những dưỡng chất cần thiết cho cơ thể, dẫn đến sức khỏe không được tốt. Đức Phật dạy vua Pasenadi về cách ăn uống rằng:
“Con người thường chánh niệm
Được ăn, biết phải chăng
Chừng mực, cảm thọ mạnh
Già chậm, tuổi thọ dài.”
Sau khi nghe lời chỉ dạy của Đức Phật, vua biết tiết chế trong ăn uống. Sau một thời gian, thân thể nhà vua trở nên khỏe mạnh và nói lên lời cảm hứng như sau: “Ôi, thật sự Thế Tôn đã thương tưởng nghĩ đến lợi ích cho ta, cả hai đời hiện tại và vị lai.
Qua câu chuyện đó, có thể thấy bữa ăn của vua chúa xưa nay tuy rất thịnh soạn nhưng không đồng nghĩa với việc tốt cho sức khỏe. Vì vậy, những bậc Quân vương ngày xưa tuổi thọ ngắn. Ngày nay, thời đại có phát triển hơn, việc nhận thức trong ăn uống được quan tâm hàng đầu qua những tin tức phổ cập trên các phương tiện truyền thông, nhưng hầu như ít người quan tâm đến vấn đề này.
Thực hành thói quen ăn uống lành mạnh bằng cách ăn uống với số lượng chừng mực nhằm duy trì sự quân bình giữa tứ đại, sự trao đổi chất và hấp thu dễ dàng, cho phép sinh lực lưu hành không chút cản trở qua toàn cơ thể. Hãy xem thực phẩm như thuốc chữa bệnh, để hỗ trợ cơ thể, trị cơn đói, dịu cơn khát và ngăn ngừa bệnh tật. Giống như con ong hút nhụy, chúng chỉ tiêu thụ những gì cần thiết, nhưng không phạm đến toàn bộ cánh hoa.
Từ đó, ngăn ngừa các chứng bệnh về tiêu hóa và các vấn đề sức khỏe khác, giúp cho tinh thần sáng suốt, minh mẫn, tuổi thọ được kéo dài. Đặc biệt, Đức Phật còn lưu ý sau khi ăn cần phải đi kinh hành, bởi một trong năm lợi ích của kinh hành là: “Đưa đến tiêu hóa tốt đẹp các đồ được ăn, được uống, được nhai, được nếm”. Kinh hành đơn giản là đi bộ một cách chánh niệm. Việc kinh hành sau khi ăn vừa giúp cho cơ thể tiêu hóa sau khi ăn, tránh các căn bệnh về đường ruột, vừa giúp cho chúng ta rèn luyện tính kiên nhẫn, điều hòa cơ thể, bền bỉ, dẻo dai.
Về ngủ nghỉ
Ngủ nghỉ cũng là một trong những nhu cầu quan trọng trong đời sống hằng ngày. Ngủ đủ giấc rất quan trọng, nhưng ngày nay, chứng thiếu ngủ đang xảy ra trầm trọng trên mọi lứa tuổi. Chứng thiếu ngủ đến từ việc chúng ta quá mải mê vào công việc hoặc áp lực từ cuộc sống với cái tâm đổ đầy những mối lo toan về học tập, mưu sinh, công việc,… và đem những toan tính đó vào trong tận giấc ngủ của mình, khiến tâm thức phải làm việc quá sức dẫn đến khó đi vào giấc ngủ hoặc ngủ không ngon.
Đức Phật đã gợi ý muốn có một giấc ngủ an lành thì cần phải trú niệm tỉnh giác qua câu kinh sau: “Này các Tỳ kheo, có năm lợi ích này đối với người trú niệm, tỉnh giác rơi vào giấc ngủ. Thế nào là năm? Ngủ một cách ngon lành; thức dậy một cách ngon lành; không thấy ác mộng; được chư Thiên phòng hộ; bất tịnh không chảy ra. Trú niệm tỉnh giác là nếp sống với tâm hoàn toàn tỉnh táo và sáng suốt, rõ biết về các hoạt động của thân thể. Ví dụ, khi ăn biết rõ đang ăn, khi ngồi biết rõ đang ngồi, khi làm việc biết đang làm việc,… mà không để lọt vào tư tưởng tà vạy.
Cũng vậy, trước khi đi ngủ, trú niệm tỉnh giác giúp cho chúng ta biết sắp đi ngủ mà gác lại những lo toan nhằm mục đích thư giãn đầu óc, làm trong sạch nội tâm, khiến cho tâm thức trở nên định tĩnh, vắng lặng, quân bình, không dao động, từ đó mà ta có một giấc ngủ nhẹ nhàng. Nếu liên tục thực hành thói quen biết trú niệm tỉnh giác trước lúc ngủ thì sẽ ngăn ngừa sự gia tăng bệnh tật và tăng chất lượng cuộc sống. “Trước ngủ tâm, sau ngủ mắt”, chính là đạo lý về giấc ngủ của Phật giáo.
Ngoài ra, tư thế nằm trong khi ngủ cũng được Đức Phật chú trọng, bởi nó liên hệ đến sự an ổn của thân tâm và sức khỏe. Đức Phật dạy có 04 cách nằm ngủ: Nằm ngửa, nằm nghiêng trái, nằm nghiêng phải và cách nằm của Như Lai trú bốn tầng thiền. Trong các kinh điển Ngài thường nằm theo dáng nằm nghiêng phải: “Rồi Thế Tôn, sau khi đã đi kinh hành ngoài trời một phần lớn của đêm, khi đêm đã gần mãn, Ngài rửa chân, bước vào tịnh xá và nằm xuống phía hông bên phải theo thế nằm của con sư tử, hai chân gác lên nhau, chánh niệm tỉnh giác và nghĩ đến lúc thức dậy”.
Ngày nay, tư thế nằm nghiêng bên phải cũng được khoa học giải thích rằng tư thế này có tác dụng giúp hạ huyết áp, nhịp tim ổn định, rất tốt cho những người mắc các bệnh về tim mạch. Còn theo các nhà nghiên cứu tại Đại học Stony Brook ở Mỹ, việc ngủ nghiêng người về bên phải sẽ giúp giải phóng chất thải trong vỏ não, tủy sống, hệ thần kinh, có thể ngăn ngừa bệnh Alzheimer và các bệnh về thoái hóa thần kinh khác.
Bên cạnh đó, theo kết quả một cuộc nghiên cứu của Thổ Nhĩ Kỳ được đăng tải trên Tạp chí Sleep and Hypnosis phát hiện 40,9% những người có thói quen ngủ nghiêng về bên trái thường xuyên gặp ác mộng, trong khi đó chỉ có 14,6% cảm thấy như vậy trong số những người nằm nghiêng về bên phải.
Với phương pháp về việc ngủ nghỉ mà Đức Phật đã dạy, đây là cách nhanh chóng xóa tan mệt mỏi, sức khỏe được phục hồi nhanh chóng và chúng ta sẽ có tâm trạng vui vẻ, tươi tắn, tạo ra sảng khoái, làm thăng hoa tinh thần.
Khi làm việc
Sau hai vấn đề quan trọng là ăn uống và ngủ nghỉ thì làm việc là một trong những sinh hoạt cần thiết trong đời người. Phương pháp làm việc hiệu quả, giúp người làm việc luôn duy trì trạng thái khỏe mạnh và gia tăng tuổi thọ được Đức Phật khuyên: “Làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng”. Trong đoạn kinh trên, Đức Phật khuyên hãy làm việc thích đáng, tức Ngài đề cập đến Chánh mạng trong Bát chánh đạo.
Chánh mạng là sinh sống với tài năng chân chánh, nghề nghiệp lương thiện, không bóc lột, xâm hại đến lợi ích chung của người khác. Khi làm việc vừa với khả năng, chúng ta mới có thể tập trung vào những điều quan trọng mà thỏa sức sáng tạo, chứ không nên làm việc một cách quá sức rồi xem công việc như gánh nặng.
Bởi thái độ gánh nặng sẽ khiến mình mệt mỏi, căng thẳng tinh thần, chỉ khiến công việc thêm muộn phiền, bề bộn hơn mà thôi. Người làm việc thích đáng và biết vừa phải trong công việc là người đó có sự tỉnh thức. Nhờ sự tỉnh thức này mà giúp ta giải quyết công việc một cách ổn thỏa, chính xác, làm cho công việc ngày một phát triển.
Trong xã hội hiện đại, con người phải làm việc rất áp lực, lo lắng, suy ngẫm về rất nhiều vấn đề, nhằm tránh những sai lầm không đáng có. Nhưng không phải lúc nào lo lắng cũng là tốt, bởi có những mối lo lắng không cần thiết. Để tăng khả năng tập trung hoàn thành tốt công việc được giao, tránh xao lãng tạo điều kiện cho các phiền não, lậu hoặc kéo theo tăng trưởng, Đức Phật khuyên: “Không lo lắng những việc không đáng lo lắng và lo lắng những việc đáng lo lắng.
Ở đây, Ngài muốn nhấn mạnh vào sự tập trung khi làm việc. Trong lúc làm việc, ta hãy chú tâm vào công việc được giao để hoàn thành tốt nhiệm vụ, tránh vừa làm việc này lại xao lãng vào những việc khác. Nhờ vậy kịp thời giải quyết những khó khăn, bất trắc, năng suất lao động nâng cao và công việc được hoàn thành đúng thời gian hoặc trước thời hạn.
Việc duy trì thói quen lo lắng những việc đáng lo lắng và không lo lắng những việc không đáng lo lắng sẽ dạy cho chúng ta chánh niệm trong giây phút hiện tại. Chính chánh niệm bảo vệ bản thân chúng ta kiểm soát được công việc, khoanh vùng những điều phải tập trung giải quyết và không đi ngoài những điều đó. Nhờ vậy sẽ giúp cho ta giảm bớt căng thẳng, quá tải khi làm việc, nâng cao bình an nơi tâm hồn.
>> Xem thêm: https://adidaphat.gn.com.vn/nu-duc
0 notes
Text
12 NGUYỆN LỚN CỦA ĐỨC PHẬT DƯỢC SƯ.
1. Nguyện sau khi thành Phật, tự thân tôi sẽ có ánh sáng rực rỡ, chiếu tỏa khắp vô số thế giới, và tôi sẽ dùng thân tướng trang nghiêm đó hóa độ chúng sinh, khiến cho tất cả đều có được thân tướng trang nghiêm, sáng rỡ như chính thân tôi.
2. Nguyện sau khi thành Phật, sắc thân tôi trong sáng như ngọc lưu li, uy đức bao la vòi vọi, sáng soi khắp nơi, khiến cho chúng sinh tăm tối nhờ đó mà tỏ ngộ, tùy theo ý chí mà tu tập các nghiệp lành.
3. Nguyện sau khi thành Phật, tôi sẽ dùng phương tiện trí tuệ rộng lớn để cứu giúp chúng sinh, những gì họ cần thiết đều có đầy đủ, không bị thiếu thốn, đau khổ.
4. Nguyện sau khi thành Phật, nếu có chúng sinh nào lầm theo con đường bất chính, tôi sẽ hóa độ cho được an trú trong đạo giác ngộ; nếu họ tự mãn với đạo quả tiểu thừa thì tôi sẽ dùng giáo pháp đại thừa để hướng dẫn họ chứng đắc đạo quả đại giác ngộ.
5. Nguyện sau khi thành Phật, nếu có chúng sinh nào biết tu theo chánh đạo, tôi sẽ hộ trì cho họ gìn giữ được giới hạnh thanh tịnh, đủ cả ba nhóm giới luật đại thừa (tam tụ tịnh giới), không hề phạm lỗi. Nếu trót đã phạm lỗi, nghe đến danh hiệu tôi thì liền được thanh tịnh, không bị đọa lạc vào vòng ác đạo.
6. Nguyện sau khi thành Phật, nếu có chúng sinh nào thân thể yếu đuối, tàn tật, tâm trí ngu si, ngông cuồng, khi nghe danh hiệu tôi thì thân thể khỏe mạnh, tàn tật được lành lặn, dứt mọi bệnh khổ, phát sinh trí tuệ.
7. Nguyện sau khi thành Phật, nếu có chúng sinh mắc các chứng bệnh hiểm nghèo, không thầy cứu, không thuốc chữa, không thân nhân chăm sóc, đau khổ mọi bề, khi nghe được danh hiệu tôi thì bệnh tật liền dứt, thân tâm an lạc, và phát tâm tinh tấn tu tập cho đến khi đạt được đạo quả giác ngộ.
8. Nguyện sau khi thành Phật, nếu có người đàn bà nào chán nản vì cho rằng mang thân đàn bà phải chịu nhiều điều bất hạnh, và muốn chuyển sinh làm thân đàn ông, khi nghe được danh hiệu tôi thì sẽ được chuyển sinh làm thân đàn ông, và cứ như thế mãi cho đến khi đạt được đạo quả giác ngộ.
9. Nguyện sau khi thành Phật, tôi sẽ độ thoát cho chúng sinh vượt khỏi sự vây bủa của các lưới ma, các sợi dây trói buộc của vọng tưởng tà kiến, và dẫn dắt họ vào chánh kiến, tu tập hạnh nguyện Bồ-tát cho đến khi đạt được đạo quả giác ngộ.
10. Nguyện sau khi thành Phật, nếu có chúng sinh nào bị xử trị oan ức bởi luật nước bạo tàn, bị tù ngục gông cùm, tra tấn hành hạ, hoặc bị tai nạn nguy hiểm, đạo tặc chém giết v.v..., trăm điều đau khổ, khi nghe được danh hiệu tôi thì liền nhờ uy đức của tôi mà vượt thoát mọi đau khổ.
11. Nguyện sau khi thành Phật, nếu có chúng sinh nào sa vào cảnh đói khát khốn khổ, và vì miếng ăn mà phải gây ra các hành động tội lỗi xấu xa, khi nghe được danh hiệu tôi và chuyên tâm quán niệm thì tôi sẽ trước đem cho thức ăn ngon, sau đem pháp vị mà hóa độ, khiến cho an trú mãi trong niềm an lạc vô biên.
12. Nguyện sau khi thành Phật, nếu có chúng sinh nào nghèo túng đến nỗi không có áo mặc, đêm ngày phải chịu rách rưới, lạnh lẽo, trăm điều khổ sở, khi nghe được danh hiệu tôi và chuyên tâm quán niệm thì nhờ uy đức của tôi mà họ sẽ được có áo quần lành lặn đẹp đẽ, với đầy đủ các món trang sức thân thể.
Nam Mô Đông Phương Giáo Chủ Tịnh Lưu Ly Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật.
Thanh Tâm
Ảnh: Bảo Tâm
0 notes
Link
0 notes
Text
CUỘC SỐNG AN NHÀN ĐANG GIẾT CHẾT BẠN
Tác giả: Errik Rittenberry
____________________
Xã hội thuần hóa sói thành chó
Sản phẩm thành công nhất của thuần hóa
Lại là chính con người.
[Nietzsche]
____________________
Theo như một cuộc thăm dò ý kiến gần đây, dù được sống trong một thời đại với những tiêu chuẩn cao nhất trong lịch sử nhân loại, dù được đáp ứng dễ dàng các nhu cầu vật chất, chúng ta – những con người hiện đại, vẫn đang khốn khổ, giận giữ, sợ hãi, sầu muộn và âu lo hơn bao giờ hết.
Ở Mĩ, tỉ lệ trầm cảm tăng lên đều đều từ giữa những năm 1930. Xấp xỉ 40 triệu người trưởng thành khi được hỏi mắc chứng rối loạn lo âu. Đặc biệt ở độ tuổi thanh thiếu niên, cùng với sự phát triển của mạng xã hội và điện thoại thông minh, tỉ lệ trầm cảm và tự sát cũng tăng lên một cách đáng kể. Hơn sáu trăm ngàn trẻ em dưới 5 tuổi đang dùng thuốc điều trị tâm thần. Việc dùng quá liều nha phiến ở những người trưởng thành cũng đang nằm ngoài tầm kiểm soát.
Câu hỏi được đặt ra là: Tại sao?
Tại sao ở giữa thời đại của những tiềm năng vô hạn, con người lại vô vọng đến vậy?
Tại sao ở giữa một thời đại an toàn, thịnh vượng nhất trong lịch sử, con người lại lo âu đến vậy?
Khi có đầy những cơ hội để tự thay đổi và quyết định số phận mình, sao vài người trong chúng ta vẫn xót thương và giận dữ và dồn nén đến đớn đau cảm giác trống rỗng này?
Freud định nghĩa trầm cảm là một cơn tức giận từ trong nội tâm. Đã có nhiều nhận xét đúng, nhưng tôi nghĩ định nghĩa về trầm cảm của nhà tâm lý học hiện sinh vĩ đại Rollo May là đúng hơn cả - “Trầm cảm là sự bất lực khi không thể dựng lên tương lai.”
Rollo May cũng chỉ ra, lo âu đơn giản bắt nguồn khi ta “không thể biết về thế giới mình đang sống, cũng không thể định vị bản thân trong sự hiện hữu của chính mình.”
Ngày nay, nhiều người lạc lối, mất phương hướng và hoang mang trong chính cuộc sống của họ, không còn tin vào khả năng xây dựng tương lai của bản thân.
Họ vô vọng, hay theo cách nói của Sartre, họ đang cảm nhận “nỗi thống khổ của tự do”. Hoặc theo cách nói khác nữa, “Cái án của nhân loại là tự do, một khi bị ném vào thế giới này, ta phải chịu trách nhiệm cho tất cả những gì ta đã làm”.
Một trong những nhà trị liệu tâm lý năng nổ nhất thế kỷ 20 – Carl Jung, đã nhận ra thứ mà một phần ba những bệnh nhân của mình phải chịu đựng “không phải là chứng loạn thần kinh lâm sàng có thể định nghĩa, mà là sự vô cảm và trống rỗng trong cuộc sống của họ. Hay có thể nói, đây là chứng loạn thần kinh chung trong thời đại của chúng ta.”
Rốt cục điều gì đã xảy đến với xã hội hiện đại này, khiến cho nỗi sợ hãi cứ ngày càng lan rộng?
Có lẽ chỉ vì chúng ta không còn phải đấu tranh sinh tồn nữa, mà dành thời gian để du đãng lang thang trong miền tưởng tượng.
Có lẽ những khó khăn và hiểm nguy thường nhật đã qua đi, ta không cần phải chứng minh giá trị của bản thân qua những lần vượt qua giông tố.
Có lẽ cuộc sống an nhàn không nghịch cảnh đã tước đi của ta ý nghĩa và mục đích sống.
Có lẽ ta đang sống đằng sau chiếc mặt nạ văn minh, và chẳng thể nào là chính bản thân mình được nữa.
Có lẽ vì chúng ta là sản phẩm của những bộ máy truyền thông đại chúng phân cực, thứ xuyên tạc thông tin thành mấy cái tít giật gân rác rưởi.
Có lẽ chúng ta hằng tin vào những lời nói dối, rằng địa vị xã hội thật quan trọng, rằng nhà lầu xe hơi, những bộ quần áo sáng loáng và những chuyến đi xa xỉ sẽ làm ta hạnh phúc.
Có lẽ chúng ta đã mất kết nối với thế giới này, thay vào đó dành hàng ngày trong căn phòng điều hòa đóng kín, đằng sau chiếc màn hình máy tính, tán nhảm hằng mong người ta sẽ hiểu sự khốn khổ cùng c��c của bản thân mình.
Có lẽ do tầm nhìn hạn hẹp khiến ta mù quáng, nhỏ nhen, tuyệt vọng trong khe nứt nhỏ bé của miền nhận thức hạn chế. Hay do ta nhìn thế giới qua đôi mắt của chú sâu bé nhỏ thay vì loài chim, khiến đường chân trời dường như mãi luôn ảm đạm và khuất sau tầm mắt.
Có lẽ vì chúng ta đã chế ngự bản năng mà hùa theo tuân thủ những chuẩn mực khắt khe của văn hóa và xã hội.
Có lẽ thay vì bước trên con đường chông gai của công việc và ý chí, ta chỉ ngồi quanh, trông mong vào vũ trụ, hay Chúa trời sẽ cứu rỗi chúng ta, cho ta cuộc sống hằng ao ước.
Có lẽ ta cứ nhìn nhận thế giới như những vị anh hùng, thay vì chiếu sâu vào đôi mắt của chính bản thân.
Hay có lẽ tiện ích của công nghệ đã xây lên một bức tường ngăn ta khỏi những trải nghiệm quý giá.
Ở thời đại này, chúng ta được kết nối với nhau hơn bao giờ hết, cũng bị ngăn cách, cô đơn, và phẫn uất hơn bao giờ hết.
Loài người tiến hóa để hợp tác và gắn bó với nhau thành những nhóm nhỏ. Nhờ đó, ta sống sót qua những ngày đầu đầy chông gai trong thời kỳ nguyên thủy.
Rồi khi tiến hóa tiếp và sống với những bộ tộc và xã hội thu nhỏ, ta tìm thấy mục đích của đời mình là không ngừng cống hiến.
Ngày nay, chúng ta thấy lạc lõng trong chính thế giới của bản thân, chẳng thể là một mắt xích hoàn chỉnh trong xã hội được nữa. Hãy lượn lờ trên Twitter, đọc bình luận của các trang báo chính trị để thấy người ta đã phẫn uất tức giận đến nhường nào.
Carl Jung hoàn toàn hiểu rõ về vấn đề nan giải này, ông viết rằng đây là “một hình thái mới của sự hiện hữu”, và toàn thể xã hội hiện đại đã “tạo ra những con người yếu đuối, bất an và thiếu kiên định.”
Jung cảnh báo nếu xã hội còn xem nhẹ và coi khinh những cá nhân ấy, họ sẽ dễ bị tổn thương bởi ảnh hưởng của nhà nước và những phong trào quần chúng luôn muốn thao túng họ. Như gần đây, ta thấy sự trỗi dậy của phe cực tả, cực hữu và những nhóm cực đoan dị hợm của chính trường Mĩ.
“Đám đông càng lớn, mỗi cá nhân càng nhỏ bé hơn” – như Jung đã nhắc nhở chúng ta.
Không thể phủ nhận những nỗ lực tuyệt vời và tài tình đã giúp tạo ra một nền văn minh thịnh vượng và phồn vinh. Nhưng như Colin Wilson và nhiều nhà tư tưởng vĩ đại khác đã ngộ ra, cái bóng dài lê thê của sự an nhàn đã làm con người ta trượt dài trên sườn dốc. “Cuộc sống sung túc khiến người ta thôi kháng cự, để rồi chết chìm trong sự lười biếng.”
Chúng ta nên làm gì?
Làm gì để vượt qua cái hố đen sâu thẳm của sự trống rỗng, làm gì để thôi chết chìm trong sự lười biếng và khai phá hết tiềm năng của bản thân?
Tôi chẳng thể nào biết câu trả lời chính xác nhất là gì. Mỗi chúng ta là một bản thể riêng biệt và độc nhất. Nhưng ta có thể chắt lọc từ những nhà tư tưởng vĩ đại, xem cái cách mà họ nói về mục đích và sức sống.
1. Buông bỏ.
Người Mĩ là những người hay căng thẳng nhất thế giới. Và theo như cuộc thăm dò mới đây của Gallup, tám mươi lăm phần trăm công nhân hiện nay chán ghét công việc của mình.
Cuộc sống hối hả đang giết chết chúng ta. Hãy thoát ra khỏi càng nhanh càng tốt.
Joseph Campbell đã nói “Phải buông trôi cuộc đời đã tính trước, chờ đón thứ đang thực sự đợi chúng ta.” Một khi đã nhận ra cách sống hiện tại không giúp chúng ta theo đuổi được niềm đam mê, ta phải thay đổi. Ta phải nhớ lại chính mình trước khi bị đúc vào cái khuôn định sẵn của những chuẩn mực xã hội. Sẽ có những đớn đau. Sẽ có những xáo trộn. Và ta sẽ nhận ra mình đang cô độc bước dài lê thê trên những vùng đất chưa được gọi tên. Nhưng ta phải cất bước đi thôi.
Và Carl Jung đã ngộ ra, “Chẳng thể nhắc đến ý thức mà không có nỗi đau.”
2. Chấp nhận những khổ đau.
Thế giới làm ta tan nát lòng. Hãy biến sự khổ đau thành nền tảng để xây dựng nên bản ngã mới. Như Rollo May đã khẳng định chắc nịch, “nỗi đau là cách khiến ta nhận ra thái độ hay hành vi sai lệch...mỗi phút giây đớn đau cho ta cơ hội để trưởng thành. Nghe có vẻ lạ lùng, nhưng mọi người nên hân hoan vì niềm đau khổ. Đây là dấu hiệu chỉ ra ta có thể thay đổi chính bản thân mình.”
Hay theo cách nói của Charles Bukowski, bạn phải chết vài lần để có thể thực sự sống.
3. Tự nhận thức
Colin Wilson từng viết: “ Thế giới kéo ta trượt xa hàng ngày, như những nô lệ phía sau bầy ngựa chiến. Ta cần học cách cắt đứt sợi dây trói, để tâm trí mình lắng lại, nhận ra mối quan hệ giữa núi và đá.”
Cuộc sống hiện đại nhàn tẻ và thanh bình khiến chúng ta biếng nhác, cuốn lấy những trò tiêu khiển rẻ tiền, những màn kịch đời tầm thường vô vị. Tâm trí ta cứ mờ sương, uể oải, chậm chạp. Ngày lại qua ngày, cuộc sống như được lập trình sẵn. Ta chẳng thể nhớ nổi mình đã làm gì sáng qua nữa. Mọi thứ đều như một thói quen, đáng quên, chết lặng.
Nhưng Alan Watts đã từng nhắc nhở chúng ta, “Đây là bí mật của cuộc đời – hãy để tâm đến những thứ bạn đang làm. Thay vì gọi nó là công việc, hãy gọi nó là thú vui.”
Phải học cách chế ngự những con robot bên trong chúng ta, nâng cao tầm nhận thức. Hãy ném bản thân vào những trải nghiệm mới, bằng những chuyến phiêu lưu, những hiểm nguy, bằng cách tắt bản tin thời sự đi, thay vào đó là đọc những tác phẩm văn thơ vĩ đại. Hãy theo cách nói của Henry Miller, “mục đích của cuộc đời là sống, sống hạnh phúc, say mê, thanh thản mà tuyệt vời.”
4. Dừng việc mua sắm.
Nếu là một người Mĩ điển hình, bạn có lẽ đang chết ngập trong đống nợ, tài khoản tiết kiệm gần như bằng không. Khả năng tài chính tệ hại khiến bạn phẫn uất, tuyệt vọng, mất đi nhân tính. Khốn nạn thay, những nỗ lực vô vọng để gây ấn tượng với người hàng xóm kế bên đang gặm nhấm linh hồn bạn, khiến bạn chán nản vô cùng.
Theo như đại học Northwestern, những người đặt nặng sự giàu có, địa vị xã hội và của cải vật chất dễ bị trầm cảm và chống đối xã hội (anti-social) hơn phần lớn chúng ta.
Chẳng phải là bí kíp gì cao xa, bạn càng sở hữu ít hơn, bạn càng hạnh phúc. Bukowski đã nói, nhu cầu của tôi càng ít, tôi càng thấy khá hơn. Chi tiền vào những thứ thực sự thu hút bạn, khiến bạn ngưỡng mộ, thay vì chạy đua theo những thiết bị hiện đại nhất, những quần áo trang sức mốt nhất chỉ cho bạn hạnh phúc ngắn hạn.
Lão Tử đã khuyên răn chúng ta, “ Nếu cứ chạy theo tiền bạc và sự che chở, tim ta sẽ chẳng bao giờ mở ra. Quan tâm đến ánh nhìn người khác, ta sẽ thành tù nhân của họ. Làm công việc của mình, đừng lùi bước. Đó mới là con đường duy nhất dẫn đến sự thanh thản.”
5. Kết nối lại với thế giới và bản năng nguyên thủy của chúng ta.
Jung lưu ý rằng “quá nhiều thú tính sẽ làm méo mó người văn minh, quá nhiều sự văn minh làm người ta phát ốm.” Và quả thực, chúng ta – những con người văn minh sống trong thế giới phương Tây đang phát ốm.
Camus đã có một câu nói nổi tiếng, con người là tạo vật duy nhất chối bỏ chính bản thân mình.
Chúng ta là giống loài duy nhất trong hành tinh này sống khác hoàn toàn với bản năng, thế chỗ bằng những nụ cười giả tạo và lớp mặt nạ giả tạo.
Nietzsche hiểu rất rõ điều này, “tương đối mà nói, con người là loài động vật vụng về, ốm yếu và nguy hiểm hơn thảy, đã đi ngược lại bản năng của chính mình.”
Nietzsche kết luận rằng cách chữa duy nhất cho “căn bệnh mang tên loài người” là “trở về với mẹ thiên nhiên”, làm sống lại những bản năng nguyên thủy đã bị triệt hạ bởi văn minh.
Ta phải học cách vọc ngón tay vào đất, học cách làm vườn, thiền, đi chân trần trên nền cỏ, bộ hành trong tự nhiên, tìm hiểu và thí nghiệm các vị thuốc thiên nhiên. Một lần nữa, Alan Watts đã nhắc ta nhớ, “ta không “đi vào” trong thế giới này; ta rời bỏ nó, như một chiếc lá rời khỏi nhành cây.”
Tôi có thể kết thúc bài này bằng một đoạn văn nho nhỏ dễ thương đầy khích lệ, nhưng tôi chẳng thể. Tôi chỉ muốn nhắc nhở mọi người, mỗi phút giây được sống là một phép màu. Mọi thứ chỉ là phù du, chúng ta đang dần đi đến điểm kết của cuộc đời mình. Mỗi hơi thở qua đi, ta lại càng đi gần đến cõi chết. Bạn có chịu tận tâm với cuộc sống mà mình được ban phước, hay sẽ trở thành nạn nhân của lối sống lười biếng giả tạo khiến bạn bị nuốt chửng bởi xã hội này?
0 notes
Text
Bệnh trĩ là tình trạng các tĩnh mạch ở hậu môn bị sưng hoặc xung huyết do áp lực ở phần dưới của trực tràng gây ra. Đây là một bệnh lý khá phổ biến, thường xuất hiện ở những người bị táo bón hoặc tiêu chảy mãn tính; những người bị béo phì; những người có thói quen đi đại tiện lâu; những người quan hệ chăn gối qua đường hậu môn; phụ nữ mang thai…
Bên cạnh đó, những người thường xuyên phải lao động nặng, người vận động nhiều như các vận động viên cử tạ, quần vợt…; những người phải ngồi hoặc đứng lâu như nhân viên văn phòng, công nhân…; những người bị u trực tràng, u tử cung…khiến áp lực ở ổ bụng lớn cũng làm giãn tĩnh mạch ở hậu môn gây ra trĩ.
Ngoài ra, những người tuổi cao thì nguy cơ bệnh trĩ cũng phát triển do tình trạng lão hóa; các cơ, dây chằng, tĩnh mạch khu vực hậu môn trở nên lỏng lẻo khiến bệnh trĩ càng nặng hơn.
Bệnh trĩ có nhiều cấp độ khác nhau, vì vậy cũng ảnh hưởng đến sức khỏe, cuộc sống của người bệnh ở nhiều dạng khác nhau. Nhưng nói chung đây là căn bệnh gây ra nhiều phiền toái, làm người bệnh đau đớn, khổ sở và khó chịu; đặc biệt mỗi lần đi đại tiện với người bị trĩ nặng có thể nói là một cực hình.
Hiện nay, có nhiều cách điều trị bệnh trĩ hiệu quả, từ tây y đến đông y để người bệnh lựa chọn. Trường hợp bệnh nặng có thể áp dụng phương pháp phẫu thuật để cắt bỏ búi trĩ; trường hợp nhẹ thì uống thuốc, điều chỉnh chế độ ăn uống, sinh hoạt để điều hòa và ổn định tiêu hóa.
Phẫu thuật hoặc uống thuốc là những phương pháp có hiệu quả nhanh nhưng khiến người bệnh đau đớn và tốn kém chi phí điều trị, có thể để lại tác dụng phụ. Có thể nói đây là phương pháp bất đắc dĩ; bởi bệnh trĩ khi mới xuất hiện hoặc nếu người bệnh biết cách điều chỉnh chế độ ăn uống, sinh hoạt khoa học thì hoàn toàn có thể giảm thiểu triệu chứng bệnh; ngăn ngừa tiến triển nặng.
Một nguyên nhân thường gặp gây ra bệnh trĩ là tình trạng táo bón, mà tình trạng này chủ yếu xuất phát từ chế độ dinh dưỡng hàng ngày của chúng ta.Vì vậy, nếu biết cách kiên cữ và lựa chọn thực phẩm phù hợp, có thể ngăn ngừa và giảm tình trạng bệnh trĩ hiệu quả.
Cụ thể, người bệnh trĩ nên tăng cường ăn các thực phẩm dễ tiêu hóa, giàu chất xơ như các loại rau củ, hoa quả tươi, ngũ cốc…để phòng ngừa táo bón. Đặc biệt, các thực phẩm có tác dụng nhuận tràng nên được ưu tiên trong thực đơn hàng ngày như: rau mùng tơi, rau diếp cá, cải bó xôi, khoai lang, chuối, dứa, đu đủ, hạt chia, nha đam…Cùng với đó là các loại dầu thực vật có tác dụng tăng cường chuyển hóa, tốt cho tiêu hóa như: dầu ô liu, dầu dừa, dầu mè.
Vì khi bị trĩ thường đại tiện ra máu nên các thực phẩm bổ máu cũng rất cần cho người bị trĩ để bổ sung chất dinh dưỡng cho cơ thể. Nên ưu tiên thịt bò, sò huyết, gan gà, các loại thủy sản như tôm, cá…
Cuối cùng, một điều người bệnh trĩ phải luôn ghi nhớ và thực hiện là uống nhiều nước, ít nhất từ 2 - 2.5 lít mỗi ngày để giúp tiêu hóa dễ dàng, nhuận tràng, ngăn ngừa táo bón và giảm triệu chứng bệnh trĩ. Các loại nước uống từ hoa hòe, rau má, củ đinh lăng, các loại trà thảo mộc có tác dụng giải nhiệt cơ thể đều rất tốt.
Và bên cạnh các thực phẩm nên sử dụng hàng ngày thì người bệnh trĩ cũng cần ghi nhớ danh sách các thực phẩm không nên ăn như: thức ăn nhiều dầu mỡ; các món ăn cay nóng, nhiều ớt, hạt tiêu; các chất kích thích như bia, rượu, cà phê; các loại đồ ngọt; ăn quá mặn; ăn quá no…đều là nguy cơ khiến bệnh trĩ phát triển.
0 notes
Text
Hội chứng Erotomania: Khi Tình yêu trở thành ảo đá
I. Giới thiệu
Hội chứng Erotomania là một rối loạn tâm thần hiếm gặp, trong đó người bệnh tin rằng một hoặc nhiều người khác đang yêu mình một cách mãnh liệt. Đối tượng của tình yêu ảo tưởng này thường là những người nổi tiếng, giàu có, có vị trí cao trong xã hội hoặc có nhan sắc.
Mặc dù không có bằng chứng chứng minh cho tình yêu này tồn tại, người mắc Erotomania vẫn tin tưởng mạnh mẽ vào tình yêu ảo tưởng và có thể tạo ra những lý do hợp lý để giữ kín mối quan hệ này.
Trong bài viết này, chúng ta sẽ đi vào chi tiết về hội chứng Erotomania, các triệu chứng, nguyên nhân và cách điều trị.
II. Triệu chứng của Erotomania
Hội chứng Erotomania có một số triệu chứng đặc trưng, bao gồm:
Ảo giác tình yêu: Người bệnh tin rằng một hoặc nhiều người khác đang yêu mình và thường tưởng tượng ra những hành động và tín hiệu không tồn tại.
Mối quan hệ tưởng tượng: Người mắc Erotomania tin rằng họ có một mối quan hệ tình cảm sâu sắc và bí mật với người mà họ cho là đang yêu mình.
Khám phá dấu hiệu ẩn: Người bệnh thường cố gắng tìm ra những dấu hiệu ẩn trong các bài viết, tin tức, hoặc hành động của người mà họ tin là đang yêu mình.
Tâm trạng biến đổi: Hội chứng Erotomania có thể gây ra các tình trạng tâm lý như sự phấn khích, hạnh phúc hoặc thậm chí cả sự tức giận, đau buồn khi người mà họ tin là đang yêu mình không đáp lại tình cảm.
III. Nguyên nhân của Erotomania
Nguyên nhân cụ thể của hội chứng Erotomania hiện vẫn chưa rõ ràng. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu tin rằng sự kết hợp giữa yếu tố di truyền và môi trường có thể góp phần vào tình trạng này. Một số nguyên nhân có thể bao gồm:
Sự thất vọng trong tình yêu thực tế: Có thể một số người mắc Erotomania đã có những trải nghiệm tình yêu không thành công trong quá khứ và dần chuyển hướng sang tình yêu ảo tưởng để đạt được sự thoả mãn tình cảm.
Sự tự cô lập và cô đơn: Người có xu hướng sống cô đơn và không có mối quan hệ gần gũi thực tế có thể dễ dàng rơi vào ý tưởng tưởng tượng về tình yêu.
IV. Hệ quả của Erotomania
Hội chứng Erotomania có thể gây ra những tác động tiêu cực đối với người mắc phải và những người xung quanh. Chúng có thể bao gồm:
Mất cân bằng cuộc sống: Hội chứng Erotomania có thể làm ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của người bệnh, gây ra sự mất cân bằng trong công việc, quan hệ gia đình và tình bạn.
Hành vi bạo lực: Mặc dù hiếm, nhưng một số người mắc Erotomania có thể trở nên bạo lực khi họ cảm thấy người mà họ tin là đang yêu mình không đáp lại tình cảm.
Đau khổ tình cảm: Người mắc Erotomania có thể trải qua sự đau khổ và khó khăn trong quá trình chấp nhận và hiểu rằng người mà họ tin là đang yêu mình không có tình cảm với họ.
Ảnh hưởng tâm lý và tình cảm: Hội chứng Erotomania có thể gây ra những tác động mạnh mẽ đến tâm lý và tình cảm, gây ra lo lắng, sự tự ti và trầm cảm.
V. Hướng dẫn điều trị
Điều trị hội chứng Erotomania thường kết hợp sự can thiệp tâm lý và sử dụng thuốc. Các phương pháp điều trị bao gồm:
Tâm lý học: Trị liệu tâm lý cá nhân hoặc nhóm có thể giúp người bệnh hiểu và chấp nhận thực tế của tình yêu ảo tưởng, hỗ trợ trong việc xác định và giảm thiểu các tư tưởng sai lầm về mối quan hệ tình cảm.
Thuốc trị liệu: Một số loại thuốc có thể được sử dụng để giảm các triệu chứng liên quan đến Erotomania, bao gồm thuốc chống trầm cảm hoặc thuốc kháng loạn thần.
VI. Câu hỏi thường gặp (FAQs)
Hội chứng Erotomania là gì? Hội chứng Erotomania là một rối loạn tâm thần khi người bệnh tin rằng một hoặc nhiều người khác đang yêu mình một cách mãnh liệt.
Ai có nguy cơ mắc hội chứng Erotomania? Hội chứng Erotomania thường xảy ra ở phụ nữ, nhưng cũng có thể xảy ra ở đàn ông.
Tình trạng này có liên quan đến các tình trạng tâm thần khác không? Vâng, hội chứng Erotomania có thể liên kết với các rối loạn tâm thần khác liên quan đến ảo tưởng hoặc hành vi hưng cảm.
Người mắc Erotomania có thể trở nên bạo lực không? Mặc dù hiếm, nhưng một số người mắc Erotomania có thể có xu hướng cư xử bạo lực khi người mà họ tin là đang yêu mình không đáp lại tình cảm.
Hội chứng Erotomania có thể được điều trị không? Vâng, điều trị cho Erotomania thường kết hợp can thiệp tâm lý và sử dụng thuốc.
VII. Kết luận
Hội chứng Erotomania là một rối loạn tâm thần khi người bệnh tin rằng một hoặc nhiều người khác đang yêu mình một cách mãnh liệt. Mặc dù không có bằng chứng chứng minh cho sự tồn tại của tình yêu này, người mắc Erotomania vẫn tin vào tình yêu ảo tưởng và có thể tạo ra những lý do hợp lý để duy trì mối quan hệ này. Việc nhận biết và điều trị kịp thời có thể giúp người bệnh ổn định lại cuộc sống và cải thiện chất lượng tâm lý của họ.
Đọc thêm nhiều thông tin hay về hội chứng này tại đây.
0 notes
Text
Phụ nữ mang thai ăn rau diếp cá được không?
Bà bầu ăn rau diếp cá được không? Thực tế, rau diếp cá có rất nhiều công dụng không chỉ đối với người lớn, trẻ nhỏ mà còn đối với cả bà bầu. Tìm hiểu bài viết dưới đây để có giải đáp chính xác.
>>Xem thêm: thuốc DHA cho bà bầu loại nào tốt
Có thai ăn rau diếp cá được không?
Theo các chuyên gia y tế cho biết, ăn rau diếp cá không gây sảy thai, ngược lại còn có rất nhiều tác dụng hữu ích cho sức khỏe của phụ nữ mang thai. Vấn đề cần quan tâm là lựa chọn được nguồn rau sạch và sử dụng rau đúng cách. Chị em cần lựa chọn mua rau diếp cá tại các điểm bán uy tín, nếu vườn nhà trồng được thì tốt nhất. Việc ăn rau diếp cá cũng cần đúng cách, dùng quá nhiều cũng không tốt cho sức khỏe.
Theo y học cổ truyền, rau diếp cá có tên thuốc là ngư tinh thảo. Rau diếp cá có vị chua, tính hàn với nhiều công dụng hữu ích cho phụ nữ mang thai.
Trị táo bón cho mẹ bầu:
Trong quá trình mang thai, mẹ cần bổ sung nhiều dưỡng chất cho cơ thể, cộng với việc thai nhi ngày càng lớn dần chèn ép vào đường ruột dẫn đến tình trạng táo bón thường xuyên khiến mẹ khổ sở, nếu kéo dài lâu có thể gây sa búi trĩ, mất nước,… Do đó, mẹ có thể ăn rau diếp cá giúp đẩy lùi tình trạng táo bón, nhuận tràng, thông tiện.
>>Xem thêm: canxi và omega-3 có uống chung được không
Trị tình trạng sa búi trĩ
Tình trạng trĩ mẹ có thể gặp trong thời gian mang thai, có thể kèm theo chảy máu, đau rát và ngứa vùng hậu môn. Tình trạng này xảy ra do táo bón kéo dài, tử cung giãn ra chèn ép đường ruột, do chị em ít vận động. Một trong những phương pháp chữa trị là dùng rau diếp cá. Dùng rau diếp cá có tác dụng trị táo bón, làm giảm sưng nề búi trĩ nhờ diếp cá có khả năng thanh nhiệt giải độc.
Giúp điều trị tình trạng viêm nhiễm đường niệu
Mẹ bầu mang thai rất dễ gặp tình trạng viêm nhiễm đường niệu do ứ đọng nước tiểu. Điều này có thể gây ra tiểu buốt, tiểu khó, tiểu rắt. Theo y học cổ truyền rau diếp cá có tác dụng thanh nhiệt lợi thấp, lợi tiểu thông lâm. Do đó, mẹ có thể điều trị hiệu quả viêm nhiễm đường niệu bằng rau diếp cá kết hợp với uống nhiều nước lọc.
Làm đẹp da, trị mẩn ngứa mụn nhọt
Các mẹ bầu thường xuyên cảm thấy nóng bức hơn người khác do thay đổi nột tiết, tăng chuyển hoá,… Vậy nên mẹ có thể rất dễ nổi mụn ở lưng, mặt. Rau diếp cá có tác dụng thanh nhiệt mát gan, làm giảm các mụn nóng khắp cơ thể.
Ngoài ra, trong rau diếp cá có chứa nhiều chất chống oxy hóa như polyphenol, quercetin, quercitrin có tác dụng ngăn ngừa lão hóa da, chống viêm nhiễm giúp bà bầu có làn da trẻ trung và khỏe mạnh.
>>Xem thêm: mẹo dân gian trị ngứa cho bà bầu
Hạ sốt
Ngoài những công dụng trên, rau diếp cá còn giúp thanh nhiệt giải độc, giúp làm hạ sốt khá hiệu quả cho mẹ khi sốt nhẹ, nhất là khi kết hợp 1 số thảo dược cùng nhóm như lá dâu, lá tre, lá bạc hà để tăng hiệu quả hạ sốt.
Giúp kiếm soát cân nặng:
Nếu mẹ ăn 100 g rau diếp cá chỉ có 17 calo, còn lại là cung cấp hàm lượng chất xơ, vitamin cao hỗ trợ thải độc, nhuận tràng. Chưa hết, rau diếp cá còn bổ sung sắt, kali, vitamin nhóm B hỗ trợ giảm đi lượng mỡ dư thừa tích tụ.
Ngoài việc sử dụng rau diếp cá trong thời gian mang thai, mẹ hãy kết hợp sử dụng viên uống sắt và canxi cho bà bầu tốt nhất để đảm bảo nhu cầu đáp ứng dinh dưỡng. Mẹ hãy chọn những viên uống nhập khẩu chính hãng, uy tín và chất lượng để có thể an tâm sử dụng.
Hy vọng những thông tin trong bài viết trên đã mang đến cho mẹ câu trả lời chuẩn xác về việc bầu ăn rau diếp cá được không? Qua đó, giúp mẹ hoàn toàn yên tâm khi bổ sung rau diếp cá vào thực đơn hàng ngày.
0 notes
Text
Hướng đến về thuốc phá thai Misoprostol 200mcg
bây giờ, phá thai bằng thuốc là liệu pháp đc chọn lựa đa chủng loại nhất và trong đó, Misoprostol 200mcg là thuốc được sử dụng thông dụng. Vậy Misoprostol là gì? Biện pháp dùng thuốc phá thai Misoprostol 200mcg như vậy nào? Hãy cùng tìm hiểu về thuốc phá thai Misoprostol 200mcg trong bài viết này nhé!
Thuốc phá thai Misoprostol 200mcg là gì?
https://thuochanoi.net/wp-content/uploads/2023/06/Misoprostol-stella-200mcg-2.jpg
Thuốc Misoprostol là 1 trong phương thuốc chống loét dạ dày đc phát triển thuở đầu để giảm đau và viêm trong ung thư vòm họng. Tuy nhiên, người ta phát hiện ra rằng thuốc cũng có chức năng gây co thắt tử cung và dùng để làm phá thai.
Thuốc Misoprostol 200mcg được sử dụng quá cho các con gái đã có thai phổ biến đặc biệt là 63 ngày kể từ ngày sau cuối của kỳ chu kỳ hành kinh. Chất dinh dưỡng chính trong thuốc Misoprostol là Prostaglandin, một chiếc hoạt chất tự nhiên có chức năng kích ứng co thắt tử cung của phụ nữ.
bí quyết dùng thuốc phá thai Misoprostol 200mcg
Việc dùng thuốc phá thai Misoprostol 200mcg rất cần được thực hiện đúng cách để bảo vệ công dụng phá thai như mong đợi & tránh những biến tướng nguy hiểm cho tình hình sức khỏe. Thông thường, thời gian chữa trị phá thai Misoprostol 200mcg đc tiến hành như sau:
Ngày trước nhất
Chị em bắt buộc uống một liều thuốc Mifestad 200mg – Mifepristone, thuốc tác dụng phá thai 64-87%.
https://thuochanoi.net/wp-content/uploads/2023/06/thuoc-pha-thai-mifestad-200mg.jpg
Ngày thứ 2 hoặc ngày trang bị 3
Chị em uống 4 viên Misoprostol 200mcg, nhằm mục tiêu kích động co thắt toàn bộ, khiến cho thai nạo & đưa ra khỏi tử cung. Việc này gây ra các cơn đau & bị chảy máu. Việc này kém công bố trong thời gian 4-6 giờ sau uống & lạm dụng quá Misoprostol.
Sau 2 tuần
Chị em nên đi đến trung tâm khám bệnh hoặc Bác Sỹ để kiểm nghiệm xem phá thai sở hữu chiến thắng hay không.
Nhưng trước khi dùng thuốc, đàn bà cần được tìm hiểu thêm chủ kiến của bác sỹ để bảo đảm tuyệt đối của bản thân.
đào bới về biểu hiện khi sử dụng thuốc phá thai Misoprostol 200mcg
các triệu chứng phụ có thể xẩy ra sau khi dùng thuốc phá thai Misoprostol 200mcg bao hàm cực khổ thoải mái và tự nhiên, chảy máu, đau bụng, buồn nôn, nôn mửa & cảm cúm. Trong trường hợp hiện tượng trên không giảm giảm xuống sau một thời gian nhất định, đàn bà rất cần phải tương tác ngay sở hữu các Chuyên Viên y khoa để đc chẩn đoán và chữa bệnh trong lúc này.
ngoài ra, uống thuốc Misoprostol 200mcg cũng có thể có trong những nguy cơ nhất định. Trong trường hợp sử dụng quá thuốc phá thai trong tháng trước hết của thai kỳ, mang nguy hại cao hơn cho phụ nữ bị ra máu. Dẫu thế, tình huống sử dụng quá đúng và vừa đủ theo hướng dẫn của bác ý sĩ, nguy hại này sẽ đc giảm thiểu.
Một nguy hại khác lúc sử dụng thuốc phá thai Misoprostol 200mcg là viêm nhiễm tử cung. Việc tinh giảm nguy cơ tiềm ẩn này thông qua việc sử dụng quá kháng sinh & tuân hành chặt chẽ những công đoạn vệ sinh cá nhân. Con gái cũng nên giảm bớt việc lạm dụng tạp chất và cần được suy giảm quan hệ tình dục trong quá trình dùng thuốc phá thai.
các ghi chú lúc dùng thuốc phá thai Misoprostol 200mcg
trước lúc dùng thuốc phá thai Misoprostol 200mcg, chị em phải bài viết liên quan chủ kiến của bác sỹ và tuân thủ nghiêm ngặt đồng loạt các hướng dẫn sau:
luôn luôn sử dụng thuốc theo chỉ dẫn của bác ấy sĩ.
ko lúc nào dùng thuốc phá thai 1 mình nếu không đc chống chỉ định hoặc không được chẩn đoán bởi Bác Sỹ.
ví như thiếu hiểu biết nhiều rõ về cách dùng hoặc chịu bất kỳ những áp lực nào trong tiến trình lạm dụng, hãy liên hệ chiếm hữu bác sỹ để đc tư vấn.
tránh dùng thuốc phá thai Misoprostol 200mcg trong tình huống con gái mang nhóm máu Rh âm.
trong vô số tình huống, thuốc Misoprostol được sử dụng công dụng và an toàn để phá thai. Tuy nhiên, sử dụng thuốc phá thai bao gồm thoáng rộng rủi ro biệt lập & phải được sử dụng quá bên dưới sự giám sát của các Chuyên Viên y khoa. Việc kiểm tra sức khỏe liên tiếp & vâng lệnh những chỉ dẫn dùng thuốc để bảo vệ sự an toàn và công dụng.
Việc dùng thuốc phá thai Misoprostol 200mcg là một trong những biện pháp phá thai đem lại hiệu quả cao và không khiến ảnh hưởng tới khả năng sinh sản của con gái. Dẫu thế, việc dùng thuốc phá thai này rất cần được đc tiến hành ngặt nghèo dưới sự tính toán của những Chuyên Viên y khoa & vâng lệnh vừa đủ những quy trình bình yên & hướng dẫn lạm dụng quá.
mặt khác, toàn thể tất cả đàn bà trong giới hạn tuổi sinh sản bắt buộc nghe đến những liệu pháp suy giảm thai an ninh và tác dụng để đảm bảo tình hình sức khỏe và nâng cấp unique cuộc sống đời thường.
Để được support về những biện pháp phá thai an ninh hoặc tìm thuốc phá thai Misoprostol 200mcg, quý khách vui miệng contact ngay qua Hotline: 097 424 02 77.
0 notes
Text
1300 / NHỮNG AI LÍNH CHIẾN PHI THƯỜNG , CÓ ANH TRONG ĐÓ XÓM PHƯỜNG HÂN HOAN .
Lạnh lùng giữa bầu trời đông buốt giá , Tung bay cánh nhạn bóng ngả xế tà . Vi vu sải cánh lộng gió bao la , Màn đen hiện về chiều ba mươi tối .
Đơn côi cảnh sống cô liêu cằn cỗi , Hình dáng đâu rồi vạn nỗi âu lo . Người đi xa lắc cách trở sông hồ , Biết tỏ cùng ai bên bờ trông ngóng .
Quan san dặm tràng tình em bé bỏng , Thương nhớ não nề ước vọng chung đôi . Anh ơi lâu lắm đăng đẵng núi đồi , Đêm nằm thao thức ru hời giấc ngủ …
Trên cao lặng lẽ áng mây quần tụ , Cây đa buồn ủ rũ đứng bơ vơ . Nhìn vầng trăng khuyết soi sáng lững lờ , Số phận hắt hiu tình thơ khổ lụy…
Nơi phương Bắc chiến trường Quãng Trị , Lính Nhảy Dù bố trí vây quanh . Đánh tan cọng phỉ tanh bành , Van xin đầu thú cúi mình khóc than !
Được tin nhắn nghe chàng đại thắng , Người Anh Hùng xa vắng em mong . Biên cương phiến giặc điên cuồng , Thuốc liều nốc cạn cho xong cuộc đời …!…?
Nghĩ đau đớn buồn rơi nước mắt , Dân hai miền muối mặt giết nhau ? Cũng do lũ chệt ba tàu , Lùa dân Bắc Việt đi đầu thiêu thân !
Mai đây sẽ vui mừng tiếp đón , Đoàn Quân về dành trọn yêu thương . Những Ai lính chiến phi thường , Có Anh trong đó xóm phường hân hoan …
Ghi nhớ lại trận chiến Cổ Thành Quãng Trị mùa hè đỏ lửa năm 1972 đánh tan việt cọng .
Nguyễn Doãn Thiện Antioch , California Ngày 16 tháng 4 năm 2021
0 notes
Text
Có một thứ mà người nói dễ quên, còn người nghe thì lại cứ nhớ mãi : Lời hứa.
Có một thứ làm tổn thương người nặng hơn bất cứ loại vũ khí nào trên đời và để lại vết thương tích trong lòng khó phai theo năm tháng : lời ác khẩu tổn thương.
Có một thứ khiến người mãi đánh mất niềm tin : lời hư dối
Có một thứ khiến người nói rất thích mà người nghe lại rất phiền não : lời đánh giá, phán xét thị phi.
Có một thứ khiến người nghe mãi ấm lòng : lời an ủi động viên quan tâm.
Có một thứ khiến người nói rồi bèn trở nên tầm thường, nhỏ nhen trong mắt người khác : lời ganh ghét đố kị.
Có một thứ khiến người nghe rồi khởi tâm bất bình không phục : lời thiên vị, lời đổ lỗi.
Có một thứ khiến người nghe rồi sanh tâm hoan hỷ rồi mãi chìm đắm trong si mê vọng tưởng : lời tỏ tình ngọt ngào.
Có một thứ khiến người nói rồi dễ bị tổn thọ nhất : lời bất kính, phạm thượng.
Có một thứ khiến người càng lúc càng đau khổ, càng thêm thê thảm : lời oán trời trách người.
Có một thứ khiến người nói lẫn người nghe luôn hoan hỷ, càng lúc càng hạnh phúc : lời tri ân cảm ân.
Có một thứ mà khiến người nghe rồi lầm đường lạc lối sa đọa : lời tà kiến xúi giục bậy bạ.
Có một thứ khiến người suy sụp tinh thần nhanh chóng : lời tiêu cực.
Có một thứ khiến người phấn chấn lấy lại tinh thần nhanh chóng : lời tích cực khích lệ động viên.
Có một thứ khiến người nghe rồi sanh tâm hoan hỷ mà giác ngộ : lời trí khéo phương tiện.
Có một thứ lời nói khiến trời đất phải kinh động : lời phát tâm nguyện chơn thiết hướng về đạo vô thượng.
Có một thứ như nước đã đổ ra mặt đất rồi thì chẳng thể thu hồi lại, cho dẫu có thu hồi lại được thì cũng đã dơ với “bụi đất” rồi : lời sân hận vô tình.
Có một thứ luôn khảo nghiệm trí tuệ của con người, thể hiện ra sự tu dưỡng và trí tuệ của con người : lời nói
Đều cùng là “ lời nói ” mà mỗi một lời thốt ra đều sẽ làm nên những giá trị và sức ảnh hưởng khác nhau, vận mệnh khác nhau, sẽ kéo con người gần lại với nhau hơn, hoặc đẩy nhau ra xa hơn. Nó có thể là một thứ diệu thuốc chữa lành tâm bệnh, là cam lộ thấm nhuận rưới mát lòng người giúp tăng trưởng hạt giống bồ đề trí tuệ, cũng có thể là thứ độc dược giết người, là mồi lửa châm ngòi cho mọi cuộc chiến, hoặc là vũ khí chống lại mình về sau. Mỗi một lời đều là “ nhân ”, đều sẽ cho ra “ quả ” tương ứng với nó. Nhất ngôn kí xuất, tứ mã nan truy, sao có thể không cẩn trọng từng lời mình thốt ra được ?
0 notes
Text
Các loại thuốc và phương pháp mới điều trị bệnh tiểu đường
Các loại thuốc và phương pháp mới
điều trị bệnh tiểu đường
Gánh nặng ngày càng tăng của bệnh tiểu đường trên toàn thế giới đã được biết rõ, và những tác động lên chi phí chăm sóc sức khỏe cũng như sự đau khổ của con người, tỷ lệ mắc bệnh và tử vong sẽ chủ yếu xảy ra ở các quốc gia đang phát triển bao gồm Ấn Độ, Trung Quốc và các quốc gia ở châu Phi.1. CÁC LOẠI THUỐC MỚICác loại thuốc mới đang được phát triển với tốc độ nhanh chóng, và trong vài năm qua đã chứng kiến một số nhóm hợp chất mới để điều trị bệnh tiểu đường, ví dụ: glucagon-like peptide (GLP-1), chất ức chế dipeptidyl-peptidase-4 (DPP-4), chất ức chế natri glucose-2 (SGLT2).2. PHƯƠNG PHÁP PHẪU THUẬTCác phương pháp điều trị phẫu thuật mới cũng ngày càng trở nên phổ biến và được coi là liệu pháp điều trị hiệu quả cho bệnh tiểu đường. Phẫu thuật hạn chế dạ dày, phẫu thuật cắt bỏ dạ dày, ghép tụy-thận đồng thời, ghép tụy và Islets đều đã được giới thiệu trong những năm gần đây. Để tránh chấn thương của một ca phẫu thuật lớn, đã có nhiều nghiên cứu về việc cấy ghép Các tế bào Islets biệt lập được lấy ra từ tuyến tụy của tử thi. Có sự khuyến khích từ “giao thức Edmonton” được Shapiro và các đồng nghiệp mô tả trên Tạp chí New England vào năm 2000. Các tế bào Islets được tiêm vào tĩnh mạch cửa và bệnh nhân, đặc biệt là những người bị hạ đường huyết nguy hiểm, không nhận biết được, đã được điều trị trước khi họ phát triển các biến chứng nặng. của bệnh tiểu đường, đặc biệt là biến chứng thận. Mặc dù những k���t quả ban đầu đầy hứa hẹn, với khoảng 70% bệnh nhân không cần tiêm insulin sau hai năm, nhưng sau năm năm, hầu hết những bệnh nhân này đã xấu đi và cần bổ sung insulin, mặc dù một số đã được cấy ghép nhiều hơn một Islets. Trong một loạt bệnh nhân gần đây hơn, nhóm Edmonton đã báo cáo kết quả lâu dài tốt hơn với việc sử dụng kháng thể kháng tế bào lympho đơn dòng, Campath 1H được cho làm chất cảm ứng, 45% bệnh nhân không phụ thuộc insulin sau 5 năm, và 75% có C-peptit có thể phát hiện được.
>> Tham khảo:
nguyên nhân gây bệnh tiểu đường type 1
Tuy nhiên, pancreata cadavaric và các tế bào Islets cạnh tranh vì cùng một nguồn và số lượng hạn chế, và do đó cả hai phương pháp điều trị đều không thể được cung cấp cho đại đa số bệnh nhân đái tháo đường. Một số đã cố gắng sử dụng một nguồn thay thế, ví dụ, các tế bào Islets được đóng gói từ lợn sơ sinh hoặc lợn trưởng thành. Điều này vẫn còn rất thử nghiệm và sẽ là một giải pháp thay thế xa vời với nhiều trở ngại về kỹ thuật và đ���o đức cần phải vượt qua.
3. LIỆU PHÁP TẾ BÀO GỐCGần đây hơn, với những thành công trong việc phát triển tế bào gốc trưởng thành đa năng (của Yamanaka, được trao giải Nobel y học 2012 cho việc phát triển tế bào gốc đa năng cảm ứng – iPSCs), các phương pháp tiếp cận mới nhằm tìm kiếm một phương pháp có thể dễ tiếp cận hơn và khả dụng hơn đã được đã cố gắng. Ban đầu, nhiều hy vọng bắt nguồn từ nghiên cứu tế bào gốc phôi (ESC), vì những tế bào này có thể được thuyết phục để nhân lên và phát triển thành bất kỳ mô nào, nhưng quá trình này rất tốn kém và vấn đề hình thành u quái từ các tế bào gốc này tỏ ra cực kỳ khó khắc phục. Nhiều yếu tố quan trọng liên quan đến sự phát triển của thai nhi không được hiểu và không thể tái tạo. Tuy nhiên, một số tiến bộ đã được thực hiện và (đôi khi) các tế bào được thuyết phục để tiết ra insulin, nhưng cho đến nay, ứng dụng điều trị vẫn còn rất ít.Yamanaka, vào năm 2006, đã có thể tạo ra các tế bào gốc đa năng từ việc nuôi cấy nguyên bào sợi ở trẻ sơ sinh và chuột trưởng thành bằng cách thêm vào một hỗn hợp của bốn yếu tố xác định. [2] Điều này dẫn đến một loạt các nghiên cứu khác phát triển quy trình này, được chứng minh là có thể lặp lại với mô người cũng như chuột trong phòng thí nghiệm. Việc sử dụng tế bào iPS đã tránh được những ràng buộc về đạo đức khi sử dụng phôi người, nhưng vẫn còn những vấn đề và trở ngại khác. Đã có những báo cáo mới nổi về việc các tế bào iPS trở thành kháng nguyên đối với vật chủ tự thân hoặc đồng đẳng, và các tế bào này có thể tích lũy các bất thường DNA và thậm chí giữ lại bộ nhớ biểu sinh về loại tế bào gốc và do đó có xu hướng hoàn nguyên trở lại. Giống như tế bào gốc phôi, tế bào iPS có thể hình thành u quái, đặc biệt nếu quá trình biệt hóa không hoàn toàn.
>> Xem thêm:
chăm sóc bệnh nhân tiểu đường type 2
0 notes
Text
SỐNG ĐƠN GIẢN, ĐỜI TỰ KHẮC AN YÊN ♥️
Suy nghĩ đơn giản một chút, lòng sẽ thanh thản. Tâm tư đơn giản một chút, cuộc sống sẽ không phức tạp.
Trên con đường của cuộc đời mỗi con người, nếu học biết được giản đơn, có thể khiến chúng ta vui vẻ mà cất bước. Nhân sinh muôn sắc, chúng ta chính là cần buông bỏ gánh nặng, cho ánh sáng và niềm vui vào trong hành trang, chọn lấy những điều đẹp đẽ, tích cóp hy vọng làm phong phú hành trình của mình.
Có ba cảnh giới trong đời người, trước tiên là nhìn xa, nhìn xa mới có thể thâu hết cảnh vật trong tầm mắt; tiếp đó là nhìn thấu, nhìn thấu mới có thể nhìn rõ mồn một bản chất của sự vật; sau cùng là xem nhẹ, chỉ khi xem nhẹ lòng ta mới có thể vui vẻ nhẹ nhàng.
Mọi khổ đau, đều do tâm sinh. Nếu bạn không tự tạo ra khổ đau cho mình, người khác cũng không bao giờ có thể gây ra khổ đau cho bạn. Sống đơn giản, đời sẽ tự an yên. Nên biết đủ, mọi thứ sẽ trở nên đơn giản.
1. Tiền để tiêu, biết đủ là phước đức, đòi hỏi quá hóa mệt mỏi.
Tiền là một người chủ tồi tệ, nhưng là một kẻ đầy tớ xuất sắc. Trời cho ta giàu sang sung sướng là chiều chuộng ta để cho ta dễ làm lành; trời bắt ta nghèo khổ lo buồn là mài giũa ta để cho ta kiên gan, bền chí. Tự biết hài lòng với kết quả bằng sự nỗ lực của chính bản thân mới chính là trí tuệ của thành công. Tiền ít tiền nhiều bản thân tự thấy no đủ là được.
2. Nhà để ở, chật hay dẹp là do mình, biết vun vén sẽ rộng.
“Đàn ông xây nhà đàn bà xây tổ ấm” xưa nay chưa bao giờ sai, bạn muốn có một nơi trú ngụ thì dễ, xây một tổ ấm mới là khó. Có người bằng lòng nắm tay đi hết một đời với mình thì dù hoàn cảnh nào cũng là sự mãn nguyện. Nhà to nhà bé bản thân hạnh phúc là được.
3. Xe để đi, an toàn là hạnh phúc, đẹp xấu không bằng bình an.
Xe cũng chỉ là vật chất không phải khoe khoang để đổi lấy hạnh phúc, mọi vật chất chỉ là phương tiện phục vụ cuộc sống chúng ta, đừng để bản thân biến thành nô lệ của nó. Xe to xe nhỏ bình an là được.
4. Tài để dụng, đúng chỗ thành danh, sai nơi thành họa.
Tài ai cũng có, nhưng được sử dụng như thế nào mới là điều quan trọng. Có tài mà không có đức thì tài năng chỉ nhằm phục vụ cho lợi ích của một cá nhân, đối với cuộc đời cũng sẽ chỉ là vô giá trị. Thiên tài và đức hạnh giống như viên kim cương, nó tỏa sáng nhất là lồng trong chiếc khung giản dị. Tài năng không phải để rọi sáng tên tuổi bản thân, mà để mang ánh sáng tới cuộc sống của những người khác.
5. Danh để tạo phúc, hữu danh mang đức, đừng mang danh vô thực.
Con người ta sinh ra lớn lên già cả rồi bệnh tật mất đi. Cát bụi lại trở về cát bụi. Âu cũng là quy luật thường tình của một kiếp người. Một đời dài hay ngắn không tính ở thời gian, mà ở danh lưu truyền. Nhân sinh giữa đời không cầu lương thiện, chỉ cầu không thẹn với lòng. Tạo phúc một kiếp danh mang đời đời.
Cần cù hay siêng năng, thông minh hay tài giỏi, tiền tài hay danh vọng quy chung chỉ là một khái niệm, có người nói đó là thước đo cho thành quả, cũng có thể đúng! Người ta cũng nói khi bạn đạt được tất cả thì đó là bạn làm chủ được cuộc sống.
Đời người tựa như một con sông dài, miệt mài tuôn chảy, lúc nhanh lúc chậm, lúc cuộn trào lúc êm dịu. Năm tháng cũng giống như liều thuốc tự nhiên, giúp ta quên đi nhiều thương tổn.
Cre: OrangeBooks
0 notes
Text
Tiêm vắc-xin.
Mấy hôm nay mình nghĩ nhiều về chuyện tiêm vắc xin Trung Quốc. Thực ra mình đang rất muốn tiêm để hoàn thành hộ chiếu vắc xin, vì mình luôn có ao ước hết dịch đi du lịch lại. Nhưng mình đau đáu trong lòng là nếu tiêm Vero Cell (Sinopharm) thì sẽ hạn chế khoản đi lại này.
Mấy hôm mình suy nghĩ về việc đó. Nhưng rồi mình vẫn quyết định tiêm. Vì...
1. Có vắc xin còn hơn không.
Mặc dù biết hiệu quả của vắc xin này không cao bằng các loại vắc xin khác, cách tạo ra nó cũng khác biệt, nhưng tiêm vắc xin đồng nghĩa với việc giảm thiểu tỉ lệ tử vong do Covid lên đến 79%. Điều này chắc chắn có lợi hơn việc không tiêm và chẳng may nhiễm, phải vào viện và nằm máy thở, vừa khổ mình, vừa khổ y tế nước nhà. Nếu nghĩ cho cộng đồng trong thời điểm quan trọng này, mình nên tiêm vắc xin càng sớm càng tốt. Còn nếu nghĩ cho bản thân, thì thôi...
2. Chờ thì cũng được, nhưng chờ đến bao giờ?
Dân có quyền từ chối tiêm vắc xin TQ và đợi vắc xin xịn, nhưng ai biết ngày mai hay ngày mốt Covid len lỏi đến sách vát nhà mình? Mình tin vào việc tiêm dịch vụ sẽ sớm có, nhưng cái sớm ở đây, xét trong tình hình dịch vẫn còn đang khó kiểm soát, thì cũng phải đến tầm cuối năm 2021. Bạn bè mình kêu chờ đến cuối năm đi, có Astra hay Mordena về thêm thì tiêm, nhưng bạn biết đó, đợt tiêm đến bất chợt, mình từ chối thì chẳng biết bao giờ đến đợt sau, mà đến rồi thì cũng chắc gì là loại vắc xin mình cần? Nên cơ hội đến, nắm lấy nó, đừng phân vân quá nhiều.
3. Vẫn có cửa cho hộ chiếu vắc xin
Không ai lường trước được việc biến chủng của Virus, ngay cả WHO cũng chỉ dám khuyên người ta nên tiêm vắc xin sớm nhất có thể, chứ không ai đảm bảo tiêm xong sẽ an toàn 100%, vậy nên kể cả khi bạn có hộ chiếu vắc xin loại xịn, đến 1 ngày, vẫn có thể bạn sẽ phải tiêm nhắc lại để chống lại loại virus mới nhất.
Trung Quốc cân nhắc việc tiêm nhắc lại mũi thứ 3 cho những người đã tiêm 2 lần vắc xin Vero Cell của Sinopharm, vậy thì sao mình phải sợ nhỉ? Hộ chiếu vắc xin của mình hoàn toàn có thể thay đổi mà.
4. Vắc xin vẫn là vắc xin, không phải thuốc độc
Người ta đồn thổi việc tiêm vắc xin TQ xong bị ABCDEF gì đó, rồi hàng tàu cùi bắp... nhưng chả hiểu sao mình vẫn tin tưởng vào sự tiến bộ của Trung Quốc. Không so sánh với Mỹ, Trung Quốc hơn mình rất nhiều thứ, về khoa học, kĩ thuật, y tế, kinh tế... Con người Trung Quốc cũng có những cái đầu thực sự vượt trội, bằng chứng là bao nhiêu startup tỉ đô được điều hành bởi người TQ? Vắc xin, dù là TQ hay Mỹ, hay Anh, đều được nghiên cứu đàng hoàng, được chứng nhận bởi WHO (có thể Mỹ không chứng nhận, do hiệu quả hay do chính trị? Nhưng WHO chứng nhận là được rồi), vậy nên vẫn đáng tin cậy chứ.
Ít nhất vắc xin vẫn là phương cách để dân mình thoát khỏi đại dịch, chứ đừng vì vài mẩu tin xấu xí vụn vặt mà bỏ qua cơ hội bình thường hóa cho mình và xã hội...
----
Mình chỉ nói vậy thôi, mình đi tiêm vắc xin đây.
24 notes
·
View notes
Text
NGHỊCH CẢNH
Pháp sư Tinh Vân có một tuổi thơ nghèo khó và bần hàn. Mẹ ông vì mong cho con đỡ cơ cực nên phải nuốt nước mắt vào trong lòng, nén chịu đau khổ để gửi con trai mình vào chùa Dương Châu, hy vọng ông sẽ sớm nên người và giúp ích cho đời.
Một hôm, Tinh Vân được sư trụ trì thưởng cho một nắm hạt đậu. Đối với cậu bé nghèo Tinh Vân ngày ấy, đây quả thật là một món quà vô cùng quý giá.
Cậu bé quỳ xuống dập đầu tạ ơn, sư phụ bèn nói: “Mặc dù con đến đây vì nghèo khó, nhưng ta hy vọng con vẫn có thể tinh tấn tu hành, hoằng dương Phật Pháp”. Cậu bé mỉm cười gật đầu.
Ở chùa Dương Châu một thời gian, sư phụ đưa Tinh Vân tới Nam Kinh giao cho một vị Đại Hòa thượng và nói: “Đây mới là nơi tốt đẹp có thể giúp con tu học Phật Pháp.”
Khi sư phụ vừa rời đi, vị đ
Đại Hòa thượng liền gọi Tinh Vân lại và bắt đầu hỏi: “Tinh Vân, tại sao con lại tới đây?”
Tinh Vân trả lời: “Dạ, sư phụ con bảo con tới đây ạ.”
Một gậy giáng xuống đầu cậu bé, vị Đại Hòa thượng tức giận trách mắng: “Con đến học Phật Pháp mà lại không có tâm mong cầu đ��n học, Sư phụ bảo đến thì con mới đến thôi sao?”
Tiếp đó, Đại Hòa thượng lại hỏi lần thứ hai: “Giờ thì nói cho ta biết, tại sao con lại tới đây?”
Tinh Vân nghĩ một lát, rồi thay đổi cách trả lời: “Dạ, vì bản thân con mong muốn tới đây học Phật Pháp ạ.”
Đại Hòa thượng lại đánh cho cậu một roi mạnh hơn và mắng: “Người xuất gia mà dám nói dối hả!”
Đại Hòa thượng lại hỏi cậu bé lần thứ ba: “Tại sao con lại tới đây?”
Trong lòng Tinh Vân suy nghĩ: đáp án thứ nhất không đúng, đến đáp án thứ hai cũng không đúng, thế là với giọng trầm buồn cậu bé trả lời: “Sư phụ con bảo con tới đây và bản thân con cũng muốn tới học Phật Pháp cho nên con đến đây ạ.”
Hàng chục nhát roi lại rơi xuống người Tinh Vân làm cậu bé đau đớn tột cùng ngã nhào xuống đất. Đại Hòa thượng trách mắng: “Còn nhỏ như vậy mà đã khéo léo không thành thật là sao!”
Đêm đó, toàn thân Tinh Vân đau đớn đầy vết thương, cậu bé nghĩ mãi mà vẫn không hiểu tại sao sư phụ yêu quý lại đưa mình tới nơi như địa ngục trần gian này. Lại nghĩ tới những giọt nước mắt của mẹ, cậu bé không khỏi tủi thân và bật khóc thành tiếng.Bỗng nhiên cánh cửa phòng bật mở, vị Đại Hòa thượng bước vào làm cậu bé sợ hãi tới quỳ thụp xuống đất.
Nét mặt của đại hòa thượng đầy từ bi và hiền hậu, khác hoàn toàn so với ban chiều. Ông còn mang cả thuốc trị thương đến, vừa bôi thuốc cho Tinh Vân vừa nói với cậu:
“Tinh Vân con, những điều con nói chiều nay không có gì là sai cả. Bởi bài học đầu tiên ta muốn dạy con có tên là Nghịch cảnh.”
Thế nào gọi là Nghịch cảnh? Đó chính là sự vô thường trong cuộc sống này của chúng ta. Tất cả những đau khổ, hoạn nạn, bất công, bị ức hiếp, tai nạn, tử vong… đó đều là do vận mệnh đã an bài; không phải chỉ cần con làm đúng là có thể thoát ra khỏi nó; cũng không phải con làm sai điều gì thì mới chịu nhận sự trừng phạt này.
Đón nhận Nghịch cảnh, con mới có cơ hội thay đổi vận mệnh của mình, hóa giải được những đau khổ mà nó mang lại cho con.
Người hiểu được triết lý này mới có thể thản nhiên chấp nhận sự khắc nghiệt của cuộc sống. Bình tĩnh và ung dung trước mọi sóng gió cuộc đời thì người đó chính là “người đắc đạo”. Do vậy, Nghịch cảnh không phải là bất hạnh, mà ngược lại đó chính là một sự Ban Ân. Thái độ của một người dám đương đầu với Nghịch cảnh mới làm nên sự khác biệt giữa người đó và những người khác.
Không có ai mà cả đời đều thuận buồm xuôi gió. Quá trình trưởng thành của mỗi người chắc chắn sẽ có những lúc lao đao vất vả. Chúng ta có thể đau đớn, có thể bị tổn thương, có thể bị thiệt thòi, có thể bị vùi dập, có thể sẽ phải bật khóc v.v... nhưng đừng nên đắm chìm trong sự bi thương đó quá lâu. Khi bình tĩnh lại, hãy thử suy ngẫm xem những vết thương này mang đến cho chúng ta bài học gì, giúp chúng ta tỉnh ngộ ra điều gì?
Khi rơi vào đường hầm đen tối, hãy thản nhiên từng bước từng bước đi ra, chắc chắn sau đó ta sẽ thấy ánh sáng và lối ra nơi cuối con đường. Nếu cứ mãi dừng lại trong đường hầm đó, thì sự đen tối mà nghịch cảnh đem lại sẽ không có dấu chấm hết. Đây không phải là sự tàn khốc của số mệnh, mà là sự tàn khốc do chính bản thân ta chọn lựa.
Có những khi nghịch cảnh là cảnh tượng đẹp đẽ nhất trong cuộc sống, phương pháp tốt nhất để đối diện với nó chính là sự bình tĩnh và ung dung từ nội tâm. Bình tĩnh chính là sự đúng đắn nhất khi đối diện với khó khăn. Và nếu trên thế giới này có xuất hiện kỳ tích, thì đó chính là khi người ta bình tĩnh thản nhiên trong nghịch cảnh …
St
26 notes
·
View notes