#Đọc hiểu văn bản Chiều xuân của Anh Thơ
Explore tagged Tumblr posts
Text
Soạn bài Chiều xuân
Soạn bài Chiều xuân, Giáo án Tiny sẽ cung cấp tài liệu Soạn văn 11: Chiều xuân, hy vọng sẽ giúp ích cho học sinh khi chuẩn bị bài về tác phẩm này. Soạn bài Chiều xuân Bài thơ Chiều xuân đã khắc họa vẻ đẹp của chiều xuân bình dị, mộc mạc. Đồng thời diễn tả tình yêu quê hương đất nước của tác giả. Tác phẩm sẽ được giới thiệu trong chương trình Ngữ văn lớp 11. Tài Liệu Tiny Edu sẽ cung cấp tài…
View On WordPress
0 notes
Text
Hướng dẫn nghị luận bài thơ Viếng lăng Bác với phân tích đề, dàn ý và 6 bài văn nghị luận Viếng lăng Bác hay nhất, mới cập nhật cho các em học sinh tham khảo. Dạng bài nghị luận văn học nói chung và nghị luận về bài thơ nói riêng cũng là một dạng cảm nhận văn học. Chúng ta không chỉ đọc và nêu cảm nhận đơn thuần. Thay vào đó là sự phân tích từ nội dung đến nghệ thuật tác phẩm. Khi phân tích bài thơ, bạn cần chú ý tìm nét đặc sắc và nêu nhận định, bình phẩm về những đặc sắc đó. Những đặc sắc của một tác phẩm thường được nhìn nhận ở cả nội dung và nghệ thuật. Từ lời thơ, ngôn ngữ, thể thơ. Hình ảnh biểu trưng giàu xúc cảm. Mỗi tác phẩm đều có những cái đẹp, độc đáo riêng. Nhiệm vụ của người làm văn là phải tìm hiểu và làm rõ điều đó. Trong khi nêu nhận xét, đánh giá, người làm phải chú ý đến cảm xúc của nhân vật chính. Đồng thời, bối cảnh sáng tác, phong thái hành văn của người viết cũng có vai trò quan trọng. Ngoài ra, bạn nên nêu tác động của tác phẩm đến bản thân người đọc. Làm như vậy thì bài văn được viết ra sẽ có chiều sâu hơn rất nhiều. Khi học tập, cần nắm chắc những lưu ý trên để bài phân tích được chặt chẽ. Nghị luận bài thơ Viếng lăng Bác là đề tài thường xuyên được khai thác trong topic Văn mẫu lớp 9. Bởi nội dung bài viết đơn giản, dễ hiểu, đánh sâu vào nỗi niềm thương nhớ người anh hùng dân tộc. Để phân tích, cảm nhận về nó, người học cần đề ra một dàn bài cụ thể. Các luận điểm chínhcần triển khai Nội dung chính của bài thơ Viếng lăng Bác thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động xuất sắc của nhà thơ nói riêng và mọi người nói chung khi đến thăm lăng Bác. Khổ 1: Cảm xúc của tác giả trước không gian, cảnh vật bên ngoài lăngKhổ 2: Cảm xúc trước đoàn người vào lăng viếng BácKhổ 3: Cảm xúc khi vào lăng, nhìn thấu di hài BácKhổ 4: Những tình cảm, cảm xúc trước lúc ra về Dàn ý bài văn nghị luận bài thơ Viếng lăng Bác 1. Mở bài Giới thiệu tác giả Viễn Phương và bài thơ Viếng lăng Bác. 2. Thân bài a. Khổ thơ 1 Tác giả ở tận miền Nam mãi sau ngày độc lập dân tộc mới được ra thăm vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Hai từ “miền Nam” như nhấn mạnh hơn sự xa xôi trong khoảng cách địa lý giữa hai đầu Tổ quốc. Nhìn hàng tre quanh lăng Bác, nhà thơ chợt cảm thấy rằng những cây tre kia như ý chí con người Việt Nam qua bao năm tháng luôn luôn bất khuất, kiên cường, hiên ngang. Dù có trải qua “bão táp mưa sa” nhưng vẫn đoàn kết một lòng cùng nhau đứng lên. Từ láy “xanh xanh” diễn tả con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam sẽ luôn luôn “xanh” màu xanh bất diệt. b. Khổ thơ 2 “Ngày ngày” là sự liên tục của thời gian, sự lặp lại tuần hoàn của thiên nhiên cũng như lý tưởng, ý chí của Người sẽ luôn luôn sáng tỏ như mặt trời kia vậy. Biện pháp nghệ thuật hoán dụ: nếu mặt trời soi sáng cho nhân loại thì Bác Hồ là mặt trời của cả dân tộc Việt Nam, mang đến ánh sáng độc lập, tự do cho dân tộc. Lần thứ hai, “ngày ngày” được lặp lại khi diễn tả dòng người đang lặng lẽ vào lăng thăm Người. Hàng người đi trong sự trang nghiêm và tĩnh lặng, trong nỗi tiếc thương, đau xót vô vàn. Người đọc như cảm thấy được sự tĩnh lặng, sự trải dài miên man vô tận của hàng người vào viếng Bác. Cả đoàn người ấy cứ lặng lẽ “đi trong thương nhớ”, thương nhớ vị lãnh tụ vĩ đại vô vàn kính yêu của dân tộc. Viễn Phương hòa cùng dòng người đem tấm lòng yêu kính chân thành của mình dâng lên Bác, dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân” của Người. Cả cuộc đời Người, với bảy mươi chín mùa xuân, tất cả đều cống hiến cho dân tộc, không một phút giây nào ngơi nghỉ dành cho bản thân mình. c. Khổ thơ 3 Bác đang nằm ở đó, nhẹ nhàng thanh thản như đang chìm trong một giấc ngủ ngon. Cả cuộc đời Người chỉ có một niềm mong ước, đó là đất nước được hòa bình. Vậy nên khi đất nước được hòa bình, độc lập Người đã được nghỉ ngơi trong giấc ngủ yên bình. Bầu trời bao năm tháng vẫn xanh một màu trường tồn vĩnh cửu, vậy mà vị Cha già của dân tộc đã phải ra đi. Vẫn biết quy luật sinh tử của tạo hóa nhưng vẫn thấy xót xa, đau đớn vô cùng. Dù lý trí luôn tỏ tường rằng quy luật của thiên nhiên là bất biến, nhưng vẫn “nghe nhói ở trong tim”.
d. Khổ thơ cuối Bao nhiêu nỗi đau xót, nghẹn ngào cứ thế tuôn theo dòng lệ trào. Điệp từ “muốn” lặp lại ba lần như khẳng định lại ước muốn của nhà thơ. Đó là một ước muốn mãnh liệt, niềm khao khát cháy bỏng được ở lại bên cạnh Người chỉ để làm “một con chim hót”, “một đóa hoa”, “một cây tre trung hiếu”. => Cả khổ thơ đã thể hiện niềm mong ước cháy bỏng của tác giả, cũng chính là mong ước của mỗi người dân Việt Nam. Đó là luôn luôn được ở cạnh Người, ở cạnh vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc. 3. Kết bài Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. >>>Xem thêm: Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác 6 bài văn mẫu nghị luận bài thơ Viếng lăng Bác hay nhất THPT Ngô Thì Nhậm tổng hợp 6 bài văn mẫu nghị luận về bài thơ Viếng lăng Bác để cho các em đọc tham khảo, mở rộng vốn từ ngữ, mở rộng liên hệ. Nghị luận bài Viếng lăng Bác - ngắn gọn Bác Hồ - vị cha già kính yêu của dân tộc. bác đã hi sinh cả cuộc đời của mình để bảo vệ và xây dựng tổ quốc khỏi tay của những kẻ xâm lăng. Bác mất đi đó chính là nỗi đau buồn của toàn dân tộc. Những người con từ khắp mọi nơi tới để cũng ở bên cạnh Bác, thăm Bác an nghỉ lẫn cuối cùng. Và trong chuyến đi thăm Lăng bác, nhà thơ Viễn Phương viết nên những vần thơ ấm đượm tình cảm thiêng liêng dành cho Bác- vị cha già kình yêu của dân tộc. Con ở miền Nam ra thăm lăng bác Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng Mở đầu bài thơ là hình ảnh của những người con ra thăm Bác. Đại từ nhân xưng “ con” như là những thành kính, kính yêu dành cho vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. hình ảnh những hàng tre xanh đứng thẳng tắp, hình ảnh của những l��ng quê Việt Nam hiện lên trong mắt của người đọc. Bác là con người giản dị đến thế, thương yêu con dân tới thế. Bác mất đi, ở cạnh bác không phải là những loài hoa đắt tiền mà là những hàng tre xanh ngắt, thể hiện ý chỉ, nghị lực của những người con Việt nam, luôn bền bỉ với những sức sống mãnh liệt. Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ Ngày ngay dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân Đoạn thơ xuất hiện hình ảnh của hai mặt trời. Mặt trời đầu tiên là mặt trời mang nghĩa đen, là hiện tượng của tự nhiên. Còn mặt trời trong câu thơ thứ hai là hình ảnh ẩn dụ của Bác Hồ. Bởi trong lòng của những người con của Tổ quốc thì Bác là duy nhất. Nếu như ánh mặt trời sưởi ấm vạn vật thì Bác cũng là mặt trời sưởi ấm cõi lòng của những người con Việt Nam và cũng mang tới ánh sáng cho cuộc đời của họ. Để rồi, trong lòng của nhân dân, hình ảnh của Bác chưa bao giờ bị mất đi, Bác vẫn được những người con của mình kết những tràng hoa đẹp nhất để nhớ tới bảy mươi chín tuổi xuân của mình. Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim Cho dù trong lòng của mỗi người con đều cho rằng, Bác vẫn còn ở nơi đây mãi mãi, thế nhưng chúng ta vẫn không thể quên được một điều rằng Bác đã thực sự ra đi mãi mãi. Khiến cho tác gia “ nghe nhói ở trong tim”. Những người con lúc này chỉ mong một điều là Bác đã có được những bình an thực sực của cuộc sống bởi khi còn ở trên đời này, lúc nào Bác cũng chỉ chăm lo cho cuộc sống của những người con, người cháu của đất nước. giờ đây, Bác luôn được an tình, được nghi ngơi, nhưng sao những cảm xúc ấy vẫn như nhói lên trong lòng mà không thể nào xua tan đi được. >>> Tham khảo: Cảm nhận 2 khổ giữa bài Viếng lăng Bác Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này Khổ thơ cuối, tác giả như thoát ra những cảm xúc đã ở mức tột cùng. Hàng loạt những từ “ muốn làm” như nói lên suy nghĩ của tác giả. Biện pháp liệt kê như được sử dụng trong toàn đoạn thơ như nói lên những tâm tư, tình cảm của tác giả. Ngày mai phải xa Bác rồi, nhưng tác giả vẫn còn rất nhiều những lưu luyến ở nơi đây, không muốn phải trở về, chỉ muốn làm những bông hoa, làm con chim để ngày ngày dược ở bên cạnh, canh lăng cho Bác ngủ.
Tóm lại, bài thơ là những tình cảm sâu sắc của tác giả đối với bác hồ- vị cha già của dân ộc. Lời nói, lời ước của tác giả cũng chính là tiếng lòng của tất cả những người con trên toàn đất nước. Hình ảnh của người cha luôn hết lòng hi sinh vì đất nước để giúp cho đất nước được giải phóng khỏi những áp bức và chèn ép, thoát khỏi kiếp sống nô lệ. bài thơ là một bức tâm tình giàu chất trữ tình, đằm thắm và thiết tha. Với những hình ảnh ẩn dụ tinh tế, giàu tính thẩm mĩ và các biện pháp tu từ đặc sắc… đã thể hiện tình cảm chân thành, thiết tha và sâu sắc của nhà thơ cũng như của đồng bảo miền Nam đối với Bác Hồ, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Tuy bây giờ bác đã đĩa những những phẩm chất cao đẹp và những cống hiến to lớn, cao cả và sự nghiệp cách mạng của Bác sẽ luôn sống mãi trong lòng những con người đất Việt. Nghị luận bài thơ Viếng lăng Bác - mẫu 2 Con người ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã đem lại mùa xuân trường cửu cho đất nước, cho dân tộc. Quả thật, Viễn Phương đã rất khéo trong việc chọn lựa giọng điệu, ngôn ngữ và hình ảnh để diễn tả sâu sắc niềm kính yêu, ngưỡng mộ đối với Bác. Trong khuôn khổ của bốn câu thơ trên, Viễn Phương đã hai lần sử dụng điệp từ "ngày ngày": "Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng", "Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ". Hai câu thơ chí hai hiện tượng khác nhau: một về thiên nhiên, một về đời sống, nhưng ý nghĩa lại tương đồng, ý tứ bó kết lại với nhau. Đó là tình cảm của nhân dân ta đối với Bác Hồ cũng tự nhiên, gần gũi như đất trời, vĩnh hằng như quy luật của vũ trụ. Khổ thơ thật hàm súc và giàu sức khái quát. Vào lăng viếng Bác, trong lòng nhà thơ nhói lên nỗi đau và niềm tiếc thương vô hạn vì mất mát, dù bản thân nhà thơ cũng như bao thế hệ vẫn cảm nhận là Bác không hề mất mà chỉ "nằm trong giấc ngủ bình yên" sau một chặng đường 79 năm chưa hề nghỉ ngơi. Con người tha thiết yêu trăng như vậy, thế mà chưa bao giờ được bình yên ngắm trăng, bởi lúc thì phải ngắm trăng qua song cửa chật hẹp của nhà tù, lúc thì “việc quân đang bận”... Nhà thơ Viễn Phương đã thật tinh tế và sâu sắc khi liên tưởng ánh trăng với vầng trăng tri kỉ của Bác. Nhịp điệu câu trở nên dồn dập với điệp ngữ "muốn làm" nhắc lại đến ba lần đã nhấn mạnh ước nguyện sâu sắc, chân thành của tác giả. Và hàng loạt hình ảnh ẩn dụ cụ thể hóa ước nguyện đó: "con chim" dâng tiếng hót, "bông hoa" dâng hương thơm, "cây tre trung hiếu" canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Bác. Tất cả đều ở bên lăng, quanh lăng. Tất cả đều nói lên tấm lòng kính yêu vô hạn của tác giả và cũng là của nhân dân đối với Bác. Sau ngày Bác Hồ "đi xa", bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương là một trong những bài thơ viết về Bác đặc sắc nhất. Bài thơ diễn tả niềm kính yêu, sự xót thương và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với lãnh tụ bằng một ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc sâu lắng. Nó đã được phổ nhạc, lưu truyền sâu rộng trong nhân dân. Câu thơ mở đầu cho thấy xuất xứ của bài thơ: Mặc dù “Bác đã lên đường theo tổ tiên” nhưng trong lòng của tất cả những người dân Việt Nam, Bác vẫn còn sống mãi. Và toàn thể nhân dân Việt Nam quyết định lưu giữ lại thi hài của Người để mỗi ngày lớp lớp cháu con được vào lăng để ngắm nhìn, thăm viếng Người. Sau ngày hòa bình, non sông Việt Nam thu về một mối, trong số những người con vào lăng viếng Bác, có nhà thơ Viễn Phương. Quá xúc động, kính yêu, biết 'ơn, tự hào, đau xót trong những phút giây được ở bên Người, nhà thơ Viễn Phương đã viết bài thơ Viếng lăng Bác. Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Từ chiến trường miền Nam, nhà thơ Viễn Phương mang theo bao tình cảm thắm thiết của đồng bào và chiến ra viếng lăng Bác Hồ kính yêu. Đây là cuộc hành hương của người chiến sĩ. Từ xa, nhà thơ đã nhìn thấy hàng tre ẩn hiện trong sương khói trên quảng trường Ba Đình lịch sử. Màn sương trong câu thơ gợi lên một không khí thiêng liêng, huyền thoại. Cây tre, hàng tre "đứng thẳng hàng" trong làn sương mỏng, ẩn hiện thấp thoáng, mang màu sắc xanh xanh. "Hàng tre xanh xanh" vô cùng thân thuộc được nhân hóa, trải qua "bão táp
mưa sa" vẫn "đứng thẳng hàng" như dáng đứng của con người Việt Nam kiên cường, bất khuất trong bốn nghìn năm lịch sử Được viết năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương đã thể hiện niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ với Bác trong một lần vào lăng viếng Bác. "Viếng lăng Bác" được viết trên một cảm hứng thơ cụ thể và xúc động. Bố cục bài thơ chặt chẽ, giọng điệu thơ khi nhanh khi chậm. Bài thơ mở đầu bằng câu thơ: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát” Câu thơ gợi một không khí ấm áp gần gũi. Và tác giả đã tăng sự gần gũi đó không phải chỉ bởi những câu thơ bình dị mà còn là việc sử dụng hình ảnh cây tre. Gắn bó với làng quê Việt Nam, tre đã trở thành một hình ảnh quen thuộc của làng người Việt. Tác giả đặt lăng Bác trong màu xanh của xứ sở nơi mà ở đó có những con người anh dũng, kiên cường "Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”. Hình ảnh ẩn dụ trong khổ thơ th��� hai cũng rất độc đáo. Viễn Phương đã dùng hình ảnh mặt trời trên lăng để nói đến Mặt Trời trong lăng là Bác. Cái trường tồn, vĩnh cửu của Mặt Trời đã được nhà thơ sử dụng để nói sự bất diệt, vĩ đại của Bác. Và đồng thời nó cũng thể hiện sự tôn kính của tác giả đối với Bác. Từ "rất đỏ” nói lên hình ảnh rực rỡ trái tim cách mạng của Bác. Cùng với hình ảnh Mặt Trời - trong lăng là hình ảnh tràng hoa - dòng người đã diễn tả sâu sắc niềm tiếc thương vô hạn của nhân dân ta đối với sự ra đi của Bác: “Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”. Lý trí bảo rằng Bác sẽ luôn sống với non sông như bầu trời xanh kia mãi mãi, nhưng Viễn Phương không thể không đau nhói trước sự ra đi ấy: "Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim.” Một chữ "nhói" mà nói lên được tấm lòng của đứa con ở miền Nam ra thăm lăng Bác - cũng là tấm lòng của miền Nam, của cả nước đối với Bác kính yêu. Cảm xúc của tác giả lại dâng trào đến đỉnh điểm khi phải rời xa lăng Bác: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” Giọng thơ trầm lắng thể hiện sự lưu luyến của Viễn Phương: chân thành và xúc động. Bỗng giọng thơ trở nên dồn dập bởi điệp từ “muốn làm”. Đó là tất cả ước nguyện của tác giả: "Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này." Những ước nguyện đó thật giản dị, mong muốn được mãi mãi gần gũi Bác, được mãi mãi đi theo lý tưởng của Người là tâm niệm không chỉ của riêng nhà thơ. Hình ảnh cây tre trung hiếu đã khép lại bài thơ, một kết nối vòng tròn rất hay. Tre là hình ảnh mở đầu và cũng là hình ảnh cuối cùng. Nó như khắc sâu phẩm chất người Việt Nam trung hiếu anh hùng. Quả thật, Viễn Phương đã rất khéo trong việc chọn lựa giọng điệu, ngôn ngữ và hình ảnh để diễn tả sâu sắc niềm kính yêu, ngưỡng mộ đối với Bác. Trong khuôn khổ của bốn câu thơ trên, Viễn Phương đã hai lần sử dụng điệp từ "ngày ngày": "Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng", "Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ". Hai câu thơ chí hai hiện tượng khác nhau: một về thiên nhiên, một về đời sống, nhưng ý nghĩa lại tương đồng, ý tứ bó kết lại với nhau. Đó là tình cảm của nhân dân ta đối với Bác Hồ cũng tự nhiên, gần gũi như đất trời, vĩnh hằng như quy luật của vũ trụ. Khổ thơ thật hàm súc và giàu sức khái quát. Vào lăng viếng Bác, trong lòng nhà thơ nhói lên nỗi đau và niềm tiếc thương vô hạn vì mất mát, dù bản thân nhà thơ cũng như bao thế hệ vẫn cảm nhận là Bác không hề mất mà chỉ "nằm trong giấc ngủ bình yên" sau một chặng đường 79 năm chưa hề nghỉ ngơi. Con người tha thiết yêu trăng như vậy, thế mà chưa bao giờ được bình yên ngắm trăng, bởi lúc thì phải ngắm trăng qua song cửa chật hẹp của nhà tù, lúc thì “việc quân đang bận” Lời thơ tự do khi nhanh, khi chậm cùng nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp đã tạo nên cho mạch cảm xúc chân thành sâu sắc của nhà thơ Viễn Phương. Bài thơ là một sự đóng góp quý báu trong những bài thơ ngợi ca về Bác - vị Cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam. Mặc dù “Bác đã lên đường theo tổ tiên” nhưng trong lòng của tất cả những người dân Việt Nam, Bác vẫn còn sống mãi.
Và toàn thể nhân dân Việt Nam quyết định lưu giữ lại thi hài của Người để mỗi ngày lớp lớp cháu con được vào lăng để ngắm nhìn, thăm viếng Người. Sau ngày hòa bình, non sông Việt Nam thu về một mối, trong số những người con vào lăng viếng Bác, có nhà thơ Viễn Phương. Quá xúc động, kính yêu, biết ơn, tự hào, đau xót trong những phút giây được ở bên Người, nhà thơ Viễn Phương đã viết bài thơ Viếng lăng Bác. Nghị luận bài thơ Viếng lăng Bác - mẫu 3 Bác Hồ là người có công rất lớn đối với đất nước và con người Việt Nam. Sự ra đi của Bác để lại niềm tiếc thương chung cho toàn nhân loại. Bao năm trời kể từ lúc Bác ra đi, đồng bào ta vẫn luôn nhớ về Bác với những tình cảm chân thành nhất. Để bày tỏ tình yêu thương với người, nhà thơ Viễn Phương đã sáng tác bài thơ Viếng lăng Bác nhân chuyến ra Hà Nội thăm lăng của Người. Mở đầu bài thơ là quang cảnh của lăng: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng." Không gian quanh lăng gợi cảm giác trang trọng nhưng cũng vô cùng thơ mộng. Đó là hàng tre xanh xanh ẩn hiện mập mờ trong làn sương sớm. Hàng tre đã bao năm đứng đó bao bọc, che chở, bảo vệ cho lăng Bác được bình yên. Hàng tre - biểu tượng của con người Việt Nam hàng nghìn đời nay với những đức tính, phẩm chất quý báu. Tuy mạnh mẽ, kiên cường, trung bành, bất khuất nhưng cũng vô cùng giản dị, mộc mạc, đoàn kết với nhau. Chẳng tự nhiên mà người ta trồng tre quanh lăng Bác, cũng chẳng tự nhiên mà nhà thơ mang hình ảnh cây tre vào trong thơ văn của mình. Dù cho sóng gió, bão táp, mưa sa, thời tiết có khắc nghiệt đến đâu thì cây tre vẫn hiên ngang đứng thẳng hàng, vươn lên để bảo vệ cho giấc ngủ bình yên của Người. Cả khổ thơ bao trọn là những xúc cảm đầu tiên của tác giả khi lần đầu được tới thăm lăng Bác với những cung bậc, cảm xúc khác nhau nhưng thấm đượm tình yêu thương sâu sắc. Khổ thơ thứ hai nói lên tâm trạng của tác giả khi nhìn thấy hình hài của Bác: “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ Ngày ngày mặt trời đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân" Cả khổ thơ là sự ca ngợi công ơn của Bác, đó cũng là niềm cảm kích, niềm biết ơn vô bờ của tất cả mọi người dân Việt Nam dành cho Bác. Hai câu thơ đầu là hình ảnh ẩn dụ đầy độc đáo. Mặt trời của tự nhiên trong câu thơ đầu là mặt trời của tự nhiên, là nguồn sống cho muôn loài và hàng ngày mọc rồi lặn như một quy luật, một sự tuần hoàn của cuộc sống. Mặt trời ấy quan trọng, quý giá và chỉ có một mà thôi. Ấy nhưng mặt trời tự nhiên lại bắt gặp một mặt trời nữa cũng đẹp, cũng sáng. Ấy là “mặt trời trong lăng”- ẩn dụ chỉ Bác Hồ với những hi sinh lớn lao dành cho dân tộc. Điệp từ thời gian “ngày ngày” lần nữa được sử dụng với dụng ý khẳng định tính chất thường xuyên liên tục. Đoàn người vào lăng viếng Bác nối nhau thành “dòng”. Và tất cả “dòng người” đều chung một nỗi niềm, cảm xúc là thương yêu Bác. Thông qua nghệ thuật ẩn dụ, dòng người nối tiếp nhau kết thành “tràng hoa” dâng Bác hiện lên thật đẹp. Viễn Phương mượn ẩn dụ “bảy mươi chín mùa xuân” để nói về tuổi của Bác. Bác ra đi nhưng luôn sống mãi ở độ tuổi bảy mươi chín với sức xuân tràn ngập. Viễn Phương đã cô đọng, kết tinh tình cảm để cảm ơn người cha đem đến mùa xuân cho đất nước, con người Việt Nam. Trong khổ thơ tiếp theo, nhà thơ Viễn Phương đã miêu tả hình hài của Bác cũng như nói lên tình cảm của mình: “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim.” Hai câu thơ đầu nói lên sự bình yên, thanh thản của Bác Hồ. Dù đã về cõi vĩnh hằng, mãi không trở về nhưng đối với tác giả và những con người nơi trần thế, Bác vẫn chỉ “ngủ” mà thôi, Bác vẫn còn sống mãi cùng chúng ta. Bác đang nằm ở đó, nhẹ nhàng và thanh thản. Cả cuộc đời Người chỉ có một niềm mong ước, đó là đất nước được hòa bình. Vậy nên khi đất nước được hòa bình, độc lập Người đã được nghỉ ngơi trong giấc ngủ yên bình. Người như vầng trăng tỏa ra ánh sáng dịu dàng.
Ánh sáng nhẹ nhàng của một tấm lòng cao đẹp, cả đời hi sinh vì nước vì dân; vầng trăng của một đất nước, một dân tộc đã giành được độc lập, tự do. Bầu trời bao năm tháng vẫn xanh một màu trường tồn vĩnh cửu. Con người ai cũng vậy đều phải theo quy luật sinh, lão, bệnh, tử nghĩa; ai cũng được sinh ra, lớn lên và già đi, rồi đến lúc mất, đi vào thiên thu, cõi vĩnh hằng, Bác cũng không ngoại lệ. Chúng ta ai cũng biết rằng Bác đã mất những hình ảnh của Bác vẫn sống mãi trong trái tim dân tộc Việt Nam, Bác vẫn luôn luôn song hành và dõi theo từng bước đi của dân tộc. Thế nhưng nhận thức là như vậy nhưng trái tim vẫn có lí lẽ riêng của nó, trái tim của nhà thơ vẫn nhói đau, nỗi đau xót đến xé lòng. Dù đã tự an ủi bản thân rằng đó là quy luật của tự nhiên nhưng trong lòng lại đau đớn đến tột cùng. Nỗi đau ấy bất chấp cả nhận thức của lí trí, của con tim. Khép lại bài thơ là những cảm xúc được nhà thơ nhắn nhủ trước khi trở về miền Nam: Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này… Bao nhiêu nỗi đau xót, nghẹn ngào cứ thế tuôn theo dòng lệ trào theo lời giã biệt của người con khi phải xa cha lần nữa. Lời nói giản dị diễn tả tình cảm của nhà thơ dành cho Bác cũng như của tất cả mọi người khi phải rời lăng. Từ “trào” diễn tả cảm xúc mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn rời xa nơi Bác nghỉ. Điệp từ “muốn” lặp lại ba lần như khẳng định lại ước muốn của nhà thơ. Những ước nguyện đó thật đáng quý biết bao! Nhà thơ muốn làm con chim hót để mang âm thanh của thiên nhiên, đẹp đẽ, trong lành đến với nơi Bác nghỉ; muốn làm một đóa hoa tỏa hương thơm thanh cao; muốn làm một cây tre trung hiếu giữa mãi giấc ngủ bình yên cho Người. Hình ảnh cây tre quả thật là một hình ảnh đẹp và được khép lại rất khéo ở cuối bài thơ tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng. Ở đầu bài thơ, nhà thơ cũng mở đầu bằng hình ảnh hàng tre, đó là hình ảnh khi tác giả nhìn thấy khi vào lăng. Đó cũng là hình ảnh biểu tượng cho con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Nhưng kết thúc bài thơ là hình ảnh cây tre trung hiếu canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Bác. Cả khổ thơ đã thể hiện niềm mong ước cháy bỏng của tác giả, cũng chính là mong ước của mỗi người dân Việt Nam. Đó là luôn luôn được ở cạnh Người, ở cạnh vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc. Viếng lăng Bác là bài thơ ngắn mà ý thơ, hình tượng thơ, cảm xúc thơ sâu lắng. Bài thơ như một bài ca ngân vang ca ngợi về Bác Hồ và thể hiện được một nỗi niềm, tình cảm của chính nhà thơ Viễn Phương với Bác. Nhiều năm tháng qua đi nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại ấn tượng trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc. Nghị luận bài thơ Viếng lăng Bác - mẫu 4 Bác Hồ - vị lãnh đại vĩ đại, người cha già yêu thương của dân tộc Việt Nam. Hoàn thành tâm nguyện và sự nghiệp cả đời của mình- sự nghiệp cứu nước, năm 1946 Bác Hồ đã ra đi mãi mãi. Bác ra đi trong nỗi niềm tiếc thương của hàng vạn con dân Việt Nam: “Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…” Tiếng khóc nghẹn ngào ấy vẫn cứ nỉ non, đau xót cho đến 7 năm sau, vang vọng trong những vần thơ của Viễn Phương. Sau một lần ra thăm lăng Bác, với nỗi tiếc thương khôn nguôi và lòng thành kính thiêng liêng, Viễn Phương đã sáng tác bài thơ Viếng Lăng Bác. Mở đầu bài thơ là cảm xúc ngỡ ngàng xen lẫn bồi hồi của tác giả: “Con ở Miền Nam ra thăm lăng Bác Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa vẫn đứng thẳng hàng” Nhà thơ dùng đại từ xưng hô “con- Bác” thể hiện tình cảm gần gũi gắn bó mật thiết và tình cảm sâu đậm nhà thơ dành cho Bác. Bác Hồ là vị cha già cả dân tộc, triệu triệu người dân Việt Nam đều là con của Người. Người mang ánh sáng chở che, bao bọc dân tộc. Giây phút này đây, qua bao nhiêu năm tháng con đã được về lăng Bác, được trở về trong vòng tay Người ngắm nhìn hình hài yêu dấu ấy. Miền Nam gợi ra khoảng cách địa lý vừa nói về một mối tình cảm đặc biệt. Trong những năm tháng chiến đấu gian khổ, Bác Hồ luôn dõi theo và quan tâm đến đời sống người dân miền Nam.
Trong Bác lúc nào cũng thường trực nồi niềm khao khát cháy bỏng đất nước thống nhất, Bắc- Nam sum họp đẻ Bác được vào thăm những người con tổ quốc của mình. Trái tim Bác và trái tim miền Nam hòa chung làm một. Miền Nam lúc nào cũng mong nhớ Bác khôn nguôi, da diết. Tình cảm ấy thiêng liêng, đậm sâu, ngọt ngào như tình mẫu tử: “Ở tận cùng mũi đất phương Nam Trong xanh rờn rừng đước Giữa ba bề rì rầm sóng nước Người quê tôi theo cách riêng mình Dựng một ngôi đền Thờ Bác kính yêu” Chính tình cảm dạt dào ấy đã thôi thúc người con vượt ngàn dặm xa ra Bắc viếng lăng Bác. Nhà thơ đã dùng các nói giảm nói tránh “thăm” để ghìm nén lại cảm xúc đau thương đang trào trực trong tim. Hình ảnh đầu tiên ghi dấu lại cuộc hành trình của tác giả đó chính là hàng tre. Hàng tre xanh trải dài bát ngát trong sương mù ẩn hiện. Khi còn sinh thời Người luôn mang trong mình một tình yêu thiên nhiên cháy bỏng, sống và hòa quyện cùng thiên nhiên đến khi nằm xuống thì thiên nhiên vẫn bên người. Hình ảnh hàng tre giản dị, gần gũi, mộc mạc cũng như chính con người Bác, cuộc sống Bác - dân dã, bình dị. Tre còn là biểu tương cho vẻ đẹp của con người Việt Nam - kiên cường, kiên trung, bất khuất. Tre gắn bó mật thiết với đời sống nhân dân ta, tre lao động sản xuất, tre tham gia chiến trường, tre giữ làng giữ nước giữ mãi nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Dù mưa bom bão đạn tre vẫn sát cánh cùng dân tộc bảo vệ đất nước. Những hàng tre bát ngát, xanh tươi thẳng tắp vươn mình bên lăng Bác như chính sự hiện diện của dân tộc Việt Nam đang quây quần bên Bác, vươn mình ra đưa đất nước phát triển, hội nhập quốc tế. Chứng kiến hình ảnh thơ tuyệt đẹp ấy Viễn Phương không nén được nỗi lòng thổn thức, xúc động mãnh liệt: “Ôi”. Chữ ôi vang lên v���i bao cảm xúc, bao hoài niệm và niềm tự hào thiêng liêng. Và rồi theo bước chân tác giả, nhà thơ tiến vào lăng Bác. Nhìn thấy Bác thấy vị cha già dịu hiền nằm ấy trong lòng nhà thơ dấy lên bao liên tưởng: “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” Câu thơ có hai hình ảnh mặt trời. Mặt trời trong câu thơ thứ nhất là mặt trời tự nhiên. Còn hình ảnh mặt trời trong câu thơ thứ hai chính là hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác. Bác như vầng nhật nguyệt sáng soi cho dân tộc Việt nam, Bác là trái tim ấm nóng, là trung tâm của non sông Đại Việt. Dù Bác đã đi xa nhưng vẻ đẹp trí tuệ và nhân cách của Bác vẫn ngời sáng, bao la, rực rỡ soi chiếu khắp muôn nơi. Để rồi: “Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” Cả cuộc đời của Bác đều hướng trọn một lòng cho nhân dân, đất nước. Bảy mươi chín tuổi là bảy mươi chín năm Bác cống hiến cho dân tộc, là bảy mươi chín mùa xuân rực rỡ. Triệu triệu trái tim con dân Việt Nam trở về đây dâng lên Bác những bó hoa tươi thăm với nỗi niềm biết ơn, thành kính thiêng liêng vô bờ. Niềm cảm xúc của Viễn Phương được dâng lên cao trào khi ngắm nhìn hình ảnh Bác: “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Ý thơ nói lên sự nhẹ nhàng, bình yên, tâm thế thanh thản của Bác. Bác ra đi khi đã hoàn thành được tâm nguyện nau náu cả đời- độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà. Bác về với giấc ngủ vĩnh hằng chính là trở về với đất mẹ thân yêu. Trong câu thơ còn có hình ảnh “ vầng trăng”. Trăng là người bạn thân thiết, đồng hành gắn bó cùng Bác. Trăng cách mạng, trăng thi ca và giờ đây ánh trăng ấy vẫn bên người. Giấc ngủ ngàn thu của người vừa thanh thản, bình dị lại lãng mạn, cao đẹp, đúng như phẩm chất đáng quý của Người. Dù là thế nhưng nhà thơ vẫn không khỏi đau thương: “Dẫu biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim” Vẫn biết sinh lão bệnh tử là quy luật của tạo hóa và Bác Hồ cũng không phải là ngoại lệ. “Trời xanh” biểu trưng cho sự bất tử. Bác đã ra đi nhưng hình ảnh của Bác vẫn luôn sống mãi trong trái tim người dân Việt Nam. Bác vẫn luôn dõi theo, đồng hành cùng con dân ta trên mọi nẻo đường phát triển. Dù nhận thức và an ủi là thế nhưng trong trái tim nhà thơ vẫn không khỏi nhói lên những nỗi đau đớn, tiếc nuối khôn nguôi. Và điều gì đến cũng sẽ phải đến.
Đã đến lúc nhà thơ phải rời miền Bắc, rời lăng Bác. Những giọt nước mắt tuôn trào đã dãi bày bao nỗi niềm trong lòng tác giả: “Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này...” Nhà thơ muốn được hóa thành chim, thành đóa hoa ngát hương thành cây tre bát ngát, thành những sự vật gần gũi để được hiến dâng lên Bác, làm đẹp cho nơi Bác nằm, đem những gì tinh túy nhất tinh hoa nhất của mình chở che cho giấc ngủ bình yên của Bác. Những sự vật gần gũi, giản dị nhưng là khát vọng mãnh liệt và tình cảm lớn lao, sâu đậm nhà thơ dành cho Bác. Những phút giây rời lăng Bác là những phút giây lưu luyến và nồng ấm nhất, chứa chan bao cảm xúc dào dạt nhất. Kết thúc bài thơ là dấu … cũng như chính nỗi lòng tác giả còn quá nhiều điều muốn dãi bày, cứ thế trai dài ra mênh mông, sâu tận. >>> Tham khảo: Cảm nhận hai khổ cuối bài Viếng lăng Bác Bài thơ là tiếng lòng của tác giả hay phải chăng cũng chính là tiếng lòng của nhân dân miền Nam, nhân dân Việt Nam. Tấm lòng yêu thương, niềm tôn kính thiêng liêng dành cho vị cha già dân tộc ấy mãi luôn ngời sáng, cháy bỏng và nhiệt thành trong trái tim mỗi người con Việt Nam thân yêu hôm nay và cả mãi mai sau. Nghị luận bài thơ Viếng lăng Bác - mẫu 5 Bác ra đi khi miền Nam còn chưa giành được độc lập. Trước khi nhắm mắt, Người vẫn canh cánh nỗi lòng ấy. Tình cảm giữa Bác và miền Nam này cũng đã từng được Tố Hữu nhắc đến: “Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà Miền Nam thương Bác, nỗi thương cha!” (Bác ơi) Viễn Phương là một người con miền Nam và cũng mang trong mình thứ tình cảm sâu nặng ấy. Ông đã chuyển chúng lên trang thơ của mình với nhan đề “Viếng lăng Bác”. Bài thơ là niềm xúc động chân thành của một tấm lòng thành kính, yêu thương với vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc. Viễn Phương là nhà thơ tiêu biểu miền Nam. Sau ngày Bác mất, “Viếng lăng Bác” là một trong những bài thơ xúc động nhất viết về Bác. Tác phẩm được sáng tác vào tháng 4 năm 1976, một năm sau khi đất nước được giải phóng. Nhà thơ cùng đoàn đại biểu miền Nam ra thăm lăng Bác khi lăng vừa khánh thành. Trong không khí ấy, bài thơ thể hiện lòng thành kính, biết ơn cùng nỗi xúc động vô vàn của một người con đối với Bác Hồ trên đường vào lăng viếng. Từng câu thơ tám chữ lật dở ra cả một nỗi lòng chua xót… Khổ thơ đầu tiên là trang cảm xúc khi nhà thơ ngắm nhìn khung cảnh ngoài lăng Bác: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.” Câu tự sự mở đầu bằng cách dùng đại từ xưng hô “con – Bác” mang đậm chất Nam Bộ. Lời giới thiệu, thông báo hết sức tự nhiên mà chân thành. Câu thơ thể hiện sự gần gũi, thân thương đối với Bác. Dù cho đó là vị lãnh tụ vang danh năm châu thì dường như không hề có khoảng cách nào giữa Người và con dân của mình. Viễn Phương dùng từ “thăm” thay cho từ “viếng” nhằm nói giảm nói tránh, giảm sự chua xót đau thương về sự thật Bác không còn nữa. Những người con đất Việt vẫn tới “thăm” Bác, ngỡ như Người vẫn đang còn sống với dân tộc! Con ở miền Nam xa xôi ra thăm Bác, nước nhà đã thống nhất mà Bác không còn nữa. Nỗi chua xót nào có thể hơn thế nữa? Hình ảnh hàng tre quanh lăng trong câu thơ tiếp theo là hình ảnh đầu tiên tác giả thấy được khi viếng lăng. Khung cảnh tre bát ngát dần hiện ra. Đây vừa là hình ảnh tả thực, vừa là hình ảnh biểu tượng. Không chỉ để miêu tả hàng tre thực có quanh lăng Bác mà Viễn Phương còn nhằm khái quát lên ý nghĩa biểu tượng: cây tre là hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam, đại diện cho dân tộc Việt Nam. Bác yên nghỉ như về với đất mẹ, về với điệu hồn dân tộc, về với dân tình làng cảnh Việt Nam: “Tre xanh Xanh tự bao giờ? Chuyện ngày xưa… đã có bờ tre xanh” (Tre Việt Nam – Nguyễn Duy) Hàng tre trung thành vẫn hiên ngang đứng đó, canh giữ giấc ngủ nghìn thu cho Người. Thành ngữ “Bão táp mưa sa” là ẩn dụ chỉ những khó khăn, vất vả. Nhưng dù có gian nan bao nhiêu thì tre vẫn đứng thẳng hàng như những người gác lăng thực thụ. Tre đã, đang và sẽ mãi là đại diện cho tinh thần hiên ngang, sức sống mạnh mẽ, kiên cường của dân ta.
Khúc dạo đầu được mở ra bằng khúc nhạc tre ngân mãi, vang mãi,… Khổ thơ thứ hai mở ra sự thương nhớ của tác giả khi đứng trước lăng. Mặt trời là hình ảnh quen thuộc trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Đó là “Mặt trời chân lí chói qua tim” của Tố Hữu, là “Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng” của Nguyễn Khoa Điềm và là cả cặp mặt trời sóng đôi trong thơ của Viễn Phương: “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.” Mặt trời thứ nhất đầu tiên là mặt trời tự nhiên, mặt trời của thiên hà vũ trụ. Mặt trời thứ hai là hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác Hồ. Mặt trời thiên nhiên vĩnh hằng bao nhiêu thì mặt trời trong lăng lộng lẫy, “rất đỏ” bấy nhiêu. Tư tưởng cách mạng, lòng yêu nước của Bác cũng sáng loà như ánh thái dương kia vậy. Hai câu thơ đã khẳng định sự trường tồn vĩnh cửu của Bác như mặt trời tự nhiên. Bác như ánh mặt trời soi rọi đường đi, mang lại nguồn sáng, độc lập, tự do cho dân tộc…Hình ảnh “dòng người” ở câu thơ sau thể hiện lòng kính cẩn của người dân với Bác, ngày nào cũng có người tới thăm Bác với lòng tiếc thương vô hạn. Hình ảnh đó lại kết hợp với điệp cấu trúc “Ngày ngày…” giúp nhấn mạnh sự tuần hoàn, trạng thái liên tục của đoàn người hướng về Ba Đình lịch sử. Chính dòng người đó cùng nhau kết thành một “tràng hoa” thơm, dâng lên lòng biết ơn với người cha già. Đó còn là tràng hoa của những thành công trong lao động sản xuất, trong cuộc sống thường ngày của một năm sau ngày hoà bình lập lại muốn Bác thấy. Khép lại khổ thơ là biện pháp hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân”, chỉ số tuổi của Bác. Cả cuộc đời Bác tận hiến cho dân tộc, Bác dùng tuổi xuân của mình để tạc nên mùa xuân dân tộc. Cảm xúc của Viễn Phương lên đến cao trào khi viếng lăng, nhìn thấy Bác: “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim.” Bác đã ra đi mãi nhưng tác giả tưởng như Bác chỉ ngủ một giấc ngủ dài, như bao đêm chiến trận Bác cũng từng ngả lưng như vậy: “Việc quân, việc nước bàn xong, Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm.” Hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” được tác giả liên tưởng từ chính ánh sáng dịu nhẹ ở trong lăng. Những bóng đèn neon mờ nhẹ tạo cảm giác như Bác đang nằm dưới ánh trăng hiền hoà. Điều này còn giúp ta nhớ đến hình ảnh trăng xuất hiện dày đặc trong thơ Bác, nhắc nhớ ta lại tâm hồn thanh cao của Người. Đến đây, hẳn ai cũng xúc động bồi hồi trước tâm hồn của người cha già: vừa vĩ đại thanh cao vừa giản dị gần gũi. Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” khẳng định sự trường tồn của Bác, Bác sẽ sống mãi với non sông Việt Nam như bầu trời tồn tại vĩnh hằng trong vũ trụ. Viễn Phương đã bộc lộ rõ cảm xúc của mình: “Nghe nhói ở trong tim”. Đó là sự quặn thắt, xúc động của tác giả khi đứng trước di hài lãnh tụ dân tộc. Sự rung cảm ấy không chỉ là sự rung cảm của mình nhà thơ mà còn là sự rung cảm của muôn triệu trái tim đất Việt trước nỗi mất mát quá lớn này. Bác đã ra đi, đó là một nỗi đau không gì bù đắp được. Nếu như nỗi đau ở trên chỉ âm ỉ, “nhói ở trong tim” thì khổ cuối, cảm xúc chia tay Bác đã thành giọt lệ tràn li: “Mai về miền Nam, thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.” Ở tột cùng của cảm xúc ấy, nhà thơ lại muốn lưu lại bên Bác, được thể hiện bằng khao khát hoá thân qua điệp ngữ “Muốn làm”: muốn hoá cánh chim dâng âm thanh cho Người, muốn hoá đoá hoa dâng hương thơm ngào ngạt, hoà thành cây tre trung hiếu canh giữ ngàn năm cho giấc ngủ Người bình yên. Hình ảnh tre ở khổ cuối bài thơ đến đây đã nâng thêm một tầm cao nữa: Viễn Phương hoá mình vào cây tre, nguyện đi theo lí tưởng cách mạng Bác đã để lại cho dân tộc. Ý thơ sâu lắng, lưu luyến, ngân vang mãi trong lòng mỗi người con dân tộc. Bốn khổ thơ đã khép lại nhưng tứ thơ vẫn mãi mở ra, như tấm lòng Viễn Phương và toàn thể dân tộc ta cứ mãi hướng về Bác Hồ. Bài thơ “Viếng lăng Bác” thực sự là bản đàn hay gửi tới Người sự kính trọng, mến yêu:
“Người là Cha, là Bác, là Anh Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ” (Sáng tháng năm - Tố Hữu) Nghị luận bài thơ Viếng lăng Bác - mẫu 6 Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử thân yêu nhất của dân tộc Việt Nam thế kỉ XX. Người để lại hình ảnh một người Cha già hiền từ, một tên gọi Bác thân thiết, người hiện thân cho những gì cao đẹp và mạnh mẽ của dân tộc. Lăng Bác trở thành nơi lưu giữ bóng dáng Bác lúc sinh thời, nơi chiêm ngưỡng thành kính của nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế. Biết bao nhà thơ đã làm thơ về Người, về lăng Người. “Viếng lăng” Bác của Viễn Phương là một bài thơ ngắn đầy xúc động, thể hiện tấm lòng của đồng bào miền Nam đối với Người. Mở đầu bài thơ, tác giả tự giới thiệu: Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Lời thơ giản dị chứa đựng rất nhiều cảm xúc. Sinh thời, Người luôn nghĩ đến miền Nam. Nhà thơ Tố Hữu từng viết: Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà Miền Nam mong Bác nỗi mong Cha (Bác ơi) Lời bài thơ đúng là lời của người con miền Nam ra thăm lăng Bác, nơi yên nghỉ của người Cha già dân tộc. Tình cảm trong bài đúng là tình cảm của người con ở xa mà nỗi niềm nhớ thương ấp ủ bấy lâu như chỉ chờ gặp lại bóng dáng thân yêu là trào dâng, thổn thức. Từ xa, nhà thơ vừa nhìn thấy hàng tre quanh lăng, đã xiết bao xúc động: Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng. Nhà thơ hẳn phải đến rất sớm để xếp hàng vào viếng, khi sương sớm còn bao phủ quanh lăng. Theo con đường quanh quanh dẫn tới lăng nổi lên hàng tre bát ngát. Bát ngát của tre và bát ngát của sương. Nhà thơ bắt gặp một hình ảnh thân thuộc mà bao năm đã in hẳn tiềm thức: “hàng tre xanh xanh Việt Nam / Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”. Một tình cảm vừa thân quen, vừa thương xót và tự hào. Thân quen vì người Việt Nam nào mà không biết tre. Thương xót vì tre phải chịu đựng bão táp, mưa sa, và tự hào vì tre vẫn thẳng hàng, không nghiêng ngả. Từ sương sa mà liên tưởng đến bão táp, mưa sa cũng rất tự nhiên. Từ cây tre mà nghĩ đến Việt Nam, rồi sẽ nghĩ đến Bác cũng là tự nhiên, bởi từ lâu “cây tre”, “Việt Nam”, “Hồ Chí Minh” là những từ ngữ có mối liên hệ nội tại. Khổ thứ hai nói tới cảm xúc trước cảnh đoàn người sắp hàng vào lăng. Hẳn là đoàn người rất dài, tốc độ đi rất chậm. Khổ thơ trên, cảnh vật đang còn sương phủ, bây giờ mặt trời đã lên cao trên đầu. Mặt trời trên lăng lại gợi lên một liên hệ mới: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ Ví Bác với mặt trời là hình ảnh đã quen, nhưng đem so sánh mặt trời trên lăng và mặt trời trong lăng là một sáng tạo mới xuất thần, thoát sáo, chưa hề có. Mặt trời “rất đỏ” làm nhớ đến trái tim, trái tim nhiệt huyết, chân thành, trái tim thương nước, thương dân. Ngắm nhìn dòng người vào viếng, nhà thơ lại nghĩ đến vòng hoa: Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân… Tràng hoa là chuỗi hoa vòng kết thành tròn. Từng đoàn người đi viếng di chuyển từ phía sau lăng, qua bên lăng, vòng ra trước lăng rồi quay vào chính diện của lăng, đúng là tạo thành một vòng tròn, khiến nhà thơ nghĩ đến tràng hoa. Bởi vì con người là hoa của đất, những con người từng được Bác Hồ quan tâm. Mọi người hình như không phải đến viếng một người đã từ trần, viếng một thi hài, mà là đến viếng một cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân đã hiến dâng bao nhiêu hoa trái. Ở đây tác giả không chỉ liên tưởng sâu sắc, mà còn dùng từ tinh tế, đầy tình cảm nâng niu, quý trọng. Những chữ “ngày ngày” được lặp lại hai lần gây cảm giác một thời gian vô tận, vĩnh viễn, không bao giờ ngừng, như tấm lòng nhân dân không nguôi nhớ Bác. Khổ thơ thứ ba nói về cảm xúc khi đã vào đến trong lăng. Đây là nơi ngự trị của cái im lặng trang nghiêm của sự yên nghỉ đời đời. Câu thơ đã viết rất đỗi chân thực và thơ mộng: Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Khung cảnh bình yên, lặng lẽ gợi lên giấc ngủ ban đêm, êm đềm dưới vầng trăng sáng dịu hiền. Nhà thơ một mặt không muốn cảm nhận đây là giấc ngủ vĩnh viễn, ngủ giữa ban ngày, nhưng mặt khác không thể không thấy một sự thật rằng con người đang nằm kia đã vĩnh viễn ra đi:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim Dù biết Bác sống vĩnh viễn như trời xanh thì cũng không che giấu được một sự thật mất mát, làm đau nhói con tim. Câu thơ nghe như một tiếng khóc nghẹn ngào. Khổ thơ cuối cùng là cảm xúc trước khi ra về: Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đoá hoa tỏa hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, nỗi thương xót làm trào rơi nước mắt. Không phải rưng rưng, rơm rớm, mà là trào, một cảm xúc mãnh liệt. Tình thương xót như nén giữa tâm hồn, làm nảy sinh bao ước muốn. Ước muốn làm con chim hót quanh lăng Bác, để lại chút vui tươi, nhí nhảnh bên một người đã hy sinh cả gia đình, tình riêng vì đất nước. Ước muốn làm đóa hoa tỏa hương quanh lăng, một làn hương như thực như hư “đâu đây”, thoang thoảng. Ước muốn làm cây tre trung hiếu quanh lăng. Mọi ước muốn đều quy tụ vào một điểm là mong được gần Bác mãi mãi, hẳn là muốn làm vui, làm khuây, làm vợi nỗi lạnh lẽo của con người đã suốt đời hi sinh cho sự nghiệp giải phóng Tổ quốc, giải phóng dân tộc, một con người lúc sinh thời đã dành trọn tình thương yêu cho mọi tầng lớp nhân dân và đặc biệt cho đồng bào miền Nam ruột thịt. Bài thơ tả lại một ngày ra thăm lăng Bác, từ tinh sương đến trưa, đến chiều. Nhưng thời gian trong tưởng niệm là thời gian vĩnh viễn của vũ trụ, của tâm hồn. Cả bài thơ bôn khổ, khổ nào cũng trào dâng một niềm thương nhớ bao la và xót thương vô hạn. Bốn khổ thơ, khổ nào cũng đầy ắp ẩn dụ, những ẩn dụ đẹp và trang nhã, thể hiện sự thăng hoa của tình cảm từ cõi hằng ngày lên cõi cao cả. Tình cảm đối với Bác chỉ có thể là tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con người. Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương là một đóng góp quý báu vào kho tàng thi ca viết về Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc. -/- Trên đây là tài liệu hướng dẫn làm bài văn nghị luận bài thơ Viếng lăng Bác, các em tham khảo để hoàn thiện bài viết của mình được tốt hơn. Chúc các em học tốt Ngữ văn 9. Xem th��m: Dàn ý phân tích bài Viếng lăng BácCảm nhận về bài thơ Viếng lăng BácViếng lăng Bác là bài ca ân tình cảm động, đẹp đẽ của nhà thơ Viễn PhươngCảm nhận của em về hai khổ đầu bài thơ Viếng lăng BácPhân tích cảm xúc chân thành của tác giả qua khổ thơ trong bài Viếng lăng bácPhân tích khổ thơ 3 4 bài Viếng lăng BácCảm xúc lưu luyến khi rời lăng của Viễn PhươngƯớc nguyện của Viễn Phương qua khổ cuối bài thơ Viếng lăng BácPhân tích hai khổ thơ đầu bài Viếng lăng BácSuy nghĩ của em về bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn PhươngNghị luận bài thơ Viếng lăng Bác - Viễn PhươngSoạn bài Viếng lăng Bác
0 notes
Text
🍁NHỮNG CÂU VĂN HAY TRÍCH DẪN TỪ CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC
--------------------
🌿Cũng giống như những con đường trên mặt đất; kỳ thực, trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi.
(Lỗ Tấn - Cố hương)
🌿Đau đớn thay những kiếp sống muốn cất cánh bay cao nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất.
(Sống mòn - Nam Cao)
🌿Tôi tin bản thân của nỗi đau. Có bước đi trong bóng tối. Lý do để tôi chờ đợi. Là sự kiếm tìm. Một thứ ánh sáng riêng
(Hy vọng - Đỗ Trọng Khải)
🌿Chỉ biết rằng hạnh phúc không tự nhiên mà đến, phải tranh đấu, đánh đổi, thậm chí là hy sinh mới có thể được chạm tay vào hạnh phúc mà thôi.
(Lời thì thầm của những bông hoa hồng)
🌿Câu kinh điển: Ngày mai là một ngày mới - Scarlet O'hara.
(Cuốn theo chiều gió)
🌿''Trên đời này không có hạnh phúc mà cũng chẳng có bất hạnh, chỉ là sự chuyển biến từ trạng thái này sang trạng thái khác.Chỉ có những người nào đã trải qua cảnh khổ cực mới hưởng thụ được cảnh sung sướng. Chỉ có kẻ nào sắp chết mới biết cuộc sống là thiên đường"
(Bá tước M... - A.D)
🌿"Một sự bịa đặt, tuy nhiên lại từng đánh lừa bao đời tất thảy các đàn bà, bởi vì tất thảy dưới lớp sơn hào nhoáng khác nhau của nền giáo dục, thị hiếu đương thời và dáng điệu, đều giấu một bản chất đồng nhất về cái kiểu khờ khạo, đa cảm"
(Những kẻ văn minh-Claude Fariere)
🌿"Khi ông nhìn trời, ban đêm, bởi vì ở một trong những ngôi sao đó có tôi ở, bởi vì tôi cười trên một trong những ngôi sao đó, cho nên đối với ông tưởng chừng như tất cả các ngôi sao đều cười."
(Hoàng tử bé)
🌿"Trong một vũ trụ hàm hồ, loại xác tín như thế này chỉ đến với em một lần, không bao giờ có lại, cho dù ta có trải qua bao nhiêu cuộc đời đi nữa"
(Những cây cầu quận Madison)
🌿"Lạy Chúa trên thiên đường, vạn sự trên đời vẫn ổn!” – Anne
(Anne tóc đỏ dưới Chái nhà Xanh)
🌿“ Xung quanh tôi thấy nhiều người thông minh, nhưng trong bọn họ ít có người cao thượng, mà có chăng nữa thì cũng đều rã rời, đau ốm về tâm hồn.Và không biết tại sao bao giờ tôi cũng quan sát thấy thế; người nào càng tốt, tâm hồn càng trong sạch và trung tín thì người ấy lại càng ít nghị lực, càng bệnh tật và càng khổ sở trong cuộc sống. Cô đơn và buồn tủi là số kiếp của những người như thế. Nhưng dù họ có nhiều khát vọng vươn lên một cuộc sống tốt đẹp hơn họ vẫn không có sức xây dựng cuộc sống đó. Phải chăng họ rã rời và thảm hại như thế chính là vì họ không được cứu giúp kịp thời bằng một lời có sức khích lệ tâm hồn?”
<Tôi không nhìn thấy cuộc đời chăng?>
"Sau này em sẽ hiểu, ở nơi nào đó trên thế giới này có cô ấy xuất hiện, những người khác chỉ là tạm bợ. Anh không muốn tạm bợ."
(Bên nhau trọn đời - Cố Mạn)
🌿''Khi còn son trẻ chúng mình cũng đã từng lạc bước, nhưng vẫn ổn. Ngược xuôi ngang dọc, thì ra anh vẫn ở đây..."
(Hóa ra anh vẫn ở đây - Tân Di Ổ)
🌿“Những kẻ tinh ranh lõi đời, từ thời thơ ấu họ đã được tiếng là ngay thẳng, vẻ mặt họ luôn luôn biểu lộ tính cương trực. Mới quen nhau họ đã tức thì cậu cậu tớ tớ với bạn và hình như hiến bạn tất cả tình bằng hữu của họ, nhưng thường thì ngay chiều hôm ấy, giữa bữa tiệc chén chú chén anh họ đã túm lấy cổ bạn mà vật, họ đa ngôn, phóng đãng, tự đắc, nổi bật giữa mọi người.”
(Gogol)
🌿“Thông cảm nỗi đau khổ của người khác- rất tốt, song có 2 loại đồng cảm. Một, nhỏ nhen, ủy mị. Về bản chất nó chẳng khác gì sự ích kỉ của trái tim, càng nhanh càng tốt thoát ra khỏi trạng thái nặng nề trước bất hạnh của người khác. Đây không thể gọi là đồng cảm mà chỉ là một mong muốn bản năng rào chắn sự bình yên của bản thân.
Song, còn có một trạng thái đồng cảm khác- chân chính. Nó đòi hỏi hành động chứ không phải những tình cảm ủy mị. Nó biết muốn gì, dằn vặt, đồng cảm với lòng quyết tâm sẵn sàng làm tất cả trong khả năng con người cho phép, thậm chí còn hơn thế nữa. Nếu như ngài sẵn sàng đi đến tận cùng, lắng xuống đến tận đáy cay đắng, nếu như ngài được trang bị bởi một lòng nhẫn nại vĩ đại, khi đó ngài mới biết cách giúp đỡ mọi người. Chỉ khi nào ngài dám xả thân mình…”
(Trái tim nôn nóng- S.Zweig)
🌿“Chỉ những kẻ thực sự dám thì mới có thể bay”.
(Chuyện Con Mèo Dạy Hải Âu Bay - Luis Sepúlveda)
🌿"Nỗi nhớ chỉ là sự trở lại của một khoảnh khắc. Không hề có một năm tháng nào ở giữa khoảnh khắc ấy và hiện tại.
Nó là hiện tại."
(Và khi tro bụi - Đoàn Minh Phượng)
🌿"Cuộc đời dài lắm, để đi hết được cuộc đời, con người phải trải qua biết bao những khoảnh khắc tỉnh táo và cả si mê...
"Cuộc đời dài lắm, nhưng cuộc đời cũng chạy vòng quanh. Chỉ có tình yêu là rơi thẳng, rơi tới đáy..."
(Cuộc đời dài lắm - Chu Lai)
🌿“Thế giới quá rộng lớn. Những con người bé nhỏ cứ đi mãi, đi mãi trên khắp các con đường. Thế rồi tình cờ, hai trong số họ gặp nhau. Nói với nhau vài câu rồi rời đi, giúp đỡ nhau tí chút để trở thành bạn bè. Hay nhiều rung động, yêu thương không tính toan, trao gửi hết tất cả bí mật mới khó khăn và thiêng liêng làm sao.”
("Dạt vòm"- Phan Hồn Nhiên)
🌿"Hãy cố gắng bằng mọi cách khi còn có thể nhưng khi không còn cách nào nữa thì hãy quên đi"
(Khải hoàn môn - Rơmac)
🌿"Tao thất bại, nhưng tao đã thử. Tụi bay hiểu chứ, ít nhất TAO CŨNG ĐÃ THỬ, không phải sao?" .
(Bay trên tổ chim Cúc cu - Ken Kesey(
🌿"Tâm hồn con người nặng gấp trăm lần thể xác, nó nặng đến nỗi một người không mang nổi. Người ta buồn nhât, cô đơn nhất là khi ngủ dậy. Và khi ngoài trời đang nắng ráo mà không biết phải đi đâu, về đâu."
(Quy luật muôn đời)
🌿"Ngày ngày kẹt giữa đám đông, chen chúc trên những con đường đông nghịt người, nhiều khi tôi giật mình, trời ơi, họ kia, đồng loại mình kia, sao mình lại thấy cô đơn đến rã rời...
Lúc ấy, tôi có một cảm giác kì lạ, chỉ mình trên đời nầy, chỉ một mình... Chẳng ai là tri âm, chẳng ai cả..."
(Biển người mênh mông - Nguyễn Ngọc Tư)
🌿"làm con người - điều đó có nghĩa là anh phải chịu trách nhiệm về tất cả. Phải biết xấu hổ về hoàn cảnh nghèo, bần cùng, mặc dầu nó tồn tại không phải do lỗi của anh. Phải biết tự hào về thắng lợi mà các bạn hữu của anh dành được. VÀ PHẢI BIẾT RẰNG KHI ĐẶT 1 VIÊN ĐÁ, ANH ĐÃ GIÚP VÀO VIỆC XÂY DỰNG CẢ 1 THẾ GIỚI."
(Hành tinh của con người - Xanh Ekzuypery)
🌿"Trong mọi sinh vật, không gì sống lâu bằng con người. Hãy xem con phù du đón đợi chiều tà, con ve sầu mùa hạ chưa biết đến xuân thu . Dù ta chỉ sống em ả trong vòng 1 năm thôi, cũng là lâu dài và hạnh phúc vô song rồi. Thế nhưng đối với mọi người không bao giờ biét nhàm chán thế gian thì 1 ngàn năm trôi qua cũng cầm bằng giấc mơ của một đêm thôi.
1 ẩn sĩ, tôi không biết là ai, từng nói rằng chẳng có gì ràng buộc ông với thế gian này, và điều độc nhất mà ông hối tiếc phải giã từ chính là bầu trời xanh thế kia.
Cho dù gió không hề thổi, bông hoa của trái tim người cứ đổi thay. Giờ đây nhìn lại những tháng năm thân tình, ta cảm thấy rằng bạn hữa mà lời lẽ ta còn nhớ rõ , đã trở nên xa vắng và sống trong 1 thế giới khác. Tất cả chuyện đó còn buồn hơn là tử biệt."
(Trầm tư trên cỏ - Kenko)
🌿"Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai người khác để thoả mãn lòng ích kỉ, kẻ mạnh là kẻ biết giúp đỡ người khác trên đôi vai của chính mình"
(Đời thừa - Nam Cao)
🌿"Sự đời là thế, cái gì bàn càng lắm thì càng nát, càng xa rời chân lí."
(Số đỏ - Vũ Trọng Phụng)
🌿“Tình yêu vĩ đại nhất cũng có thể lụi tàn.”
(Cuốn theo chiều gió -Margaret Mitchell)
🌿“Một số nhà văn tin rằng kể cốt truyện ra trước khi viết sẽ làm nó cũ xì đi. Họ sẽ thấy nó mệt mỏi, nhàm chán trước khi kịp viết ra giấy.”
(Bản năng gốc - Richard Osborne)
🌿“Một lá thư không chỉ được truyền đạt bằng các con chữ. Một lá thư, giống như một cuốn sách, có thể đọc được bằng cách ngửi, sờ mó, vuốt ve. Vì thế người thông minh sẽ nói, “Vậy tiếp tục đi, đọc coi thư nói gì với bạn!” trong khi kẻ chậm hiểu sẽ nói, “Vậy tiếp đi, đọc coi hắn viết gì trong đó!”
(Tên tôi là Đỏ - Orhan Pamuk)
🌿“Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sống phí…" - Pavel Corsaghin.
(Thép đã tôi thế đấy - Nikolai Alexeevich Ostrovsky)
🌿“Tôi thích được cộng tác với những người đã tạo ra những tác phẩm mình yêu thích, nhưng đôi khi tôi cảm thấy rất lạ, như thể mình và họ đang nhìn thấu tâm can nhau, nhắc nhau về một lời hứa. Ước hẹn thuở xa xưa.”
(Xoắn Ốc - Banana Yoshimoto)
🌿“Sao lại không nhỉ? – Tôi trả lời. Tạm quên đi nỗi buồn mãi tiếp diễn chừng nào ta còn đang sống, quên đi rằng nó sẽ chẳng bao giờ chấm dứt…”
(Máu và nước - Banana Yoshimoto)
🌿“Có ngày nào lại không phải là một giấc mơ.”
(Búp bê Bắc Kinh - Xuân Thụ)
🌿“Tôi mơ. Đôi khi tôi nghĩ đó là điều đúng duy nhất cần làm. Mơ tức là sống trong thế giới của những giấc mơ, Sumire đã nói vậy. Nhưng việc đó không kéo dài được lâu. Sự tỉnh táo luôn luôn đến đưa tôi về.”
(Tôi là ai trong thế giới này?)
🌿“Sự hiểu biết chẳng là gì ngoài tổng số những sự hiểu nhầm của chúng ta”
(Người tình Sputnik - Haruki Murakami)
🌿“Ngươi không phải là một thợ săn. Dân chúng làng El Idilio thường nói tới ngươi như là thợ săn, nhưng ngươi luôn nói đó không phải là sự thực, bởi vì thợ săn giết thú để chiến thắng nỗi lo sợ.”
(Một ông già đọc tiểu thuyết tình yêu - Luis Sepúlveda)
🌿“Tôi cứ ngỡ thiên thần không bao giờ chết…”
(Cô đơn trên mạng-Janusz Leon Wisniewski)
🌿“Chiến tranh là cách săn mồi để ăn của một quốc gia.”
(Bài học của lịch sử - Will Durant)
🌿“Một nền dân chủ sụp đổ khi nó quá dân chủ...Một người chủ hòa yên lặng cũng cần rất nhiều can đảm.”
(Câu chuyện triết học - Will Durant)
🌿“… Người hạnh phúc nên người muốn đem lại tươi vui và tốt lành cho những người xung quanh. Chỉ những kẻ bất hạnh mới ăn cắp, đánh nhau và giết nhau.”
(Những người bóng dài/ Top of the world - Hans Ruesch)
🌿“Những kỷ niệm đẹp thực sự bao giờ cũng sống và toả sáng một cách bền bỉ. Chúng sẽ cất lên những tiếng thở xót xa sau mỗi lần thời gian trôi chảy.”
(Kitchen - Banana Yoshimoto)
🌿“Những thứ vào miệng con người không độc hại xấu xa. Xấu xa, đọc hại là những thứ từ miệng họ tuôn ra”
(The Alchemist - Paulo Coelho)
🌿“Những kỷ niệm đẹp thực sự bao giờ cũng sống và toả sáng một cách bền bỉ. Chúng sẽ cất lên những tiếng thở xót xa sau mỗi lần thời gian trôi chảy.”
(Kitchen - Banana Yoshimoto)
🌿“Hãy vì tương lai đất nước, vì lợi ích cho con cháu, hãy làm những cái đẹp chân chính.”
(Viết dưới ánh đèn dầu - Bùi Xuân Phái)
🌿"Sống cô độc đương nhiên cảm thấy cuộc đời là những chuỗi ngày dài và buồn tẻ; nhưng nếu được ở bên người mình yêu thương, thì chỉ thoắt cái người ta đã tới ngã ba đường rồi."
(Socrates in love/ Tiếng gọi tình yêu giữa lòng thế giới – Katayama Kyoichi)
🌿“Tạo hóa sinh ra em là gì nếu nhưng em hoàn toàn bị bó buộc trong thân xác này”
(Đồi gió hú – Catherine Earshaw)
🌿“Tuy nhiên, điềm đạm đến đâu người ta cũng không thể một mình đứng trước vô cùng. Người ta cần phải nương tựa vào một cái gì đó cho đỡ lẻ loi: một lòng tin, hay ít nữa một tình yêu theo nghĩa thông thường và chân chính của chữ yêu.. chàng muốn quên mình, quên hết thảy trong tình yêu của một người, vô luận là người nào..”
(Thi nhân Việt Nam - Hoài Thanh, Hoài Chân)
🌿“Tình yêu có vẻ không ranh giới thế nào, lại gây phiền não thế ấy”
(Người đua diều - Khaled Hosseini)
🌿“Tôi muốn được thừa nhận. Muốn được tha thứ. Muốn được ai đó dùng ngón tay lấy đi những đường gân đen bám vào tim mình như nhặt từng sợi tóc bám trên lược rồi vứt vào thùng rác. Tôi chỉ toàn muốn người khác làm cho mình. Dù chẳng nghĩ ra nổi một điều mình muốn làm cho người khác.”
(Cái lưng muốn đá – Wataya Risa)
🌿“Người ta chỉ nhìn thấy thật rõ ràng bằng trái tim. Cái cốt yếu thì con mắt không nhìn thấy được...Người ta chỉ hiểu được những vật người ta đã cảm hoá, cáo nói. Loài người bây giờ không còn đủ thì giờ hiểu cái gì hết. Nếu cậu vui lòng, hãy cảm hoá tớ đi!”
(Hoàng tử bé – Saint Exupery)
🌿"Tác giả gửi đi những thông điệp và việc của người đọc là giải mã những thông điệp đó một cách thấu đáo nhất có thể."
(Precious – Push – Sapphire)
🌿"It is a truth universally acknowledged, that a single man in possession of a good fortune, must be in want of a wife."
(Jane Austen - Pride and Prejudice)
🌿"Các cô gái là như thế đấy, ngay cả khi họ xấu xí, thậm chí họ có ngốc nghếch đi nữa, mỗi khi họ làm điều gì rất đẹp, ta sẽ yêu họ và sẽ không biết mình đang ở đâu. Các cô gái. Than ôi. Họ có thể làm bạn phát điên. Như chẳng hề có chuyện gì. Thật đấy."
(J.D.SALINGER - Bắt trẻ đồng xanh)
🌿“Sự sống đẹp đến nỗi cái chết đã phải lòng nó”
(Cuộc đời của Pi - Yarn Martel - Trịnh Lữ dịch)
🌿“Trong cuộc đời, con sẽ có rất nhiều lý do để hạnh phúc. Một trong những thứ đó là nước, thứ khác là gió, thứ khác nữa là mặt trời, và đó luôn là món quà đến sau những cơn mưa. Hãy cảm nhận mưa đi. Giang đôi cánh của con”.
(Chuyện con mèo dạy hải âu bay - Luis Sepúlveda)
🌿“Phần lớn mọi người đều tốt cả, con ạ, chỉ có điều con chưa nhận ra đấy thôi”
(To Kill a Mockingbird - Atticus Finch)
🌿"Tôi đã từng viết về những người không quan tâm đến tiền bạc nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ gặp người như vậy. Vì vậy tôi đi đến kết luận liêm khiết là điều rất khó khăn. Những người mà cuộc sống không được cân bằng bởi việc yêu tiền một cách lành mạnh thường phải chịu đựng nỗi ám ảnh kinh hoàng với bản tính chính trực trong con người họ"
(The Thirteenth Tale – Diane Setterfield)
🌿" Trời tối.. và thêm rất nhiều ngày trời sáng "
"Chính chúng ta là người quyết định hạnh phúc của bản thân "
( Bảy ngày cho mãi mãi –Marc Levy )
🌿"Chiến Tranh, theo tôi biết, có nhiều người nhói đau khi nhắc về nó. Những huân chương, huy chương chỉ làm ấm ngực, niềm đau khuất ở một góc lòng, có kẻ nhìn thấy, có người không.."
(Mối tình năm cũ - Nguyễn Ngọc Tư)
🌿"Scarlet, tôi không phải là người kiên nhẫn nhặt những mảnh vỡ, gắn lại và tự nhủ rằng một vật chắp vá vẫn còn như mới. Cái gì đã tan vỡ là tan vỡ… Và tôi thà nhớ lại khi nó đẹp nhất, còn hơn là chắp vá để rồi suốt đời cứ phải thấy những vết nứt của nó"
(Cuốn theo chiều gió)
🌿"Lý do sự chết cứ bám riết lấy sự sống như vậy không phải là vì nhu cầu sinh học - đó là sự ghen tị. Sự sống đẹp đến nỗi sự chết đã phải lòng nó, một mối tình tư vị đầy ghen tuông quắp chặt lấy bất cứ thứ gì nó có thể động đến. Nhưng sự sống nhẹ nhàng bỏ qua, mất mát vài thứ chẳng gì đáng kể, và nỗi u buồn chỉ như một bóng mây bay"
(Cuộc đời của Pi)
🌿Cái chết “chỉ là trở về cái chốn bạn từng ở trước khi sinh ra, và chẳng có ai sợ cái chốn trước khi mình sinh ra”. “… những cái cũ chết đi và những cái mới được sinh ra. Sao cũ hóa thành sao mới. Lá chết hóa thành cây con. Có lẽ đó là cái đang chết đi, hoặc có lẽ đó là cái đang sinh ra. Tất cả tùy thuộc vào cách nhìn của bạn”.
(Muốn sống - Sally Nicholls)
🌿"Đàn bà sống bằng kỷ niệm. Còn đàn ông thì bằng những cái mà họ đã quên."
(Cô đơn trên mạng-Janusz Leon Wisniewski)
🌿"Trèo lên cao và không nghĩ là mình ngã thì sẽ không bao giờ ngã."
(Câu nói của chú mèo trong "Nữ thần băng giá" - Andersen)
🌿"Cuộc sống, ngay cả khi con phủ nhận nó, ngay cả khi con sao nhãng nó, ngay cả khi con từ chối công nhận nó, nó vẫn mạnh hơn con. Mạnh hơn tất cả."
(Bố đã từng yêu - Anna Gavalda)
🌿"Tiền không mua được hạnh phúc, nhưng phải mất bao nhiêu tiền người ta mới nhận ra điều đó? "
( Thiên thần sa ngã - Tào Đình )
🌿"Ở một mình không cô đơn, nhớ ai đó mới cô đơn "
( Tôi độc thân )
🌿"Hạnh phúc thực chất là điều mong manh và khó nắm giữ nhất, giống như bong bóng xà phòng, nếu không chủ động đấu tranh, giữ gìn và nắm lấy thì ta sẽ không bao giờ có được nó."
(Bong bóng mùa hè - Minh Hiểu Khê)
🌿"Một năm cũng dài mà một năm cũng ngắn... đối với một sự mất mát thì một năm còn có nghĩa là vô tận.... Nỗi đau có thể một năm... Vết cứa có thể sâu một năm.... Vết sẹo có thể in một năm hình hài... Nhưng vô tận... vô tình cái chết là mãi mãi..."
"Có lẽ, tất cả những gì mà bạn đã có đều tốt đẹp, chỉ cần bạn không còn sở hữu nó."
(Nghe nói anh yêu em - Thuấn Gian Khuynh Thành)
🌿“Ý nghĩa của cuộc đời không phải là có một ván bài đẹp mà là… Đánh thắng một ván bài đen”.
(OSC - Diệp Chi Linh)
🌿"Mà những kẻ nói xấu sau lưng người khác này, thường là loại tự cho mình là người thanh cao, dùng những tiêu chuẩn đạo đức, giẫm đạp lên hành vi của người khác; nhưng kì thực trong lòng thì ghen ăn tức ở."
(Yêu em không cần quá cuồng si - Tịch Quyên)
🌿"Trong tim ai chẳng có một tòa thương thành"
(Hóa ra anh vẫn ở đây - Tân Di Ổ)
🌿"Nếu thế giới của một người vĩnh viễn chỉ có bóng tối vậy thì làm sao phân biệt được bình minh và hoàng hôn"
(Bình minh và hoàng hôn - Tân Di Ổ)
🌿"Tôi rất cô độc. Tôi khao khát được đến gần, khao khát được quan tâm. Hy vọng có một người bên tôi, lúc nào cũng bên tôi. Đó, sẽ là những giây phút hạnh phúc nhất."
(Thần Long-Cõi Luân Hồi)
🌿"Giờ thì phức tạp rồi đây, lấy đâu ra đàn bà chưa qua sử dụng khi họ luôn luôn bị sử dụng?"
"Nếu một người có số mệnh, thì đó là đàn ông. Còn nếu một người chịu số mệnh, thì đó là đàn bà"
(Tình ơi là tình - Elfriede Jelinek)
🌿"Sống không lo nghĩ, không mong muốn, không đấu tranh là kiếp sống của 1 con dòi rồi. Chả lẽ những con dòi cũng có thể cất cao cái đầu múp míp của chúng để làm ra triết học và thơ ca?"
(Tôi đi tìm cái tôi đã mất - Nguyễn Khải)
🌿"Vì Tấm mà nhân gian nhớ đến Bụt chứ không phải vì Bụt mà họ nhớ đến Tấm. Bụt chỉ tồn tại khi Bụt biết hiện ra đúng lúc... Có những người cứ làm được vài việc mà đúng ra trách nhiệm họ phải làm thì tự cho mình là Bụt. Họ ăn lương để hành động như Bụt lại ra vẻ chẳng ăn gì, chỉ ban phúc thôi"
"Trong tình thương, không có chữ Tôi, chỉ có chữ Chúng ta thôi"
(Thư bà vợ gửi cho bồ nhí - Lê Hoàng)
🌿"Tình yêu không phải là một trạng thái của tâm hồn mà là dấu hiệu của duyên số"
"Mười năm của tuổi 50 có giá trị quyết định vì tôi nhận ra là mọi người đều ít tuổi hơn mình. Mười năm của tuổi 60 rất căng thẳng vì tôi nghi ngờ rằng mình không còn đủ thời gian để mắc sai lầm nữa. Mười năm của tuổi 70 thật là đáng sợ vì nhiều lúc tưởng đó là những tháng ngày cuối cùng..."
(Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi - G.G Marquez)
79 notes
·
View notes
Text
VƯƠNG DUY: LẦN THEO NGUỒN NƯỚC ĐỔ, NGỒI NGẮM ÁNG MÂY BAY
(Tuy rất dài, nhưng mong các bạn có thể bớt chút thời gian đọc hết)
Trong lịch sử Trung Hoa, không có triều đại nào giàu ý thơ như thời Đường. Thơ của thời Đường vừa hòa nhã vừa mềm mại, mà thơ của Vương Duy lại mềm mại đến vô cùng tận.
"Đãn khứ mạc phục vấn, bạch vân vô tẫn thì."
(Người đi thôi chẳng hỏi, mây trắng lững lờ trôi)
"Khuyến quân canh tẫn nhất bôi tửu, tây xuất Dương Quan vô cố nhân."
(Mời người uống cạn chén rượu này, rời khỏi Dương Quan ai còn cố nhân)
"Nguyện quân đa thải hiệt, thử vật tối tương tư."
(Xin chàng hãy hái thật nhiều, vật ấy rất gợi tình tương tư)
"Lai nhật khởi song tiền, hàn mai trước hoa vị?"
(Cây mai trước cửa sổ, đông lạnh nở hoa chưa?)
Nhìn chung, thơ của Vương Duy, bài nào chẳng vừa thư thái vừa nhẹ nhàng? Từng có người đánh giá cuộc đời của Vương Duy như sau: "Con người sống tốt, dễ thành người tốt".
Thực ra chúng ta đều sai rồi. Chúng ta chỉ thấy sự bình tĩnh vượt ngàn cánh buồm của ông mà không nhìn tới cuộc đời kinh qua bao chìm nổi của ông.
(Kể từ khúc này trở đi mình sẽ đặt đại từ nhân xưng là "hắn" bởi tính chất của đoạn sau như một cuốn tiểu thuyết ngắn vậy đó, để "hắn" sẽ hợp hơn)
Năm Võ Tắc Thiên đăng cơ cũng chính là Trường An nguyên niên (nguyên niên ý chỉ năm đầu tiên của đời vua đó). Hai dòng họ lớn của Đại Đường là Vương thị ở Thái Nguyên và Thôi thị ở Bác Lăng liên hôn, sau đó hạ sinh một thiên tài, ấy chính là Vương Duy.
Có một số người, sinh ra đã định phải làm thánh nhân. Vương Duy chính là kiểu người như vậy, ông nội của Vương Duy tên Vương Trụ, là một nhạc quan (một chức quan quản những việc liên quan đến âm nhạc) nổi tiếng trong cung. Mẫu thân của Vương Duy là họa sĩ, tinh thông Phật pháp, là đệ tử của cao tăng Đại Chiếu trứ danh đương thời. Phụ thân của Vương Duy là Vương Xử Liêm, tinh thông thơ văn, giữ chức tư mã Phần Châu, ấy cũng là một vị quan lớn. Còn đứa trẻ Vương Duy lại kế thừa gen ưu tú của gia tộc, được tiếp nhận nền giáo dục cao cấp nhất thời bấy giờ.
Hắn có thể sáng tác nên một bài thơ hay, am hiểu thi họa, lại sở hữu thiên phú vô cùng tốt về âm nhạc. Ngoại trừ tài hoa thì Vương Duy cũng là một mỹ nam siêu cấp, thân hình hắn cao to, dung mạo anh tuấn, mang khí chất của bậc anh tài. Tóm lại, con nhà Lão Vương hàng xóm quả chẳng thể moi ra được bất kỳ thói hư tật xấu nào cả!
Năm Vương Duy mười lăm tuổi, hắn hăm hở một mình đến Đông Độ ở thành Lạc Dương tham gia thi cử. Tiện tay viết một câu "Tân Phong mỹ tửu đấu thập thiên, Hàm Dương du hiệp đa thiếu niên" (Tân Phong rượu quý mười ngàn đấu, du hiệp Hàm Dương khách trẻ trung), thể hiện cái hiệp khí của thiếu niên khiến không ít người ngạc nhiên.
Về sau, bài "Tương tư" được nghệ nhân nổi tiếng thời đó là Lý Quy Niên cất thành tiếng hát bèn trở nên nổi tiếng khắp kinh đô.
"Hồng đậu sinh nam quốc, xuân lai phát kỷ chi.
Nguyện quân đa thải hiệt, thử vật tối tương tư."
(Đậu đỏ mọc xứ Nam, xuân đến nảy thêm cành
Mong chàng hái nhiều chút, ấy rất gợi tương tư)
Mười bảy tuổi, trong khi người bạn Lý Bạch cùng lứa còn đang trốn học và mải ngắm bà nội mài kim thì Vương Duy đã sáng tác nên một bài thơ nói về nỗi nhớ quê nhà để rồi thành danh khi còn là thiếu niên.
"Độc tại dị hương vi dị khách, mỗi phùng giai tiết bội tư thân.
Diêu tri huynh đệ đăng cao xử, biến sáp thù du thiểu nhất nhân."
(Đất lạ đơn côi làm khách lạ, mỗi lần tiết đẹp nhớ nhà hoài
Vẫn hay huynh đệ lên cao đấy, đều cắm thù du thiếu một người)
Chỉ dựa vào bài thơ này, Vương Duy chớp mắt nổi danh.
Có thể thấy, tuy có cùng thiên phú nhưng sinh ra trong gia đình như thế nào là chuyện vô cùng quan trọng. So với Lý Bạch thì con đường thành danh của Vương Duy rất thuận buồm xuôi gió.
Khai Nguyên năm thứ chín, dưới thời Đường Huyền Tông, Vương Duy bấy giờ 20 tuổi không phụ sự kỳ vọng của mọi người, thi đứng thứ nhất, trở thành tiến sĩ và là niềm tự hào của toàn châu (châu là cách gọi của đơn vị hành chính thời xưa). Sau đó hắn được phong làm Thái Nhạc Thừa, chưởng quản âm nhạc và lễ nghi trong cung. Bởi tài năng và danh vọng vốn có nên Vương Duy thường qua lại với các vương công quý tộc. Sau lại thăng quan tiến tước, nỗ lực vì quốc gia, ấy lại là chuyện đương nhiên không cần nhắc đến.
Một thiếu niên phong độ ngời ngời vung bút thành thơ như vậy, vừa có tiền đồ rộng lớn vừa nhận được bao ái mộ của vô số thiếu nữ trong thành Trường An. Quả khiến kẻ khác phải ngóng mắt ước ao.
Vào độ tuổi đẹp nhất này, Vương Duy nghênh đón đoạn tình cảm đầu tiên trong cuộc đời. Cô nương đó họ Chân, là người bồi bạn bên cạnh công chúa. Thiếu niên cưỡi bạch mã, tóc ghim trâm ngọc, lưng giắt ngọc bội, còn thiếu nữ nhảy múa mê người, tình ý miên miên. Một đôi thần tiên quyến lữ như vậy quả là giai thoại.
Nhân sinh đắc ý chẳng qua cũng chỉ thế thôi, tên đề bảng vàng, giai nhân trong lòng. Song cái gọi là thế gian hiểm ác lại là "vừa mở màn đã phải bế mạc".
Thành nhờ Tiêu Hà mà bại cũng tại Tiêu Hà. Vương Duy thành công nhờ âm nhạc mà gặp phải tai nạn cũng tại âm nhạc. Nguyên nhân bắt đầu từ việc tranh đấu quyền vị của con cháu hoàng tộc. Một nhạc quan như Vương Duy vốn c��ch trò chơi chính trị này tận mười mấy vạn tám ngàn dặm, nhưng bởi hắn qua lại thân thiết với các vương công quý tộc nên cũng bị liên lụy theo.
Trong một lần phụng chỉ tập luyện, Vương Duy bị vu cho một tội danh bịa đặt: đại bất kính với hoàng đế. Lý do: màu vàng trượng trưng cho sự cao quý của hoàng tộc, nhưng Vương Duy tập "Ngũ phương sư tử vũ" lại dùng lân vàng, mà Vương Duy lại nhìn thì chẳng phải đang mạo phạm hoàng đế hay sao?
Nhắc tới cũng oan, là quan chỉ huy cho việc tập luyện nhưng lại không được nhìn thì làm sao mà tập được? Nhưng những kẻ đó vẫn phớt lờ, dù sao nhìn rồi thì cũng tính là đại bất kính.
Muốn giá tội cho ai, lo gì không có cớ?
Một Vương Duy trưởng thành trong mật ngọt nào biết lòng người hiểm ác đến thế? Hắn chẳng tài nào hiểu nổi tại sao một vị quan suốt ngày làm bạn với âm nhạc như mình lại rước phải phiền phức bậc này. Không có cách nào cả, khi ấy chính là như vậy. Hắn chỉ có thể nhẫn nhục chịu đựng, chấp nhận số phận lưu vong, đến một nơi thâm sơn cùng cốc ở Sơn Đông để coi quản một thương khố (nhà kho) nhỏ vừa bẩn vừa lộn xộn.
Xã hội dần trưng ra bộ mặt tàn khốc trước Vương Duy, những bằng hữu trước xưng huynh gọi đệ nay đều lặn đâu mất tăm. Tới đây Vương Duy mới biết, hóa ra tình cảm trên thế gian này chỉ có một kiểu mang tên "giá trị lợi dụng".
Con đường làm quan bị chặt đứt, chặt đứt thì chặt đứt thôi, nhưng hắn lo lắng nhất là cô nương hắn yêu thương. Người bên cạnh công chúa và một tội phạm bị lưu vong, bất kể thế nào cũng phải phân rõ giới hạn. Cứ vậy, thế sự khó dò.
Chỉ mới mấy ngày trước thôi, khách quý đến Vương phủ vẫn chật ních, hắn vẫn là thiếu niên như ý của thành Trường An, cô nương xinh đẹp kia vẫn cùng hắn tương ái. Nhoáng cái cửa nhà vắng vẻ, không người hỏi thăm.
Cô nương đi rồi, huynh đệ cũng bỏ chạy, không quan cao hiển hách, mười mấy năm đọc sách nay lại thành một quan quản kho. Từ đó, gian khó thế gian lần lượt xuất hiện trước mặt Vương Duy.
Năm 725, Vương Duy đã giữ chức quan này bốn năm, rốt cuộc cũng đợi được ngày tự do. Năm đó Đường Huyền Tông đại xá thiên hạ, Vương Duy như cây kiếm rời vỏ vội chạy về nhà. Hắn cưới một vị thê tử hiền thục, mặc dù không sâu sắc như mối tình đầu song vẫn tình nườm ý đậm, hòa hợp với nhau.
Vốn tưởng có thể sống đời thanh tịnh, nào ngờ số phận không có đạo lý, lúc nó muốn đùa giỡn bạn thì hai chữ "phản kháng" có muốn nghĩ cũng đừng hòng nghĩ tới. Mà Vương Duy năm đó đang vui vẻ chuẩn bị đón đứa con sắp chào đời. Lần sinh nở khó khăn này đã mang đi người vợ hắn yêu thương và cả đứa con hắn chưa thấy mặt.
Đều nói đời người có bốn chuyện buồn: thuở nhỏ tang mẹ, niên thiếu tang cha, trung niên tang vợ, lão niên tang con. Trong bốn chuyện đại bi, Vương Duy chiếm ba. Đối với một người đàn ông ba mươi tuổi thì đây là nỗi đau như moi tim róc xương!
Trời xanh cho hắn chút ngọt ngào lúc mới đầu, nhưng chỉ trong một năm đã mang đi gần hết. Nhà thơ mất vợ thường đều lưu lại mấy câu đau xót. Nguyên Chẩn từng viết "Tằng kinh thương hải nan vi thủy, trừ khước Vu Sơn bất thị vân" (đã qua bể thẳm khôn còn nước, ngoài chốn non Vu chẳng có mây). Tô Thức cũng viết: "Thập niên sinh tử lưỡng mang mang, bất tư lượng, tự nan vong" (mười năm c��ch biệt muôn trùng, dù không cố nhớ nhưng lòng chẳng quên). Cả Quy Hữu Quang cũng viết: "Đình hữu tỳ ba thụ, ngô thê tử chi niên sở thủ thực dã, kim dĩ đình đình như cái hĩ" (trong sân trồng cây sơn trà do thê tử ta trồng, nay đã cao vút). Nhưng những người này sau khi lưu lại thơ thì quay đầu đã lập tức tìm được mỹ nhân khác về, còn Vương Duy thì không giống thế.
Hắn là người điển hình cho việc dùng hành động để yêu. Hắn chưa từng viết cho người vợ đã khuất một câu một chữ nào, chỉ suốt ngày lặng im ngồi trước sân, ở vậy cả đời để tưởng nhớ vong thê. Hoặc cũng có lẽ, trong lòng Vương Duy, mỗi một giây một phút nửa đời sau, hai chữ "tình yêu" chỉ dành riêng cho nàng. Kiểu thương tiếc như vậy vượt lên biết bao giọt lệ, hơn cả vạn bài thơ.
Sau khi chịu đựng đả kích liên tiếp, ông trời rốt cuộc cũng khai ân, lần nữa đáp lại Vương Duy. Lúc này đã có sự bổ khuyết. Nhưng một chức quan vừa nguy hiểm vừa có tiếng nói, đã định trước không thể dài lâu. Chỉ hơn năm, ông lại bị kẻ khác vu hãm, lần nữa bị hạ chức phải tới vùng biên cương.
Trên đường rời khỏi Trung Nguyên, Vương Duy cảm thấy bản thân như nhành cỏ phiêu diêu. Một cõi hoang vu bị vứt bỏ dâng lên trong lòng. Bỗng trước mắt một làn khói cô độc bay lên trời, dường như bay từ đáy lòng hắn. Khoảnh khắc đó, hắn đã thấu rõ mọi thứ. Nếu đại mạc là điểm tận của nhân sinh, vậy tại sao không thỏa thích rong ruổi?
Vậy nên hắn đã vung bút viết xuống sa mạc mấy câu:
"Đan xa dục vấn biên, chúc quốc quá cư duyên.
Chinh bồng xuất Hán tái, quy nhạn nhập Hồ thiên.
Đại mạc cô yên trực, trường hà lạc nhật viên.
Tiêu quan phùng hậu kỵ, đô hộ tại Yên Nhiên."
(Xe hướng về biên cương, qua thuộc quốc Cự Duyên
Cỏ bồng dời đất Hán, chim nhạn về trời Hồ
Khói buồn cao đại mạc, ráng chiều phơi trường hà
Tiêu quan gặp binh mã, bình định đất Yên Nhiên."
Đây xem như là lời từ biệt - từ biệt trần thế phồn hoa. Từ đó, hắn khoác lên y phục nhạt màu, ngày ngày ăn chay. Sống trong những tháng năm yên tĩnh đó, hẵn bỗng nhớ rằng bản thân có một cái tên khác: "Ma Cật". Tất thảy đều sáng tỏ.
Hai chữ "Ma Cật" trong Đại Thừa Phật giáo mang ý: "dọn sạch d�� bẩn trong tâm, khiến lòng thanh tịnh". Hóa ra, người mẹ tin Phật của hắn đã đặt một tấm lòng thiện trong sinh mạng hắn ngay từ thuở ban sơ. Lòng thiện này, đến tận khi hắn kinh qua bao khổ đau mới bất chợt tỉnh ngộ.
Hắn tìm thấy một huyện thành tên Lam Điền, nơi đây non xanh nước biếc, hoa cỏ rợp trời. Hắn thường đến thiền viện này cùng tăng nhân thảo luận Phật pháp. Từ đó, sơn thủy trong mắt Vương Duy là thanh tịnh, không có muôn hồng nghìn tía, chỉ có mây trắng núi xanh.
Công nguyên năm 761, Vương Duy tạ thế. Hắn thong dong cáo biệt, rời đi cùng với nụ cười mỉm bên môi.
Đời này, hắn từng yêu, từng đau, từng thành công và cũng từng thất bại. Nhưng hắn vẫn có thể cười nói, có thể dạo chơi một chuyến nơi thế gian này, ấy mới vui thích làm sao.
Một ngàn năm sau, khi hậu nhân nhắc đến Vương Duy đều thích nói về gia thế của hắn, cái thiên tài của hắn, ân oán của hắn với Lý Bạch, cả scandal giữa hắn với công chúa Ngọc Chân. Nhưng trong lòng tôi, tất thảy đều không bằng được áng mây trời trên núi Chung Nam.
"Trung thế phả hiếu đạo, vân gia Nam sơn thuỳ.
Hứng lai mỗi độc vãng, thắng sự không tự tri.
Hành đáo thuỷ cùng xứ, toạ khan vân khởi thì.
Ngẫu nhiên tri lâm tẩu, đàm tiếu vô hoàn kỳ."
(Trẻ từng yêu mùi đạo, già ở núi Nam này
Lúc hứng riêng mình dạo, ghi vui chỉ tự hay
Lần theo nguồn nước đổ, ngồi ngắm áng mây bay
Chợt gặp ông già núi, quên về, nói chuyện say.)
Hắn đã nhìn thấy phồn hoa giữa thế gian, song sau lại hai bàn tay trắng. Cuối cùng hắn chống gậy đứng ngoài cửa, đón gió nghe tiếng ve, không cầu phồn vinh cũng chẳng cầu phus quý, chỉ cầu nội tâm an bình. Hắn đã tìm được niềm vui thật sự, kiểu tâm tình này như mây trên trời, và niềm vui ấy đã vang vọng khắp bầu trời lịch sử.
Nhớ trước kia rất lâu có người hỏi tôi rằng: "Châm ngôn của cuộc đời cô là gì?", khi đó tôi đã nói: "Hành đáo thuỷ cùng xứ, toạ khan vân khởi thì". Đã nhiều năm trôi qua nhưng những lời đó vẫn khắc sâu trong lòng tôi, mãi không thay đổi.
Tuổi tác càng dài càng thấy thế gian tàn nhẫn, càng cần một nơi yên tĩnh.
Trong "Đạo Đức Kinh" có viết: "Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu" (trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm). Dù đối với "Thi Phật" Vương Duy thì cũng tương tự vậy. Thế giới đối với hắn tàn nhẫn bất dung tình, nhưng trong thơ của hắn lại chẳng có chút oán than.
Hắn ngắm hoa ngắm chim ngắm núi ngắm nước, dường như chuyện ngày trước chỉ là một đám mây đen, gió mát thổi bay rồi trăng sáng lại lên, giống như thế giới của hắn trước nay đều là trời trong nắng ấm.
Tôi bèn nhớ tới Mozart, ông bất hạnh, bần cùng, khốn đốn, chán nản,... nhưng khi bạn nghe âm nhạc của ông lại thấy được cái tốt đẹp, vui vẻ, dịu dàng và an bình. Có lẽ, giống như Romain Rolland từng nói, trên thế giới chỉ có một kiểu chủ nghĩa anh hùng, đó chính là khi bạn nhìn thấu bản chất của cuộc sống nhưng vẫn nhiệt tình sống như thường.
Nào có cái gọi là thờ ơ với đời, chẳng qua thế sự xoay vần, cuối cùng thấu triệt mà thôi.
Vạn vật trên thế gian đều tự có chỗ đến, cũng tự có chỗ về. Cả Vương Duy và chúng ta không ai tránh nổi sự đời chìm nổi, mà Vương Duy sở dĩ là Vương Duy là vì tuy ông thân chìm trong bấp bênh song tâm vẫn hướng về phía yên vui.
Rồi sẽ có một ngày, bạn hiểu được mây trôi là sẽ hiểu được bầu trời. Rồi cũng có một ngày, bạn hiểu được Vương Duy, ấy cũng là lúc bạn hiểu được nhân sinh.
Gió nổi lên rồi, tiếp đó lại là ngày mới với nắng sớm mai. Hà tất sầu hôm nay?
-------------------------------
Lần đầu tiên dịch một thiên văn mà mũi mình ửng đỏ, từng câu từng chữ đọc mà đau lòng khiến từng dòng dịch ra cũng trau chuốt hơn ngày thường. Tự nhận đọc nhiều thơ của Vương Duy nhất trong số các nhà thơ, nhưng lại không hiểu được rõ cuộc đời cũng như những biến cố ập đến với ông, bây giờ nghe một bài diễn giải sâu sắc, lại thấy được cái nông cạn của mình, cũng buồn cho thói đời vô lối. Cổ nhân không ai sống dễ dàng cả, dẫu một người có xuất thân trâm anh thế phiệt lại tài giỏi như Vương Duy mà cũng không thoát khỏi trêu đùa của số phận, vậy thì người như ta sao sống nổi thời đại đó...
St.
17 notes
·
View notes
Text
Chương V: Mùa cũ
- Sao hả? Tối qua hẹn hò với gái vui vẻ chớ?
Thay cho mấy câu chào hỏi sáo rỗng, Sam vào thẳng chủ đề khi thằng bạn mình mới sáng sớm, vừa xuất hiện đã chưng cái mặt hớn ha hớn hở.
- Ngoài sức tưởng tượng. – Anh không giấu nổi vẻ tự đắc khi trao cho bạn mình cái bắt tay rất kêu, rồi anh ngồi xuống, ngả lưng thư thái tựa ghế sofa và bắt đầu kể chuyện – Thậm chí tôi còn kéo được nàng đi ăn tối nữa luôn. Chúng tôi đã ngồi tán ngẫu đến gần khuya.
- Ú ù... – câu chuyện thật sự gây phấn khích rồi đây Sam à – rồi sau đó? Cậu có đưa cô ấy về...không?
Akihiko thở dài sườn sượt.
- Tôi ngỏ ý muốn hộ tống nàng về nhà, mà nàng lại từ chối...
- Thôi nào, cái thằng giai tân này! – Sam tức điên lên táng vào đầu anh một cái – Khờ nó vừa vừa thôi chứ, đã dâng lên rồi thì phải đưa "nàng thơ" vào tròng hốt lẹ đi. Về nhà cái mẹ gì, phải đưa cô ấy tới khách sạn của cậu. Hiểu chưa, đồ ngu?
- Wow wow, không, không và không. – Anh hết hồn với cái kế hoạch đen tối của quân sư – Ai chơi thế, tôi là người tử tế.
Clgt? Đi quyến rũ gái đã có chồng còn tự nhận mình tử tế? Đạo đức giả vl, Mr. Hoàn Hảo ạ.
Akihiko nhíu mày, thằng bạn anh nói thẳng, mà thô, nghe nó gai gai tâm can.
- Tôi chỉ muốn khiến nàng nhận ra rằng, tôi mới là tình yêu đích thực của đời nàng. Khi đó nàng sẽ tự rời bỏ sự lựa chọn tạm bợ kia rồi về với tôi.
- Ùùù...văn vở khiếp đảm, còn tôi thấy cậu đang mắc hai sai lầm cơ bản: một, nhân từ không đúng chỗ; hai, hình như cậu đang đánh giá thấp chồng cô ả. "Tạm bợ" ư? Cậu nghĩ con gái nhà người ta chọn chồng như...đi ở nhà thuê rẻ tiền xong đợi khi nào đủ vốn tậu nhà to sau hả? Ọe... – Sam méo cả mặt vì sự ngây thơ đến kệch cỡm của bạn mình – Tôi bảo, chỗ anh em khuyên thật, ném cô ta lên giường đi, khéo hai đ���a hợp sex thì "nàng thơ" của cậu sẽ cân nhắc chuyện bỏ chồng đấy. Hay là cậu thậm chí còn méo đủ dũng khí để đưa cô ta lâm trận, hả tên trai tân?
Akihiko vuốt mặt mấy hồi, ôi cái thằng Sam dung tục, nên giải thích ra sao để hắn hiểu rằng, cô và anh, điều cuốn hút họ với nhau, chính là sự đồng điệu trong tâm hồn, chứ chẳng phải vì thứ nhu cầu cơ bản tầm phào kia. Mặc dù vấn đề giường chiếu quan trọng thật, nhưng tình yêu đích thực đâu chỉ xuất phát từ chuyện ấy?
- Cậu không hiểu cô ấy bằng tôi đâu.
- Oh yeah? Trong khi kinh nghiệm tình trường tôi khéo từng trải nhiều hơn cậu đấy.
Anh chỉ biết cười nhạt và ngẩng đầu lên, ném ánh nhìn hư vô lên trần nhà.
- Chưa phải tất cả đâu...
Sam nhếch mép, rồi, cứ để đấy, để cậu chống mắt lên xem cuối cùng bên nào sẽ thắng, cái thứ luân thường đạo lý chân thiện mỹ hay là những dục vọng tối tăm nhất của con người? Tuy nhiên cậu cũng khá tò mò về "nàng thơ" của Akihiko, tại sao bạn anh lại sẵn sàng dấn thân vào trò chơi "đập chậu cướp hoa", chẳng giống anh ta chút nào.
- Cậu mời cô ta đến chỗ tôi chơi chưa, hử?
- Úi chết, tôi quên béng mất luôn.
- Đm, vui thôi đừng vui quá chứ? Tôi làm sao giúp được cậu nếu cậu cứ sao nhãng nhiệm vụ hả.
- Để dịp tới đi. Đằng nào tôi cũng sẽ gặp lại cô ấy.
- Ờ kinh, thế lần này cậu mời cô ta xem gì đây? Carmen? – Sam cười ranh ma.
- Haha, không. Lần này chính nàng rủ tôi đi Cirque of Soleil...
- Ôi chu choa! Tiến triển tốt đẹp rồi đâ...
- ...với nàng và chồng nàng. – anh ngắt lời. Song, bầu không khí tự động chùng xuống ảm đạm hẳn. Sam vò đầu, cậu cố gắng phân tích và đặt những giả thuyết hợp lý cho tình huống của bạn mình, rồi cậu rút ra rằng.
- Có hai khả năng: một, cô nàng thật sự coi ông là bạn tốt; hoặc là nàng đang "rung rinh" nhưng chưa sẵn sàng ngoại tình, nên lôi hai tên đàn ông đến cho dễ bề so sánh. Bingo!
Anh ngay lập tức bất đồng tình.
- Cô ấy không phải tuýp phụ nữ tính toán kiểu vế sau của cậu đâu.
- Vậy cậu hoàn toàn cho rằng mình chỉ là "bạn" xã giao với cô ả sao? – Sam há hốc – Cớ gì mà cậu chắc nịch cô nàng đó "thuần khiết" vậy? Hay, cái thằng này, mù quáng quá rồi nên chỉ thấy được những mặt trong sáng của người ta?
Akihiko chỉ tư lự lắc đầu và chẳng muốn giải thích gì thêm.
- Cậu sẽ hiểu lời tôi nếu cậu gặp cô ấy. Thế thôi.
Sam tặc lưỡi, hẳn rằng đời nào cậu thắng nổi lý lẽ của một kẻ si tình đơn phương? Nếu cô gái kia không tốt đẹp thì hà cớ gì bạn cậu phải khổ tâm đến nhường này. Tuy nhiên nhân tố bí ẩn kia cũng khơi gợi trí tò mò của cậu ghê gớm, v���y là cậu mở phone ra và bắt đầu truy tìm tung tích cô nàng qua...facebook.
- Đây òi, ra ngay kết quả trong vòng ba nốt nhạc. – Sam cười lớn và hướng màn hình điện thoại về phía anh – Có phải "nàng thơ" của Sebie không ta? Rosalia Tran, sống ở New York City, tên gọi khác trong ngoặc đơn: Nguyễn...Ngọc Hồng. – Cậu bấm vào ảnh đại diện của cô trên face, phóng to ra nhìn cho rõ hơn.
- Đúng là cô ấy rồi. – Anh gần gật, giọng điệu có chút bất ngờ.
- Ôi giời ơi, thấy không? Cậu có thể tìm ra tất cả mọi người trên facebook, thời đại này ai mà chả quăng mình lên đấy. – Sam ngắm nghía dung nhan cô nàng đã khiến cho bạn mình mất ăn mất ngủ, trong ảnh, chụp cô Hồng đang đứng giữa đường phố New York, toe toét cười với que kẹo bông gòn trên tay – Mặt mũi cũng sáng sủa, tươi tắn, ưa nhìn đấy, dù trông hơi trẻ con...cơ mà đâu đến mức tuyệt sắc giai nhân khiến ông u mê thế chứ hở, Seb?
Anh chỉ biết nhếch mép cười nửa miệng.
- Vậy với ông, thế nào mới là gái đẹp? Mấy em Trung Quốc makeup khôn lường trên TikTok?
Sam ôm bụng cười sặc sụa.
- Cũng biết TikTok cơ à? Hảo, hảo (tốt, tốt)...với lại, thời đại này em nào mà chả trang điểm cho xinh lên, lừa tình cả.
- Cơ mà nàng thơ của tôi, quan trọng là cái thần thái, Sam thân mến ạ. Một bức ảnh không thể hiện được tất cả khía cạnh của nàng đâu.
- Như ảnh cưới của cô ta đây ư?
Sam lướt qua trang facebook của cô, lập tức tìm ra bức hình cô chụp với chồng treo chình ình trên mục tiểu sử cá nhân, cậu đưa điện thoại cho anh, để anh được ngắm nghía ảnh cô với chồng cho rõ.
Chú rể thì cũng như bao người, com-lê, cà-vạt đen tuyền, chỉ khác rằng cô dâu trong trường hợp này lại không chọn váy trắng vải ren bồng bềnh thùy mị. Cô, mang lên mình một chiếc váy gấm đỏ nổi sáng bần bật, khí thái tự tin toát ra thậm chí lấn át người chồng ôn nhu đứng kế bên.
- Hm...cá tính phết. – Sam bắt đầu lờ mờ hiểu nguyên do bạn anh bất chấp muốn đoạt lại cô gái này - Xem ra cậu thích những cô nàng mang nhiều sắc tương phản. Cơ mà, giờ nàng đã thành vợ người ta rồi, khó nhằn đây ông. Tiếc nhỉ, ông tìm ra cổ sớm hơn thì đâu đến nỗi...
- Tôi đã cố, suốt hơn năm năm. – Anh thở dài não nề – Thậm chí hồi đó tôi cũng thử qua facebook, twitter, insta, tumblr, linkedin, etc. tất cả các thể loại mạng xã hội tồn tại, mà mãi chẳng có kết quả.
- Thế thì do cậu quá kém rồi, con giai ạ. – Sam vẫn luôn tay lướt lướt coi facebook của cô có gì thú vị, nhưng xem chừng cô rất kín kẽ, không công khai gì nhiều trên mạng xã hội, thành ra chẳng mấy chốc cậu đã kéo xuống tận cùng timeline của cô. – Ô này, cô nàng cũng mới tạo tài khoản cách đây không lâu. Gia nhập facebook: 23 tháng 8, năm 2020. Hầy hầy, lại thêm con hàng cổ lỗ sĩ nữa – Sam nắc nẻ, song cậu chợt nhận ra một sự trùng hợp không hề nhẹ – 23 tháng 8, 2020...hôm đó ông bay về Nhật Bản, đúng chứ?
Từ lúc Sam đọc lên cái cột mốc cô bắt đầu xuất hiện trên mạng xã hội, tâm trạng anh đã cực kì ngổn ngang. 23 tháng 8, sau sinh nhật của anh một ngày, ngày cuối cùng anh ở lại Mỹ sau chuyến du lịch một mình đến Arizona, và cũng là thời khắc anh quyết định hoàn toàn từ bỏ cuộc tìm kiếm cô, chôn vùi những cảm xúc của mối tình thời niên thiếu về miền dĩ vãng.
Tại sao lại xảy ra chuyện trùng hợp đến quái quỷ này?
Trong khi anh mải miết tự vấn, bất chợt phòng khách vang lên giai điệu một bài hát cũ mà anh từng rất thích, thành ra anh ngay bị phân tâm.
- Cậu mà cũng nghe nhạc Pháp hả, Sam?
- Bài này ư? – Sam dỏng tai lắng nghe cho kĩ rồi mới hiểu ra tại sao danh sách nhạc của cậu ngẫu hứng nhảy vô bài hát ấy – À, nhớ rồi, "Mourir vieux" đúng không? Nhờ Diane đấy. Ờ, sau đợt hai người chia tay, cô ấy đến nhà tôi, ở lì mấy ngày, sáng trưa chiều đều bật mấy bài nhạc Pháp dẩm dớ, tôi nghe đến phát ngán. Hey, đừng bảo rằng mấy bài hát tiếng Pháp đó là do cậu tiêm nhiễm cho cô ấy chứ?
Anh khẽ nhún vai thay câu trả lời. Biết đâu được, có thể lắm chứ.
- À mà này, – Sam chợt nhớ ra chuyện khá quan trọng – sáng nay Diane có gọi cho tôi.
- Ồ, thế cô ấy sao rồi?
- Vẫn ổn. Và cô nàng khi biết tin cậu đang ở đây thì đã lập tức hỏi về tình hình cậu.
- Ừ...thế ông nói gì?
- "Thằng đó vẫn khỏe lắm em, thậm chí dạo này còn hồi xuân đi tán gái nữa cơ" – cả hai ông tướng đều không nhịn nổi nhăn nhở cười phá lên mấy hồi – Khỏi nhìn cũng biết cô ả tức điên lên vì ghen tuông đến nhường nào, thật thống khoái, cha mẹ ơi thật quá ư chi là thống khoái.
- Hey, tôi tưởng cậu yêu cô ấy lắm chứ?
- Vừa yêu, vừa hận, hai thứ cảm xúc đối lập song hành. Nói chung hỗn loạn. – Sam bụm má, dẫu cậu có giễu cợt sau lưng người mình yêu thương và thỏa mãn vì đã trọc ngoáy cô ta, cậu vẫn đôi chút chạnh lòng. Rồi cậu trầm giọng hỏi Akihiko – Thế còn ông, tại sao ngày xưa ông nhận lời hẹn hò với Diane?
Akihiko chẳng muốn trả lời, tuy nhiên, đây là lần thứ n bạn anh thắc mắc điều này rồi, vậy nên anh đành dứt điểm nó cho xong từ hôm nay.
- Bởi, tôi đã nghĩ mình có thể dùng Diane để...
- “Dùng”? – Sam gắt gỏng – Cẩn thận cái mồm ông, ăn nói tử tế vào. “Dùng” Diane? Ông là cái thá gì mà coi thường cô ấy đến thế?
Sam mất bình tĩnh và cậu không chần chứ chồm người dậy, thẳng tay tung một cú đấm về phía mặt Akihiko. Tuy nhiên Akihiko cũng chẳng phải tay vừa, phản xạ nhanh nhạy của kẻ học võ lâu năm giúp anh lập tức khóa đòn bạn mình lại.
- Rồi, tôi công nhận mình sai vì dùng từ khiếm nhã. Còn cậu, tôi khuyên cậu đừng có động thủ với tôi.
Nắm đấm của Sam bị bóp chặt trong bàn tay rắn rỏi của Akihiko, thậm chí toàn thân cậu không thể cựa quậy. Sam trân trân lườm anh: khác với vẻ thư sinh hòa nhã thường nhật, ánh mắt anh lúc này sáng rực, toàn thân toát bá khí tỏa ra ngùn ngụt...khiến bất cứ kẻ nào tiếp xúc cũng dễ bề run sợ và chùn lại. Với khí chất nam nhi mãnh hùm đến thế, chả trách ngày xưa Diane mê anh như điếu đổ.
- Rồi... – Sam cắn môi và thu tay về – tôi cho ông nói lại.
Akihiko suy nghĩ thận trọng trước khi nói để tránh chọc phải tổ kiến lửa.
- Tôi, đã nghĩ rằng, Diane...có thể giúp tôi quên đi mối tình đầu.
- Ồ, vậy ra Diane chỉ là hình nhân thay thế ả nàng thơ của cậu chứ gì? Cậu vẫn xứng đáng ăn quả đấm của tôi thôi, thằng khốn cmn nạn.
- Cậu nói không sai. Tôi đúng là thằng khốn thật. Vậy nên tôi đã chia tay Diane sau một thời gian dài cố gượng ép bản thân yêu cô ấy không thành, đó là điều đúng đắn duy nhất tôi có thể làm.
Sam chép miệng chua chát. Ôi cái chuyện tình cảm, người nọ đuổi theo hình bóng kẻ kia, thật oái oăm. Ở đây chẳng có ai đúng ai sai cả, chỉ có số phận cứ thích trêu ngươi và đưa đẩy mỗi số phận đến những tình cảnh khác nhau.
Thế rồi ngồi đây ngậm ngùi và xót xa cho bản thân thì được gì chứ...?
- Sam này, tôi muốn nhờ cậu một việc.
Cô đã ngồi lẩn thẩn cũng được hơn mười lăm phút rồi.
Ừ thì, cô cứ ở lì trên băng ghế trước cửa nhà thờ và thả tầm nhìn mông lung, để những dòng người người lướt qua trôi theo ánh mắt, cô không có gì để suy tư, để "pha lê" cả, chẳng qua cô chỉ đang nghỉ chân sau khi lê lết đi chợ ở tạp hóa Việt gần nhà.
Chủ Nhật này yên ả lạ.
Ban nãy, khi đút tay vào túi áo khoác cho đỡ rét, cô vô tình lôi ra chiếc khăn tay mà anh đưa cô tối qua, cô đã lỡ cầm theo nó. Ban ngày ban mặt, nhìn nó rõ nét hơn hẳn trong nhà hát. Cô bồi hồi mở tung chiếc khăn và nhìn nó thật kĩ: không có lấy một vết chàm, màu chỉ lụa vẫn óng ả tươi mới và đường thêu còn đâu ra đấy, thật khó tin rằng chiếc khăn này tuổi đời đã tận hơn mười năm.
Thứ đồ vật bé nhỏ chất chứa biết bao câu chuyện dài.
Cô ngắm nghía chùm những bông hoa đan vào nhau nhảy nhót trong nền vải lụa trắng ngọc, nào hoa hồng, hoa diên vĩ, hoa thạch thảo tím, hoa linh lan, hoa cẩm tú cầu, những sắc hồng-tím-trắng-xanh dương-xanh lá hòa quyện ��m ả; đường chỉ thêu không xuất sắc nhưng tỉ mẩn nhẫn nại..."Ngày xưa mình đã từng kiên trì hoàn thiện tác phẩm này trong gần cả năm trời ư?" – cô không kiềm nổi tự hỏi, và nhoẻn miệng cười khi nhớ về thời ô mai ngây thơ.
Xong cô lại thở dài...giá như, không, chẳng có cái "giá như" nào ở đây, bởi đời vốn chẳng bao giờ tươi đẹp mãi, tựa những bông hoa nở rồi tàn, cuộc tình của cô và anh đã héo úa. Tai nạn xảy ra, anh mất trí nhớ, còn cô thì ôm những hoài niệm để tự dằn vặt bản thân. Cô chìm đắm trong đau thương suốt một thời gian dài, và khi cô biết tin kí ức anh đã hồi phục, cô càng giằng xé gấp bội.
Cô biết hồi trước anh đã tìm kiếm cô.
Con tim cô khao khát được gặp lại anh, song lý trí thì ngăn lại. Cô sợ, mình sẽ lại đem tai ương cho anh thêm lần nữa. Cô càng sợ, nếu đối diện anh, cô sẽ bị anh cuốn hút như ngày nào, và cô thì đâu còn mãi ngây thơ để chấp nhận làm "em gái" của anh nữa. Thời niên thiếu anh đối xử ngọt ngào với cô, kể cả giờ vẫn vậy, cơ mà anh chắc chỉ coi cô là em gái kết nghĩa thôi, bởi kẻ có thân phận cao quý như anh sao có thể kết hôn với một thường dân ngoại quốc như cô. Cô cũng chẳng tơ tưởng được làm dâu hoàng tộc Nhật Bản, chỉ muốn được kề cạnh người mình yêu, sống bình dị; song cô biết con người anh vốn tôn trọng truyền thống, kỉ cương gia quy; cũng phải thôi, anh là một vương tử, những mắt xích trói buộc anh rất chặt và nặng nề...Khi hai đứa cãi nhau về sự tự do, anh luôn căn dặn cô rằng: "Có những mối liên hệ bạn không thể nào dứt bỏ, và tự do cũng phải có khuôn khổ của nó". Cô đã mất rất nhiều thời gian để chiêm nghiệm ra điều ấy: sự kết nối giữa con cái và bậc sinh thành, hay như nước Mỹ "tự do" cũng phải có luật pháp...biết bao định lý mà chấp nhận giới hạn vẫn sẽ tốt hơn.
Thế nên, cô hiểu anh sẽ lựa chọn gia đình thay cho một đứa con gái ất ơ, và bổn phận của cô là phải chấp nhận, vì anh đã đúng. Chỉ tội rằng, sự thật kia khó đối diện với cô kinh khủng, thành ra cô đã dành cả thanh xuân để trốn tránh: cô ẩn mình khỏi mạng xã hội, bởi cái thời đại số này, sơ hở chút là lộ diện ngay. Hẳn nếu điều đó xảy ra, anh sẽ vui lắm khi gặp lại đứa "em gái" này. Còn cô thì không. Người mình thầm thương ngay trước mặt, và biết rằng hai đứa sẽ chả bao giờ đến được với nhau vì địa vị. Điều đó, đau lắm.
Nhưng cứ để tình cảm và lý trí đấu đá nhau suốt năm năm trời cũng quá đỗi mệt mỏi, và mỗi lần cô mạnh mẽ để cái đầu lạnh lấn át, cô đều nghe thấy trái tim mình vụn vỡ thêm từng mảnh. Cho đến khi thời khắc nhận được tin nhắn từ tay trong, báo rằng anh đã quyết định hoàn toàn bỏ công cuộc kiếm tìm cô, ngỡ rằng cô sẽ nhẹ lòng vì chẳng còn phải tiếp tục ẩn danh nữa, vậy mà những ngày đó cô chỉ cảm thấy sụp đổ. Ngẫm lại thì, cô đã sống mâu thuẫn suốt thời gian dài, chuyện cô quỵ ngã là hiển nhiên, không sớm thì muộn.
Tuy vậy, thà rằng đốt cháy tất cả thành tro rồi làm lại từ đầu, còn hơn giữ khư khư những kỉ niệm đổ nát.
Và cô đã gặp Thiện, trong một ngày đẹp trời thơ thẩn ở Paris.
Cô vẫn nhớ mình cứ lững thững đi như người mất hồn và vô tư hát vang bằng...tiếng Việt. Bởi ở cái xứ Tây này, mấy ai hiểu cô hát cái gì, và mấy ai thèm để ý cô hát giữa đường phố?
"Rồi từng đêm cô đơn hoang mang, lang thang những con đường. Rồi nhiều lúc bối rối, chơi vơi, biết than cùng ai?"
Thế mà cái anh du khách Việt kiều vô tình lại bắt lấy cô...để hỏi đường, vì anh ta bị lạc. Thật ra cô vốn chả vui khi bị người đồng hương bắt gặp trong trường hợp đấy, bởi tâm trạng đang rất đỗi "pha lê" cơ mà. Song, cô vẫn giúp đỡ cho anh ta và anh đã cảm tạ cô bằng...một ly trà sữa. Cũng tử tế phết.
Sự tử tế của anh chàng đó cũng dần dần cứu vớt cô khỏi chuỗi ngày hành hạ tư tưởng, rồi cô yêu trở lại lúc nào đâu hay, rồi anh ta ngỏ ý muốn cưới cô và bùm, cô sang Mỹ đoàn tụ với chồng, cái đất nước mà cô từng nghĩ rằng sẽ không bao giờ dám đặt chân tới, vì Mei của cô đã ở đó. Thậm chí khi Mei về Nhật định cư ba năm rồi, bây giờ hai người lại gặp nhau. Cái này người ta gọi là, "lưới trời lồng lộng, chạy đâu cho thoát" chăng?
Chắc cũng do hai người có duyên, duyên bạn bè. Bởi bây giờ cô đã tìm thấy hạnh phúc của riêng mình, nên cô thoải mái đối diện anh được rồi, thậm chí cô còn thốt ra lời xin lỗi nhảm nhí kia nữa, và anh cũng nói rằng anh không trách cô...tất cả mọi nút thắt đều được cởi bỏ. Cô không còn phải trốn chạy, không còn phải tự dối lòng, tự day dứt nữa.
"Mọi chuyện thật tốt đẹp. Đời mình thế là viên mãn ấy nhỉ, còn giờ thì về nấu cơm cho chồng iu thoai!"
“Mei! Nhắm mắt lại...giơ tay ra...òa! Chúc mừng sinh nhật anh.”
Akihiko đón nhận chiếc khăn được chính tay cô thêu tỉ mỉ mà xúc động chẳng thốt thành lời. Món quà sinh nhật lần thứ mười bảy này thậm chí gây sửng sốt hơn cả thanh Wakizashi cha cậu trao ban sáng.
Cậu ngắm nghía những họa tiết sinh động trên chiếc khăn và dễ dàng nhận ra ẩn ý đằng sau những bông hoa xinh xắn.
“Xem nào...có hoa thạch thảo tím, hoa hồng - là em, hoa cẩm tú cầu em thích nhất, hoa diên vĩ - biểu trưng con người anh trong con mắt em, và hoa linh lan - loài hoa phản chiếu em trong mắt anh."
“Và những chiếc lá Katsura tròn trịa nữa, là anh đó!” Cô lém lỉnh thuyết minh thêm.
Nhiều loài hoa lá khác nhau đan xen nhưng tất cả đều hướng về ẩn dụ: cô và anh, quấn quýt nhau chẳng tách rời. Thật khéo ẩn tình song lại lồ lộ ra ngay trước mắt.
“Món quà rất đáng yêu và ý nghĩa, cám ơn em nhiều," cậu c��i xuống thơm lên trán cô thật kêu "em gái của anh."
Cái biểu cảm toe toét hí hửng lập tức chuyển sang vẻ mặt xưng mày xỉa ngay tắp lự...chưa bao giờ cậu thấy hai chữ "em gái" nó hết kì diệu để trêu ngươi cô. Cô bụm má, tay xoa xoa trán và giậm mũi chân hai lần xuống đất, xem chừng cô đang rất khó chịu đây, nhưng nhiêu đó đã đủ chưa? Đủ để cô bột phát thổ lộ tình cảm của mình, rằng "Em thích anh, em không muốn làm em gái của anh nữa, em muốn thành bạn gái anh"?
“...không có gì.” Cô lí nhí đáp. Đáng tiếc thay cô lại nuốt xuôi cái cục tức xuống và che giấu cảm xúc thật vụng về. Cậu đành bó tay, cái cô này lì đòn thật, sau ngần ấy thời gian bên nhau, tình cảm hai đứa thể hiện ra sao, bộ cô vẫn tin cậu chỉ coi cô như em gái kết nghĩa?
Cô, thiên tư thông minh, tiếp thu kiến thức rất nhanh, mà trong chuyện tình cảm nam nữ lại khờ khạo hơn một thằng con trai nữa à? Cô ngốc thật hay giả vờ ngốc đây?
Cậu vừa chăm chăm nhìn cô vừa tự hỏi trong lòng, mỗi khi cậu toan tỏ tình với cô, thì cái điệu bộ ngơ ngác và cặp mắt ươn ướt kia lại trì hoãn cậu lại. Cô nhóc còn trẻ thơ và mong manh lắm, đợi đến khi cô cứng cáp hơn đi...
- Êi, ông kia? Có nghe tôi nói nãy giờ không? – Sam lừ lừ lườm Akihiko song phải gọi lại mấy hồi anh mới sực tỉnh quay về thực tại – Thôi dẹp đi ông, mới dàn trận mà đã vướng ải mỹ nhân thế này, làm ăn được gì nữa. – Sam ngao ngán thu dọn lại bàn cờ vây trước sự ngỡ ngàng của anh.
- Tôi có nhắc đến cô ấy hả?
- Không, nhưng cái mặt thộn của cậu thì, in chình ình tơ tưởng cô ả. – Akihiko bật cười trừ thành tiếng – Sao? Đến cả bàn cờ vây vô tri cũng gợi nhớ cậu tới nàng thơ hở?
Anh lưỡng lự gật đầu, có thể lắm, dù rằng anh đang hồi tưởng về một kỉ niệm chẳng liên quan đến bàn cờ.
- Cô ả chơi khá chứ?
- Cái này thì... – anh nhún vai và vắt óc hồi tưởng – cô ấy biết chút ít, chính tôi đã dạy cô ấy chơi. Cơ mà nước cờ của nàng, ờm, "lắt léo" lắm, chẳng biết đâu mà lần.
Sam tặc lưỡi.
- Đừng bảo cậu đã từng thua gái đó chớ?
- Không, tôi chưa thua, nhưng để thắng được nàng cũng...toát mồ hôi đấy. Dù sao chơi cờ với nàng cũng rất vui.
Chỉ cần nhìn ánh mắt của anh, người ta cũng có thể cảm nhận được niềm hạnh phúc trào dâng, chao, cái thằng bạn dại gái si tình này, thật không tin nổi Diane từng than thở rằng hắn quá già cỗi, cứng nhắc và "cần được dạy yêu thật bài bản".
- Vậy trước đây hai đứa yêu nhau như thế nào?
Sam rót trà mời bạn rồi hai người đối ẩm. Nhâm nhi tách trà từ bạn, Akihiko suy tư về mối tình đầu và anh cẩn thận chọn từ đ��� miêu tả nó thật chính xác.
- Trong sáng thôi. – cuối cùng anh đáp gọn lỏn.
- Ờ... – Sam bĩu môi, có vẻ không quá ngạc nhiên lắm trước câu trả lời, song cậu vẫn tiếp tục vặn vẹo – "trong sáng" đến đâu? Nắm tay? Ôm? Hôn? Sờ? Xoạc?
- Nắm tay, ôm có. Hôn thì tôi mới chỉ thơm lên trán với má nàng, còn lại mấy cái kia thì chưa bao giờ. – Sam mới đang ngạc nhiên suýt sặc nước trà, chưa kịp định thần hỏi thêm thì anh đã bồi tiếp – Chúng tôi còn thậm chí không gọi nhau là người yêu, chỉ ngụy trang tình cảm bằng danh phận "anh em kết nghĩa".
- Cái đ*o... – Sam không nhịn nổi đập tay xuống bàn – Hai đứa bây đùa à? Chục năm trước vẫn là thời hiện đại rồi chứ đách phải phong kiến hủ lậu đâu, okay? Trai gái tuổi dậy thì mơn mởn xuân sắc mà có lời yêu cỏn con cũng méo nói được. Quá kém. Sebie ạ chú quá kém!
Trước lời phê bình của Sam, Akihiko chỉ biết thở dài não nề và gục đầu xuống lấy hai tay vò tóc. Anh mất một hồi chép miệng, ngẩng lên lại cúi xuống, quá nhiều thứ khiến tâm trí anh rối bời chẳng biết bắt đầu kể từ đâu.
Rồi anh hít sâu, đánh hơi thở ra thật dài xong trải lòng.
- Sam này, thân thế trước kia của tôi nó không đơn giản. – Anh nhúng ngón tay vào nước trà rồi viết lên mặt bàn một dòng chữ Nhật dài ngoằng hán tự, đương nhiên Sam hiểu – Đây là vai vế của tôi trong hoàng thất Nhật Bản, trước khi sang Mỹ du học.
Sam nhìn trân trân vào dòng tước hiệu và chỉ biết há hốc
- Quế cung Minh Ngạn Thân vương? Chú xịn đét vậy sao? Đù...tôi có nghe phong thanh về một thanh niên hoàng tộc Nhật Bản từ ngôi trước đây, mà chẳng để ý lắm. Té ra là chú? Bảo sao, mấy đợt nghỉ lễ thời sinh viên chú đếch bao giờ chịu về thăm nhà. Vãi cả bi kịch gia đình!
- Ờ...là tôi. Dù sao phía gia đình tôi không gánh quá nặng trọng trách nên chuyện này bớt rùm beng. Cũng tốt. Chứ tôi mà là Thái tử chắc toi đời rồi.
Sam bật cười và nhìn vào vẻ xa xăm chán chường của bạn mình, cậu tinh ý nhận ra mí mắt anh ta cứ giật giật, hẳn tâm trạng anh đang rất ngổn ngang.
- Cô ấy biết chứ?
- Tôi chịu, chỉ chắc chắn là, tôi tuyệt nhiên chưa bao giờ hé răng về chuyện này. Tôi đâu nỡ lòng khiến nàng phát hoảng, hay phải chịu áp lực ở cái tuổi thanh niên chứ?
- Hồ hồ...tình yêu thường dân ngoại quốc với hoàng tử, căng đét. – Sam tặc lưỡi – Đâu phải lúc nào cũng được như Harry với Meghan, phỏng?
Akihiko cảm nhận được bầu không khí đang bóp nghẹt lấy mặt anh thật ngột ngạt, từ cổ anh trở lên cứ thế nóng rân rân. Anh nhăn nhó, tự dưng đầu anh nó nặng như bị quả tạ chì đè lên.
Sam nhận ra phản ứng của anh, cậu lo ngại.
- Oi...sao thế đại ca? Chủ đề này não nề quá hả?
Anh lắc đầu. Đúng là chuyện này với anh chẳng thoái mái gì, nhưng nó không đến nỗi làm anh phát ốm ngay tức khắc. Tuy nhiên anh lơ mơ đoán ra nguyên nhân cơn đau, bởi cảm giác ấy thật thân thuộc.
“Tsu-chan, Tsu-chan.”
Ai đó gọi cô thì phải. Cơ mà cô không nghe, cô không thấy. Cô hướng mặt về phía trước thoăn thoắt chân bước thẳng. Cậu đuổi theo, với người chụp lấy níu tay, ấy cậy mà cô vẫn ngoan cố chẳng thèm ngoái nhìn cậu.
“Anh xin lỗi mà." Cậu mở miệng van vỉ, còn cô thì càng ngoảnh mặt lơ cậu đi. Cô dỗi. Cậu biết có trăm cái mồm miệng cũng chẳng nói đỡ được lỗi lầm anh gây ra. Hết nước rồi, chỉ còn cách hành động thôi.
Cậu đưa tay lên tai cô, làm cô giật nảy mình.
“Anh làm gì th...”
“Suỵt, đừng cử động nào em..." Hồng cảm nhận bàn tay anh đang loay hoay cởi chốt vòng khuyên tai của cô, điều mà một thằng con trai bình thường chẳng bao giờ làm. Nhờ chút may mắn và cẩn trọng, anh cũng xoay xở tháo được khuyên bên tai phải của cô và cài vào đó một chiếc khác. Cái chuyện nhặt nhạnh của bọn con gái sao mà khó nhằn thế không biết, tay cậu đã rất run vì sợ nhỡ bất cẩn khiến cô đau, rồi thì cậu cũng được thở phào nhẹ nhõm "chúc mừng sinh nhật em 16 tuổi. Đôi khuyên tai nụ hoa tử đằng này là món quà anh dành tặng em"
Cô khẽ lướt những ngón tay cảm nhận nụ hoa mới đang yên vị trên một bên tai của mình, và liếc nhìn chiếc còn lại nằm trong lòng bàn tay cậu. Chiếc bông tai bằng bạc hình nụ hoa e lệ rủ xuống ngậm lấy viên ngọc trai, rất xinh xắn và hợp sở thích cô.
Cô bặm môi, ngăn cơn nấc run đang trực chạy thoát khỏi cổ họng, tuy nhiên đôi mắt vẫn chẳng thể kiềm nổi những hạt lệ tuôn rơi, như mọi lần ở bên cậu.
“Anh xin lỗ...”
“Anh đừng nói nữa!" Cô gắt gỏng trong cơn khóc nấc "Anh có biết Tsu đã lo cho anh lắm không?" Rồi cô không nhịn nổi nữa, cứ thế bù lu bù loa. Cậu bối rối, chỉ đành biết vụng về gạt nước mắt và vỗ về lưng cô "Tsu...đã...rất lo lắng, Tsu đã sợ anh bị mệnh hệ gì"
“Không sao cả, mọi chuyện ổn rồi, anh đây mà...”
“Tại sao anh không nhắn cho Tsu?" Cô nổi quạu, vung tay đánh vào ngực cậu cái thụp.
“Anh...3” cậu nhăn nhó xong bất giác thở dài “hôm qua anh không lẻn ra ngoài được, bố anh tự dưng hứng lên giữ anh ở nhà viết thư pháp cùng ông đến tận khuya. Thậm chí anh còn chẳng tìm được điện thoại di động, sáng nay mới thấy nó trong xe bác Sawada hay đưa đón anh. Chắc anh bất cẩn làm rơi nó.”
“Thế thì anh cũng phải tìm cách nhắn tin cho Tsu chứ? Laptop anh đâu? Em đã đợi anh đến tận khi Dome City đóng cửa”
Akihiko á khẩu, cậu không biết thanh minh ra sao với cô nữa. Hôm qua vốn dĩ nên là ngày vui của cô, vậy mà cậu lại biến nó thành ra nông nỗi ấy. Sao cô không về sớm hơn, lại ngoan cố đợi đến tận tối muộn? Liệu bố cô có đến đón cô không, hay cô tự về nhà, nhỡ đâu chẳng may cô lạc đường hay bị kẻ xấu dụ dỗ? Cô đợi cậu cả chiều vậy có lo ăn uống đầy đủ không, hay lại chán chường bỏ bữa? Bao nhiêu câu hỏi dồn dập nhưng cậu chẳng thể thốt ra. Còn về phần mình, cậu có nên giải thích cho cô tất cả không, rằng cậu vốn chẳng phải thường dân nên chuyện quen biết và lẻn ra khỏi cung để đi hẹn hò với cô thật chẳng dễ dàng; hay kể cả quyền tự do sử dụng phương tiện liên lạc của cậu cũng bị hạn chế và giám sát nghiêm ngặt, với lý do bảo mật thông tin. Thậm chí, khi mới phát hiện chiếc di động cậu sắm riêng để liên lạc với mình cô không còn bên mình, cậu đã rất hoảng loạn, sợ nó rơi vào tay thân phụ. Cậu cứ phải một mình ôm tất cả những mối lo từ nhiều bề, và bản thân cậu đôi lúc cũng rất mệt mỏi. Giá như có ai đó thấu hiểu và san sẻ bớt gánh nặng với cậu, liệu thế được chăng?
“Tsubomi-chan,” cậu ôm lấy gương mặt đầm đìa nước mắt nóng hổi của cô, cúi xuống áp trán cô vào trán cậu. Hành động ấy đến quá bất ngờ khiến trái tim cô Hồng đập loạn nhịp cái thịch, rồi cô nín thở, chờ đợi... "mai sau chúng ta sẽ ở chung một nhà, nhé? Chỉ như vậy, chúng ta sẽ không bao giờ mất liên lạc với nhau nữa." Hai hàng mi cô mở căng tròn, còn cậu vô tìm lạc sâu vào đôi mắt ấy. Ở khoảng cách gần thế này, cậu mới phát hiện ra ánh mắt cô thật trong veo và thánh thiện, không gợn lấy một chút toan tính nhơ nhám. Một người con gái luôn truyền cho cậu cảm giác bình yên êm ả, thi thoảng pha lẫn chút hương vị kỳ thú bất ngờ...cậu thật lòng muốn mai sau cưới cô gái này làm vợ, và sẽ kiên nhẫn thuyết phục cả thế giới ủng hộ tình yêu hai đứa.
Tiếng chuông báo hiệu vào giờ học thêm vang lên, hai cô cậu chuẩn bị tách nhau ra để vào lớp tiếng Pháp của riêng mình.
“Đương nhiên rồi.” Cô gật đầu cái rụp trả lời cậu “Anh em trai thì phải ở cùng nhau mới đúng chứ” – Xong cô vội gạt nước mắt rồi rảo bước chạy về lớp.
Còn cậu phì cười. Hẳn vậy rồi. Cái cô này, vẫn cứ cố chấp dối lòng thật vụng về, cơ mà thế cũng đủ hiểu rằng cô đã chấp nhận lời cầu hôn đi.
Hồng trở mình và chợt nhận ra cơ thể mình cứng đờ, xương khớp kêu răng rắc. Sao ở đây nóng hầm hập thế, vậy là cô quờ quạng tay tung chăn ra. Mắt cô díu hết cả lại.
- Dậy rồi hả em?
Thiện ngồi ngay kế bên đầu giường nghe tiếng vợ cựa quậy liền sốt sắng sà vào kề cạnh cô, anh áp tay lên trán cô kiểm tra xem vợ mình đã bớt sốt chưa.
- Mấy...giờ rồi, anh? – Giọng cô khàn đặc và đầu óc quay cuồng, cô không hiểu nổi mình đã đi ngủ như thế nào.
- Sáu giờ tối. Em đã ngất từ lúc đi chợ về. Ngã sóng soài ra sàn luôn... – Thiện kéo chăn lại kín cổ Hồng, sợ gió lùa vào cô lạnh.
Cô vẫn nhắm nghiền mắt và yếu ớt đáp.
- Em chẳng nhớ gì cả.
Thiện thở dài, hồi tưởng lại tầm trưa Hồng tự dưng đổ rạp người ở giữa nhà, tưởng chừng thần trí cô thoát xác đến nơi, xong, trong cơn mê man cô vẫn cố thều thào van xin chồng đừng đưa đi bệnh viện. Vậy mà giờ cô quên sạch.
- Lần sau mà em ốm đến mức mê sảng như thế, là anh cứ bế em lên viện đấy. Anh bảo em nhìu rồi, sức khoẻ em quan trọng nhất.
Cô rên rỉ khóc lóc trong họng ngay khi nghe chồng nhắc đến bệnh viện.
- Không đi bác sĩ đâu, sợ nhắm. Với lại em chỉ cảm vặt thôi, vẫn còn tỉnh táo nói với anh đây mà.
Thiện không muốn nói qua nói lại với cô vợ ương bướng của mình nữa, anh chỉ muốn để cô yên tĩnh nghỉ ngơi.
- Anh đi lấy cháo cho em ăn nha? Em phải ăn vào cho khoẻ, nhé? Ngoan, anh thương.
Cô buông nhẹ một tiếng "ừm" chìm nghỉm rồi tiếp tục nằm yên vị trong chăn, dù cô cảm thấy hơi nóng bức. Cơ mà, chồng cô nói đúng, cô phải giữ gìn sức khỏe và ráng phục hồi thật nhanh.
Lần đầu tiên sau gần chục năm phiêu bạt xa xứ, có người kề cạnh trông nom cô khi ốm đau, lòng cô an tâm hơn hẳn.
Vào một ngày đẹp trời, tự dưng cô nhóc quyết định không nói tiếng Anh với cậu nữa.
“Mei! Từ giờ trở đi chúng mình sẽ giao tiếp với nhau bằng tiếng Nhật" cô tuyên bố hùng hồn "Tớ đã ở Nhật Bản cũng hơn nửa năm rồi, phải chịu khó luyện tiếng Nhật đi thôi. Cậu, cậu phải kèm cặp tớ nhé! Đừng để tớ lạm dụng tiếng Anh thêm nữa"
Sáng kiến mới thể hiện chí tiến thủ làm sao! Hiển nhiên cậu luôn sẵn sàng chiều theo cô bạn người Việt bé nhỏ.
“Được thôi. Cứ để anh." > 「いいんだよ。僕に任せて」
Cô lập tức nghệt cái mặt lại. Chẳng phải do cô không hiểu câu nói rất đỗi đời thường kia.
“A...anh?" > (Bo...boku?)
Té ra vấn đề nằm ở đại từ nhân xưng anh dùng. Mọi khi giao tiếp bằng tiếng Anh, chỉ gọi nhau bằng "you - I" nhạt nhẽo, cô luôn mặc định hai người coi nhau như bạn bè bằng ngang phải lứa. Nay cậu xưng "boku", chợt khiến cô nhớ ra cậu vốn lớn hơn cô một tuổi.
Cậu ngay lập tức hiểu ra nét bối rối thoáng qua của cô.
“Boku.” Cậu chỉ vào bản thân, rồi hướng về cô “Kimi.” > 「僕 。君」
Cái đầu óc đa ngôn ngữ của cô bắt đầu bật chế độ thông dịch, "Boku - kimi", "anh - em", trời đất, thế có phải quá thân mật không?
Cô xua xua tay rồi thỏa thuận lại.
“Tớ. Cậu.” (Atashi. Anata) > 「あたし 。あなた」
Ôi chao, hệ ngôn ngữ đồng văn thật giàu và đẹp, thậm chí chỉ cặp đại từ nhân xưng cỏn con cũng gói ghém biết bao nỗi niềm. Cậu mỉm cười hiền hòa trước đôi má ửng hồng của cô gái, tuy nó chẳng mảy may khiến cậu mềm lòng chút đỉnh.
“Không vấn đề. Em thích gọi thân mật trước khi cưới cũng được."
Đó, đến phần thú vị nhất rồi đây, khi đôi mắt ngơ ngác dần chuyển dấu hiệu hoảng loạn, cậu chắc mẩm cô đang suy diễn tùm lum trong đầu.
“Atashi, anata? Kết hôn?” Cô bắt đầu loáng thoáng nhớ lại những bài học tiếng Nhật căn bản hồi xa lắc. Anata, cũng có thể là cách người vợ xưng hô với chồng, "mình ơi". “Không. Không không không không không.” Cô lắc đầu quầy quậy trong khi cậu chẳng thể nén nổi phá lên cười “Anh. Em. Vậy nha?"
“Anh biết rồi. Mà Tsubomi-chan hiểu nhanh ghê, giỏi thật đấy.” Cậu nhẹ nhàng xoa đầu cô, lòng hí hửng vì từ giờ vai vế của cậu chính thức hơn cô một bậc. Tuy vậy, cảm giác thành tựu chẳng kéo dài được bao lâu, cô đã liền chuyển chủ đề.
“Mei-kun, Ja-shu nghĩa là gì vậy?”
“Ja-shu? Em nói rõ hơn được không?”
Cô nhíu mày lại, dường như cô đang thấy không thoải mái lắm.
“Ja-shu, hay Haipurido...gì đó."
Cậu lắng nghe, và bắt đầu hiểu cô hỏi về cái gì. Jashu, haipurido, dẫu cô phát âm chưa chuẩn, nhiêu đó manh mối cũng đủ dẫn anh đến từ zasshu [雑種]. Tạp chủng. Một từ thật khiếm nhã.
“Ai nói em cái đó?” Cậu nghiêng đầu, nét mặt nghiêm nghị. Cảm nhận sức nặng từ cách cậu hạ tông giọng, cô hiểu rằng mình đã đụng đến một từ vốn chẳng mang ý nghĩa gì tốt đẹp.
Cô định tảng lờ chuyện này, nhưng rồi ánh mắt uy nghi của cậu ép buộc cô khai ra.
“Con gái. Ba người.”
Ngay sau câu trả lời, đầu cậu chợt vụt qua hình ảnh về ba cô nữ sinh lén lút bám đuôi hai người trên một đoạn đường mấy ngày trước, họ cũng mặc đồng phục giống cô.
“Bạn học cùng lớp em à?”
“Không ạ...họ không học lớp quốc tế, tiếng Anh kém lắm.”
“Tại sao...”
Cô nhóc chẳng để cậu kết thúc câu hỏi đã vội vã quay đi, tránh để cậu phát hiện ra vẻ mặt xám xịt. Làm sao cô dám kể lể với cậu về chuyện cô bị ba bạn nữ lạ mặt sấn tới mắng xối xả, vì đã từ chối mời cậu đi chơi với họ. Dẫu cô không hiểu hết lời lẽ chắc vốn cũng chua ngoa như thái độ của họ, mà từ "ja-shu", cô nghe mang máng trong câu mỉa mai “con mày đẻ ra cho anh ta, chỉ là ja-shu, ja-shu, ja-shu. Haipurido”, lại khiến cô để tâm.
Còn cậu, cậu nhìn xuống từ góc nghiêng khuôn mặt cô và chú tâm dõi theo lớp nước mắt mỏng tình tang sắp trực vỡ òa ẩn dưới hàng mi bồ câu. Long lanh mà đượm buồn tựa thu thủy. Hình như mùa đông đã nhuốm sầu lấy cô nàng bé nhỏ của cậu mất rồi, bởi cậu phát hiện cô dạo này đã bớt tươi tắn. Cô cũng gầy hơn, xanh xao hơn. Cô bớt khóc đi, chỉ gượng cười buồn. Sao cô không khóc chứ, hẳn sẽ nhẹ lòng hơn? Cậu thấy xót, mà chỉ có thể lặng yên nhìn cô bỏ mứa. Cô cứ vậy, mỗi khi có điều khi u uất trong lòng, cô tự động chán ăn. Tuy nhiên, cậu cũng biết có những thứ quà vặt cô không bao giờ chê.
“Tsubomi-chan,” cậu gọi cô sau khi lục lọi tung bành cả cái cặp sách "nè, ăn cái này đi em"
Cô đón nhận hai viên kẹo từ tay cậu, xong chơm chớp mắt.
“Sao thế ạ?"
“Vì anh hôm nay rất đói, nên anh muốn ăn ké phần bento của em. Đổi lại, lát nữa qua tiệm bánh Pháp, anh sẽ mua bất cứ cái bánh ngọt nào em muốn. Giờ thì anh tạm thời đưa kẹo đặt cọc, nha?”
“Ò!" Cô lập tức đạp bay đi những cơn lấn cấn vừa gợn trong lòng để tập trung suy nghĩ xem mình nên chọn bánh gì “Anh mua cho em 'Hoàng tử hào hoa' nhé, thưa anh"
Cậu bật cười, từ lúc chuyển sang nói tiếng Nhật, nghe điệu bộ cô ra dáng đàn em lễ phép hơn hẳn. Cứ thế này làm sao cậu ngừng nuông chiều cô được đây.
“Được rồi, em còn muốn gì nữa? Cứ tự nhiên đi, vì hôm nay bento Việt của em ngon lắm, anh rất thích. Nào, 'Trái tim Bạch Tuyết', 'Chim sẻ phiến loạn' hay 'Tinker-bell'?”
Mắt cô sáng choang lên. Lựa chọn giữa bavarois dâu tây, tiramisu ba lớp lót rượu Rhum với bánh matcha nghìn lớp ư? À mà cô cũng chợt thèm vị chua dịu dàng từ chiếc bánh tarte chanh yuzu, nhưng chỉ một miếng thôi, cô ăn chua không tốt lắm.
“Thôi ạ, một cái đủ rồi. Khoan, thêm 'Belle' nữa. Dành cho anh."
Cậu vui vẻ ghi nhận đơn đặt hàng và hài lòng với sự thấu đáo của nó. Cô luôn biết nghĩ về người khác, thật là một đứa trẻ đáng yêu.
Anh vẫn nhớ vào những ngày mùa đông, cô gái nhỏ ấy rất dễ bị ốm. Bất kể trời rét đậm rét vừa hay ăn vận kín cổng cao tường từ trên xuống dưới, tay chân cô vẫn cứ lạnh ngắt. Mẹ cô nói rằng, những đứa hay bị lạnh tay chân rất mau bệnh.
Anh vẫn nhớ cả mùa đông năm ấy, cô luôn mang theo một cái túi sưởi bên mình và bám dính lấy nó. Anh vẫn nhớ hồi còn ngồi kế bên nhau tại club tiếng Anh, anh hay lơ đễnh ngắm nhìn cô ngồi co ro trong chiếc áo phao to phập phồng, khoanh chân lên ghế và đặt ngay ngắn chiếc túi sưởi trong lòng. Có như vậy mới đủ giữ ấm cơ thể cô ở cái xứ "mùa đông lạnh như quỷ nhưng cứ bắt nữ sinh mặc váy ngắn".
Và anh vẫn còn nhớ về dịp duy nhất cô quên cầm theo cái túi sưởi, cô ngồi thu lu cuộn tròn trong chiếc áo khoác như con kén tằm, răng đánh vào nhau cầm cập, đó là lần đầu tiên anh phá bỏ đi sự sĩ diện giữ lịch sự ở nơi công cộng mà gạt thanh ngăn cách giữa hai ghế ngồi, để bế cô, ôm vào lòng. Anh chỉ nghe cô khẽ kêu lên một tiếng bất ngờ, rồi cô cũng lặng im, nằm ngoan trong vòng tay anh suốt buổi xem phim hôm ấy. Anh không thể nào quên cảm giác lâng lâng lần đầu tiên gần gũi cô đến vậy, bởi vẻ ngoài xương xương của cô đã đánh lừa anh: cơ thể cô thật mềm mại. Thậm chí cô còn tỏa hương thơm rất thư thái, tựa mùi hoa linh lan nhuốm giọt sương mai trong trẻo.
Anh đã chờ đợi bao lâu rồi? Nửa cuộn băng nhạc cát-xét hay thậm chí...còn l��u hơn, rất lâu hơn thế.
Con tim anh bồn chồn lo lắng suốt mấy ngày nay, nhưng anh không biết kiếm tìm cô ở đâu: cô chưa bao giờ để anh đưa về nhà, và bảng điều tra bác Sawada trình lên anh ngày trước còn thiếu số điện thoại với địa chỉ nhà cô: đây là Mỹ, không phải Nhật Bản, và anh đâu phải nhân viên cục tình báo. Trong khả năng của mình, anh chỉ biết được hiện tại cô làm việc gì, ở đâu, cám ơn LinkedIn.
Thế rồi cô cũng xuất hiện sau cánh cửa xoay, nhìn thấy cô anh thật mừng, cho đến khi tự nhiên cô chúi người phía trước ngã quỵ vào người ta. Cô đang ốm thật rồi, linh tính của anh đã đúng, cái đầu anh âm ỉ đau mấy ngày nay chẳng phải báo hiệu chính anh sắp đổ bệnh, mà do thần giao cách cảm của anh với cô trở về, như những ngày xưa.
Anh toan chạy tới đỡ cô, song lại chùn bước. Cô dẫu kiệt sức đến mấy cũng sẽ ráng cầm cự chẳng bao giờ ngả vào vòng tay người mình không tin tưởng. Anh biết điều đó, và anh cũng đã nhận ra người đàn ông kia là chồng cô.
Chồng cô đến đón cô, và nom hắn ta cũng lo lắng cho cô lắm. Anh chứng kiến tất cả.
Vậy đó, cô đã có người quan tâm chăm sóc rồi, thật tốt, thật mừng cho cô.
Còn anh, anh phải tự lo lấy bản thân mình đi thôi.
Thiện để cho Hồng nằm nghỉ ngơi vì cô mới ốm dậy, vẫn còn lệt bệt. Xong, cô thấy nhạt miệng nên lại lò dò chạy xuống bếp, mở tủ lạnh tìm gói kẹo Haribo Croco'. Chợt cô nhận ra có cái gì thiếu thiếu.
- Anh ơi, con cá tráp của em đâu rồi?
- Cá tráp gì? À, con cá đó hả? Anh ăn mất tiêu rồi.
Cô thảng thốt, mắt trợn tròn miệng há hốc.
- Ai cho anh ăn con cá tráp của em? Con cá tráp của em! Trời ơi, con cá tráp!
- Relax em! Chỉ là con cá thôi mà, lát anh đi mua là được chứ gì?
Cô chạy tới ôm chồng, bĩu môi phụng phịu và bắt đầu giở cái giọng i ỉ khóc lóc.
- Anh tưởng mua được con cá tráp mà dễ à? Sáu tháng ở Mỹ với anh đây là lần đầu tiên em thấy nó, và còn là con cuối cùng trong cửa hàng. Con cuối cùng! Chứ không em đã mua vài con trữ trong tủ lạnh rồi. Trời ơi cá tráp!
- Kinh! – Thiện dẩu môi nở nụ cười đậm chất quan ngại – Con cá gì mà em tôn thờ ghê dữ vậy?
- Cá tráp! Cá tráp đấy anh biết không? Là nữ hoàng trên bàn tiệc là vua của các loài cá là thịt-gà-biển, anh biết không? – cô liếng thoắng cái miệng – Hời ơi, ở Nhật với miền Nam nước Pháp đầy cá tráp chứ còn ở bờ Đông nước Mỹ? Huhu...anh sao hiểu được, nó đâu phải con cá điêu hồng dặt dẹo anh hay mua ở quận Cam đâu... – Hồng tiếc hùi hụi cho món ngon bị hụt mất, cũng trách chồng sao được, chắc mấy ngày cô ốm liệt giường, chồng cô cũng phải tự xoay xở nấu ăn. Đến giờ cô vẫn thấy hơi đuối, nên cô vừa sụt sịt vừa lả đi trên vai chồng
- Ồi, anh thương, còn yếu thì ra ghế nằm tiếp đi em...hiuhiu.
Hồng gai hết cả người, cái tiếng mèo khóc chuột giả tạo như bát bún thiu của Thiện luôn làm cô rợn hết sống lưng. Cô cắn nhẹ miếng vào cổ chồng, tay quặt chặt lấy anh. Thiện chép miệng, anh đã quá quen với những trò con bò bất chợt của vợ, đành chấp nhận thôi chứ biết sao.
Thiện lê lết tới ghế sofa ở phòng khách với cô vợ bám dính anh như con lười bám cây, rồi tìm cách thả cô xuống.
- Buông anh ra nào em, ngoan, anh nấu cơm.
Cô vẫn không lơi tay, thậm chí còn lắc đầu dùi dụi vào cổ chồng.
- Anh ơi, chúng mình mua nhà.
- Rồi rồi, để dành dụm đủ tiền đặt cọc, anh sẽ mua cho em. – Thiện linh cảm cô lại sắp sửa nói sảng linh tinh.
- Mua...hẳn cái villa yên tĩnh, ở ngoại ô, có mảnh vườn, trồng hoa hồng, hoa diên vĩ, hoa linh lan, hoa cẩm tú cầu, hoa thạch thảo tím...nhé anh?
- Ừ, rồi rồi, em thích gì em trồng nấy, anh bảo rồi, chỉ cần có tiền anh chiều em tất.
- Ù, mua villa ở miền nam nước Pháp nha?
- Cái đó thì dẹp! – Biết ngay cô đang vòi vĩnh hão huyền mà – Căn hộ ở New York còn chưa biết mua được hay không mà em còn đòi mua villa ở Pháp à? Mơ mộng cũng vừa phải thôi em.
Cô giả vờ khóc um lên.
- Phải mua nhà ở miền nam nước Pháp mới trồng được hết các loài hoa đó, và cũng phải ở đó mới có đề huề cá tráp tươi cho em ăn cơ!
- Hóa ra em chỉ định lải nhải về con cá tráp tráp thôi chứ gì? Cái em này, – Thiện phì cười vỗ yêu cô cái bụp – em dai như đỉa. Mệt em quá.
- Hơm phải, tự dưng em thèm đồ Pháp, thèm bánh ngọt Pháp, thèm gió biển thèm đi dạo trên đường la Croisette...ở Mỹ bánh ngọt dở ẹc, đồ Tây thì ngấy bơ, đặc sản toàn fast-food...em hông muốn ở Mũy nữa hiuhiu.
- Ừ rồi rồi, thế thì em về Pháp đi, sẽ không còn kẹo Hi-chew với nước mắm Red Boat cho em đâu.
Cô tròn xoe mắt, đắn đo đến ngơ ngác. Ừ nhỉ, ở Pháp cũng đâu có đầy đủ thức ngon cô muốn đâu, nhất là nước mắm, mà người Việt lại không được ăn mắm ngon mỗi ngày thì còn gì là người Việt nữa.
- Ơ...thế bây giờ ở đâu mới có tất cả những thứ em muốn nhở, anh iu?
- Ở trong mơ đi em. – Thiện phá lên cười giòn tan – Đi đâu cũng tâm hồn ăn uống quá, giờ báo hại suốt ngày thèm nọ thèm kia kìa. À phải rồi, hình như thùng đồ của em từ Pháp về rồi đấy.
- Đâuuu? – mắt cô sáng choang như đèn ô tô – Đưa em xem nào. – Thiện mang món hàng đến và cô không chần chừ bóc banh cái hộp các-tông ra – Chuẩn ùi! Thùng bánh Pháp của em! Có bánh bích quy hồng xứ Reims nè, bánh Sablé cà phê nè, bánh lưỡi mèo hoa cam nè, ù... – đống đồ vặt từ Pháp khiến cô lập tức hồi tỉnh, chả tin được mới vài phút trước, cô vẫn đang bị cơn ốm bệnh vần vò – Anh ơi, chúng mình pha trà chiều uống nào!
Nhoắng cái đã đến thứ tư. Hồng đã khỏe hẳn và có thể tự đi về nhà.
Cô bỗng dưng nhớ ra mình với chồng đã lỡ hẹn buổi mua sắm chiều thứ bảy tuần trước, do cô đột nhiên đổ bệnh, vậy tối mai tan làm xong cô sẽ kéo chồng đi lượn lờ trung tâm thương mại. Cái rét hàn băng bờ đông nước Mỹ sắp đổ bộ, mà anh chồng cô vẫn chủ quan khoác mấy cái áo mỏng tang mang từ California sang. May cho anh ta vẫn chưa bị cảm. Và thật không hiểu nổi sao anh ấy thà chịu lạnh còn hơn tốn thời gian đi shopping, trong khi anh ta thiếu nào khăn, nào mũ, nào găng tay, thậm chí áo len! Trời đất ơi, đây là New York chứ có phải quận Cam ôn hòa nhà anh đâu.
Bỗng, vụt qua đầu cô, hình ảnh một cô bé con suốt ngày càm ràm bắt bạn mình phải "trang bị" kĩ càng, bởi tuyết rơi rét căm căm mà anh ta vẫn để đầu trần, cổ không quấn khăn, song, cả mùa đông ấy chỉ có cô phát ốm, còn anh ta nom vẫn khỏe re. Thật oái oăm...tại sao cô nhóc mặc tầng tầng lớp lớp áo vẫn thấy lạnh, còn người ấy, lại sở hữu thân nhiệt ấm nóng như lò sưởi tự nhiên.
Từ cái dạo tự dưng anh bất ngờ ôm cô trong rạp chiếu phim, cô nhóc trở nên bạo hơn và rất thích sà vào ôm dính lấy anh, mấy lần đầu cô còn ngượng ngùng xin phép, nhưng đã quen rồi thì cô hứng lên lúc nào ôm lúc ấy, chẳng quan tâm xung quanh có ai nhìn hay chăng. Anh thì hiền, chẳng bao giờ tỏ ra thấy phiền hà. Cô đã từng thích ôm anh cực kỳ, anh thật ấm áp, với lại hít hà hương thơm vương trên áo anh cũng thật dễ chịu. Mãi về sau lớn lên cô mới biết miêu tả nó, nó giống mùi an tức hương, ấm nồng và ngọt ngào.
Cô bé đó ngày xưa dạn dĩ quá nhỉ, ôm con trai nhà người ta rồi chống chế "em gái ôm anh trai thì đã sao?", nghe thật ấu trĩ. Cũng may là anh luôn coi cô là em gái...Phải, hẳn vậy rồi, chứ nếu anh mến cô, chẳng cớ gì đèn xanh cô bật sáng thế mà anh lại chưa tỏ tình, lúc nào cũng ý tứ giữ khoảng cách nhất định. Chuyện anh chủ động ôm cô, hay rủ cô mai sau lớn lên ở chung, cũng chỉ là thứ tình cảm người anh lớn lo cho em gái nhỏ, vậy thôi. Anh là vậy, là hoàng tử lịch thiệp và tốt với tất thảy mọi người.
Hồng vào nhà, nằm dài xuống giường và ngước lên nhìn mông lung. Thiện vẫn chưa về, thành ra bốn bức tường im ắng đến đáng sợ. Chắc nên bật chút nhạc nhẽo cho vui? Cô muốn nghe ngẫu hứng, mấy bài hát nhạc Pop những năm 70-90s, chẳng cứ phải là the Carpenters. Youtube nhận lệnh cô rồi bắt đầu phát nhạc, cô nằm nghe những giai điệu cũ, nền hòa âm cứ nhiễm tiếng rè rè nhưng thật êm tai, tựa tiếng dế đồng ca buổi trưa hè tuổi thơ. Bài hát hồi ấy ca từ thật đẹp và thi vị. Đôi khi chúng thể hiện chút sự ngạo nghễ, nhưng vẫn giữ nét tinh nghịch và đáng yêu. Bỗng, bất ngờ danh sách nhạc ngẫu nhiên phát lên một bài hát, vẫn nền nhạc âm hưởng retro, nhưng nó chẳng thuộc những thập niên cũ.
“Littlest things - Lily Allen, 2008”
Bản ngã cô bị ném đi, xuống những hố đen sâu hoắm, lội ngược lại dòng thời gian. Cô nhìn thấy bản thân mình hồi mười tám đôi mươi. Gầy gò, xám ngắt, mái tóc dài bị xẻo phăng đi ngắn cũn cỡn, uống đủ thể loại thuốc trị trầm cảm chống tự sát xong cả ngày u mê; học hành bết bát...nhưng cô đã gắng gượng không buông xuôi chuyện học, bởi chỉ có bể kiến thức mới giúp cô vững lý trí lại. Cô biết mình phải trở nên thông thái hơn, mạnh mẽ hơn, tự lập hơn, bởi mai này, sẽ chẳng còn vòng tay anh lớn lao che chở cô trong cuộc đời khắc nghiệt này nữa.
Littlest things, bài hát cô nghe hàng trăm lần sau đợt cô và anh bị chia lìa bởi số phận, đã đẩy cô về vùng trũng đen kí ức. Nhưng rồi nó cũng kết thúc, còn cô, cô đã không còn sợ đối mặt với quá khứ nữa. Gặp lại anh đã gỡ rối rất nhiều mối tơ lòng trong cô, nhưng điểm tựa khiến cô vững vàng tại thời điểm hiện tại, lại nhờ ơn người chồng. Thiện đã khiến cô nhận ra mình không thể sống cô độc mãi trên đời, có ai nương tựa để đôi khi thả lỏng dựa dẫm vẫn an tâm hơn nhiều.
Tách!
Thiện đã kề cạnh cô từ bao giờ không hay, anh thấy vợ đang lim dim mắt, đầu lắc lư phiêu theo nhạc quá nhập tâm nên búng lên trán cô một cái, trêu yêu.
- Hôm nay làm gì tâm trạng thế, em yêu?
- Ô hay, cái anh này, phá đám, em đang pha lê mà!
- Rồi rồi, pha lê xong chưa, anh mua bánh ngọt em thích nhất đấy, để trên bàn nha.
Cô lập tức bật phắt người dậy và lon ton chạy ra phòng ăn.
Cậu ghét những kẻ bắt nạt. Đặc biệt kẻ nào có ý định gây tổn thương cô, người con gái cậu thương. Nếu có thể, cậu sẵn sàng xé xác chúng thành từng mảnh, cơ mà cậu vốn mang danh phận vương tử nho nhã, nên đành phải hành xử cho đúng mực.
Các cô gái được cậu bất ngờ đón ngay trước cửa Mc Donald's và họ chẳng tốn một giây để quyết định lên xe. Cậu đã hy sinh buổi học thêm tiếng Pháp để chủ động mời họ đi chơi hôm ấy. Tất nhiên rồi, họ rất muốn đi chơi với cậu mà. Cậu phải tiếp đãi họ thật long trọng: nghe kịch Kabuki cũng có vẻ ổn đây. Rồi sau đó...không còn câu chuyện sau đó nữa, nhiêu đó cũng đủ để họ tự hiểu cậu chẳng phải người trẻ ưa chốn ồn ã giống họ, tuy nhiên mục đích cậu vời họ đến chẳng phải chỉ đi xem hát đơn thuần.
Trước khi thả họ về, cậu tiện thể nhắc nhở họ chút, lạm dụng thân phận vương tử hoành tráng để cảnh cáo họ đừng giở trò bắt nạt bạn cậu, bằng không gia đình họ sẽ gánh tai ương. Chỉ là vài lời nói xuông nhã nhặn pha chút tông giọng trầm mặc, mà chả hiểu sao mấy cô gái xanh cả mặt lại. Cậu tự dưng trở thành người đàn ông tàn nhẫn ư? Thôi kệ, để chắc chắn bảo vệ niềm vui thưở học sinh của cô, âu cũng đáng.
Tạp-chủng. Cô không đáng phải nghe thứ từ ngữ miệt thị đó. Nếu giữa hai người có đứa con, nó sẽ là kết tinh bởi sự đồng điệu tâm hồn của bố mẹ, chứ cốt nhục con người chẳng thể định giá từ nòi giống hay địa vị xã hội. Tại sao loài người cứ thích đặt điều những thứ vô nghĩa.
Ting!
Chuông điện thoại báo tin nhắn và cậu thậm chí chẳng cần nhìn cũng biết là ai.
Chibi-chan: Anh không đi học tiếng Pháp à? Anh ốm sao? (◞‸◟)
Mei: Anh vẫn ổn. Nay anh bận chút việc. Xin lỗi em nhé.
Chibi-chan: Tại sao anh lại xin lỗi ヽ(゚Д゚)ノ Anh còn khỏe, em rất mừng. Mai anh đi học tiếng Anh chứ? (゚ー゚;
Mei: Tất nhiên.
Chibi-chan: Tốt quá rồi 〔'∇`〕 em sợ đứng đợi bố một mình lắm (⋟﹏⋞)
Mei: Thật sự xin lỗi em :( Để mai anh mua bánh ngọt tạ tội :|
Chibi-chan: Hông cần đâu. Mei-kun khỏe mạnh, đi học với em là vui rồi (*≧∀≦*)
Mei: Nhất định ngày mai anh sẽ mang món bánh em thích nhất :)
Hoàng tử hào hoa.
Cô đặt tên chiếc bánh mousse sô-cô-la như vậy, món tráng miệng Pháp sô-cô-la đen bóng bẩy, mềm mịn và ngọt lử. Loại bánh cô thích nhất. Anh thì thích Belle – bánh tarte chanh hơn, tiếc rằng bữa nay món tráng miệng đó đã hết, chỉ còn bánh mousse sô-cô-la. Cô hồi đó thơ thẩn nhỉ? Đến mấy cái bánh ngọt vô tri cũng gợi hình cho trí tưởng tượng phong phú của cô, cô tinh nghịch đặt tên chúng theo cảm hứng vườn cổ tích: Trái tim Bạch Tuyết, Chim sẻ nổi loạn, Tinker-bell, Áo choàng mụ phù thủy, Nữ hoàng băng giá, v...v...Thế giới qua đôi mắt cô luôn tràn ngập màu sắc và tính kịch, bởi cô ghét sự tầm thường, nhàm chán.
Thật dễ thương, nhưng đôi lúc cũng phiền phức. Những ngày còn bên cô, cuộc đời từng bằng phẳng của anh liên tục bị náo động, thế mà anh cứ bị cuốn lấy vào vòng xoay sân khấu cuộc đời cô, đến tận bây giờ. Kể cả chuyện anh âm mưu đoạt lại cô từ tay người ta, cũng chỉ giống một phân đoạn nhỏ trong kịch bản ngôn tình lớn mà thôi. Hồi kết vẫn chưa ngã ngũ, giống như chiếc bánh mousse sô-cô-la dang dở, anh không thể tự mình ăn hết được nó, nó quá ngọt, giá như cô nhân vật chính ấy ở đây giúp anh.
Ôi chao, Aikihiko, mày còn ngồi đó ủ dột tơ tưởng được tích sự gì? Xốc tinh thần mày lại rồi chuẩn bị hành trang chiến đấu cho buổi hẹn hò tối thứ bảy đi thôi.
Cô đến trễ.
Trừ phi cô vướng chuyện công việc thì cô luôn đến sớm hẹn ít nhất mười lăm phút, và hôm nay là thứ bảy, ngày nghỉ. Cô vẫn bình an chứ, anh đứng chờ mà lòng dạ bồn chồn thiêu đốt, muộn bốn mươi lăm phút, chẳng giống cô chút nào.
Băng nhạc cát-xét cứ chạy mà anh không chú tâm vào giai điệu gì cả. Đến cả khói thuốc lá cũng chẳng xoa dịu nỗi lo lắng khôn nguôi nơi anh.
- Mei!
Tiếng cô gọi lanh lảnh từ xa len lỏi qua chiếc tai nghe, anh quay về phía cô: quả đúng là cô bằng xương bằng thịt, thướt tha lướt đến bên anh. Cô xuất hiện trong phục trang tông màu hồng đào chủ đạo, trở thành điểm nhấn tươi tắn giữa khung trời tối u lạnh lẽo.
Lạ thay, cô đi một mình.
- Chào em, ờm...chồng em đâu?
- Anh ý lên cơn lười nên lại nằm nhà rồi. Còn anh, xem anh kìa, anh mà cũng hút thuốc lá sao?
Hồng trố mắt quét nhìn anh một lượt từ đầu xuống chân, quả thực cô đã rất hoài nghi trước khi cất tiếng gọi anh: hôm nay anh không "đóng thùng"; anh vận quần bò, giày thể thao, áo bomber da lộn màu cà phê và khoác ba lô đỏ mận. Anh nom cá tính lạ.
Trước ánh nhìn dò xét và kiểu giữ khoảng cách xa đến hẳn sải tay cô dành cho anh, anh chỉ biết phá lên cười lớn.
- Sao nào? Em hẳn đang ngạc nhiên rằng chàng trai ngoan năm ấy giờ đổ đốn ghê ha?
- Không, em không có ý đó, chỉ là...trông anh khác mọi khi quá thôi. Mà, anh hay hút thuốc lắm à?
- Anh chỉ hút khi quá căng thẳng. – Anh dập tàn điếu thuốc dở dang rồi bỏ đi, bởi cô chưa gì đã ho khù khụ, chắc hẳn tại khói thuốc rồi – Nãy anh đọc tin, thấy báo có tai nạn ô tô ở đại lộ và hai người gốc Á bị thương, anh cứ sợ trúng phải xe của em với chồng.
- Ui trời...nghiêm trọng ghê, mong họ bình an, chứ hôm nay em đi tàu. Mà em xin lỗi vì đã đến muộn, vốn dĩ em hẹn sớm một tiếng để có thời gian tán ngẫu, giờ thì bể kèo hết cả.
Anh chặc lưỡi, quan trọng cô bình an vô sự, còn đâu đến muộn chút xíu đâu hề gì với anh.
- Lúc sắp ra khỏi nhà, chồng em tự dưng lôi lại và nằng nặc bắt em thay đồ.
Hóa ra lý do cô trễ hẹn là vậy hả? Ồ, thế thì anh cảm thấy khó chịu rồi đây.
- Đầu đuôi câu chuyện thế nào em?
- Bah...chồng em bảo em đã ăn mặc "thiếu vải", cơ mà...chỉ là cái chân váy – Cô co chân lên và quẹt tay một nhát ngọt giữa đùi – thế này cũng đâu ngắn lắm, phải không anh? Em thậm chí có mặc cả quần tất len nữa, dày cộp, loại giữ nhiệt cực ấm, thêm cả bốt cao cổ đến đầu gối. Kiểu punk! Chả mấy khi em hứng lên ăn mặc bụi bặm, thế mà anh ta không ưng.
“Anh ta không ưng", vậy sao? Hay rằng hắn chỉ muốn khư khư giữ lấy sự quyến rũ của cô cho riêng mình? Anh cười khểnh, tên tình địch chết bằm, anh chính thức không ưa hắn ta, khỏi cần gặp mặt.
Cơ mà thôi, vẻ tiểu thư đằm thắm của cô hiện tại cũng đáng để anh chờ đợi bốn mươi lăm phút vừa qua rồi.
Đã lâu rồi, anh mới được trải nghiệm cái gì đó mới lạ.
Họ xem show với tâm thế hào hứng sảng khoái và tận hưởng dưới ánh đèn ngập tràn sắc màu. Âm nhạc hiện đại mà cũng rất duyên dáng. Một trải nghiệm mới, khác đi với những buổi trình diễn nghệ thuật hàn lâm. Anh ngồi kề bên ngắm cô cười vang, nghe cô "ồ òa" và vỗ tay giõn rã, anh thậm chí còn thích thú nhìn cô thi thoảng hồi hộp, giật mình trước những pha nhào lộn mạo hiểm. Cô lúc nào cũng giàu biểu cảm.
Tại sao anh không nghĩ đến việc đưa cô đi xem cái gì đó vui vẻ ngay từ đầu nhỉ? Không, chắc hẳn chỉ có cô mới đủ khôn khéo để tạo bầu không khí tươi trẻ giúp hồi xuân tâm hồn cằn cỗi của anh.
Anh lại lún sâu vào lưới tình của cô thêm nữa.
Hết màn trình diễn mà cô vẫn cứ cười không dứt. Cô vừa đi bên anh vừa hát "là lá la" mấy giai điệu bắt tai đã kịp len lỏi vào trí nhớ mình, khiến anh cũng không khỏi nhún nhảy theo cô. Họ xuống bãi đỗ xe, bởi anh mời cô đi ăn mỳ ramen trong trung tâm Manhattan, anh chở cô đi luôn.
- Wow... – cô xuýt xoa trước con xế màu boóc-đô (bordeaux) bóng bẩy, cô nhận thức được vẻ đẹp và độ "sang chảnh" của chiếc xe, dẫu cô chẳng rành về ô-tô cho lắm – Xe anh đấy ư?
- Nah, anh mượn bạn. Đẹp chứ ha? Là Bugatti Chiron 2021. Em muốn lái chứ?
- Nếu anh muốn chúng mình đâm nát đầu xe vào cái cột đằng kia! – Cô giơ tay chào thua – Em chưa biết lái xe đâu.
- Nghiêm túc ha? – anh ngạc nhiên cười – Vậy từ đó đến giờ em đi lại kiểu gì? – Anh mở cửa xe mời cô vào.
- Phương tiện công cộng, đi bộ, và...dựa giẫm vào những tài xế, như anh chẳng hạn. Chao chao, con xế này xịn xò quá thể. Thế còn xe anh đâu?
- Anh để ở khách sạn rồi, nó quá già đời, không hợp với buổi đi chơi trẻ trung như hôm nay. Chính em cũng khuyên anh thi thoảng nên "đổi gió" mà, nhớ chứ?
Cô phá lên cười, ra vậy, bảo sao hôm nay anh phá cách đến thế, từ quần áo, xe cộ, thậm chí cả nước hoa, Terre d'Hermès cho phong thái lãng tử bụi bặm...mà vẫn thể hiện sự tinh tế. Đàn ông cầu toàn như anh thật hiếm thấy, bởi bình thường, họ chỉ xuồng xã kiểu như chồng cô.
- Hôm nay vui thật đấy chứ, anh nhỉ? Tiếc rằng chồng em không chịu đi.
Anh im bặt, mỗi lần cô nhắc đến tên chồng, lòng anh lại rối như tơ vò, không thiết tha tiếp chuyện nữa. Anh lơ đi và tập trung đánh xe ra khỏi ga-ra. May sao cô đã đổi chủ đề nói chuyện sang đối tượng mới.
- Bạn anh làm nghề gì vậy?
- À, cậu ta làm chủ hộp đêm, và cả phòng bi-a nữa.
- Bi-a á? Uầy, em thích bắn bi-a lắm.
Anh quay sang tròn mắt nhìn cô kinh ngạc pha lẫn thích thú, lại thêm một khía cạnh mới từ cô cho anh khám phá nữa.
- Vậy trong tuần tới, em muốn ghé qua chỗ bạn anh chơi không?
- Có chứ. Quán bi-a bạn anh ở đâu?
Anh vớ tay kéo cái hộc trước ghế cô ngồi, quả nhiên trong đó chứa la liệt card-visit của Sam.
- Em có thể lấy một cái, địa điểm chắc ghi trên đó. Còn thời gian thì tùy em thôi, anh luôn rảnh.
- OK, để em coi lịch họp. – cô bèn lục túi xách tìm điện thoại.
- Để sau đi. Không thì em sẽ say xe đấy. – Anh vẫn nhớ cái tật say xe khi nhìn điện thoại hay đọc sách trên phương tiện di chuyển của cô – Hoặc khi nào tiện em cứ nhắn qua email cho anh cũng được.
Cô giật mình cái nhẹ rồi quay sang lí nhí ái ngại.
- Em làm mất địa chỉ email của anh rồi...
Anh gật gù, không nằm ngoài dự đoán của anh lắm, bảo sao cô mãi chẳng chịu nhắn tin cho anh.
- Chả sao đâu, lát anh viết lại cho em.
- Thôi, để em. – Cô mượn tạm cây bút với mẩu giấy nhớ trong hộc tủ xe và bắt đầu viết email và số điện thoại, chợt cô nhận ra một kiều kì lạ – Mei này, chúng ta chưa hề có thông tin liên lạc của nhau, nhưng...vẫn cứ gặp nhau như đúng rồi. Sao mãi đến bây giờ chúng ta mới để ý đến chuyện ấy?
Anh nhún vai cười khà khà. Biết giải thích với cô ra sao chứ, anh chỉ có thể cảm nhận được về duyên phận không tầm thường giữa hai người mà thôi.
Tối nay hai người không gặp may cho lắm. Bãi đỗ xe gần quán ăn chật đã kín chỗ, họ phải đậu xe ở cách xa gần một dặm. Cô và anh đi bộ với nhau một đoạn dài. Gió nổi, anh thấy cô co rúm mình lại, và vòng tay anh có chút lưỡng lự muốn kéo cô vào lòng.
Rồi anh lại thôi, bởi anh chợt nghe tiếng cô ngân nga trong cổ họng một giai điệu đẹp mà xa xôi. Anh biết bài hát ấy.
“Đi bên em chiều trên lối vắng Phố xa, phố xa, ngỡ như thật gần Câu yêu thương chìm trong nỗi nhớ Mơ về một ngày, có mưa êm đềm"
Thật hết sức kinh ngạc, bởi cô không phải người hát lên, mà là anh. Anh hát với chất giọng nam trầm bổng, ấm áp và phương ngữ hơi hướm đớt đớt của người ngoại quốc phát âm tiếng Việt. Cô không kìm nổi vỗ tay phấn khích.
- Hay tuyệt! Wow...anh cũng biết bài này ư?
Hiển nhiên, bởi bài hát đó đã từng gắn liền với một kỉ niệm đẹp thời niên thiếu.
- Em đã từng hát nó, cái thời xa xưa ấy.
Cô nhíu mày ráng hồi tưởng lại.
- A, nhớ rồi! Cái đêm "Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài", đúng không?
- Yeah, và buổi xem "Madame Butterfly" nữa. Em hồi đó rất thích hát hò. Nhất là khi, hai đứa đi dạo với nhau như thế này.
Cô thầm mỉm cười và thả trôi tơ tưởng vào miền kí ức xa xôi. Những chuỗi ngày cùng anh đi xem hát đến tận tối muộn và anh luôn là người hộ tống cô về tận nhà an toàn. Trên đường đi, cô thường hát lên cho vơi bớt nỗi sợ bóng tối yên ắng, cũng để hâm nóng bầu không khí vui vẻ. Những hình ảnh đã từng rất mờ ảo, và giờ thì dần hiển hiện rõ nét hơn, chắc nhờ tiếp xúc lại với anh.
Bỗng dưng cô nghe tiếng anh khục khặc ho, cô thảng thốt, cái anh này, mùa đông lạnh căm vẫn cứ ăn mặc phong phanh. Song, cô chợt nhớ ra mình có mang theo một món đồ hữu ích.
- Mei... – cô lục lọi từ tận đáy chiếc túi xách rồi lôi ra một chiếc khăn len và quàng lên cổ anh – trời rất lạnh đấy, anh cẩn thận vào.
Anh ngờ ngợ nhìn chiếc khăn, nó còn rất mới, và nó không phải khăn cho nữ giới.
- Hôm kia em đi shopping thì bắt gặp nó, màu đỏ đun này rất hiếm thấy, mà... – cô chỉnh khăn ngay ngắn cho anh xong ngắm nghía – quả như em tưởng tượng, hợp với anh lắm.
- Ồ, hóa ra đây là món quà cho anh sao?
- Vâng, để cám ơn anh về chiếc nhẫn, dẫu giá trị của nó không sánh bằng...
- Đừng khách sáo vậy, cám ơn em rất nhiều. – Anh cúi xuống đặt lên trán cô một nụ hôn dịu dàng. Cô hơi lùi lại, cố gắng không đưa tay lên xoa xoa trán, bởi như thế sẽ hơi bất lịch sự trước mặt anh, còn cô thì luôn tôn trọng cách thể hiện hơi có phần sến sẩm ấy.
Thế rồi họ đứng đối diện nhau một lúc, hai bên chẳng nói chẳng rằng. Cô chợt để ý kĩ càng về ngoại hình của anh.
- Mei này, anh... – cô với với tay chạm lên đỉnh đầu, rồi xuống vai anh – wow, giờ anh...thật sự lớn lên nhiều quá. Ngày xưa em nhớ mình cao đến cổ anh, giờ thì... – cô nhún chân xuống lược bớt chiều cao mình ăn gian nhờ giày cao gót – khéo em chỉ đứng ngang tầm ngực anh thôi, trời đất ạ!
Họ phì cười với nhau và tâm trạng đôi chút ngậm ngùi, mười một năm với họ trôi nhanh như chớp mắt, dù họ chẳng để ý cũng không thể lơ đi về những điều rành rành đã thay đổi. Điển hình như Mei, Hồng nhận ra anh không còn là chàng trai thiếu niên gầy gầy, cao dong dỏng nữa; cơ thể anh bây giờ phổng phao, săn chắc và đàn ông hơn rất nhiều. Cậu thư sinh ngày nào giờ đã hóa nam thần. Chao, mối tình đầu của cô chuẩn đét soái ca...
Hồng vỗ vỗ má rồi rảo bước đi tiếp. Tém tém lại nào hỡi bông hoa đã có chủ. Anh ta ngon giai thật đấy, cơ mà vui thôi đừng vui quá. Ây da, các chị em thỉnh thoảng bấn loạn vì trai đẹp âu cũng chuyện thường tình mà, nhỉ?
Akihiko dõi theo nàng và mỉm cười, anh đã thấy hết rồi, thấy vẻ ngờ nghệch của nàng khi gắng cưỡng lại sức hút từ anh. Anh chép miệng tự hỏi, liệu khi chỉ còn hai người trần trụi với nhau, cô sẽ bộc phát sự hoang dại đến nhường nào, bởi trong thoáng chốc anh đã kịp ngửi ra mùi đàn bà hư hỏng đang bị giam hãm dưới lớp vỏ thục nữ.
Thật...quá kích thích.
Buổi hẹn hò kiểu bình dân cũng mang lại hơi thở lãng mạn rất riêng. Tất nhiên nó sẽ hoàn hảo hơn nếu cô đã có thể gạt phăng hình bóng tên chồng lệch quẻ của mình đi.
Bữa nay anh đưa cô về.
Vậy là sau gần một tháng, cuối cùng anh cũng nhích thêm gần cô hơn chút đỉnh. Anh đã có email, số điện thoại, và giờ là địa chỉ nhà cô. Hóa ra cô ở trong chung cư trung cấp giữa lòng quận Nolita. Anh đứng ngắm nhìn tòa nhà, nom cũng xinh xắn và ấm áp. Theo lời cô kể, vợ chồng cô đang tạm ở thuê và dành dụm tiền để sắp tới tậu căn hộ riêng. Cô thật kỳ lạ. Anh biết cô giỏi giang, xông xáo và sự nghiệp khá thành công, chưa kể phẩm cách cũng rất thú vị, song cô lại bằng lòng bên một anh chồng nhạt nhẽo. Sam từng bảo anh rằng dụ gái thì cứ đập tiền và sex là chắc kèo, cơ mà, anh hiểu rằng để kéo người phụ nữ đặc biệt kia về phía mình, chỉ còn cách giăng bẫy nàng bằng lưới tình lãng mạn ngọt ngào.
Song đến chính anh cũng hơi chút mông lung, thời gian anh còn lại không nhiều, liệu anh có thể chiến thắng cuộc chơi tình ái này chăng? Akihiko trở lại vào xe và vớ bừa một cái băng cát-xét trong ba lô rồi bật đài, nhạc vang lên, giai điệu nhồn nhộn, ồ, ngẫu nhiên thay, lại một bài hát tiếng Việt thưở niên thiếu cô hay líu lo. Anh chợt thấy nhẹ lòng hẳn.
"Người vừa hiền khô, dễ thương Lại vừa đẹp trai nhất vùng Đến theo cùng hoa cỏ mùa xuân
Và mùa xuân biết em Biết em đã mang một mối tình U ơ u ơ... Biết em! Biết em... Thế nên cỏ hoa thật là dễ thương"
Chương IV Chú giải chương V Chương VI
4 notes
·
View notes
Text
Đọc sách cùng bạn: Thức dậy tiếng người
Cuốn sách ra nhân dịp 100 ngày nhà văn qua đời. Cùng với cuốn này Nhà xuất bản Phụ Nữ Việt Nam còn cho ra mắt cuốn "Nguyễn Xuân Khánh, một nụ cười mỉm, một nghiệp văn xuôi" tập hợp nhiều bài viết về con người và sự nghiệp của nhà văn.
Thường bạn đọc yêu mến một nhà văn đọc các tác phẩm của ông/bà ta rồi vẫn còn muốn được biết thêm những cái viết khác của họ nữa, ở đằng sau và bên ngoài những nhân vật mà họ đã tạo ra trên trang sách. Bạn đọc tò mò ông/bà nhà văn ấy đã sống một cuộc đời ra sao, đã nghĩ suy gì về đời sống và văn chương, đã nhìn mình và đồng nghiệp như thế nào. Nghĩa là bạn đọc ngoài cái viết hư cấu còn muốn đọc những cái viết phi hư cấu của nhà văn thuộc dạng tự truyện, hồi ký, bàn luận văn chương, chân dung văn học.
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh nổi tiếng trong hai chục năm qua khi ông quay lại văn đàn với những cuốn tiểu thuyết đồ sộ về số trang và dung lượng viết về lịch sử phong tục văn hóa nước nhà. Đó là các cuốn Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa, Chuyện ngõ nghèo. Sinh thời ông là người vui vẻ, dí dủm trong các câu chuyện văn chương cùng bạn bè, đồng nghiệp với nhiều kỷ niệm, hồi ức, nhận xét khiến nhiều người kêu lên sao không viết ra đi và giục ông ghi lại.
Nghe thế ông chỉ cười cười. Thảng hoặc ở một hội thảo, tọa đàm nào đó ông được mời dự thì có khi ông phát biểu miệng, có khi viết ra bài đọc. Mà mỗi lần như thế anh em lại thúc ông viết dạng đó. Cứ nghĩ, ông chỉ giữ lại những chuyện buồn vui văn thơ một thời của thế hệ mình trong tâm trí mình thôi. May sao ông đã có viết lại. Không nhiều nhưng đã đủ để làm thành cuốn sách này ra mắt vào dịp một trăm ngày nhà văn rời cõi thế, giã từ cuộc đời và văn chương.
TIẾNG NGƯỜI TRONG VĂN
Tác giả: Nguyễn Xuân Khánh
Nhà xuất bản Phụ Nữ Việt Nam, 2021
Số trang: 332 (khổ 13,5x20,5cm)
Số lượng: 2000 (1792 bìa thường, 208 bìa cứng)
Giá bán: 120.000
Cuốn sách cho thấy, ta biết, ta gặp một Nguyễn Xuân Khánh trong cuộc đời thường và cuộc đời văn chương. Từ cảnh ngộ riêng của ông đến cảnh ngộ riêng của các bạn ông, trong những vui buồn sướng khổ của kiếp nhân sinh và kiếp văn nhân, để rồi mỗi người trong số họ đều đã mang vác trọn cây thánh giá của mình đi đến cuối con đường sống, con đường văn.
Một hành trình làm người, làm văn trải qua những "vết cắt". Đó là cái tên Nguyễn Xuân Khánh đặt cho bài viết về nhà thơ Trần Dần (1926 – 1997). Nhà thơ "Nhất định thắng" rất thích một khái niệm của nhà triết học Pháp Gaston Bachelar.
Ông Khánh viết: "Đó là khái niệm "vết cắt tri thức luận" (coupure épistémologique) hay "gián đoạn tri thức luận", (rupture épistémologique). Nghĩa là, ông cho rằng cái nhận thức mới vừa phủ định, vừa bao gồm cả cái nhận thức cũ. Và để đi tới nhận thức mới, con người phải trải qua một quá trình rất gay gắt, phải vượt qua những chướng ngại tri thức luận (obstacle épistémologique)".
Đây là một khái niệm khoa học nói về quá trình nhận thức, hiểu biết của con người. Nhưng mở rộng nó ra cuộc đời và văn chương, có thể đọc cuốn sách này của Nguyễn Xuân Khánh theo ba "vết cắt" xuyên suốt đường đời đường văn của ông.
Thứ nhất là cuộc đời của nhà văn. "Vết cắt" xảy ra khi ông mới là đứa trẻ lên sáu phải theo mẹ về sống bên ngoại vì bố ông mất sớm. Hình ảnh người mẹ góa mới ba mươi tuổi xõa tóc cầm con dao phay múa trước mâm cúng trước khi dắt con rời khỏi quê chồng đã ám sâu vào tâm khảm ông. Nó đã cho ông nghị lực và quyết tâm sau này làm người và làm nhà văn.
"Đời tôi lắm lúc chua cay thất bại, tôi thường nhớ đến cái mâm đồng trên đầu tường hoa và hình ảnh của mẹ tôi đêm ấy. Và tôi lại tự nhủ lòng. Không được nản chí. Không thể chịu thua. Nào hãy cố lên".
Thứ hai là cuộc đời các bạn văn. Đó là Trần Dần, Lê Bầu, Nguyễn Dậu, Phạm Toàn, Dương Tường, Bùi Ngọc Tấn, và những người khác nữa. Mỗi người trong đây đều có một "vết cắt" số phận của mình. Nguyễn Xuân Khánh và họ là những người bạn hoạn nạn "cùng một kiếp bên trời lận đận", yêu con người, yêu văn chương, và muốn được sống ngay thẳng, trung thực trong đời và trong văn.
"Họ là những người lãng mạn hoài nghi. Họ yêu quý mọi người và khinh bỉ tất cả những kẻ không cho con người được sống đúng phận người. Làm nhà hoài nghi giờ là một việc tầm thường. Nhưng làm nhà lãng mạn hoài nghi thì đó mới là anh hùng".
Tôi nhớ tới câu này của nhà thơ Nga Yevgeny Yevtushenko (1932 - 2017) viết về nhà thơ Bungary Stefan Shanev khi đọc những bài viết chân dung bạn văn của Nguyễn Xuân Khánh. Ông viết về bạn cũng là viết về mình, và qua đó cũng là viết cả về một thế hệ, một thời kỳ lịch sử. Những bài viết sinh động, cảm động, sâu sắc và thấm thía về từng con người trong thân phận văn chương.
Và rõ ra tính cách, hình bóng từng người như Phạm Toàn thích hồn nhiên, nghịch ngợm; Nguyễn Dậu giữa thực và bịa khó lần… Bên cạnh đó, những bài viết về Nguyễn Triệu Luật, Tô Hoài, Vũ Bằng là cách Nguyễn Xuân Khánh đọc người đi trước để thêm cho cái sống cái viết của mình những chiêm nghiệm sâu sắc.
Thứ ba là hành trình văn chương của Nguyễn Xuân Khánh. Theo những lời tự thuật của nhà văn thì ông đã nuôi mộng nhà văn từ nhỏ. "Vết cắt" đầu tiên giúp cậu bé Khánh hơn mười tuổi đầu bỏ làm thơ vớ vẩn để quyết chuyển sang viết tiểu thuyết là tác phẩm của các nhà văn thế giới mà cậu may mắn được đọc.
"Cám ơn những nhà văn nghiêm túc của thế giới. Nhờ họ tôi mới vỡ ra thế nào là văn học tây phương và thế nào là thứ văn học nghiêm túc nhân đạo chủ nghĩa".
Cũng từ "vết cắt" này, về sau Nguyễn Xuân Khánh đã có "vết cắt" khác để tự mình chọn một lối đi riêng cho mình mà bước ngoặt là tiểu thuyết "Hoang tưởng trắng" viết năm 1974 (in lần đầu năm 1985 với tên "Miền hoang tưởng", in lần sau năm 2016 với tên gốc) đã khiến ông bị lao đao. Rồi đến tiểu thuyết "Chuyện ngõ nghèo" (tên gốc "Trư cuồng") cũng phải hơn ba mươi năm sau khi viết ra mới được xuất bản. Chuyện về cuốn sách đó đã được nhà văn kể lại trong sách này.
Xuyên qua những "vết cắt" đó ta thấy hiện lên con người nhà văn Nguyễn Xuân Khánh luôn để ý học hỏi các bậc thầy, các bậc tiền bối, các đồng nghiệp và đúc rút kinh nghiệm viết của mình để có những chiêm nghiệm suy ngẫm về nghề văn và nghệ thuật viết văn.
Ngay khi tập sự viết cuốn tiểu thuyết đầu tay (bản thảo về sau thất lạc) chàng thanh niên 16 tuổi Nguyễn Xuân Khánh đã nhận ra một điều: "Viết tiểu thuyết khó nhất là tạo ra được không khí". Từ đó càng đi sâu vào nghề ông càng phát hiện nhiều điều vẫn có thể bổ ích và c��n thiết cho người viết bây giờ nói chung. Ví như mỗi nhà văn nên có một miền quê như là cái "sân sau" của mình, từ đó mà rút ra các chất liệu để viết.
Ví như nhà văn viết gì cũng đều ít nhiều gắn với sự trải nghiệm của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp. Ví như tự truyện vẫn có thể có hư cấu miễn là logic và không tự đánh bóng mình đến thành lố bịch. Cũng bằng con mắt nghề nghiệp của một người sáng tác Nguyễn Xuân Khánh khi đọc các tác giả khác lại có những nhận xét sắc sảo, tinh tế của một nhà phê bình văn học.
Đọc "Thương nhớ mười hai" ông thấy "Vũ Bằng có cả cái duy lý logic của ký tây phương, có cả cái bay bướm thâm trầm của ký đông phương. Liên tưởng tiếp nối liên tưởng. Những liên tưởng bất ngờ." Đọc thơ Trần Dần ông nhận ra "Anh Dần hay dùng những chữ xưa rất cổ. Chữ cũ, nhưng khi anh dùng, khi nó rơi vào hệ thống từ ngữ của anh thì nó bỗng trở nên long lanh có hồn rất lạ".
Ở chiều ngược lại, Nguyễn Xuân Khánh cũng cần sự nhận xét của người khác về văn mình. Khi có lần ông hỏi bạn là nhà văn Châu Diên (Phạm Toàn), một người rất ghét giọng văn nghiêm túc đạo mạo, rằng văn mình có nghiêm túc quá không thì nhận được câu trả lời nghiêm túc trong tình đồng nghiệp bạn bè: "Cũng hơi hơi, nhưng được cái mày viết có chất "tình tang" nên cũng bớt đi cái sự nghiêm trang. Đời phải vui vẻ chứ mày. Tội gì mà cứ mặc complet quanh năm suốt tháng." Người văn được người nhìn và nhìn được người như vậy là đã tới độ thành thật trong nghề.
Cuốn sách này là tác phẩm cuối cùng của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh mà tiếc thay ông đã không còn được nhìn thấy. Có thể còn sống thì ông chưa muốn nó in ra vì ông còn viết thêm, trong lặng lẽ của lòng mình, biết đâu... Nhưng may là từ những bài ông đã viết để lại, bạn đọc yêu quý nhà văn đã có nó hôm nay, để đọc nó như vẫn được nghe nhà văn trò chuyện, tâm sự về người, về đời, về văn.
Sau tất cả những "vết cắt" của nhận thức, của cảnh ngộ, của nghề nghiệp, cái còn lại trên trang văn của Nguyễn Xuân Khánh là tiếng người. Tiếng người mà ông nghe vọng lên từ trang viết của bạn mình – nhà văn Châu Diên – kể về một anh địa chất hàng năm ở trong rừng chỉ nghe chim kêu vượn hót suối chảy lá reo. Có đủ thứ âm thanh chỉ bặt tiếng người. Cho đến một hôm anh bỗng nghe thấy tiếng hai phụ nữ dân tộc nói với nhau thì trào nước mắt, vì tuy nghe không hiểu gì nhưng đó chính thực là tiếng người của anh lâu nay anh khao khát, chờ đợi.
Ông Khánh viết: "Châu Diên ơi! Không biết mình có diễn tả đúng tinh thần của cái truyện ngắn của cậu không. Nhưng tớ cảm nhận được nó như thế đấy. Vả lại, đọc sách là như thế. Trong mình đã có sẵn một tiếng người. Cậu đã gẩy cây đàn và làm thức dậy, đã gây cộng hưởng cái nốt đàn tiếng người vốn ngủ lịm trong tôi. Nghe tiếng của cậu, dây tơ của tôi thức giấc." Nhà văn đã nghe được tiếng người trong văn của nhau.
Nhà văn muốn truyền được tiếng người đó vọng tới lòng bạn đọc để thức dậy tiếng người trong họ. "Người đọc người thương nhau" (Chế Lan Viên) trong cùng tiếng người. Văn chương không làm thức giấc được ở người đọc tiếng người cộng hưởng, lan tỏa, không là văn chương.
Đó có thể coi là một tâm niệm văn chương của Nguyễn Xuân Khánh. Ông đã làm được trong sáng tác. Trong cuốn sách này, gồm những bài viết ở dạng hồi ức văn chương, ông để lại cho bạn văn và bạn đọc những nghĩ suy trên hành trình đi qua những vết cắt để vẫn giữ được tiếng người. Trong đời và trong văn.
Hẹn bạn lần tới với một cuốn sách mới khác.
0 notes
Text
Soạn bài Chiều xuân
Soạn bài Chiều xuân, Giáo án Tiny sẽ cung cấp tài liệu Soạn văn 11: Chiều xuân, hy vọng sẽ giúp ích cho học sinh khi chuẩn bị bài về tác phẩm này. Soạn bài Chiều xuân Bài thơ Chiều xuân đã khắc họa vẻ đẹp của chiều xuân bình dị, mộc mạc. Đồng thời diễn tả tình yêu quê hương đất nước của tác giả. Tác phẩm sẽ được giới thiệu trong chương trình Ngữ văn lớp 11. Tài Liệu Tiny Edu sẽ cung cấp tài…
View On WordPress
0 notes
Text
Kiến thức các loại phong cách chức năng ngôn ngữ trong văn bản. THPT Ngô Thì Nhậm sưu tầm, tổng hợp các loại phong cách chức năng ngôn ngữ của lớp 12: sinh hoạt, nghệ thuật, báo chí, chính luận, hành chính, khoa học. Để học tốt môn Ngữ văn lớp 12, mời các em tham khảo bài Hệ thống các loại phong cách chức năng ngôn ngữ trong văn bản được tổng hợp bởi THPT Ngô Thì Nhậm: Hệ thống các loại phong cách chức năng ngôn ngữ lớp 12 đầy đủ nhất Hệ thống kiến thức về 6 phong cách ngôn ngữ văn bản, cách phân biệt các phong cách ngôn ngữ, cách làm câu đọc hiểu: Xác định phong cách ngôn ngữ văn bản. Có 6 phong cách ngôn ngữ chính sau : Phong cách chức năng ngôn ngữ sinh hoạtPhong cách chức năng ngôn ngữ nghệ thuậtPhong cách chức năng nông ngữ chính luậnPhong cách chức năng ngôn ngữ khoa họcPhong cách chức năng ngôn ngữ báo chíPhong cách chức năng ngôn ngữ hành chính - công vụ 1. Phong cách chức năng ngôn ngữ sinh hoạt a/ Ngôn ngữ sinh hoạt: - Là lời ăn tiếng nói hằng ngày dùng để trao đổi thông tin, ý nghĩ, tình cảm,… đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. - Có 2 dạng tồn tại: + Dạng nói + Dạng viết: nhật kí, thư từ, truyện trò trên mạng xã hội, tin nhắn điện thoại,… Ví dụ: “Hắn hầm hầm, chĩa vào mặt mụ bảo rằng: - Cái giống nhà mày không ưa nhẹ! Ông mua chứ ông có xin của nhà mày đâu! Mày tưởng ông quỵt hở? Mày thử hỏi cả làng xem ông có quỵt của đứa nào bao giờ không?...” (Chí Phèo - Nam Cao) b/ Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt: - Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt là phong cách được dùng trong giao tiếp sinh hoạt hàng ngày, thuộc hoàn cảnh giao tiếp không mang tính nghi thức. Giao tiếp ở đây thường với tư cách cá nhân nhằm để trao đổi tư tưởng, tình cảm của mình với người thân, bạn bè,... - Đặc trưng: + Tính cụ thể: Cụ thể về không gian, thời gian, hoàn cảnh giao tiếp, nhân vật giao tiếp, nội dung và cách thức giao tiếp… + Tính cảm xúc: Cảm xúc của người nói thể hiện qua giọng điệu, các trợ từ, thán từ, sử dụng kiểu câu linh hoạt,.. + Tính cá thể: là những nét riêng về giọng nói, cách nói năng => Qua đó ta có thể thấy được đặc điểm của người nói về giới tính, tuổi tác, tính cách, sở thích, nghề nghiệp,… Xem chi tiết hướng dẫn soạn bài Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt 2/ Phong cách chức năng ngôn ngữ nghệ thuật a/ Ngôn ngữ nghệ thuật: - Là ngôn ngữ chủ yếu dùng trong các tác phẩm văn chương, không chỉ có chức năng thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người. Nó là ngôn ngữ được tổ chức, sắp xếp, lựa chọn, gọt giũa, tinh luyện từ ngôn ngữ thông thường và đạt được giá trị nghệ thuật – thẩm mĩ. - Chức năng của ngôn ngữ nghệ thuật: chức năng thông tin và chức năng thẩm mĩ. - Phạm vi sử dụng: + Dùng trong văn bản nghệ thuật: ngôn ngữ tự sự (truyện ngắn, tiểu thuyết, phê bình, hồi kí…); ngôn ngữ trữ tình (ca dao, vè, thơ…); ngôn ngữ sân khấu (kịch, chèo, tuồng…) + Ngoài ra ngôn ngữ nghệ thuật còn tồn tại trong văn bản chính luận, báo chí, lời nói hằng ngày… Ví dụ: "Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời" (Chiều xuân - Anh Thơ) b/ Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật: - Là phong cách được dùng trong sáng tác văn chương, nó không có giới hạn về đối tượng giao tiếp, không gian và thời gian giao tiếp. - Đặc trưng: + Tính hình tượng: Hình tượng là cái được gợi ra từ cái cụ thể của ngôn từ biểu đạt thông qua sự liên tưởng của người nghe, người đọc.Ngôn ngữ có tính hình tượng không chỉ miêu tả sự vật hiện tượng mà còn gợi cho người nghe, người đọc những liên tưởng khác, ngoài sự vật hiện tượng được miêu tả trực tiếp đó => Hệ quả: tính đa nghĩa, tính hàm súc.Xây dựng hình tượng chủ yếu bằng các biện pháp tu từ: ẩn dụ, nhân hóa, so sánh, hoán dụ, điệp… + Tính truyền cảm: ngôn ngữ của người nói, người viết có khả năng gây cảm xúc, ấn tượng mạnh với người nghe, người đọc. + Tính cá thể: Là dấu ấn riêng của mỗi người, lặp đi lặp lại nhiều lần qua trang viết, tạo thành phong cách nghệ thuật riêng. Tính cá thể hóa của ngôn ngữ còn thể hiện trong lời nói của nhân vật trong tác phẩm.
3/ Phong cách chức năng ngôn ngữ chính luận a/ Ngôn ngữ chính luận: - Là ngôn ngữ dùng trong các văn bản chính luận hoặc lời nói miệng trong các buổi hội nghị, hội thảo, nói chuyện thời sự,... nhằm trình bày, bình luận, đánh giá những sự kiện, những vấn đề về chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng,... theo một quan điểm chính trị nhất định. - Có 2 dạng tồn tại: dạng nói và dạng viết. Ví dụ: "Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!” (Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh) b/ Các phương tiện diễn đạt: - Về từ ngữ: sử dụng ngôn ngữ thông thường nhưng có khá nhiều từ ngữ chính trị; ngược lại, nhiều từ ngữ chính trị có nguồn gốc từ văn bản chính luận nhưng được dùng rộng khắp trong sinh hoạt chính trị nên đã thấm vào lớp từ thông dụng, người ta không còn quan niệm đó là từ ngữ lí luận nữa (đa số, thiểu số, dân chủ, bình đẳng, tự do,...) - Về ngữ pháp: Câu thường có kết cấu chuẩn mực, gần với những phán đoán logic trong một hệ thống lập luận. Liên kết các câu trong văn bản rất chặt chẽ (Vì thế, Do đó, Tuy... nhưng....) - Về các biện pháp tu từ: sử dụng nhiều biện pháp tu từ để tăng sức hấp dẫn cho lí lẽ, lập luận. c/ Đặc trưng phong cách ngôn ngữ chính luận: Là phong cách được dùng trong lĩnh vực chính trị xã hội. - Tính công khai về quan điểm chính trị: Văn bản chính luận phải thể hiện rõ quan điểm của người nói/ viết về những vấn đề thời sự trong cuộc sống, không che giấu, úp mở. Vì vậy, từ ngữ phải được cân nhắc kĩ càng, tránh dùng từ ngữ mơ hồ; câu văn mạch lạc, tránh viết câu phức tạp, nhiều ý gây những cách hiểu sai. - Tính chặt chẽ trong diễn đạt và suy luận: Văn bản chính luận có hệ thống luận điểm, luận cứ, luận chứng rõ ràng, mạch lạc và sử dụng từ ngữ liên kết rất chặt chẽ: vì thế, bởi vây, do đó, tuy... nhưng..., để, mà,.... - Tính truyền cảm, thuyết phục: Thể hiện ở lí lẽ đưa ra, giọng văn hùng hồn, tha thiết, bộc lộ nhiệt tình của người viết. 4/ Phong cách chức năng ngôn ngữ khoa học a/ Văn bản khoa học và ngôn ngữ khoa học: - Văn bản khoa học gồm 3 loại: + Văn bản khoa học chuyên sâu: dùng để giao tiếp giữa những người làm công việc nghiên cứu trong các ngành khoa học (chuyên khảo, luận án, luận văn, tiểu luận,…) + Văn bản khoa học và giáo khoa: giáo trình, sách giáo khoa, thiết kế bài dạy,… Nội dung được trình bày từ thấp đến cao, dễ đến khó, khái quát đến cụ thể, có lí thuyết và bài tập đi kèm,… + Văn bản khoa học phổ cập: báo, sách phổ biến khoa học kĩ thuật,… nhằm phổ biến rộng rãi kiến thức khoa học cho mọi người, không phân biệt trình độ -> viết dễ hiểu, hấp dẫn. - Ngôn ngữ khoa học: là ngôn ngữ được dùng trong giao tiếp thuộc lĩnh vực khoa học, tiêu biểu là các văn bản khoa học. Tồn tại ở 2 dạng: nói (bài giảng, nói chuyện khoa học,…) và viết (giáo án, sách, vở,…) Ví dụ: “Đau mắt đỏ hay còn gọi là viêm kết mạc là tình trạng nhiễm trùng mắt thường gặp do vi khuẩn hoặc virut gây ra hoặc phản ứng dị ứng với triệu chứng đặc trưng là đỏ mắt. Bệnh thường khởi phát đột ngột (cấp tính), lúc đầu ở một mắt sau lây sang mắt kia…” b/ Đặc trưng phong cách ngôn ngữ khoa học: - Tính khái quát, trừu tượng: + Ngôn ngữ khoa học dùng nhiều thuật ngữ khoa học: từ chuyên môn dùng trong từng ngành khoa học và chỉ dùng để biểu hiện khái niệm khoa học. + Kết cấu văn bản: mang tính khái quát (các luận điểm khoa học trình bày từ lớn đến nhỏ, từ cao đến thấp, từ khái quát đến cụ thể) - Tính lí trí, logic: + Từ ngữ: chỉ dùng với một nghĩa, không dùng các biện pháp tu từ. + Câu văn: chặt chẽ, mạch lạc, là một đơn vị thông tin, cú pháp chuẩn. + Kết cấu văn bản: Câu văn liên kết chặt chẽ và mạch lạc. Cả văn bản thể hiện một lập luận logic. - Tính khách quan, phi cá thể: + Câu văn trong văn bản khoa học: có sắc thái trung hoà, ít cảm xúc + Khoa học có tính khái quát cao nên ít có những biểu đạt có tính chất cá nhân Tham khảo thêm hướng dẫn: soạn bài Phong cách ngôn ngữ khoa học 5/ Phong cách chức năng ngôn ngữ báo chí
a/ Ngôn ngữ báo chí: - Là ngôn ngữ dùng để thông báo tin tức thời sự trong nước và quốc tế, phản ánh chính kiến của tờ báo và dư luận quần chúng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Tồn tại ở 2 dạng: nói (thuyết minh, phỏng vấn miệng trong các buổi phát thanh/ truyền hình…) và viết (báo viết) - Ngôn ngữ báo chí được dùng ở những thể loại tiêu biểu là bản tin, phóng sự, tiểu phẩm,… Ngoài ra còn có quảng cáo, bình luận thời sự, thư bạn đọc,… Mỗi thể loại có yêu cầu riêng về sử dụng ngôn ngữ. Ví dụ: “Sau khi Bộ GD và ĐT công bố phương án một kỳ thi chung thực hiện từ năm 2015, nhiều vấn đề vẫn được tiếp tục mổ xẻ. Để người dân hiểu rõ hơn về kỳ thi, lãnh đạo Cục khảo thí và Kiểm định chất lượng tiếp tục giải đáp các thắc mắc.” (Nguồn http://vnexpress.net/) b/ Các phương tiện diễn đạt: - Về từ vựng: sử dụng các lớp từ rất phong phú, mỗi thể loại có một lớp từ vựng đặc trưng. - Về ngữ pháp: Câu văn đa dạng nhưng thường ngắn gọn, sáng sủa, mạch lạc. - Về các biện pháp tu từ: Sử dụng nhiều biện pháp tu từ để tăng hiệu quả diễn đạt. Ngoài ra, báo nói đòi hỏi phát âm rõ ràng, khúc chiết; ở báo viết phải chú ý đến khổ chữ, kiểu chữ, màu sắc, hình ảnh,… để tạo điểm nhấn => nét riêng của phong cách ngôn ngữ báo chí. c/ Đặc trưng của phong cách ngôn ngữ báo chí: - Tính thông tin thời sự: Thông tin nóng hổi, chính xác về địa điểm, thời gian, nhân vật, sự kiện,… - Tính ngắn gọn: Lời văn ngắn gọn nhưng lượng thông tin cao (bản tin, tin vắn, quảng cáo,…). Phóng sự thường dài hơn nhưng cũng không quá 3 trang báo và thường có tóm tắt, in đậm đầu bài báo để dẫn dắt. - Tính sinh động, hấp dẫn: Các dùng từ, đặt câu, đặt tiêu đề phải kích thích sự tò mò của người đọc. 6/ Phong cách chức năng ngôn ngữ hành chính - công vụ a/ Văn bản hành chính và ngôn ngữ hành chính: - Văn bản hành chính là văn bản đu��c dùng trong giao tiếp thuộc lĩnh vực hành chính. Ðó là giao tiếp giữa Nhà nước với nhân dân, giữa nhân dân với cơ quan Nhà nước, giữa cơ quan với cơ quan, giữa nước này và nước khác trên cơ sở pháp lí (thông tư, nghị định, đơn từ, báo cáo, hóa đơn, hợp đồng…) - Chức năng: thông báo và sai khiến. Chức năng thông báo thể hiện rõ ở giấy tờ hành chính thông thường, ví dụ như: văn bằng, chứng chỉ các loại, giấy khai sinh, hoá đơn, hợp đồng... Chức năng sai khiến bộc lộ rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản của cấp trên gởi cho cấp dưới, của nhà nước đối với nhân dân, của tập thể với các cá nhân. - Ngôn ngữ hành chính là ngôn ngữ được dùng trong các văn bản hành chính. Đặc điểm: + Cách trình bày: thường có khuôn mẫu nhất định + Về từ ngữ: sử dụng lớp từ hành chính với tần số cao + Về kiểu câu: câu thường dài, gồm nhiều ý, mỗi ý quan trọng thường được tách ra, xuống dòng, viết hoa đầu dòng. b/ Đặc trưng phong cách ngôn ngữ hành chính: - Tính khuôn mẫu: Kết cấu 3 phần + Phần đầu: Quốc hiệu và tiêu ngữTên cơ quan ban hành văn bản, dưới là số hiệu văn bảnĐịa điểm, thời gian ban hành văn bản + Phần chính: Nội dung chính của văn bản + Phần cuối: Chức vụ, chữ kí, họ tên của người kí văn bản, dấu của cơ quanNơi nhận - Tính minh xác: Không dùng phép tu từ, lối biểu đạt hàm ý hoặc mơ hồ về nghĩa. Không tùy tiện xóa bỏ, thay đổi, sửa chữa nội dung. Đảm bảo chính xác từng dấu câu, chữ kí, thời gian. Gồm nhiều chương, mục để tiện theo dõi. - Tính công vụ: Không dùng từ ngữ biểu hiện quan hệ, tình cảm cá nhân (nếu có cũng chỉ mang tính ước lệ: kính mong, kính gửi, trân trọng cảm ơn,…). Dùng lớp từ toàn dân, không dùng từ địa phương, khẩu ngữ,… Ví dụ: Đơn xin nghỉ học, Hợp đồng thuê nhà,... ******** Trên đây là hệ thống kiến thức các phong cách chức năng ngôn ngữ trong văn bản, bao gồm những kiến thức cơ bản về các loại phong cách chức năng ngôn ngữ lớp 12, cùng với đó là những ví dụ cụ thể mà THPT Ngô Thì Nhậm đã sưu tầm. Hy vọng những tài liệu ngữ văn lớp 12 này sẽ giúp các em dễ dàng tiếp thu kiến thức để học tập tốt hơn. Chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao nhé!
0 notes
Photo
Con đường sủng hậu ( truyện gần như kiểu điền văn quá trình lớn lên và cuộc đời của nam nữ chính , gần 300 chương).
Tìm đọc truyện này sau khi đọc bộ “9 giấc mộng xuân của nữ hái hoa tặc”, vào review thấy 1 chị comment bảo đang luyện bộ này, tò mò muốn đọc thử xem sao vì mình khá Ngôn Tình 24 kia. Cũng cảm thấy không tiếc thời gian để bỏ ra đọc một bộ truyện như vậy.
Một câu chuyện trùng sinh, sống lại sau khi chết . Nhưng cái lạ ở đây là cốt truyện khác với motip trùng sinh bình thường . Nữ chính kiếp trước cuộc sống không có thù hận, cũng chẳng có tranh đấu gì hết, hẳn mọi người sẽ tò mò vậy trùng sinh người ấy sẽ thay đổi những gì ? Làm cách nào để tạo nên sự đặc biệt ?
Phó Dung sinh ra trong một gia đình hạnh phúc. Phụ thân là quan Tứ phẩm, tri phủ Tín Đô cách xa triều đình. Tuy là Nhị phòng của Cảnh Dương Hầu phủ nhưng quan hệ với Đại phòng cũng khá ổn, không có tranh chấp hay mâu thuẫn gì. Phụ thân nàng cả đời chỉ có một người vợ, mẹ của Phó Dung. Nàng là Tam tiểu thư, trên có 1 anh 1 chị, dưới có 1 em gái 1 em trai. Tam tiểu thư của Tri phủ Tín Đô, từ nhỏ lớn lên trong sự cưng chiều và yêu thương của cha mẹ, hưởng hết sủng nịnh của các anh chị, các em nhỏ ngoan ngoãn vâng lời. Đời trước của nàng gặp được Từ Yến, người nam nhân đầu tiên. Từ Yến yêu nàng, thương nàng, dịu dàng với nàng và muốn dâng tất cả những gì tốt đẹp nhất đến với nàng. Phó Dung có yêu Từ Yến không? Không. Mình đọc truyện thấy có nhiều nhận xét không thích tính cách của nữ chính. Đơn giản, vì nàng ích kỉ. Phó Dung có tình cảm với Từ Yến, và giả như nếu tình cảm của nàng với chàng không gặp phải sóng gió, có lẽ nàng đã sống với Từ Yến suốt cả cuộc đời. Nhưng tại sao mình lại nói như vậy, bởi lí do khi về đến nhà chồng, 3 năm tình cảm mặn nồng với Từ Yến không đủ đề bù đắp những uất ức mà Phó Dung phải chịu đựng. 3 năm đầu tiên, có thể nói Từ Yến sủng nàng lên tận trời. Người đàn ông ấy luôn luôn dịu dàng đáp ứng mọi yêu cầu của nàng, cắt tỉa từng chiếc móng chân móng tay cho nàng, xoa bóp chân cho nàng, cõng nàng với những lời tâm tình thủ thỉ. Thế nhưng khi mẹ của Từ Yến – Quận Vương Phi và em gái của chàng từ kinh thành trở về, cuộc sống của Phó Dung hoàn toàn thay đổi. Mẹ của Từ Yến không thích nàng, thêm một cô em gái điêu ngoa khiến họ luôn tìm mọi cách khiến Phó Dung phải khó khăn. Từ Yến tuy yêu nàng, nhưng chàng cũng yêu mẫu thân, yêu em gái của mình. Đứng trong sự lựa chọn giữa mẹ và Phó Dung, Từ Yến chẳng thể làm gì, chàng bất lực. Phó Dung không thể chịu đựng được tình cảnh ấy, nàng là thiên chi kiều nữ trong lòng cha mẹ, hà cớ sao lại phải chịu oan khuất vô cớ nơi nhà chồng. Vì vậy, mặc cho Từ Yến đau khổ ra sao, mặc cho tình cảm của nàng và chàng vẫn còn ở đó, nhưng vì không đủ yêu sau sắc, nàng vẫn quyết định hòa ly, trả lại tự do cho cả hai người.
Đời trước, chị của Phó Dung chịu đau khổ mà chết. Em trai nhỏ của nàng cũng gián tiếp bị hãm hại mà chết. Cuộc sống của Phó Dung sau khi hòa ly trắc trở. Nàng lên kinh thành, sống nhờ ở Cảnh Dương Hầu phủ. Phó Dung thông minh, nhưng cũng nhiều mưu kế. Nàng sắp đặt muốn làm thiếp của An Vương – Nhàn Vương – không có thiếp thất, mục đích để có thể có cuộc sống hạnh phúc sau này. Phó Dung rất đẹp. Nàng tự tin vào nhan sắc của mình, tự tin bất cứ nam nhân nào nhìn thấy nàng cũng phải say mê, vì vậy khi tấn công An Vương, nàng đã dùng sắc dụ. Mình đã từng đọc nhiều câu truyện miêu tả nữ chính đẹp , nhưng vẫn rất ấn tượng với nhan săc của bạn Phó Dung này. Phó Dung giả ngã vào An Vương, thế nhưng chẳng may người đỡ nàng lại là Từ Tấn – Túc Vương gia nổi tiếng không gần nữ sắc. Lại nói đến vị Túc Vương này, từ nhỏ chàng bị mắc căn bệnh lạ, không thể gần nữ giới. Chẳng thể ngờ Phó Dung chính là người duy nhất mà chàng c�� thể chạm vào. Hiển nhiên, Phó Dung trở thành thiếp của Từ Tấn. Đời trước, Từ Tấn yêu nàng. Nhưng thâm tâm chàng luôn có một suy nghĩ rằng nàng đã từng hòa ly, từng có một đời chồng trước, nàng không trong sạch khi đến với chàng vì vậy Từ Tấn luôn đối xử lạnh lùng, vô cảm với nàng. Là thiếp của Từ Tấn, Phó Dung hiểu đời nàng đã định. Nàng an phận , nàng ngoan ngoãn làm một di nương, làm công cụ để chàng phát tiết, nhưng cũng là người phụ nữ duy nhất của chàng. Phó Dung của kiếp trước không yêu Từ Tấn. Với nàng, Từ Tấn có lẽ chỉ để dựa vào mà chẳng phải để yêu, nàng đối xử với Từ Tấn không có điểm nào không đúng mực, nhưng đó chỉ như một điều lệ cho, một “công việc” bắt buộc phải làm. Phó Dung có 1 năm sống với Từ Tấn, thế rồi khi chàng phải ra chiến trường dẹp loạn lồi hi sinh ở nơi ấy, nàng lại một lần nữa mất đi chỗ dựa thứ 2. Biến cố của 1 năm sau, tất cả các vương gia trong cuộc tranh đấu giành ngai vàng gần như chẳng còn lại ai, chỉ riêng mình An Vương thành thơi bước lên ngôi báu. Phó Dung chẳng ngại phận mình, vẫn muốn hướng đến với An Vương Từ Bình, một lòng sắp đặt tình huống gặp mặt. Thế nhưng không may cho nàng, chưa kịp thực hiện kế hoạch thì đã bị người khác ám hại, đẩy xuống hồ mà chết.
Sống lại từ đầu Phó Dung quay về năm 13 tuổi, thời điểm nàng vừa mới rơi xuống hồ, nhiễm bệnh thủy đậu, không may không biết phòng tránh mà vô tình gây ra cái chết của em trai. Nàng một mực muốn thay đổi quá khứ, muốn làm lại từ đầu. Phó Dung lấy lí do ham chơi tìm mọi cách xin cha mẹ cho về biệt viện. Thời điểm bệnh chưa phát, nàng khôn khéo để cha mẹ không nghi ngờ hành động của nàng. Vô tình khi ở thôn trang, một thần y đi qua xin tá túc. Cố tình lại xem bệnh cho nàng. Phó Dung âm thầm thở phào khi có lí do chính đáng, nàng bảo cha mẹ về rồi xin ở lại đó dưỡng bệnh. Mấy ngày sau, có một vị khách đi ngang qua xin tá túc lại đó một đêm, huynh trưởng Phó Thần thoải mái đồng ý, lại chẳng hề biết đã dẫn sói vào nhà ...
Từ Tấn của kiếp sau, sống lại trước Phó Dung 1 năm, khi chàng 17 tuổi. Mục đích khi sống lại đầu tiên đó là đi tìm Phó Dung, xuất hiện trong cuộc đời nàng trước khi gặp Từ Yến, thay đổi cuộc đời nàng, đề nàng chỉ thuộc về riêng một mình chàng. Từ Tấn ở Kinh thành, vậy mà chàng không quản ngại về Tín Đô xa xôi. Lần đầu tiên trông thấy Phó Dung của kiếp sau thì đã chẳng thể rời mắt khỏi nàng. Người con gái ấy tuy nhỏ tuổi nhưng đã vô cùng xinh đẹp, tinh nghịch cùng Phó Thần đi hái táo, làm nũng huynh trưởng. Khi ấy Từ Tấn chỉ lẳng lặng quan sát nàng, lặng lẽ ghi nhớ hình ảnh Phó Dung vào trong tâm trí của mình.
Năm ấy chàng dẫn theo tùy tùng của mình, giả làm khách tá túc tại biệt viện nhà phó dung. Tối ấy thổi mê hương vào phòng ngủ của Phó Dung, lặng lẽ ngắm nhìn nàng đang say ngủ. Từ Tấn yêu Phó Dung từ lúc nào chàng chẳng biết, chàng chỉ biết kiếp này phải có bằng được Phó Dung, cả tâm lẫn thân nàng. Túc Vương gia lạnh lùng ngạo nghễ, ấy vậy mà lại có phút giây nghịch ngợm muốn trêu cợt nàng. Lợi dụng mê hương khi nàng đang say ngủ mà cạy ra nốt mụn thủy đậu trên trán nàng, thứ mà Phó Dung hận nhất ở kiếp trước. Vì nó mà đời trước nàng mang sẹo, Phó Dung vốn yêu cái đẹp và tự hào về bản thân luôn coi đó như một vết nhơ mà cả đời nàng quyết tâm phải mang hoa điền che đi vết sẹo . Vậy nên khi sống lại nàng tìm mọi cách để bảo vệ khuôn mặt, tránh lịch sử lặp. Không may Từ Tấn lại xuất hiện, ngang ngược muốn giữ lại vết sẹo của nàng. Đối với chàng, nàng đã quá mức xinh đẹp nên chàng chẳng mảy may quan tâm vết sẹo có hay không. Từ Tấn hồn hiên cạy xuống chiếc mụn đã đóng vảy của Phó Dung, và để tránh vị nàng nghi ngờ nên chàng đặt chiếc vảy đó vào tay nàng, vờ như ban đêm nàng vô tình cạy xuống. Phó Dung không bao giờ biết được câu chuyện này, nàng tỉnh dậy và phát hiện, vô cùng tức giận và thất vọng. Giam mình trong phòng khiến huynh trưởng lo lắng, cuối cùng nàng cũng lấy lại tinh thần và muốn ra ngoài. Trong mắt Phó Dung, đó là cuộc đụng độ đầu tiên của nàng với Từ Tấn nhưng đối với chàng mọi chuyện đều được sắp đặt. Từ Tấn cứ như vậy xông vào thế giới của Phó Dung mặc cho nàng trốn tránh. Phó Dung càng trốn, chàng càng lấn tới. Từ Tấn lợi dụng sự lo lắng quan tâm của Phó Dung với gia đình mà ép buộc nàng gần gũi đến mình. Chàng hiểu tính cách của Phó Dung, nàng càng nhún nhường và tỏ ra e sợ, chàng càng lấy lí do đó để tiến gần hơn với nàng.
Phó Dung của kiếp này, tìm mọi cách cứu chị gái khỏi kẻ lang quân bạc bẽo giả tạo, cứu chị gái thoát chết. Nàng cũng từ chối Từ Yến, mặc cho một tấm chân tình. Cũng như vậy, nàng cũng mong muốn tránh xa Từ Tấn vì lo lắng chàng sẽ không thể sống sót. Biết bao cuộc đụng độ của nàng với Từ Tấn đều do một tay chàng sắp xếp. Từ Tấn với nàng, một lòng sủng nàng cưng chiều nàng nhưng vẫn chẳng thể chạm tới tim nàng. Chàng cứ tưởng Phó Dung đời nàng chàng gặp là một Phó Dung ngây thơ, nàng khóc vì yếu đuối vì chàng khi dễ, làm nũng chàng, nghe lời chàng vì yêu chàng. Từ Tấn nâng niu trân trọng dây Trường Mệnh tự tay Phó Dung tết cho chàng, mặc dù chàng biết đó là do một mình chàng ép buộc. Vì nàng, Từ Tấn giúp cho gia đình nàng có thể vào kinh sớm 3 năm, nâng đỡ vị trí của huynh trưởng cùng anh rể nàng trong quân đội (2 ông kia cũng có tài cả ). Cứ ngỡ rằng làm vậy là Phó Dung sẽ yêu chàng, nhưng Từ Tấn phát hiện chàng đã thật sai lầm. Khi nhận ra nàng cũng sống lại giống như mình, chàng vô cùng tức giận. Cảm giác chính mình như một trò chơi bị nàng đùa bỡn và lợi dụng trong lòng bàn tay, chỉ để nàng giúp người thân cuả mình. Từ Tấn thay đổi thái độ, muốn Phó Dung nhận ra nàng đã sai lầm, chẳng ngờ lại càng đau đớn hơn khi nàng nhân cơ hội đó muốn rũ bỏ hết tất cả với chàng, trả lại hết tín vật, muốn được tự do và một lòng theo đuổi An Vương . Chàng vờ cắt đứt, nhưng vẫn lặng lẽ theo dõi và quan tâm nàng. Biết bao lần nghe thuộc hạ thông báo về nàng, về những gã nam tử si mê nàng, Từ Tấn hận không thể cất giấu nàng . Biết tin nàng lén gặp mặt An Vương, rồi khi nàng và Từ Bình nói chuyện với nhau, Từ Tấn giẫm những viên trân châu trên chiếc dây trường mệnh thành bột vụn . Nhận ra không thể chờ đợi lâu hơn nữa, chàng khẩn xin phụ hoàng được lấy nàng. Tính toán nàng sẽ không đi dự thi tuyển phi, chàng cầu hoàng thượng tuyển phi cho tất cả các hoàng tử, nhân đó nàng sẽ rơi vào bẫy của chàng. Từ Tấn nhanh hơn An Vương 1 bước, chàng là người xin trước nên Phó Dung chẳng thể thoát khỏi tay chàng ...
Làm Vương phi của Từ Tấn khác với làm tiểu thiếp của chàng. Phó Dung được hưởng thụ cuộc sống ngoài những gì nàng mong đợi. Không có mẹ chồng ghét bỏ, Thục phi hiền dịu hòa nhã yêu thương. Ban đầu nang vẫn lo lắng Từ Tấn yểu mệnh , mặc cho chàng mong mỏi vẫn tìm cách thoái thác không muốn sinh con cho chàng. Vì nàng, Từ Tấn nguyện ý đợi, chàng tìm mọi cách hóa giải từng khúc mắc trong lòng nàng ...
Xem tại https://ngontinh24.com/truyen/con-duong-sung-hau-sung-hau-chi-lo
0 notes
Text
NGỪNG YÊU VÀ HẠNH PHÚC KHÔNG LÝ DO
Ngày trước ( lâu lắm rồi ), nếu ai đó hỏi tôi định nghĩa như thế nào về tình yêu!? Tôi có thể trả lời họ với đủ các ngôn từ đẹp đẽ, lung linh, bay bổng, người ta có thể nghe hay đọc tới cả tiếng đồng hồ còn chưa hết đó. Còn giờ hả? Xin lỗi, nhưng đừng hỏi tôi câu đó, vì tôi không biết đâu, không biết sẽ nói như thế nào về hai từ kinh điển đó, thiệt!
Mỗi độ tuổi khác nhau trong cuộc đời của mỗi người, chúng ta sẽ có cách nhìn nhận, đánh giá và cả những quan điểm hoàn toàn khác nhau về cuộc sống. Khi mỗi người nếm trải vừa đủ hay quá thừa các thi vị của cuộc đời dù muốn hay không đi chăng nữa và nếu như họ chịu mở lòng, bạn sẽ thấy ở đó bao khác biệt mà chúng ta sẽ không thể nào hiểu được vì ta không phải họ. Nói về riêng tình yêu thôi, tôi không còn thần tượng hóa tình yêu như thuở thanh xuân nữa. Tôi chưa bao giờ phủ nhận tình yêu, theo định nghĩa đậm đà chất văn thơ thì nó vô cùng đẹp, siêu diệu kỳ, nhiều màu sắc và phong phú về mọi cung bậc cảm xúc. Bất cứ khi nào nó đến ( bất ngờ, có chủ ý hay rất tự nhiên ) cũng sẽ làm người ta phấn chấn, vấn vương, vui buồn bất chợt, háo hức mong chờ và không ngừng hy vọng. Nó có thể làm cho người ta tràn trề sinh lực, thậm chí là nguồn cảm hứng, thúc đẩy ước mơ, tạo thêm động lực cho cuộc sống trở nên ý nghĩa... Đó là tình yêu chân chính. Nhưng tình yêu nếu đặt nó vào thực tế mà suy xét, thì lại hoàn toàn khác. Tôi, một người phụ nữ có cái nhìn rất khác về tình yêu, quan điểm cá nhân hoàn toàn trái ngược với cách nhìn chung của hầu hết nhiều người. Tuổi trẻ tôi đã đi qua rất xa rồi, thời đó tôi cũng như các bạn trẻ bây giờ, không xa lạ gì khi thanh xuân mách bảo bạn rằng, “ tình yêu à! điều không thể thiếu được trong cuộc đời, tự nhiên như hơi thở vậy và ai cũng cần có tình yêu cả. Vì thế không yêu hoặc không có người yêu là điều không thể...”. Không có gì sai hết, khi ta còn trẻ, tình yêu như một đặc quyền. Ta có quyền kiếm tìm hay chờ đợi, ta đặt để nó vào cuộc sống như một điều kiện cần và đủ cho tuổi trẻ bên cạnh những hoài bảo, ước mơ.Ta cố gắng đạt được nó, có thể bằng mọi giá, phải vậy không? Rồi thì khi có được, khi ta phải lòng ai đó thì sao nào!? Chà! cái thuở mới yêu, ta phấn khích và tràn trề hạnh phúc, bỗng chốc thế giới như rơi vào cái thuở hồng hoang, khi mà thượng đế mới tạo ra loài người, nghĩa là chỉ có Adam và Eva trên trái đất này ( theo thiên chúa giáo ). Ta say, cái say mà được ví von vỏn vẹn hai từ SAY TÌNH, và bùm một cái mọi người xung quanh lánh đâu hết rồi mà chỉ còn lại hai ta vậy!? Diệu kỳ, ngộ nghĩnh quá ha..
Nhưng thực tế, tình yêu cũng như cây cỏ, lá hoa. Nó cũng cần được vun vén và nuôi dưỡng, tinh túy của nó là sự thấu hiểu và cảm thông của cả hai con người. Nếu một người được nhận quá nhiều, còn một người không ngừng cho đi thì... Nó sẽ sớm úa tàn, khô héo và cuối cùng sẽ chết. Ngày xưa tôi từng là đứa xem tình yêu là tất cả, khi yêu tôi dốc lòng, tôi quan tâm lo lắng, nhiệt thành và nóng bỏng, tôi không ngần ngại cho đi những gì có thể. Khi yêu tôi chọn cách khó khăn, tôi yêu xa, yêu ngoài vùng an toàn nhưng tôi luôn tin tưởng. Tôi tin họ cũng yêu tôi như cái cách mà tôi đến để yêu thương họ. Tôi hy vọng, khát khao, mong chờ vào điều diệu kỳ của tình yêu ( tôi tự đặt ra cho riêng mình như thế ), tôi chưa hiểu lòng người mênh mông, sâu thẳm thế nào vì đời chưa cho tôi nếm đủ mùi vị vào thời điểm đó. Qua bao cuộc tình, chắc là nhiều hơn bốn ( có lẻ vậy ), thoáng qua hay sâu đậm... Tới giờ khi nghiệm lại tôi mới thấu. Nói dài như thế cũng chỉ để ngụy biện cho sự bồng bột đầy nông nổi của thanh xuân tôi mà thôi.
Có người từng hỏi tôi như vầy, “ em không còn tin vào tình yêu?. Không, em vẫn tin tình yêu chứ, chỉ là không tin vào người yêu mà thôi (cười to )”. Tôi đã ngừng yêu, nói thẳng và thiệt tâm là tôi không còn ưng cái cảm giác nhớ nhung một ai đó nữa, tôi không ưng cái cách ban đầu người ta phải lòng nhau, nó quá vồn vã, ồn ào khi người ta muốn cho cả thế giới biết rằng họ đang yêu, người đó thuộc về họ, của họ và vì thế xung quanh à! xin hãy tránh raaa... Ohm, tôi thấy nó trẻ con, sáo rỗng và nhạt nhẽo ( cái nhìn cá nhân tôi ). Ta luôn trân trọng hay ngộ nhận cảm xúc ban đầu?? cả hai chứ ha! Ta luôn có động thái tò mò những gì mới mẽ và xa lạ, người ta yêu cũng thế, khi ta bất chợt nhận ra ta thích họ ( cấp độ tăng giảm được tính theo ngày, tháng, năm còn tùy ), dĩ nhiên ta tôn trọng vì ta bị cuốn hút bởi điều gì đó mà nó khác biệt với bản ngã riêng ta. Cái mà khi ta còn yêu, ta coi nó là ưu điểm, dễ thương, đáng yêu biết bao nhiêu, nhưng khi ta hết yêu, ta coi nó là nhược điểm không thể bỏ qua. Vậy mới gọi là yêu, là điều tất yếu và dĩ nhiên sao!? Thế nên ta tự cho mình cái quyền cứ yêu nhưng lâu bền hay không là do duyên phận, chứ chẳng phải do ai, hóa ra là vậy!
Khi tôi dừng lại, khi tôi thôi nghĩ quá nhiều về cảm xúc cá nhân. Tôi nhận ra, yêu à! suy cho cùng thì mình yêu bản thân mình hay yêu đối phương mình chọn!? Tôi đã từng đọc qua cuốn “ LUẬN VỀ YÊU “ của Alain de Botton. tình yêu được tác giả lý luận theo phạm trù triết học rất chuẩn mực và chính xác .” Một trong những trớ trêu của tình yêu là chúng ta thường tự tin nhất khi tán tỉnh người ít hấp dẫn mình nhất". Hay với một anh chàng đang tán tỉnh một cô gái, thế mà khi được đền đáp lại tình cảm, đó là một thử thách với anh ta. Trong chương Được yêu cũng là một thử thách, tác giả viết: "... bởi được yêu lúc nào cũng phức tạp hơn yêu, mũi tên của thần Cupid luôn dễ bắn ra hơn đón lấy". Thế nên, tôi nghĩ tình yêu cũng chỉ là một kiểu thỏa mãn cảm xúc cá nhân mà thôi!. Chứ không phải vì người ta yêu.
Khi tôi nhận ra sâu sắc rằng tình yêu chỉ là một mảng màu trong vô vàn gam màu của cuộc sống và đó chỉ là một dạng cảm xúc làm ta thăng hoa cực độ vào một thời điểm nào đó vì DUYÊN PHẬN LÀ THỨ CÓ HẠN KỲ và TÌNH YÊU CHẮC GÌ NGOẠI LỆ. Tôi nói ra như thế không phải để bác bỏ hay phủ nhận vai trò quan trọng và bản chất đẹp đẽ lung linh cũng tình yêu. Các em tôi ( là bạn tôi, đa phần thế hệ 9X ) cũng đang trong độ tuổi chan chứa thanh xuân, đầy nhiệt huyết. Tôi cũng mong tụi nhỏ yêu và nếm trải đủ vị cũng như mọi cung bậc cảm xúc vốn có của tình yêu, dù chắc chắn rằng các em không tránh khỏi những đau khổ, tổn thương và đó mới đúng là tuổi trẻ. Tôi chỉ hay nhắc tụi nhỏ rằng, hãy đặt để trái tim vào đúng vị trí vốn có của nó nhưng hãy để lý trí làm chủ cuộc chơi và dẫn đường khi lạc lối... Vậy thôi!
Riêng tôi lúc này, tôi lại thích kiểu hạnh phúc không lý do hơn, một loại cảm xúc hoàn toàn khác nữa. Nó đến không phải vì tình yêu hay gì khác. Nó đến tự nhiên không vì bất cứ lý do gì. Đó là một dạng hạnh phúc mà tôi đang nhận ra hiện tại, nó ngộ kỳ và lạ lẫm, nó đem lại cảm giác tò mò, nó xuất phát từ bên trong nội tâm tôi. Một lúc nào đó, vào thời điểm nào đó tôi khong chắc vì nó luôn khác nhau ở mỗi người. Bạn sẽ nhận ra mình không còn sôi nổi, bạn thích lắng nghe hơn là huyên thuyên đủ chuyện, bạn thích một mình ở nơi nào đó tĩnh lặng và bình yên, bạn nhìn ngắm phố phường, những dòng người xuôi ngược, bạn cảm nhận được những biến chuyển xung quanh của thiên nhiên. Bạn ngẫm và sẽ nghiệm ra nhiều điều hay ho lắm, những thứ mà có lẽ suốt một quảng đời dài vừa qua ta đã vô tình đánh rơi đâu đó sâu thẳm bên trong mình. Nghe văn chương quá ha! ( là vì tôi đang viết văn mà ), nhưng từ bản thân tôi vào thời điểm này tôi đã nhận ra sâu sắc hơn bao giờ hết. Hạnh phúc là khi bạn nhận thấy mình vẫn tươi tắn, trẻ trung, bỏ qua tuổi tác để sống vui từng ngày. Hạnh phúc là khi bạn nhìn thấy xung quanh còn người thân, bạn bè, những người bạn yêu quý vẫn luôn khỏe mạnh và bình an. Hạnh phúc là khi bạn tỉnh giấc mỗi sớm mai, bước khỏi giường, mở tung cửa sổ và mỉm cười khi ngắm mình trước gương với mái tóc rối bù. Hạnh phúc khi bạn nhận ra từng khoảnh khắc bạn đang sống là vô cùng quý giá để hết mình vì nó và hạnh phúc là khi bạn vui khi thấy ngoài kia bao đôi lứa yêu nhau, bạn vẫn nhẹ nhàng, bình thản và rất đổi an nhiên. Tôi của bây giờ là vậy, chúng ta ai rồi cũng phải một mình, lúc được sinh ra cũng một mình, lúc mất đi cũng chỉ một mình. Suốt cuộc đời dẫu có gặp bao người, có thể họ chỉ ghé qua hoặc có khi họ ở lại, cùng đi với ta một đoạn đường đời nhưng cũng đâu phải là mãi mãi. Đường đời mỗi người, ai rồi cũng phải tự mình đi về, đến đích. Thế nên thôi! Đừng đặt ra quá nhiều lý do để bản thân hạnh phúc, hạnh phúc vốn rất tự nhiên, đơn thuần, nó luôn có sẵn trong mỗi chúng ta, có điều là giai đoạn nào của cuộc đời ta mới nhận thấy mà thôi! Hoặc là không bao giờ nếu ta cứ mãi đặt để nó vào quá nhiều mong muốn hay điều kiện.
Chắc viết tới đây là đủ dài rồi, một chiều cuối tuần vắng lặng nơi tôi làm việc. Bắt kịp dòng suy nghĩ để viết ra...
MỘT CHIỀU NẮNG ẤM KHÔNG VÀNG VỌT
TÔI THẢ TÌNH YÊU THEO GIÓ BAY.
0 notes
Text
Tiếng Việt còn, nước Việt còn. Tiếng Việt mất, nước Việt mất.
(Xin nói rõ bài viết mang ý kiến cá nhân, có sử dụng từ ngữ thô tục, mọi người cân nhắc trước khi đọc)
Những ngày này trên mạng xuất hiện một vị záo sư với đề xuất thay đổi tiếng Việt, chuyện sẽ chẳng là gì nếu bài báo được nêu lên và chìm xuống như các bài báo khác, tuy nhiên điều khiến bản thân mình ngạc nhiên chính là thay vì nó bị bác bỏ, thì lại xuất hiện nhiều ý kiến đồng tình, trong đó có cả những người có cấp bậc. Và ngạc nhiên hơn, khi tranh luận những ý kiến trái chiều thì tranh luận đó bị các báo bác bỏ như một sự định hướng, còn không thì lại bị vùi dập bởi 1 đội ngũ ngu học hung dữ và đông đúc. Thôi thì, thay mặt nhân sinh, ta bình nơi đây vậy.
Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam.
Đất nước Việt Nam với 54 dân tộc anh em trải dài trên bản đồ hình chữ S với nhiều vùng miền chính là nguồn gốc làm cho Tiếng Việt trở nên phong phú và giàu ngôn từ. Nhưng nếu vì thế mà nói nó rườm rà để rồi đề xuất thay đổi thì chứng tỏ sự ngu học và khả năng tự tìm hiểu có giới hạn về mặc logic và khả năng sự dụng ngôn từ
Trước đây, người Việt tự hào vì có rừng vàng biển bạc, nhưng sau hơn 40 năm giải phóng thì người Việt còn gì??? Khi bước chân ra thế giới, bạn có điều gì để tự hào? Điều gì khiến cho thế giới còn công nhân Việt Nam là 1 nước có chủ quyền mà ko phải là 1 mảnh đất nhỏ của Trung Quốc???
Đó chính là tiếng Việt.
Người Việt có cái hồn tinh túy chứa đựng trong ngôn ngữ và chữ viết. Tiếng Việt khác với các ngôn ngữ khác đó chính là khả năng mở, cho phép người dùng có khả năng sáng tạo và tích hợp mới. Tuy nhiên, không thể vì thế mà tự cho mình cái quyền tàn phá nó.
Nhìn lại cả một quá trình đổi mới, điều đáng tiếc ở VN lại bắt đầu từ sự ngu học và rừng rú có bài bản từ Ban tuyên giáo đến Bộ Giáo Dục. Cứ cải cách hết năm này đến năm khác, lần này đến lần khác, nên giáo dục Việt Nam hết lần này đến lần khác lại điêu đứng. Không nói ngoa khi thế giới nhận xét nền giáo dục VN đang đi ngược lại với chiều hướng phát triển của thế giới. Và hậu quả chính là sự xuất hiện cái đề xuất vớ vẩn này.
Bắt đầu chính là bọn biên soạn Sách Giáo Khoa. Thay vì dùng tiếng phổ thông, chúng nó ngu học cho tiếng địa phương vào.
Tiếp đến là bọn sư phạm. Không có một chuẩn ngôn ngữ, sử dụng tiếng địa phương vô tội vạ. Thay vì thay đổi, chúng mặc kệ. Nên mới không ngạc nhiên vẫn có nhiều thằng nhà báo viết sai chính tả, hay phát ngôn sai ngữ pháp
...
Muôn vàn sự vẫn do BỌN KHỈ Ở RỪNG LÀM GIÁO DỤC.
Ban đầu định chửi bới, nhưng thấy ko cần nữa, nên mượn lại lời văn trong GIỮ GÌN SỰ TRONG SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT để tự nhủ lòng và dặn dò con cháu mai sau.
Tiếng Việt đã là một thứ tiếng giàu đẹp và trong sáng, như nhà văn Đặng Thai Mai đã viết: “Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc. Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay …” hay như nhận xét của nhà thơ Xuân Diệu: “Sự trong sáng của ngôn ngữ là kết quả của một cuộc phấn đấu. Trong và sáng dính liền nhau…”. Ngoài ra không thể không nhắc tới khẳng định của Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng :”Tiếng Việt của chúng ta rất giàu. Tiếng Việt của chúng ta rất đẹp. Giàu bởi kinh nghiệm đấu tranh của nhân dân ta lâu đời và phong phú. Đẹp bởi tâm hồn của người Việt Nam ta rất đẹp. Hai nguồn của cái giàu, cái đẹp ấy là ở chỗ tiếng Việt là tiếng nói của nhân dân, đầy tình cảm, màu sắc và âm điệu, hồn nhiên, ngộ nghĩnh và đầy ý nghĩa; đồng thời nó là ngôn ngữ của văn học mà những nhà thơ lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… và những nhà văn, nhà thơ ngày nay ở miền Bắc và miền Nam đã nâng lên đến trình độ rất cao về nghệ thuật.”
Sức mạnh của Tiếng Việt là chìa khóa giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách nô lệ – một sự thật không thể nào chối cãi. Có thể trích dẫn ra đây một đoạn trong tác phẩm “Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức” của nhà văn, nhà báo Nguyễn An Ninh: “Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giải phóng các dân tộc bị thống trị. Nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học của châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Bất cứ người An Nam nào vứt bỏ tiếng nói của mình, thì cũng đương nhiên khước từ niềm hy vọng giải phóng giống nòi. […] Vì thế, đối với người An Nam chúng ta, chối từ tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa với từ chối sự tự do của mình …”
Vâng, lịch sử đã chứng minh rằng, Tiếng Việt đã trở thành vũ khí của dân tộc Việt Nam, thoát khỏi mọi vòng xiềng xích nô lệ để trở thành một quốc gia độc lập như ngày hôm nay. Không những thế, nó còn làm nên bản sắc Việt Nam, mà chúng ta hay nói đến một cách tự hào với cụm từ “niềm kiêu hãnh dân tộc”. Từ trong quá khứ hào hùng ấy, ta thấy ánh lên một niềm tin tưởng mãnh liệt vào tương lai của ngôn ngữ dân tộc: “Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và để tự hào với tiếng nói của mình. Và để tin tưởng hơn nữa vào tương lai của nó.” (Đặng Thai Mai)
Trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt
- Mỗi cá nhân nói và viết cần có ý thức tôn trọng và yêu quý Tiếng Việt. - Có thói quen cẩn trọng,cân nhắc, lựa lời khi sử dụng Tiếng Việt để giao tiếp sao cho lời nói phù hợp với nhân tố giao tiếp để đạt hiệu quả cao nhất. - Rèn luyện năng lực nói và viết theo đúng chuẩn mực. - Loại bỏ những lời nói thô tục, kệch cỡm pha tạp, lai căng không đúng lúc. - Biết cách tiếp nhận những từ ngữ của nước ngoài. - Biết cách làm cho Tiếng Việt phát triển
45 notes
·
View notes
Text
Dịch bởi: Vĩnh Hạ
Người viết: Tiểu Trương Nhàn | Ngày đăng tải: 08/01/2020
Vợ tôi đã rời xa tôi 274 ngày.
Nói đúng ra thì, em không bị trầm cảm, mà là mắc chứng rối loạn cảm xúc lưỡng cực. So sánh cho dễ hiểu hơn, trầm cảm tựa như rơi vào biển sâu, ánh sáng mặt trời không chiếu rọi tới được; còn rối loạn cảm xúc lưỡng cực là có đôi khi sẽ cảm thấy bản thân lâng lâng như phiêu bổng, lúc lại tưởng như đang chìm dưới đáy vực sâu.
Khoảng từ 2018 trở đi, tôi cứ ngỡ rằng, năng lực điều tiết cảm xúc của em đã cải thiện hơn nhiều. Chưa kể từ đầu xuân 2019, em không còn đập phá đồ đạc hay nữa, cũng ít khi nổi nóng vô cớ. Em là cố vấn tâm lí cho trường đại học mà mình từng tốt nghiệp. Áp lực công việc rất nặng nề, nhưng em vẫn luôn cố gắng cùng tôi đi tập gym, đi xem phim. Mỗi cuối tuần, hai đứa cùng đi ra ngoài ăn tiệm, đều đặn như những cặp đôi thường hay hẹn nhau đi dạo. Có khi dù không phải dịp cuối tuần, nhưng nếu em bỗng dưng có hứng, hai đứa vẫn sẽ đi ăn thịt nướng, rồi lại đi dạo loanh quanh, trao nhau ánh mắt, thay lời tỏ bày.
Anh quá ngốc nghếch, sao lúc ấy lại nghĩ rằng, chắc do em mệt mỏi quá thôi.
Anh không nhận ra, em vốn chẳng hề vui vẻ.
***
Ngày cuối cùng, buổi đêm hôm trước tôi ngủ không tròn giấc, trời chưa hửng nắng đã thức dậy. Tôi thấy em đã tỉnh giấc từ bao giờ - hoặc có lẽ, cả đêm rồi em không ngủ. Em tựa vào đầu giường nằm xem iPad. Tôi không để tâm lắm.
Trời sáng, tôi đi làm điểm tâm. Em chỉ ăn một ít rồi đi luyện đàn cello. Tôi biết, chiều hôm nay em phải đến lớp học đàn. Tôi trêu mèo cưng, quét dọn nhà cửa, chuẩn bị nguyên liệu làm cơm trưa. Cải thìa còn hơi ít, tôi bảo em cùng đi mua thêm.
Đó là lần sau cuối hai đứa cùng nhau đi ra khỏi nhà.
Khi ấy đang là đợt nghỉ ngắn hạn của Tết Thanh Minh, Nam Kinh vẫn chưa hửng nắng. Ngày cuối cùng, em mặc áo hoodie giữ ấm, bước đi trong ánh mặt trời. Em rất chú trọng việc giữ gìn dáng vóc, bữa tối thường chỉ ăn rau luộc mà thôi. Lần này ra ngoài, mua nhiều đến nỗi dư sức ăn hơn nửa tuần.
Về nhà em lại bắt đầu đọc sách, dù gì em cũng đang học lên tiến sĩ. Tôi chuẩn bị nguyên liệu xong, mời đầu bếp đại tài là em vào làm rau xào. Bưng dĩa đồ ăn mặn ra bàn trà nhỏ xong, mèo cưng nghe mùi đã chạy tới hít hít. Tôi tống cổ nó đi, quay sang đã thấy em xới cơm xong rồi. Em chỉ xới cho mình non nửa muôi.
- Sao em xới cơm cho mình ít thế?
- Ừ ha, em cũng không biết sao nữa, để em xới thêm chút vậy.
Ăn cơm xong, em đọc sách, tôi dọn dẹp rửa ráy chén bát.. Đã hẹn với đồng nghiệp rằng hôm nghỉ lễ cuối cùng, lúc 3h chiều sẽ tăng ca, em cũng biết chuyện này. 1 giờ 30 phút, tôi chuẩn bị xong xuôi lập tức đi ra ngoài, thời tiết khá đẹp, tôi định đạp xe đi làm, xem như rèn luyện sức khỏe thêm chút.
Đội nón bảo hiểm và xỏ bao tay xong, tôi ghé qua phòng sách bảo em, hi, anh ra ngoài cái nha. Em bảo, anh đi đường nhớ cẩn thận. Em chẳng hề ngẩng đầu nhìn tôi.
5 giờ 58 phút, tôi còn đang ở văn phòng, em gọi điện thoại đến, hỏi tôi còn đang tăng ca à. Tôi bảo, đúng rồi, xem tiến độ thế này có khi 6 giờ rưỡi cũng chưa chắc đã xong. Em bảo, công việc quan trọng, cứ ưu tiên hoàn thành trước đã, buổi tối về kịp thì cùng đi tập gym, nếu không kịp thì em sẽ báo huấn luyện viên giúp tôi. Tôi bảo, được.
Cuộc gọi vỏn vẹn 28 giây.
6 giờ 14 phút, em lại gọi điện thoại tới, ban đầu tôi còn nghe ra giọng em, nhưng một lúc sau lại chẳng hiểu gì. Tiếng rít gào thật dài. Đặc sệt những ồn ào. Không nghe thấy tiếng ai cả. Tôi liên tục hỏi, em đấy à? Xảy ra chuyện gì thế? Điện thoại anh nghe không rõ nữa rồi, em vẫn ổn chứ?
Tôi chưa từng gặp tình huống này bao giờ. Hay là, di động đặt ở túi áo, nhỡ tay đè vào nên mới gọi nhầm cho tôi? Tôi cúp máy.
1 phút 33 giây.
Sau đó tôi gọi lại thì không được được nữa.
Tôi cũng chẳng rõ bản thân sắp trải qua điều gì, nhưng lòng cứ lo lắng khôn nguôi. Tôi báo với sếp rằng nhà đang có việc gấp, gọi mãi mà vợ không bắt bắt máy. Sếp tôi lại cho rằng, chắc không phải chuyện gì lớn lao đâu, nếu có thì đã chủ động gọi lại rồi. Nhưng tôi bồn chồn quá đỗi, nhanh chóng nhờ đồng nghiệp làm tiếp phần công việc rồi lén lút chạy đi.
Tốn mất 15 phút.
Chạy tới ven đường, tôi lao ra bắt đại một chiếc taxi, gấp rút về thẳng nhà.
Ngồi trên xe, tôi liên tục gọi cho em, vẫn không bắt máy. Hay xảy ra tai nạn giao thông rồi? Tiếng gào thét kia phải chăng là do người qua đường quá sợ hãi quá nên bật thốt ra? Nếu như là tai nạn giao thông, giờ tôi cuống cuồng chạy đến cũng chẳng giúp được gì mấy. Chắc hẳn đã có người đưa em đi cấp cứu rồi.
Tôi ngẩng đầu lên trời nguyện cầu, là tai nạn giao thông mà thôi.
Lúc đấy tại sao tôi lại không báo cảnh sát chứ? Tại sao vậy? Có lẽ vì tôi vẫn ôm vọng tưởng rằng, em sẽ không sao đâu, vẫn luôn tự dối mình gạt người như thế.
Kỳ lạ thay, đang trong giờ cao điểm giao thông vào ngày nghỉ cuối cùng, thế mà đường cao tốc thành phố lại thông thoáng hơn bình thường, chỉ 30 phút tôi đã về tới.
Trước tiên cứ vào nhà xem sao đã, nhưng...
Tôi về tới nhà rồi, sao đèn còn chưa bật? Mèo cưng đâu sao lại không ra đón? Tôi nhìn sang, thấy nó đang bị nhốt ngoài ban công phòng khách, đang dùng đôi mắt ngóng trông nhìn tôi qua lớp cửa thủy tinh.
Mỗi bước đi lại khiến tay chân tôi thêm bủn rủn, tới phòng ngủ chính, nhà vệ sinh đóng kín mít. Dù cho không mở cửa vẫn ngửi thấy được mùi khói nồng nặc. Trên cửa nhà vệ sinh có treo đôi đèn lồng mini mà mà tiệm Meoto Zenzai tặng hai đứa lúc đi hưởng tuần trăng mật tại Nhật Bản.
Giữa hai chiếc đen lồng một đỏ một trắng, có tờ ghi chú màu hồng, trên viết ba dòng:
Đừng mở cửa!!!
Đừng báo cho bố mẹ biết!!!
Gọi cảnh sát đi! Để họ đến lo liệu tất thảy!!!
Sau đó tôi bỗng nhớ ra, mấy câu này có hơi giống lời nhắn mà vị cảnh sát trưởng trong phim "Truy tìm công lí" để lại lúc tự sát mà hai đứa đã từng xem.
Bảo tôi đừng mở cửa ư, em có lẽ chẳng hiểu tôi rồi. Hoặc giả, em quả thực rất hiểu tôi, nhưng cũng không còn sức để sắp xếp mọi chuyện cho thật hoàn hảo nữa. Tôi cố gắng mở cửa.
3 năm trước, lúc trang trí phòng tân hôn, tôi có phòng ngừa chuyện bất trắc nên đã thiết lập cho cửa phòng tắm trong phòng ngủ chính không thể khóa trái. Em vốn không biết điều này.
Vì một năm trước đó, có lần em bỗng dưng nổi điên, tự khóa mình trong nhà tắm, cửa nẻo không cách nào khóa được, tôi mới có thể đi vào. Lúc đó, em đang dùng dao cạo lông mày cắt cổ tay, máu từ từ rỉ ra. Tôi ôm em vào lòng, nắm lấy hai tay em, giúp em tỉnh táo lại. Một lúc sau em không chế lại cảm xúc rất nhanh, hai đứa nửa đêm nhào đến bệnh viện băng bó vết thương, về nhà vẫn là em chở tôi. Từ đợt đó trở đi em trở nên bình thường, tôi cứ ngỡ trên cổ tay trái em chỉ là có thêm một vết thương mới chồng lên vết thương cũ mà thôi, rồi cũng quên béng đi chuyện này.
Lần này cửa không bị ai chặn lại, nhưng mở ra vẫn bị cấn. Đẩy được một góc nhỏ, tôi thấy trên khe cửa dán đầy những lớp băng dính, khói trắng bay ra từ kẽ hở.
Cố sức đẩy thêm nữa, khói bay mù mịt. Phòng tắm kế bên bị đóng, còn em đang nằm cuộn tròn một góc, bên cạnh là chậu than, khói bốc lên từ giữa đốm lửa hồng.
Tôi hét lên, chạy vào trong, kéo em ra ngoài, kéo điên loạn, kéo đến rách cả chiếc áo hoodie của em. Khóe miệng em sùi bọt, thân thể vẫn còn độ ấm. Tôi kéo em ra đến phòng khách, vội mở cửa thông gió, luýnh quýnh đá văng cả chậu trầu bà lá xẻ. Run run gọi cho cảnh sát - 110, rồi gọi tiếp cho 120. Sau đó tiến hành hô hấp nhân tạo cho em.
Tôi thổi hơi vào miệng, em cố đẩy ra, hơi thở mỏng manh, cảm xúc hỗn loạn, nhưng tôi vẫn cố gắng dồn từng hơi từng hơi. Tôi đặt hai tay lên ngực em, cố sức nhấn một cái, rồi lại hai cái. Em không ổn định được cảm xúc, ra sức đánh tôi. Tôi trước giờ chỉ dám giữ lấy em, ôm em, chưa bao giờ đánh trả dù chỉ một lần, hôm nay là lần tôi nặng tay nhất với em.
Giờ cao điểm giao thông đến trễ hơn so với bình thường.
Bệnh viện gần nhất chỉ cách đây có hai trạm xe buýt vậy mà hơn nửa tiếng trôi qua, xe cứu thương mới tới. Hơn 7 giờ rưỡi, cửa mở, tôi đưa bác sĩ vào. Bác sĩ sờ cổ tay em rồi lật mí mắt.
- Cậu trai, để tôi nói cho cậu rõ vậy, người đã không còn nữa rồi.
***
Em vẫn mãi là tri kỉ tuyệt vời nhất của đời anh. Giờ đây, em cũng là bạn thân nhất của anh và mãi mãi là một trong những người bạn thân nhất của anh.
Đánh mất em là điều anh tiếc hận nhất trong cuộc đời này. Nếu em nơi suối vàng có hay, anh xin gửi lời cảm ơn. Bởi nếu không gặp được em, anh sẽ lại càng tiếc hận hơn nữa.
Xin lỗi, anh đã không bảo vệ được em. Tuần cuối cùng, em vẫn còn nói với anh rằng, chúng mình ở bên nhau rất hợp mà.
Anh hiểu, với em mà nói, tuy rằng bọn mình rất hợp nhau, nhưng thời gian của em đã đến rồi.
Mèo cưng dạo này sống tốt lắm, nhưng đôi khi nó cứ thấy trống vắng em à. Dù sao thì, nó vẫn thích em hơn. Nó cũng mập lên rồi.
1 năm trước, lúc anh đi kiểm tra sức khỏe, phát hiện gan bị nhiễm mỡ, em lập tức siêng năng dẫn anh đi đến phòng tập gym, học một lớp huấn luyện cá nhân, khuyến khích anh năng động nhiều hơn chút. Em đi rồi, anh vẫn còn giữ thói quen này, hi vọng em có thể nhìn thấy.
Em lo lắng nhất là công việc của anh, sợ anh thơ thẩn rồi quên trước quên sau. Anh sẽ tập trung đàng hoàng, mọi việc đều rất ổn em à.
Điều còn khiến em tiếc nuối, chắc là chưa kịp để lại thành tựu gì trong lĩnh vực mà mình theo đuổi. Anh chưa bao giờ quyết tâm vì điều gì đến vậy, nhưng anh sẽ cố gắng thay cả phần của em nữa, không để phí hoài cuộc đời này đâu.
Em muốn hiến nội tạng, thậm chí đã kí xong giấy tự nguyện luôn rồi. Nhưng em ngốc à, đã có cảnh sát nhúng tay vào, còn ai dám đụng đến di thể của em chứ? Mong ước này không thể thực hiện được rồi.
Trái lại, anh có thể thay em hiến máu, cũng được vài lần rồi, giấy đăng kí tự nguyện hiến nội tạng anh cũng sẽ làm. Nhưng thật lòng, anh mong mình có thể sống thay cả phần của em nữa, sống cho đến khi trở nên già nua xấu xí, lúc ấy ruột gan héo hon cả rồi sợ là chẳng ai cần đâu.
Anh thích ba phải như thế đấy, thích đùa cho em vui như thế đấy. Vì em đã từng cười vui vẻ đến thế cơ mà.
Farewell, forever young.
Vĩnh biệt em, mãi hoài tuổi thanh xuân.
_______________
Nguồn: https://www.zhihu.com/question/52152214
0 notes
Text
"Covid-19 thức tỉnh con người: Thay đổi hay là chết!”
Nhà văn Trầm Hương cùng dịch giả Nguyễn Bá Chung; Tiến sĩ, nhà thơ Kevin Bowen khi thực hiện một bộ phim tài liệu ở Boston, Mỹ vào ngày 14/8/2018. Ảnh: Nguyễn Hoàng
Nhà văn Trầm Hương là một người đa tài: Viết văn, làm thơ, viết kịch bản, viết báo, là hội viên của 5 Hội: Hội nhà văn Việt Nam, Hội nhà văn TPHCM, Hội Điện ảnh Việt Nam, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Hội Nhà Báo Việt Nam. Chị tốt nghiệp kỹ sư nông nghiệp, cử nhân điện ảnh, thạc sĩ báo chí, hiện là Phó Chủ tịch Hội Nhà văn TP.Hồ Chí Minh. Một cuộc trò chuyện cởi mở với chị về văn chương.
Chị là người thành công ở nhiều mảng: Tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch bản… Nhưng ở lĩnh vực nào chị cảm giác được thỏa sức vẫy vùng nhất?
- So với các thể loại, tiểu thuyết là "toà nhà lớn" huy động mọi tinh hoa để dựng xây từ móng, sắt, thép, gạch... Rồi thiết kế, trang trí nội thất... Tôi có một người bạn khi xây nhà đã dụng công gởi sang Pháp đặt từng viên ngói, từng viên gạch, chiếc đèn trang trí... cho đúng với thiết kế, để được đồng bộ. Toà nhà có rất nhiều chi tiết, từ ban công, cửa ra vào, phòng khách, phòng ngủ, bếp, sân vườn, hệ thống chiếu sáng, thông gió...
Những chi tiết trong ngôi nhà ngỡ như độc lập nhưng liên kết, nâng đỡ nhau. Viết tiểu thuyết cũng vậy. Từng nhân vật, chi tiết, tình tiết, tiết tấu... đều có mối liên hệ mắt xích với nhau. Nhà văn là "kiến trúc sư" xây dựng ngôi nhà cho mình, đổ bao tâm huyết, trí tuệ, vốn sống, trăn trở... "Toà nhà" tiểu thuyết huy động truyện ngắn, thơ, kịch, lịch sử, triết học, mỹ học... Tóm lại, viết tiểu thuyết phải có sức khoẻ, dũng khí, lòng kiên nhẫn, vốn liếng, rất dụng công!
Một trong những kịch bản phim truyện của chị được nhiều khán giả yêu mến là "Người đẹp Tây Đô" 16 tập về nguyên mẫu nữ tình báo Lâm Thị Phấn (Bạch Cúc). So với nguyên mẫu, chị có phải hư cấu thêm nhiều? Và khi phim phát sóng, chị có hài lòng không?
- Khi viết "Người đẹp Tây Đô" tôi còn rất trẻ... Tôi nhớ lúc đó nhà văn Vũ Hạnh, nhà văn Nguyên Hùng rất ái ngại cho tôi, khuyên tôi đừng húc đầu vào một đề tài khó. Nhân vật nguyên mẫu quá cá tính, có cuộc đời khá phức tạp, với những mối quan hệ chồng chéo từ nhiều phía, có những điều bí mật về cuộc đời riêng. Và lịch sử kháng chiến Khu Tây Nam bộ với một cô gái trẻ quá lạ lẫm, quá bi tráng. Nhưng tôi không thể dừng vì đã đọc "Cuốn theo chiều gió", "Sông Đông êm đềm", "Những người khốn khổ"... Tôi lúc ấy ngây thơ, quá rung cảm với lịch sử bi tráng được làm nên bởi những con người lạ lùng, kỳ diệu. Tôi bị thôi thúc phải viết về những điều lạ lùng, kỳ diệu ấy. Tôi được sống với "gia đình địa chủ" từ chính cuộc đời mẹ tôi. Tôi gặp rất nhiều phụ nữ dấn thân vào cuộc kháng chiến. Câu chuyện bà Lâm Thị Phấn truyền cảm hứng cho tôi. Bạch Cúc chứa nhiều thân phận phụ nữ trong cuộc kháng chiến, trong trớ trêu số phận, khát vọng hạnh phúc, những vết thương sâu...
Tôi học điện ảnh nên hiểu kịch bản chỉ là một phần của công đoạn sản xuất phim nên không nặng lòng lắm với những điều không như ý muốn. Trong điều kiện có nhiều ràng buộc và giới hạn; đạo diễn và êkíp làm phim đã rất nỗ lực…
Chị nổi tiếng với mảng chủ đề chiến tranh cách mạng với nhiều tác phẩm sâu sắc, bút lực dồi dào, vì sao chị lại đắm đuối với chủ đề này? Và chị hướng tới đối tượng độc giả nào là chủ yếu?
- Á Nam Trần Tuấn Khải có một "tuyên ngôn" về ngòi bút của mình: "Đời không duyên nợ thà không sống/ Văn chứa non sông mới có hồn". Mỗi khi đến thăm "Lưu niệm đường" (số 58/4, đường 27, KP 5, P.Hiệp Bình Chánh, TP.Thủ Đức - TP.Hồ Chí Minh)… - ngôi nhà thờ ông, tôi dừng lại rất lâu trước chân dung vuông khắc hai câu thơ ấy. Nếu mỗi nghề đều có Tổ nghề thì tôi xin được xem ông là ông Tổ, người Thầy của mình.
Nếu như các bạn gặp những người phụ nữ từ trang sách "Đường 1C huyền thoại - Những bờ vai con gái" bước ra cuộc đời, trò chuyện với các bạn về những năm tháng trụ tại tuyến đường, gần 10 năm ròng rã, nơi sắt thép cũng tan chảy nhưng con người trụ lại, gánh một góc cuộc chiến tranh trên đôi vai mảnh mai, đối mặt với đạn bom, cái chết, những cơn đói, khát, chất độc da cam...; ngày qua ngày, vượt hàng chục, hàng trăm cây số, tải vũ khí về chiến trường thì đá cũng mềm lòng. Nếu các bạn biết có quá nhiều những người con gái xinh đẹp, bị cắt ra từng mảnh, bị bom vùi, bị tống vào những nhà tù khét tiếng, bị tra tấn đến không còn hình hài... thì ngòi bút có làm sao không chảy máu. Tôi không chỉ đắm đuối mà viết vì đồng cảm và trách nhiệm người còn được sống, sống thay cho những người đã nằm xuống. Thật hạnh phúc khi có những người trẻ đọc sách tôi mà không ngán, thấy yêu đất nước, đồng bào hơn!
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 là một đề tài lớn trong chủ đề chiến tranh cách mạng của chị với tiểu thuyết "Đêm Sài Gòn không ngủ" (Giải thưởng Văn học nghệ thuật 5 năm/lần, Giải thưởng tiểu thuyết Hội nhà văn Việt Nam) và bút ký "Chuyện năm 1968", (Giải B Giải thưởng sáng tác, quảng bá tác phẩm VHNT báo chí chủ đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh) vì sao chị lại dành nhiều tâm sức cho nó và chị đã viết hết những gì muốn nói?
- Nếu cắt đứt quá khứ, ta chỉ còn là cái cây bật gốc, với một tương lai héo rũ, yếu ớt. Cũng sẽ có người phản biện: "Quá khứ trì nặng, nếu không dũng cảm cắt bỏ, tương lai không thể thăng hoa". Có một quá khứ mà nếu cắt bỏ, ta trở thành kẻ vô ơn. Đó là món nợ lòng dân. Bản thân Sài Gòn là một di tích lịch sử khổng lồ. Từng góc phố, con đường tôi qua đều in dấu những câu chuyện thần kỳ, sâu thẳm.
Hơn 30 năm là người Sài Gòn, tôi có hàng trăm quyển sổ tay ghi chép những câu chuyện bi hùng của quá khứ, cả uẩn khúc, nỗi đau. Quá khứ, bi bùng, những cuộc đời vĩ đại, phi thường vẫn còn nằm bất động, bị bỏ quên trong những quyển sổ ghi chép của tôi. Tôi thấy mình thật có lỗi vì viết về Sài Gòn quá ít so với những gì tôi biết, với những cuộc gặp gỡ, những ký thác, trao gởi của những chứng nhân lịch sử. Những quyển sổ tay ngỡ vô tri mà chứa đựng những số phận con người trĩu nặng. Món nợ đó nhắc tôi phải quyết liệt hành động. Tôi phải viết nhiều hơn nữa, tôi phải làm một điều gì đó để góp một tiếng nói chống lại sự lãng quên. Mà đâu chỉ một quyển sổ tay, hàng trăm quyển, nhiều và rất nhiều nhân vật được ghi chép, nhiều người đã không còn. Những quyển sổ tay cũ kỹ, mốc meo kia dường như có linh hồn, làm lòng tôi xao động. Tôi mở từng trang, chạm vào đâu cũng thấy mình đang mắc nợ...
Dịch bệnh Covid-19 tác động đến chị như thế nào trong đời sống và văn chương?
- Những ngày phong thành giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 chống dịch Covid-19, kỳ lạ thay, chưa lúc nào tôi thấy yêu thương, gần gũi với con người như thế. Cảm giác đó, có lẽ chỉ ở Sài Gòn - TP.Hồ Chí Minh, nơi tôi lập nghiệp, nơi cưu mang tôi, nơi tôi đang sống. Tôi gọi điện cho bạn bè nhiều hơn, hỏi thăm nhiều chuyện, kết nối giúp đỡ, động viên những nhà văn gặp khó khăn.
Tôi tìm sự an trú trong hiện tại, thức dậy sớm lúc 5 giờ tham gia Câu lạc bộ đọc sách qua Zoom; biên tập quyển sách "Ký ức và dấu ấn 40 năm Hội Nhà văn TPHCM", đọc nhiều quyển sách hay chưa có thời gian đọc, gấp rút hoàn thành quyển sách "Khoảng lặng nước mắt" về những Bà mẹ Việt Nam Anh hùng khắp mọi miền đất nước; viết quyển sách về những cụm bến tàu không số; tập Yoga và nấu những món ăn thực dưỡng...
Tôi sống chậm lại mà vẫn thấy ngày trôi qua nhanh quá. Chưa bao giờ hai chữ "bình thường" quý báu như lúc này. Covid-19 tác động quá sâu sắc đến nhân loại. Những ngày giãn cách tôi thấm thía là con người phải thích nghi với hoàn cảnh mới trước khi "bình thường mới". Nếu năm 1945, hàng triệu cánh tay ở Sài Gòn giơ lên trong cuộc biểu tình lịch sử hô vang: "Độc lập hay là chết" thì hôm nay, COVID thức tỉnh con người: "Thay đổi hay là chết". Con người phải thay đổi nhiều lắm...
- Xin trân trọng cảm ơn chị và chờ đón ở chị những tác phẩm mới!
Nhà văn Trầm Hương sinh năm 1963, quê gốc Bến Tre, hiện sống tại TP. HCM, đã đoạt rất nhiều giải thưởng, tiêu biểu như Giải thưởng thơ hay của Tuần báo Văn Nghệ TP. HCM, Giải thưởng truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Giải thưởng truyện dài của NXB Kim Đồng, Giải thưởng cuộc thi tiểu thuyết Hội Nhà văn Việt Nam, Giải thưởng tiểu thuyết về đề tài công nhân do LĐLĐ TP. HCM tổ chức, Giải thưởng tiểu thuyết do NXB Công an nhân dân và Bộ Công an tổ chức, Giải thưởng 30 năm văn học TP.Hồ Chí Minh...
0 notes
Text
Tổng Hợp Bài Tường Thuật Hội Nghị Quốc Tế Của Tỳ Khưu Bửu Chơn
Nên thừa lúc nhàn rỗi tôi ráng soạn lại những điều mắt thấy tai nghe, mặc dầu quí vị chỉ đọc qua những lời tường thuật và hình ảnh thì cũng có thể hiểu biết được và thông cảm những gì mà họ thảo luận trong kỳ Hội nghị, và luôn cả phong cảnh, cách tổ chức trình bày, nghi lễ phong tục, trong mỗi quốc độ khác nhau tùy theo sự tiến hóa của tinh thần hay vật chất, để giúp thêm một phần tài liệu nào cho các bạn hậu tấn có dịp sẽ dự những Hội nghị Quốc tế trong mai hậu.
Phi Lộ
Trong thời gian qua hơn 10 năm tôi đã đi dự Hội nghị Quốc tế nhiều lần nhưng không có dịp soạn thảo lại những bài tường thuật để cống hiến quí vị độc giả không được sự may mắn đi đến nơi để quan sát tận mắt.
Nên thừa lúc nhàn rỗi tôi ráng soạn lại những điều mắt thấy tai nghe, mặc dầu quí vị chỉ đọc qua những lời tường thuật và hình ảnh thì cũng có thể hiểu biết được và thông cảm những gì mà họ thảo luận trong kỳ Hội nghị, và luôn cả phong cảnh, cách tổ chức trình bày, nghi lễ phong tục, trong mỗi quốc độ khác nhau tùy theo sự tiến hóa của tinh thần hay vật chất, để giúp thêm một phần tài liệu nào cho các bạn hậu tấn có dịp sẽ dự những Hội nghị Quốc tế trong mai hậu.
Hơn nữa cũng là một thiêng lịch sử kỷ niệm trong đời tu học của tôi đã mang chuông đi đánh xứ người và giúp ích gì cho nền đạo giáo nước nhà.
Trong những bài tường thuật có bài đã viết từ lâu nên lối hành văn có hơi cổ kính, nhưng tôi vẫn giữ nguyên vẹn của chuyện thật không muốn sửa đổi trau chuốt văn hoa làm mất bản chất chính yếu và quan niệm thành thật chất phác trong thời kỳ ấy.
Dù sao cũng không thể nào tránh khỏi sự sơ thất một đôi chỗ trong khi soạn thảo có một mình, ước mong quí vị hoan hỷ tha thứ cho.
Trong lúc soạn thảo nhờ cô Viriyā một đệ tử chân thành tinh tấn, hy sinh thì giờ quí báu đánh máy, cách trình bày nội dung và sửa giùm bản thảo giúp tôi.
Tôi xin thành thật cám ơn và chia phần công đức cho cô.
Tôi cũng xin thành kính dâng lên quả phúc này đến thầy tổ và song thân.
Kính bút
Nāga Mahā Thera – Tỳ Khưu Bửu Chơn
Tăng Thống G.H.T.G.N.T.V.N
Nguyên Phó Chủ tịch Hội Phật giáo Thế giới
Mùa Xuân Năm Giáp Thìn.
Hội Nghị Lễ Kết Tập Tam Tạng Lần VI Tại Rangoon Miến Điện (17-5-1954)Bài tường thuật của Thượng tọa Nāga Thera (Bửu Chơn)
Vào ngày 6-5-1954 tôi được danh thiệp của ngài Chánh Hội Trưởng Hội Đồng Toàn Quốc Phật giáo xứ Miến Điện gửi đến thỉnh tôi và các chư đạo hữu chùa Kỳ Viên là Trụ sở Trung ương của Phật giáo Nguyên Thủy, để dự lễ khai mạc kỳ Kết Tập Tam Tạng lần thứ sáu.
Dưới đây là danh thiệp của ngài Chánh Hội Trưởng:
From: Tharo Thiri Thudhamma Sir U Thwin Chairman of the Union Buddha Sasanā Council Rangoon, Burma.
To: Ven. Nāga Thera dit Pham Van Tong c/o Ky Vien Tu Banco Saigon.
Dear Sir,
As you are aware the Opening Proceedings of the CHATTHA SANGĀYANĀ (the Sixth Great Buddhist Councit) are to commence on the Vesakha Punnima, 2498 B.E (17th May 1954) at the Maha Pasana Guha Rangoon, and we have the pleasure and honour to invite you to join with us in witnessing and sharing the Merit of the Opening Proceedings on this felicitous occasion.
Mettecittena, Sign, U. THWIN.
Bản dịch: Thado Thiri Thudhamma U Thwin Chánh Hội Trưởng Hội đồng Phật giáo toàn quốc xứ Miến Điện.
Kính gửi Đại đức Nāga Thera (Bửu Chơn), chùa Kỳ Viên Bàn Cờ Saigon.
Bạch Ngài,
Ngày khai mạc kỳ lễ Kết Tập Tam Tạng lần thứ sáu nhằm ngày rằm tháng tư Phật lịch 2498 đúng 17 Mai 1954, nơi Đại Thạch Động Rangoon Miến Điện.
Nhơn dịp lễ khai mạc này, với tư cách của Chánh Hội trưởng, danh dự và hoan hỷ, chúng tôi xin thỉnh Ngài tới dự lễ và chia phước cùng chúng tôi.
Tấm lòng thân ái, ký tên, U. ThWIN
Khi được thiệp mời, tôi liền hết sức vận động và phải trải qua nhiều sự khó khăn mới được đủ giấy tờ cho xuất dương cho kịp kỳ khai mạc.
Đúng ngày 14-5-1954, phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam chùa Kỳ Viên Bàn Cờ Saigon, do Thượng Tọa Nāga Thera – Bửu Chơn trưởng đoàn hướng dẫn phái đoàn lìa khỏi phi trường Tân Sơn Nhứt lối 14 giờ rưỡi, phi cơ từ từ cất cách sau khi gần một tiếng đồng hồ thì lại đáp cánh xuống phi trường P.P để chờ hành khách lên xuống và trình giấy thông hành, sau khi nửa tiếng đồng hồ thì phi cơ lại cất cánh trực chỉ thủ đô Bangkok, gần 6 giờ chiều thì phi cơ mới đổ xuống phi trường Daungmaung Bangkok.
Khi phi cơ vừa hạ cách thì tôi thấy rất nhiều khách quan ra đón chào thân quyến, riêng phái đoàn V.N. thì có ông Cố vấn và Tổng Thơ Ký của tòa Đại Sứ V.N. tại Bangkok ra vái chào và đón rước về Sứ quán. Sau khi trình giấy thông hành xong thì toàn thể phái đoàn được đưa về Sứ quán để yên nghỉ, chờ sáng hôm sau phải đáp tàu sang Rangoon.
Vừa hừng sáng lại phải trở ra phi trường để sang Rangoon, mãi lối 9 giờ hơn thì phi cơ mới cất cánh, ngót trên hai tiếng đồng hồ mới tới phi trường Rangoon (Miến Điện).
Hôm ấy có cả phái đoàn Việt Nam, Cao Miên, Lào và Thailand nên cuộc tiếp rước hết sức long trọng. Sau khi câu chuyện hàn huyên và lời chúc hạ xong lại đưa tất cả phái đoàn về Kapa Aye (World Peace Pagoda) Chùa Thế giới Hòa Bình là nơi trụ sở trung ương Kết Tập Tam Tạng lần thứ sáu.
Xe vừa tới nơi thì thấy vô số lầu đài, dinh thự hai, ba từng. Hỏi ra mới biết nào là Tăng đường, Trai đường và các Ty các Sở như là: Sở Ngoại Giao, Bộ Thông Tin, Sở Y Tế, Sở Cảnh Sát và các cơ sở của Hội Đồng Kết Tập Tam Tạng v.v…
Chính giữa một khu vực trên 100 mẫu có một trái núi giả bên trong là nơi để cho Chư Tăng Cư hội để kết tập. Trái núi giả ấy gọi là Đại Thạch Động chứa được lối 6.500 người có phòng tham thiền, phòng giải lao, phòng tắm và tiện nghi, có ba từng lên xuống đều dùng thang điện, có sáu cây cột và sáu cái cửa cái để ra vô là tượng trưng cho sự kết tập lần thứ sáu.
Đại Thạch Động này Chánh phủ Miến Điện xuất ra lối 9 triệu và 100.000 Rupies, lối 72 triệu bạc xứ ta. Những đồ vật liệu để xây cất thạch động này thì lối 130.000m3 (thước khối) gạch bể, 225.000m3(thước khối) đá xanh (thứ sỏi để tráng đường), 559.572 tấn đá, 170.000m3 (thước khối) cát, 11.973 tấn kẽm, 757 tấn cây vuông và 125 tấn cây giá tị. Bề dài 455 feet lối 145 thước, bề ngang 370 feet lối 120m (thước). Thời gian xây dựng chỉ trong vòng 14 tháng là xong hết.
Tới ngày Rằm tháng Tư nhằm 17 Mai 1954, đúng 12 giờ trưa là giờ để khởi sự khai mạc, mỗi phái đoàn trên thế giới đều có mặt, tôi nhận thấy như phái đoàn Việt Nam, Cao Miên, Lào, Thailand, Tàu, Nhựt, Malaya, Nam Dương, Indonésia, Đức, Anh, Népal, Tích Lan, Ấn Độ, Sikkimy, Pakistan (Hồi quốc) v.v… và các sứ thần đại diện cho mỗi nước trên thế giới. Trong lễ khai mạc dùng ba thứ tiếng là: Pāli, Miến Điện và Anh ngữ.
Vừa đúng giờ thì trời mưa xối xả trên ngót một tiếng đồng hồ, ai ai cũng đều đồng lòng cho là một điềm lành của cuộc Kết tập và sẽ đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Khi mọi người đều an tọa thì tiếng đại bác, đại cổ, tiếng đại hồng chung và tiếng còi (sirène) reo lên inh ỏi để làm biểu hiệu cho cuộc lễ khai mạc.
Một vị Thượng Tọa lão niên đứng lên long trọng tuyên bố thay Ban Hội Đồng Kết Tập trước sự hiện diện của 2.500 vị Thượng Tọa, Đại đức của thế giới tới cộng sự, kế tiếp lần lượt các đại diện đọc thông điệp chúc hạ của các vị Đế Vương và Quốc Trưởng Thế giới gởi tới. Phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy V.N. được sắp vào bữa thứ nhì để đọc diễn văn do Đại đức Nāga Thera Bửu Chơn lên đài phát thanh trước đọc bằng Phạn ngữ sau lại bằng tiếng Anh. Đại đức Bửu Chơn và Sư Hộ Giác được ghi tên vào sổ để tiếp tục kết tập phần nhứt. Vì sự kết tập được chia ra làm 5 phần (cinq Sections), mỗi phần có 500 vị.
Về cách thức kết tập thì một vị Thượng Tọa Chủ Tịch tuyên bố, hai vị Thượng Tọa khác một vị vấn một vị đáp. Bắt đầu từ Tạng Luật, Kinh và Luận, vị vấn hỏi kỹ lưỡng mỗi Tạng hoặc mỗi điều học, như hỏi bất cộng trụ thứ nhứt vì nguyên nhân làm sao mà Phật cấm, ai phạm điều học ấy trước hết, tại xứ nào? Phật chỉ định mấy lần và cấm chỉ mấy lần? Thế nào là phạm tội, thế nào là không phạm tội? Khi xong mỗi điều học thì chư tăng cộng sự đồng lòng đọc lên điều học một lần để tỏ lòng tán thành điều học ấy là đúng theo chánh truyền của Đức Phật, lần lượt như thế cho đến khi tròn đủ tám muôn bốn ngàn pháp môn (84.000 Dhammakhandha). Mỗi ngày ba thời, sáng từ 8 giờ đến 10 giờ, trưa từ 1 giờ tới 3g30 nghỉ giải lao nửa giờ rồi tiếp tục cho tới 5 giờ mới giải tán, công cuộc tiến hành như thế cho tới hai năm mới chấm dứt là đúng Phật lịch 2500 năm.
Chánh phủ đã dự định một số tiền khổng lồ là 90 triệu đồng Rupies lối 650 triệu bạc ta để hộ trợ cho công cuộc kết tập trong hai năm cho được thành tựu.
Về phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy V.N. rất được nhiều nước hoan nghinh vì có biếu cho đại hội 1.000 đồng Rupies và một tấm tranh năm con rồng vàng nhứt là các vị sư biết nói tiếng Pāli và tiếng Anh trôi chảy.
Sau khi ba ngày khai mạc thì Chánh phủ Miến đã sắp đặt cho tất cả phái đoàn trên thế giới tới dự lễ được đi chiêm bái các nơi Phật Tích toàn xứ Miến Điện, như là xứ Pegu, Mandalay, Sagan, Pagan cách tỉnh thành Rangoon độ trên 1.000 cây số. Toàn xứ Miến Điện bảo tháp nhiều nhứt là xứ Mandalay và Pagan có trên 55 ngàn bảo tháp, Chánh phủ chu cấp cho bảy chiếc phi cơ để đưa đi chiêm bái và các sở phí đều do Chánh phủ đài thọ. Tại tỉnh Mandalay, cựu thủ đô Miến, là nơi Kết Tập Tam Tạng lần thứ năm cách đây lối một thế kỷ, có nhiều cổ tháp có trên 1.000 năm, trên mỗi chót tháp đều thếp vàng, nên khi du khách vừa mới tới thì những sự chói sáng của bảo tháp dưới ánh thái dương làm cho chói lòa cả mắt.
Xứ Miến Điện rất rộng lớn nhưng dân số chỉ lối 18 triệu, chư Tăng lối 80 ngàn vị, có cả các nước ngoại quốc tới học nền đạo đức như là người Mỹ, Anh, Ấn, Tích, Đức v.v… Vì vậy mà xứ Miến Điện nay rất có tên tuổi trên thế giới về Phật giáo Nguyên Thủy (Nam Tông) vì còn giữ nguyên vẹn những tinh túy của chánh truyền, đến hiện nay mà vẫn còn có nhiều vị đắc đạo quả. Như cách đây độ hai năm có một vị A-la-hán đã nhập diệt hiện nay xác vẫn còn quàn mà chưa hôi thối và còn mềm mại.
Tóm lại, ai muốn tìm chánh truyền của Phật giáo Nam Tông (Nguyên Thủy) thì nên đến xứ Miến để học hỏi và nghiên cứu thì sẽ đạt được như ý nguyện.
Về pháp học thì còn nhiều nhà sư thuộc nằm lòng Tam Tạng Pāli, còn pháp hành thì cũng còn nhiều vị Thánh Tăng đắc được đạo quả Niết-Bàn.
Nhựt kí của phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy
Khởi hành ngày 14-5-1954: Phái đoàn PGNT (Chùa Kỳ Viên) gồm có: Đ.Đ. Nāga Thera (Bửu Chơn) trưởng phái đoàn, Đ.Đ. Buddhapala (Hộ Giác), Ô. Nguyễn Văn Hiểu thơ ký, Nguyễn Văn Mẫn, B. Huỳnh Thị Kỷ, Đoàn Thị Liên, Huỳnh Thị Có, Kiều Thị Giàu, và Ni cô Trần Thị Thọ đã đáp phi cơ hãng Thái-Airway lúc 13 giờ 45, ngày 14-5-1954, trực chỉ Miến Điện, để dự Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng lần thứ sáu tại Rangoon.
Có nhiều người đến phi trường Tân Sơn Nhứt, tiễn đưa rất đông đầy: Đ.Đ. Tối Thắng dẫn đầu Bổn đạo chùa Kỳ Viên, Đ.Đ. Trụ trì, chư Tăng và Bổn đạo chùa Chantaransey, Đ.Đ. Trụ trì và Bổn đạo chùa Huê Lâm, ông Jethmal và nhiều thân bằng quyến thuộc của các nhân viên trong phái đoàn.
Đúng 14 giờ 40, khi máy bay đáp xuống phi trường Nam-Vian, đã có chư Tăng Miến, Việt và toàn thể thiện tín việt kiều trực tiếp rước vào nhà hàng thết đãi nước cam và ân cần cầu chúc cho cuộc hành trình của phái đoàn V.N. sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp cho nền Phật giáo nước nhà.
Sau khi rước thêm hành khách, máy bay từ giã phi trường Ponchentong, lúc 15 giờ 30, qua hai giờ sau đã đến phi trường Donmuong, cách xa kinh đô Bangkok 28 cây số ngàn.
Nơi đây có hai vị đại diện Sứ quán Việt Nam là quí ông Nguyễn Duy Liển, Cố vấn tòa Đại sứ, và Nguyễn Khoa Phòn vừa là thơ ký và con của cụ Sứ Thần chực đón phái đoàn với hai cỗ xe Sứ quán.
Quê người xứ lạ, nếu không có hai vị kiều bào này lo giùm giấy tờ và rước về an nghỉ tại Sứ quán V.N., thì mặc dầu có Đ.Đ. Bửu Chơn thông thạo tiếng Anh, tiếng Thái cũng phải mất thì giờ chờ đợi và bối rối về chỗ tạm nghỉ.
Khi đến Sứ quán mới hay rằng cụ Nguyễn Khoa Toàn, Sứ thần V.N. tại Bangkok, và phu nhân đã đáp phi cơ về Saigon sớm mai. Nhưng ở nhà có bà Phòn dâu thứ năm của cụ, lo bữa ăn và chỗ ngủ chu đáo. Bà là người quê quán ở Saigon, khi gặp đồng bào từ quê nhà đến, bà tuy tuổi độ chừng 20 xuân, mà rất lịch duyệt, niềm nở tiếp đãi, chuyện trò mật thiết, nhất là đối với năm bà tín nữ.
Ngày 15-5-1954, sáng sớm bà đã lo sẵn đồ điểm tâm mời hai Đại đức và thiện nam, tín nữ xuống phòng ăn, lót lòng. Còn cậu Phòn thì lo sắp đặt đồ hành lý lên xe, chực sẵn đưa phái đoàn ra phi trường. Rồi cũng lo giấy tờ xong xuôi hết, mới kiếu từ trở về Sứ quán vận động cho Đ.Đ. Hộ Giác và ba bà tín nữ đi cho kịp chuyến máy bay sau, bởi tại Bangkok có rất nhiều phái đoàn, như phái đoàn Thái Lan và Cao Miên đã ghi tên trước chỉ còn có 5 chỗ dành cho phái đoàn V.N., trong 9 chỗ của hãng Air-Vietnam đã đánh điện xin.
Tại phi trường Don Muang, Phật tử Thái Lan tiễn đưa phái đoàn của họ rất long trọng, nào là diễn văn, tràng hoa, nhiếp ảnh và tiệc điểm tâm dâng cho chư Tăng.
Máy bay 4 động cơ, 60 chỗ ngồi, không còn một chỗ trống. Vì hành lý nhiều, phải chờ sắp đặt, nên phi cơ cất cánh đã trễ hết một giờ trong chương trình định trước.
Khởi bay từ 10 giờ 30 đến 12 giờ 30, đã tới phi trường Rangoon, cách châu thành 15 cây số ngàn.
Tại đây có Đ.Đ. Kelasa, Giám đốc Đại học đường Rangoon, đại diện cho Giáo hội Tăng già Miến Điện, quan Chưởng lý U Chan Htoon, Tổng Thơ ký Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng, đón rước chư Tăng được đưa về Tăng đường tại chỗ Kết Tập Tam Tạng cách xa Rangoon 12 cây số ngàn, còn thiện tín về tạm trú trong nhiều biệt thự tại trung tâm châu thành.
Tới nơi, sau khi tắm rửa, mạnh ai nấy ngủ lấy sức, tới 4 giờ chiều bị đánh thức mời đi ăn bánh và uống trà sữa. Trong khi ấy, ông Trưởng ban ‘Tiếp tân’ cho hay vị nào cần dùng tiền xài trước khi đi lãnh ngân phiếu, muốn bao nhiêu ông sẵn lòng cho mượn và cho biết từ khi đến tới ngày về, các khách ngoại quốc được nuôi ăn ở khỏi phải tốn tiền.
Ngày 16-5-1964, người Việt Nam đi ra khỏi xứ, nếu không biết tiếng Anh thật là vô phước. Muốn cái chi không biết nói làm sao cho người ta hiểu, thành ra mình là người câm. Rồi nhớ lại, khi ở bên nhà có người bạn rầy sao cho con học Anh văn và Pháp văn. Ông bạn ấy biểu phải cho con học toàn chữ Việt, mới là người công dân trung thành với Tổ quốc. Phải lúc này, tại Rangoon; có ông bạn ấy ở đây để ổng bảo coi phải làm cách nào đặng hỏi thăm đường đi nước bước, và tìm hiểu những điều nghe thấy giùm cho nhóm người Việt, giữa các phái đoàn Mã Lai, Tích Lan, Thái Lan, Ấn Độ, Népal, Tàu, Nhựt, Anh, Đức, Pakistan, Sikkim, Ryukyu, Yougoslaves, v.v… đương giao thiệp mật thiết với người Miến Điện.
Tại đây, người trí thức đến thường dân đều dùng Anh ngữ để nói chuyện với khách tứ phương.
May ra phái đoàn V.N. gặp được bà thân mẫu của ông Mac Phsu, vị thương gia bán dầu cù là đường Lê Lợi, gần chợ Saigon, ra tận phi trường đón rước tình nguyện làm hướng đạo và thông ngôn. Nhờ bà quen biết nhiều, có thân thế, nên ai ai cũng sẵn lòng làm vừa ý muốn. Bà có người chị ruột, trước kia có ở Saigon, nên khi gặp phái đoàn V.N., hai ông bà và 7 cháu (4 gái, 3 trai) đều xem chúng tôi như thân quyến, cách biệt lâu ngày bây giờ gặp nhau, thôi mừng là mừng. Bà thuộc về Hoàng phái, ông cũng là dòng sang trọng, quí danh là U Soe Gywe, đương giúp một cách đắc lực cho Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng. Ông bà biểu chúng tôi phải lại ở tại biệt thự riêng của ông bà, mấy cháu kéo níu không cho đi. Đó là duyên lành của kẻ đi tìm làm việc lành ở tận phương xa.
Cho đến những người Miến Điện, khi gặp người Việt, cúi chào với một nụ cười đầy thiện cảm. Vợ chồng, con cái, dắt nhau đi xem các gian phòng của chư Tăng, vừa thấy chúng tôi đương hầu chuyện với hai Sư V.N., họ dòm không khỏi mắt nhứt là xem các bà tín nữ, dường như đã có gặp nhau trong dĩ vãng; hơn nữa cách búi tóc của phụ nữ V.N. mường tượng như của đàn bà Miến. Rồi họ hỏi thăm ở đâu lại, khi biết là người V.N., vợ chồng, con cái xin vào đảnh lễ chư Sư V.N., ngồi hỏi thăm đủ chuyện. Chẳng phải tọc mạch, bởi họ là người chất phác ở thôn quê đến; có lẽ vì mối cảm tình thiên nhiên của người đồng đạo, một cảm tình thân mật giữa đám con chung của một đấng Cha Lành.
Nói về ngày thứ hai của Phái đoàn V.N. tại thành Rangoon. Nhờ tạm trú trong một biệt thự đầy đủ tiện nghi: đất rộng, gió mát, đèn điện, quạt máy, nên sau một đêm dưỡng sức, ai ai cũng hân hoan vui vẻ. Sáng sớm, dùng điểm tâm rồi, chúng tôi rảo bước xem lại tường tận các biệt thự vừa mới cất xong để rước các phái đoàn ngoại quốc. Cả thảy 25 biệt thự in nhau một kiểu mẫu, cất trên một vuông đất độ 12 mẫu. Mỗi biệt thự 2 từng lầu, chứa 60 giường, mùng mền, nệm, gối toàn đồ mới. Tổng cộng được 1.500 chỗ nghỉ. Nhà nào cũng đầy khách ngoại quốc, mỗi phái đoàn đều có bảng đề chữ lớn trước cửa. Tối lại đèn thắp sáng trưng, ở xa xem như một hội chợ. Ban tiếp tân gồm có một vị Trưởng Ban, 16 nhân viên và 75 bồi phòng, có chỗ làm việc, có điện thoại và 6, 7 cổ xe Jeep để đưa khách đi nơi này chỗ nọ, tùy theo ý muốn. Có máy thâu thanh tại phòng khách và phòng ăn, cho khách mua vui. Mỗi khi đi đâu trên mỗi xe có một nhân viên đi theo dẫn đường, và khi trở về, họ phải xem xét coi có đủ số không; nếu thiếu họ chạy đôn đáo kiếm người vắng mặt, sợ lạc đường không biết nẻo về, vì thành phố Rangoon rộng lớn bằng ba thành Saigon. Tối ngủ, họ cũng cho đủ số người; khách vừa ngủ họ lo đóng cửa. Khi khách ra khỏi phòng, họ đặt người trông nom đồ hành lý, mặc dầu dưới từng dưới có cảnh sát gìn giữ an ninh.
Tóm lại, các phái đoàn đều được săn sóc châu đáo, cẩn thận. Cách tổ chức của Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng, về phương diện tiếp khách, thật đáng kính phục.
Mỗi tối lại còn biếu nào là sách vở về Phật giáo, về xứ Miến Điện, nào là tin tức tiếp rước các phái đoàn sắp đến.
Lúc rảnh chúng tôi xin xe đi viếng chư Sư V.N. và dạo châu thành, có bà thân mẫu của ông Cù Là Mac-Phsu ngồi kế cận thông ngôn. Thành Rangoon có nhiều công sở, nhà hàng, rạp chớp bóng, nhà ngân hàng to tát đồ sộ. Xe cộ nơm nớp xe Autobus, xe Taxis, xe nhà toàn hiệu Anh Mỹ. Xe lửa chạy dưới sâu, nên không có một cái cổng làm trở ngại sự giao thông. Dưới bến có nhiều tàu ngoại quốc và tàu Miến ăn hàng rất náo nhiệt.
Đến một công trường thấy hình đồng của một nhà Sư, chúng tôi hỏi tại sao Ông Sư này được dựng hình? Người hướng đạo trả lời rằng ấy là Đại đức U Wisaya, trong thời kì xứ Miến bị đô hộ, Ngài thấy đồng bào Ngài bị thực dân hà hiếp quá lẽ, Ngài đứng ra binh vực, bị bắt cầm tù. Khi vào khám Ngài tuyệt thực đến chết. Dân chúng cảm mến ơn đức từ bi vô lượng của Ngài, chung đậu tiền dựng hình Ngài để kẻ qua người lại chiêm bái hàng ngày.
Giữa châu thành có một cái chùa tháp, như Namvian, nhưng rất lớn và cao hơn bội phần, gọi là chùa Shwedagon; bể tròn 300 thước; cao 50 thước; phía ngoài phết toàn bằng vàng lá. Chùa này cất trên 2.000 năm, trong ấy thờ Xá Lợi Phật Tổ (8 sợi tóc thỉnh từ Ấn Độ). Chúng tôi chưa có dịp vào chiêm bái và xem cho tường tận. Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng có cho mỗi người khách một quyển sách 100 trương nói về sự tích của ngôi chùa ấy.
Ngoài ra chẳng biết bao nhiêu biệt thự cất trên những khoảnh đất rộng rãi, vườn tược cây cối sum suê.
Đất tại Rangoon mường tượng như ở Dalat, nhà cửa cất trên đồi nhỏ, khoảng khoát, mát mẻ. Người Miến thích nhà nhiều nóc như nóc chùa, mái nhà không dốc đổ như ở Saigon, mặc dầu lợp bằng ngói móc.
Xe chạy xớt qua, chưa có dịp bước chân xuống đất, chờ dự lễ khai mạc 3 ngày, rồi sau khi đi viếng Mandalay, trở về có thì giờ, sẽ cuốc bộ từ phố này qua phố nọ, mới biết được tường tận.
Sau khi đi một vòng cùng khắp châu thành Rangoon, chúng tôi trở về tắm rửa, rồi rủ nhau đến viếng chư Sư V.N. để hỏi thăm về lễ Sima (kết giới) chỗ Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng, đã cử hành buổi sáng. Công việc này thuộc về Tăng sự, nên thiện tín, dầu muốn dự kiến, cũng chỉ đứng ngoài xa dòm vô. Chỗ Kết Tập Tam Tạng chỉ có sáu cửa vào, mà người đi xem có cả đôi trăm ngàn, dầu có đến đó, cũng khó vào gần cửa được. Vả lại, chúng tôi cũng đã biết cách làm lễ Sima ra sao rồi, nên thừa lúc ấy chúng tôi đi xem phong cảnh kinh đô Rangoon. Sau lại vì tánh tọc mạch, muốn biết coi cách thức kết giới ở Miến Điện có khác ở V.N. không, để khi về xứ, nói lại cho bà con biết những điều mới lạ của xứ người.
Nên sau khi vắng mặt, nghĩ lại ăn năn, liền dắt nhau lên tận Tăng Đường, yêu cầu chư Sư V.N. cho biết cách hành lễ buổi sáng có chỗ chi lạ thường không.
Hai Sư nói: Trong các giới Phật giáo Nguyên Thủy, xứ nào cũng đồng tuân theo lời của Phật Tổ Như Lai di truyền trong Tam Tạng Pháp Bảo, nên cuộc lễ Kết Giới đã cử hành y theo một nguyên tắc. Có khác là khác về tánh cách long trọng, bởi lễ này do 2.000 vị Tỳ Khưu trong hoàn cầu hiệp lại làm, lại thêm có 3 vị Pháp Chủ, lớn tuổi và cao hạ nhứt, làm Chủ Tọa là: Đ.Đ. Pakantaik Sayadaw, Đ.Đ. Thit Seintgyitaik Sayadaw (cả hai đều được 82 tuổi và 63 hạ) và Đ.Đ. Sangharaja Chuon Nath (vua Sãi Cao Miên) được 71 tuổi và 52 hạ. Cả ba đều xuất gia từ lúc 19 tuổi.
Sau khi chư Tăng tụng tuyên ngôn phân ranh giới rồi thì chỗ Kết Tập Tam Tạng trở thành Thánh Địa. Từ nay về sau, dầu các bậc Đế Vương, hay Tổng Thống cũng chẳng được phép mang giày đi vào đó. Người ngoại quốc dầu cao sang đến đâu cũng phải tuân theo luật ấy, bằng chẳng vậy, không được mời vào.
Ba ngày khai mạc Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng (17, 18 và 19 tháng 5 năm 1954).
Ngày đầu nhằm ngày trăng tròn tháng Wesak Via Giáng Sanh, Thành Đạo và Nhập Niết-Bàn của Phật Tổ Gotama, năm thứ 2498 sau khi Đức Thế Tôn viên tịch.
Chỗ Hội nghị. Một vùng đất cao ráo, diện tích 100 mẫu, cách xa kinh đô Rangoon 12 cây số ngàn, trước kia là một gò nổi hoang vu, vì đất pha trộn nhiều đá đỏ, nay trở thành một Thánh địa phồn thạnh, nguy nga, do toàn thể dân chúng Miến Điện sáng lập. Chương trình kiến trúc chỉ mới thực hiện được nửa phần: một thạch động, bốn tăng đường, một trai đường, nhiều nhà tạm, đường sá, cầu cống và đèn điện, khởi làm từ 14 tháng trước.
Chùa Kaba Aye. Trong vòng Hội nghị có một Chùa Tháp, tên là Chùa Kaba Aye, cất năm 1952, để biểu dương nguyện vọng hòa bình Thế giới của Phật tử Miến Điện, và luôn luôn làm trung tâm cho H.N Kết Tập Tam Tạng kỳ thứ VI. Chùa này kiểu tròn, 2 lớp vách cách nhau 4 thước, trên nóc là một cái tháp giống như tháp Shwedagon tại Rangoon, châu vi 35 thước, bề cao cũng 35 thước. Ngay 4 cửa vô, có thờ 4 tượng Phật phết vàng, lớn bằng 2 con người. Trên tường, cận nóc trần, thờ nhiều tượng Phật nhỏ hơn, để trên chơn qui, đúc cốt sắt ve ra khỏi vách. Nơi vòng trong, còn thờ một tượng Phật lớn bằng 4 lần tượng thờ ngay cửa vào. Chung quanh bàn thờ ấy, vòng theo vách có tủ chứa đầy bửu vật, đã tìm ra nơi các cổ tháp hư đổ và nhiều Xá Lợi để trong hộp vàng. Cách mặt đất 6 thước trở lên, bên ngoài Chùa Tháp đều phết vàng, vàng lá thứ thiệt, như nóc Tháp Shwedagon.
Thạch động Maha Pasana Guha. Cách Chùa Kaba Aye vài trăm thước về phái tây, là chỗ Kết Tập Tam Tạng. Hang này tạo ra để nhắc lại hang Sattapanni, là nơi Đại đức Kassapa (Ca-Diếp) triệu tập Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng lần đầu tiên tại Rajagaha (Vương Xá). Đứng xa xem như một hòn núi nhỏ, lại gần tưởng như một thành lũy kiên cố, xây bằng đá xanh, chỗ cao, chỗ thấp, dường như công việc chưa rồi. Đứng xa dòm kỹ theo khoảng trống các vồ đá trên chót núi, thấy có nóc nhà lợp thiếc. Hang này bề dày độ 150 thước, bề ngang 120 thước và bề cao 25 thước. Hướng đông và tây, mỗi hướng có 2 cửa vô, hướng bắc và nam mỗi hướng chỉ có 1 cửa. Cả thảy 6 đại môn, cao 10 thước, rộng 4 thước. Từ chơn núi đến cửa 30 thước, sau các cửa ấy là chỗ K.T.T.T., bốn phía có một vách tường kiên cố bằng bit-ton cốt sắt 1th20 bề dày, 90 thước bề dài, 40 thước bề ngang, 14 thước bề cao, có 6 cây cột tròn, trực kính 1 thước, cao 14 thước. Trên đầu không thấy nóc vì bị trần che án. Trên đầu cửa vô phía bắc, có một cái đài vinh dự, ve ra khỏi tường 6 thước, bề ngang 10 thước. Tiếp theo 2 bên đài dọc theo 2 vách phía đông, tây có kệ ngồi 6 cấp, bề ngang 1 thước, bằng sạn đúc, như giảng đường trong các trường đại học. Trên đài danh dự và kệ ngồi là nơi an tọa của chư Tăng. Khoảng giữa hai hàng cột, đất lót gạch bông, là chỗ cư hội của thiện nam, tín nữ. Sau vách phía bắc còn một tòa lầu ba từng, dài 35 thước, rộng 12 thước, cao 17 thước, nóc bằng, nối liền với hành lang, rộng 2 thước, chạy chung quanh nóc nhà lợp thiếc (chỗ K.T.T.T.). Dọc theo hành lang có nhiều động đá nhỏ, để làm chỗ tham thiền cho Chư Tăng. Mỗi từng lầu đều có phòng tắm, phòng tiêu kiêm thời. Nơi góc hướng tây có một cầu thang đúc sạn và một cầu thang điển.
Trong chỗ Hội nghị, vách tường sơn màu xanh da trời, xa xa có lỗ hơi, nhìn như cái bông tròn 24 cánh, tượng trương Bánh Xe Pháp. Giữa lỗ hơi có quạt điển hút gió mát vô, trên có khoảng trống cho gió nóng bay ra. Dọc theo các khoảng trống ấy có gắn đền ống (néon) nối liền nhau, như chạy chỉ xanh trên trần. Ban đêm, đèn rọi từ dưới chơn lên ngọn núi, làm cho thạch động được thấy rõ như ban ngày.
Thật là một kiến trúc vĩ đại, khác thường và kiên cố sáu đại môn, sáu cột nhà, sáu cấp cho chư Tăng ngồi và nhiều bội số khác (multiple de 6) của con số 6 như Xa Pháp 24 cánh, 108 cái đồng la v.v… mà ít ai để ý, đều ám chỉ kỳ thứ sáu của H.N.K.T.T.T.
Có sáu cây Đại Kỳ Phật giáo và nhiều cờ nhỏ phất phơ trên chót đảnh. Chung quanh chơn núi có 108 cái đồng la, trực kính 8 tấc, trên mặt có đúc hình Bánh Xe Pháp, tượng trưng cho 12 nhân duyên (kể xuôi từ Vô Minh… tới Lão, Tử, là Luân Hồi; kể ngược là bẻ gãy từ cây căm, cho đến diệt tận Vô Minh, là Niết-Bàn). Khách thập phương tự do muốn đánh đồng la, cứ đánh. 108 cái chuông này tiêu biểu cho 108 loại phiền não ái dục, mà người đến đây đều mong nếm được hương vị Phật giáo, để rửa sạch bợn trần nhơ, cầu mau giải thoát khỏi nẻo luân hồi thống khổ.
Tăng đường. Cách thạch động 150 thước, nơi phía nam, là 4 gian nhà, 2 từng lầu, bề dài 64 thước, bề ngang 12 thước. Hai gian cách nhau một đường lộ trải đá rộng 20 thước, hai nhà lầu cất xa nhau, hai tòa khác cất dính theo hình thước nách (En équerre) vựa ngã ba đường. Mỗi gian nhà có họa đồ chỉ sáu chỗ Kết Tập Tam Tạng. 120 phòng đâu lưng, hai hành lang 2 thước giáp vòng chung, chặng giữa có 2 thanh đúc, mỗi đầu cũng có 2 thanh đúc và phòng tiêu, phòng tắm. Trong mỗi phòng có 2 giường, có đèn điện, quạt máy. Bốn gian nhà chứa được 2.500 vị Tỳ Khưu, ngoài ra còn có phòng văn, phòng nhóm của ban Tổ chức cho hai phái xuất gia và tại gia, phòng xuất bản tạp chí, máy in và phòng nhiếp ảnh, chớp bóng.
Trai đường. Sau bốn gian này còn một ngôi nhà khác, cũng 2 từng lầu 30×20 và một gian nhà trệt 60×12 để làm nơi trai tăng. Trong nhà trệt gần cửa cái có thờ 80 tượng sơn son phết vàng, tượng trưng cho 80 vị đại A-la-hán, đệ tử kế cận của Đức Thế Tôn khi xưa. Từ các Tăng đường đến Trai đường có nhà cầu lợp thiếc, để cho chư Tăng qua lại khỏi mưa nắng.
Chỗ làm việc. Hai bên cửa đông, có hai gian nhà một từng, để làm văn phòng cho trường đại học, sắp mở sau khi H.N.K.T.T.T. bế mạc (Tăng đường hiện giờ sẽ làm nội trú cho sinh viên, là các vị Tỳ Khưu trong hoàn cầu, đến học Pāli và Tam Tạng). Chung quang Tăng đường còn 30 gian nhà tạm 30×18 cao cẳng, lợp thiếc, để làm trụ sở tạm cho Hồng Thập Tự, sở Chữa lửa, sở Kiến thiết, bộ Thông tin, bộ Ngoại giao, sở Tân đáo, sở Cảnh sát, sở Hiến binh, chỗ đãi khách, kho thực phẩm, nhà bếp và nhà đục mưa nắng cho tín đồ. Nhơn viên của các bộ, các sở nói trên có phận sự cho tin tức, lo giấy tờ thông hành cho các phái đoàn, gìn giữ trật tự an ninh và săn sóc bịnh nhân.
Nơi cửa vào trai đường có sở Giao thông quản xuất 20 xe Cars mới tinh hảo và nhiều xe mui kiến của các quan cho mượn, túc trực ngày đêm để đưa rước chư Tăng và khách của các Ngài lên xuống từ chỗ K.T.T.T. đến Rangoon. Ông tổng thơ ký có lòng trong sạch cấp cho Đại đức Bửu Chơn một cỗ xe riêng để Ngài tùy sử dụng. Toàn thể nhơn viên đều hết lòng lo tròn phận sự. Công việc bề bộn phải ăn, nghỉ tại chỗ. Coi bộ họ rất mệt nhọc, nhưng vẫn vui vẻ niềm nở, ân cần tiếp rước và làm vừa lòng các phái đoàn.
Công việc đương làm. Trước Chùa Kaba Aye, hai bên đại môn có hai ngôi nhà một từng vừa cất xong nhưng chưa sử dụng. Đương cất một tháp để tham thiền, giữa một ao hồ rộng lớn, một gian nhà lầu làm hợp tác xã, nhiều nền móng đương đổ bích-ton…, đặt ống cống, trồng cây, trồng cỏ, tráng đường. Tuy là ngày lễ, nhưng sở Kiến trúc vẫn tiếp tục làm các công việc, không cho gián đoạn. Đại học đường chưa chánh thức mở cửa, nhưng đã tạm dạy trong một gian nhà cao cẳng, bằng cây, lợp ngói. Nghe như công việc kiến trúc đã làm rồi, chỉ mới được nửa phần của chương trình, và đã xài hết 200 triệu roupies (1.500 triệu bạc V.N).
Đây nói về ba ngày lễ khai mạc H.N.K.T.T.T. từ 17 tới 19 tháng 5 năm 1954 nhằm ngày vía Giáng Sanh, Thành Đạo và Nhập Niết-Bàn của Phật Tổ Thích Ca, đúng năm 2.498 của Phật lịch Nguyên Thủy.
Ngày 17-5-1954. Sớm mai 9 giờ, quan Thủ tướng U-Nu mời các phái đoàn dự lễ trai tăng cho 2.500 vị Tỳ Khưu tại Chùa Tháp Shwedagong. Nơi trai tăng là một cái nhà tạm lợp lá, lót ván, cất trên một khoảng đất trống, gần chưn tháp. Vì nổng cao, đất hẹp, nên nhà tạm chỉ vừa đủ chứa 2.500 nhà sư và các phái đoàn, còn người bổn xứ phải nhường chỗ đứng và quì phía ngoài. Vật thực để trong những hộp bằng aluminium, được khiêng lên trước, quan Thủ tướng lên sau với một sĩ quan hầu cận. Xe đến tận nấc thang, từ đường lộ ngài lột giày leo thang như các tín đồ, đến nơi ngài và vị sĩ quan vào quì lạy chư Tăng ba lạy, trở ra trước nhà trai tăng làm lễ chào cờ, có binh lính dàn hầu và trổi quốc thiều. Xong rồi, ngài đi vào lạy ba lạy nữa và xin thọ giới. Xin giới xong có một ông quan đứng lại tại micro đọc bài dâng vật thực. Chư Tăng thọ rồi đọc kinh cầu chúc cho thí chủ, dứt câu kinh toàn thể người dự lễ đồng thanh hô to ba tiếng “lành thay” (không có đọc kinh hồi hướng). Cuộc lễ đã chấm dứt.
Các phái đoàn trở về lo cơm nước, chờ đúng 11 giờ xe rước đi dự lễ khai mạc H.N.K.T.T.T. Đúng 12 giờ chư Tăng và quan khách đều có mặt trong hang Maha Pusana Guha. Trên 10.000 vị Tỳ Khưu có mặt tại Kapa Aye, nhưng chỉ có 2.500 vị được thỉnh vào dự lễ, trong ấy có hai nhà Sư V.N. là Đ.Đ. Bửu Chơn và Hộ Giác. Trên 200.000 người đến Kapa Aye, phần đông là người bổn xứ, chỉ có các sứ thần, quan khách và phái đoàn độ 2.000 người vào dự lễ, trong ấy có 7 đại diện phái Bảo Thủ V.N. (2 thiện nam: Nguyễn Văn Mẫn, Nguyễn Văn Hiếu; 5 tín nữ: Đoàn Thị Liên, Huỳnh Thị Kỳ, Huỳnh Thị Có, Khấu Thị Giàu và cô diệu Trần Thị Thọ).
Đúng 12 giờ 12 phút, (là một giờ có ý nghĩa thế nào mà tôi không có dịp hỏi nơi các vị cao Tăng) trong hang Maha Pusana Guha, sáu tiếng chuông khởi ngân vang dội, phá tan không khí lặng lẽ của 4.500 Tăng và tục, đương nghiêm trang chờ đợi cái giờ cu hội chánh thức của bao nhiêu tâm hồn ngưỡng mộ Phật Pháp, từ bốn phương trời tìm gặp nhau nơi đây, để biểu dương tinh thần đoàn kết trong một giáo lý duy nhứt của Đấng Cha Chung. Cũng trong giờ phút ấy, bên ngoài có đại bác bắn bổng lên hư không sáu lá cờ Phật giáo, nhờ sáu cây dù nâng đỡ giữa lừng, để mặc tình gió lôi cuốn trong bao la Thế giới của hàng Chư Thiên trong các cõi Trời. Báo hiệu vừa dứt, một vị Thượng Tọa đứng trên đài hướng bắc tuyên bố bằng tiếng Pāli và tiếng Miến Điện: “Giờ này là giờ khai mạc Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng lần thứ Sáu, nhằm bữa trăng tròn tháng Wesak, năm thứ 2.498 từ khi Đức Từ Phụ Giáo Chủ Gotama nhập Niết-Bàn”. Một vị Thượng Tọa thứ nhì, cao hạ nhứt trong 2.500 vị Tỳ Khưu trong Hội nghị, đứng lên đề cử Đại đức Giáo Tông (vua Sãi) Miến Điện là Ngài Abhidhaja Maharathaguru Bhaddanta Revata làm Chủ Tọa Hội nghị. Toàn thể chư Tăng chấp thuận bằng cách nín thinh, Đại đức Chủ Tọa được thỉnh lên Pháp tọa, giữa trung đài hướng bắc. Trên hai hang ghế thấp, hai bên Pháp tọa có 9 vị Trưởng Lão ngồi hầu, nơi cấp ba có 10 vị Tăng Trưởng, toàn là bậc đại thiện hữu trí thức trong Tăng già. Đèn rọi từ phía nam (của sở chớp bóng) phựt chiếu ngay đài hướng bắc, giờ phút uy nghiêm, cảm động, Đại đức Chủ Tọa ngồi trên ngai vàng và chư Tăng trong Ban Chấp Sự từ cao dòm xuống với vẻ hiền lành, hoan hỷ, dường như đương ban bố phước huệ của các Ngài đã vun bồi trong cả đời tu học, cho toàn thể đại diện Phật tử hoàn cầu, từ dưới đất mọp lạy lên, để rước lấy nguồn hạnh phúc tươi nhuận hầu đem về chia sớt lại cho các bạn đồng đạo trong xứ mình. Đại đức Bhaddanta Pandita, một vị Trưởng Lão trong Ban Chấp Sự, đứng lên ca tụng Hội nghị bằng tiếng Pāli, và nhấn mạnh rằng tánh cách Hội nghị này khác hơn năm kỳ Hội nghị trước, là bởi do nơi nguyện vọng tha thiết và sự ủng hộ nhiệt thành, chẳng những của dân chúng Miến Điện, mà lại là của toàn thể Phật tử các xứ yêu chuộng Đạo Giáo tối cổ của Đức Từ Phụ Gotama. Kế đó một đại diện phái Tại gia ông U Saing Kyaw, bước ra đảnh lễ ba lạy, đọc bài ca tụng ân đức Tăng Bảo, rồi cùng thiện nam, tín nữ bái chào thêm ba lạy nữa. Tiếp theo, ông Tổng Trưởng bộ Lễ U Win đứng ra đảnh lễ, rồi đọc một bài diễn văn về lịch sử của các kỳ Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng thứ nhất đến thứ năm, ca tụng ân đức của chư vị Thánh Tăng, nhứt là Đại đức Kassapa (Ca-Diếp), có công sắp Phật ngôn ra ba Tạng, mỗi Tạng có mấy pháp môn, mỗi pháp môn có mấy tiếng, khiến cho các nhà Sư trụy lạc phá giới hậu lai không thể canh cải sửa đổi lời di huấn của Đức Thế Tôn được. Và nhờ niêm luật đó, trong thời đại sau, mỗi khi có bọn ký sanh dắt dẫn tín đồ sai đường lạc nẻo, chư Tăng có thể Kết Tập Tam Tạng lại để sùng hưng Phật giáo. Sau rốt ông Tổng Trưởng bộ Lễ ca tụng công đức chư Tăng đã hết lòng phụng sự Phật Pháp, nên kỳ Hội nghị thứ Sáu này được thành tựu mỹ mãn. Ông lạy chư Tăng để tỏ lòng biết ơn các Ngài. Cũng từ trong nhóm Cư Sĩ, ông Tổng Thống Ba U bước ra đảnh lễ chư Tăng, và nhân danh của các tín đồ nhiệt thành vì đạo của các xứ chịu ảnh hưởng Phật giáo Nguyên Thủy, đã triệu thỉnh chư Tăng hoan lâm gia nhập Hội nghị hôm nay, tỏ lòng cung kính bái tạ các Ngài. Rồi ông sơ lược nhắc lại lịch sử tín ngưỡng của nhơn loại từ thời thượng cổ. Xưa kia, vì sợ tai ách do hiện tượng thiên nhiên đem lại, người ta đặt ra đủ loại thần thánh, để thờ cúng mong được giải thoát những nguy biến của vũ trụ. Cho đến khi Phật Tổ ra đời giáo hóa, người ta mới thức tỉnh, biết rằng không thể mong cầu nơi các vị thần linh ấy, mà được giải thoát những thống khổ ở đời. Trái lại, phải nương nhờ nơi Tam bảo, mới được hạnh phúc yên vui vĩnh viễn. Chúng ta có phận sự hộ trì Tam bảo cho được trường tồn hưng thịnh, bằng chẳng vậy Phật Pháp sẽ bị suy vong, nếu để Phật Pháp lu lờ, chúng ta chớ mong giải thoát khỏi vòng đau khổ. Muốn cho nền đạo giáo cao quí của Đức Thế Tôn được thạnh đạt, toàn thể tín đồ phải hết lòng phụng sự ngôi Tam bảo. Trong thời kỳ nước Miến Điện bị ngoại quốc đô hộ, Phật giáo suýt chinh nghiêng hư đổ, vì dân chúng khi ấy không đủ khả năng chống chỏi. Đến khi xứ Miến Điện được hoàn toàn độc lập, Chánh phủ liền bắt tay vào công việc trùng tu Chùa Tháp và phấn khởi dân chúng lập ra các hội Phật học để nâng đỡ chư Tăng, lần lần tới ngày nay mới hiệp tác cùng Phật tử tứ phương tổ chức được Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng này. Sự hy sinh của chúng ta, hôm nay đã đem lại kết quả vô cùng tốt đẹp, chẳng những có lợi ích riêng cho chúng ta, mà còn có ảnh hưởng lớn lao cho nền hòa bình Thế giới. Sau khi dứt lời, ông Tổng Thống đảnh lễ bước lui, nhường chỗ cho ông Tổng Trưởng Tư Pháp U Thwin quì lạy, rồi nhơn danh Phó Chủ tịch Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng, đọc bài tán dương Tam bảo và xin thay mặt cho Chánh phủ Miến Điện, hứa lãnh trách nhiệm đối với chỗ ở, vật thực, y phục và thuốc men, cũng như về các vật cần thiết khác trong thời hạn hai năm kết tập đến ngày chư Tăng trở về quê quán. Ông còn yêu cầu chư Tăng để ý xem xét các phần tử trụy lạc đương ẩn núp theo Tăng già, làm thương tổn Phật Pháp và đề nghị phương pháp diệt trừ bọn ký sanh ấy. Ông hứa sẽ dùng uy quyền của Chánh phủ ban cho ông để trừng trị thẳng tay bọn phá hoại Phật Pháp, để bảo tồn ngôi Tam bảo, hầu hoằng khai Chánh Pháp cùng khắp năm châu bốn biển, cho nhơn loại hưởng nhờ. Kế tiếp, đại diện của các vị Giáo Tông (vua Sãi), các bậc Đế Vương, các Chánh phủ của những xứ được mời dự Hội nghị, đứng ra đảnh lễ, đọc thông điệp tán dương và cầu chúc cho lễ Kết Tập Tam Tạng được thành tựu như ý nguyện của Phật tử trên hoàn cầu và đem lại hạnh phúc hòa bình cho nhơn loại. Cuộc chúc từ kéo dài lối một giờ, rồi tạm ngưng để nối tiếp trong hai ngày sau, y theo chương trình đã định. Đại đức Agga Maha Pandita Bhaddanta Tridasabha đứng trên đài, nhơn danh H.N.K.T.T.T., đọc một bài đáp lại những lời chúc từ của các thông điệp nói trên. Đại đức Chủ Tọa cũng tỏ lời cám ơn các vị giáo tông bằng tiếng Pāli và các Chánh phủ bằng tiếng Miến Điện.
Cuộc lễ chấm dứt hồi 2 giờ 30 phút. Chư Tăng được thỉnh ra hai từng lầu phía sau chỗ Hội nghị giải lao, còn quan khách được mời ra nhà hàng nơi cửa Đông dùng cơm trưa.
Đúng 3 giờ 30, chư Tăng tái họp lại, khai diễn chánh thức công việc Kết Tập Tam Tạng. Cũng 6 tiếng chuông và 6 tiếng đại bác mở đầu như lúc khai mạc. Đây là phần việc của chư Tăng, thiện nam, tín nữ được phép vào dự thính, nhưng vào nơi trong phải nghiêm trang yên lặng và phải ngồi cho mãn giờ mới được ra. Tiếng báo hiệu vừa dứt, Đại đức Chủ Tọa từ trên ngai vàng tuyên bố rằng: Y theo cách thức Kết Tập Tam Tạng của Đại đức Ca-Diếp lần đầu tiên, Hội nghị kỳ thứ Sáu này phải chọn hai vị Trưởng Lão vấn đáp phân minh, cho biết do nơi đâu và tại xứ nào, Đức Thế Tôn đã ban hành các điều luật răn cấm trong Tạng Luật. Vậy xin đề nghị Đại đức Agga Mahapandita Bhaddanta Javana làm người vấn (Pucchaka) và Đại đức Tipika Kadhara Dhammabandagarika Bhaddanta Viccittasera là người đáp (Vissajjaka). Chư Tăng ưng thuận bằng cách nín thinh, hai Đại đức này liền lên ngồi hai Pháp tọa sơn son phết vàng, hai bên ngài Chủ Tọa. Rồi ông Pucchaka bắt đầu hỏi: “Vì nguyên do nào và tại nơi đâu Đức Thế Tôn ban hành điều luật Parajika (I) thứ nhứt, trong tạng Vinaya Pitaka nói về phạm hạnh của các thầy tỳ khưu?” Ông đáp, tay cầm quạt màu ngà, tượng trưng tợ như cây quạt của Đại đức Shin Maha Kathapa trong kỳ kết tập thứ nhứt, trả lời rằng: “Đức Thế Tôn chế ngự điều luật thứ nhứt ấy tại thành Vesali, vì bởi thầy tỳ khưu Ashin Thurein, con của một nhà triệu phú đã thổ lộ hạnh kiểm xấu xa”. Mười vị Tăng trưởng ngồi cấp dưới đồng rập nhau lập lại câu trả lời nói trên cho chư Tăng nghe. 2.500 vị Tỳ Khưu trong Hội nghị đồng đọc lại một lượt điều luật thứ nhứt Parajika sikkha (là điều học về Bất cộng trụ). Xong rồi, toàn thể chư Tăng đọc ba lần Sādhu (lành thay). Tiếp theo, chuông và còi rộ lên thổi vang rần, hưởng ứng ba tiếng lành thay của chư Tăng.
Một vị Trưởng Lão tuyên bố: Buổi kết tập đầu tiên đã kết thúc. Liền đó các thính giả đi ra để chỗ cho toàn thể chư Tăng có mặt tại Kaba Aye vào hiệp với 2.500 vị Tỳ Khưu trong Hội nghị làm lễ Uposatha (Phát lồ), vì ngày hôm nay nhằm ngày tụng giới bổn của Tăng chúng.
Về bên phái đoàn cư sĩ, ngày lễ đầu tiên này chấm dứt, sau buổi tiệc long trọng của ông Đô Trưởng Ragoon, thết đãi tại thị sảnh, có ngũ âm và múa rầm giúp vui tới đêm mới mãn.
Ngày 18-5-1954. Trong Phật giáo có một việc lạ, mà ai ai cũng để ý nhưng không thể hiểu được: Mỗi khi có lễ lớn thì trời chuyển mưa, nhằm mùa mưa thì mưa tầm tã, nhằm mùa nắng thì trời vần vũ, mưa to. Các kỳ rước Xá Lợi ở Saigon và cung nghinh Xá Lợi đến các Chùa đều có vậy; dường như mưa để rửa trược khi nơi vùng có đại lễ, hoặc cho quang cảnh mát mẻ, giúp cho người mộ đạo vui thích trong phước lành.
Hôm qua, trước giờ H.N.K.T.T.T. trời mưa xối xả, cho đến giờ khai mạc chỉ còn mưa tro rỉ rả. Cây cỏ, chùa chiền, đền đài, trong ngoài chỗ Hội nghị đều được thợ trời rửa sạch bụi cát do cả ngàn xe hơi tới lui tấp nập trong mấy ngày trước. Bao nhiêu dơ uế trên mặt đất được nước cuốn ra khỏi vùng Thánh địa. Nếu cho đó là một sự tình cờ do hiện tượng vũ trụ đem lại, sự tình cờ này có lẽ cũng tùy thuộc nơi tâm lành của khối người trong sạch với đạo lành của đấng Trọn Lành duy nhất trong thế gian vậy.
Hôm nay, ngày thứ nhì, trời quang mây tạnh, và nhờ bên trong có nhiều chỗ rộng, ban Tổ chức cho thính giả vào thêm 1.500 người nữa, thành ra trong hang kết tập có cả 6.000 người: 2.500 vị Tỳ Khưu và 3.500 tín đồ. Còn lại gần 200.000 người ở ngoài, lớp đi chung quanh đua nhau đánh 108 cái đồng la, cầu cho phiền não mau tận diệt do duyên lành cấu tạo hôm nay; lớp vào chiêm bái trong Chùa Hòa Bình Kaba Aye, lớp thì lóng nghe trước các ống loa các lời tuyên bố của chư Tăng, cùng những bài chúc từ của đại diện các xứ bên trong. Phái đoàn V.N. hôm nay đến trễ 10 phút vì bận lo đi lãnh bạc nơi ngân hàng. Tuy đến trễ, nhưng được vô thong thả, nhờ mỗi người có treo trước ngực một thẻ ng��, biểu hiệu của khách ngoại quốc, một biểu hiệu đơn giản, nhưng rất linh nghiệm đi tới đâu cũng được nhường chỗ, cho đến giữa thành phố cũng được người ta niềm nở chỉ chọc đường đi nước bước. Vì đến trễ mà có một bà tín nữ không quen vừa đi vừa chạy, cũng không quen đi chân không trên lộ trải đá, bá cẳng vào vật chi mà phải trầy chân đổ máu, lại bị trật gân sưng cẳng, tối về nóng lạnh.
Hôm nay, buổi lễ khởi hành đúng 12 giờ. Cũng như bữa đầu, dứt tiếng chuông còi, một vị Đại đức đứng ra tuyên bố Hội nghị khai mạc ngày thứ nhì. Ông Thủ tướng U Nu bước ra đảnh lễ chư Tăng và đọc một bài diễn văn ca tụng các Hội Nghị K.T.T.T. đầu tiên, giải thích nguyện vọng và mục đích của cuộc Hội nghị kỳ sáu này, Phật tử đều muốn cho Phật Pháp được gìn giữ nguyên vẹn theo Phật ngôn lưu truyền. Công trình vĩ đại này thành tựu được chỉ nhờ sự cố gắng của Tăng già và tín đồ. Ông Thủ tướng nhân danh dân tộc Miến Điện cầu chư Tăng làm tròn nhiệm vụ cao cả này, y theo tinh thần và thủ tục của chư vị A-la-hán xưa kia. Kế tiếp, các vị Đại đức, trưởng phái đoàn mỗi xứ và đại diện các Chánh phủ luân phiên đọc bài chúc từ. Khi đọc chúc từ các nhà Sư đứng trên bảo đài, còn bên cư sĩ thì đứng dưới đất. Cũng như hôm qua, mỗi lần có đọc diễn văn, mỗi chớp đèn chụp ảnh quay phim.
Đúng 2 giờ 30, tạm ngưng, Đại đức Agga Mahapandita Bhaddanta Indasabha đứng lên đáp lời cùng diễn giả. Dứt lời chuông và còi reo lên chấm dứt buổi lễ.
Đến 3 giờ 30, chư Tăng họp lại Kết Tập Tam Tạng. Hôm nay ông vấn (Puccaka) hỏi ông đáp (Vissajjaka) về điều học thứ nhì và thứ ba của giới Bất cộng trụ (Parajika). Mười vị Trưởng Lão đọc lại hai câu đáp, 2.500 vị Tỳ Khưu đọc trọn điều học thứ nhì và thứ ba dứt lời, toàn thể Hội nghị hoan hô bằng ba tiếng “Lành thay”.
Buổi kết tập thứ nhì của Hội nghị thứ sáu chấm dứt đúng 5 giờ 30.
Khi ra khỏi Hội nghị lúc 2 giờ 30, các phái đoàn được mời ra nhà hàng dự tiệc xế chiều. Ra đến nơi gặp 3 bà tín nữ Huỳnh Thị Có, Khấu Thị Giàu, và cô diệu Trần Thị Thọ đứng trước bộ Ngoại giao với vẻ mặt buồn xo và bí xị. Ba bà từ Bangkok đến từ 12 giờ trưa với Đại đức Hộ Giác, được ban tiếp tân rước ngay về chỗ Hội nghị, chờ các phái đoàn dự lễ rồi về nơi cư trú tại Rangoon một lượt, bởi giờ đó khách ngoại quốc đều ở trong hang Kết Tập Tam Tạng. Riêng mình Sư Hộ Giác được đưa thẳng đến Tăng đường, nơi phòng của Đại đức Bửu Chơn đã ký chú sẵn cho Ngài. Sư Thông Kham cũng từ Bangkok đến một lượt với Sư Hộ Giác, Ngài cũng được đưa đến Tăng đường, theo phái đoàn Lào bởi Ngài từ Vientiane đến, nhưng cũng ở chung một gian nhà với phái đoàn V.N.
Chiều lại được đưa đến một nhà hàng lớn nhứt, dự tiệc của ông Tổng Trưởng Ngoại Giao thết đãi các phái đoàn. Buổi tiệc này có tánh cách lạ lạ: đồ ăn để một nơi, khách ngồi một nơi, khi ráp lại ăn, mạnh ai nấy đi lấy đĩa, muỗng, dao, khăn rồi tự tiện thích món nào gắp món nấy vào dĩa, rồi đem lại bàn ngồi ăn. Boy chỉ có phận sự đi rót nước cam, nước suối thôi. Xứ Phật giáo không có dùng một nhỏ rượu. Ngoài nước cam, xá xị, người ta uống nước lạnh trong lu, cũng không dùng nước trà. Các nhà Sư cũng không có nước trà hoặc nước nóng. Ăn rồi cũng không có diễn văn. Từ bàn này sang qua bàn khác, kiếm người quen nói chuyện đã rồi kéo nhau ra về, cũng không cần biết tới ông chủ nhà. Ông cũng bình dân chen lộn trong đám khách để kiếm ăn và nói chuyện với bạn bè của ông.
Ngày 19-5-1954. Ngày hôm nay là ngày thứ ba, ngày chót của lễ khai mạc.
Phái đoàn V.N. tính lên Kaba Aye ở trọn bữa, trước để thăm hai Sư Hộ Giác và Thông Kham mới đến, sau để leo lên các từng lầu và chót núi đá bao phủ chỗ Hội nghị. Sáng sớm, lót lòng rồi, quí bà dự bị trầu cau, mua sắm vật thực dâng cho ba Sư V.N. Quí bà giàu lòng tín ngưỡng, hay dòm ngó coi chư Sư thiếu thốn món chi, mua sắm không sót, nào là bàn chải chà răng, phấn đánh răng, xà phòng, bình thủy, khăn lau mặt v.v… Phận cư sĩ thì lêu lổng, vô tình, không làm được những việc cao quí ấy. Bề trong thì khen thầm cử chỉ của quí bà, bề ngoài lại thắc mắc, bắt bẻ đủ điều, để che đậy cái tệ của mình: “Đi chung một phái đoàn muốn làm một việc phước nào, dầu lớn, dầu nhỏ cũng phải toan tính với nhau, quí bà ỷ có tiền, muốn làm gì không cho chúng tôi hay biết”. Đây là ăn hiếp gió: mấy bà lật đật sám hối, có biết đâu cái thâm tâm của bọn râu mày.
Gặp Đ.Đ. Thông Kham vui mừng trò chuyện, thì mới hay Ngài nhờ ông Tổng Trưởng Tư Pháp Lào, là ông Phya Kham Mau gởi Ngài qua Miến Điện, theo phái đoàn học sinh. Ngài tới Bangkok ở chờ Chánh phủ Lào gởi thêm ngân phiếu qua đặng mua giấy máy bay sang Rangoon, vì đi thình lình không kịp lấy đủ giấy tờ. Chờ hoài không được, Ngài cậy sứ thần Lào Bangkok, mua giùm giấy máy bay, mới qua sớm một lượt với Đ.Đ. Hộ Giác.
Sư Hộ Giác nhờ ở mấy ngày ở tại Sứ quán V.N., Bangkok, có đi tìm học được hai Sư Tịnh Sự (Sư giáo Vĩnh Long) và Thiện Tâm, đương từng học tại Chùa Rakhang. Vừa đến nơi, Sư Hộ Giác liền bắt tay vào công việc Kết Tập Tam Tạng. Mặc dầu còn mệt nhọc nhưng Ngài vẫn vui lòng tham dự, nhơn danh Phật giáo xứ V.N., cũng như Đ.Đ. Bửu Chơn, Đ.Đ. Bửu Chơn cũng lo cho Đ.Đ. Thông Kham sang qua phái đoàn V.N. để thay thế cho Ngài trở về dưỡng bịnh.
Hội Nghị Phật giáo Thế giới Lần III Tại Rangoon – Miến Điện (Ngày 3 Tháng Chạp D.L 1954 -2498)
Hôm ngày 12 tháng 11 dl.1954, tôi vừa được một bức điện văn của Hội Phật giáo Thế giới Miến Điện gửi sang để thỉnh hai đại diện cho Phật giáo Nguyên Thủy V.N., đến dự Hội nghị Phật giáo Thế giới lần thứ ba tại Rangoon Miến Điện vào ngày 3 tháng chạp D.L. 1954.
Lẽ cố nhiên tôi phải lãnh một trách nhiệm về phần hướng đạo và một vị đạo hữu đã có yêu cầu trước, là ông Vĩnh Cơ có thiện chí muốn sang Miến Điện để quan sát về nền Phật giáo và chiêm bái các nơi Phật tích, tôi liền đánh điện văn cho ông hay, nhưng rất tiếc vì trường hợp xảy ra bất ngờ làm cho ông không thể nào đi được, nên một bức điện văn từ Đà Nẵng đánh vào để cáo lỗi và yêu cầu xin ông Nguyễn Văn Hiểu đi thế, lẽ dĩ nhiên ông Hiểu phải ráng lãnh trách nhiệm nhưng có hơi dụ dự là vì ông đã có đi một lần rồi vả lại cũng bị bận nhiều công việc sau khi xin giấy tờ vừa xong, thì rất rủi thay công việc nhà ông lại xảy ra bất ngờ mà ông không thể nào bỏ đi được. Thế thì tôi phải một mình một bóng lìa khỏi phi trường Tân Sơn Nhứt lối 7 giờ 30 ngày 30 tháng 11dl. 1954 để sang Miến Điện cho kịp kỳ khai mạc.
Phi cơ từ từ cất cánh trực chỉ về hướng tây gần một tiếng đồng hồ lại hạ cánh xuống phi trường Pochentong Phnompenh để cho hành khách lên xuống và trình giấy thông hành độ nửa tiếng đồng hồ lại cất cánh trực chỉ thủ đô Vọng Các (Bangkok), mãi hơn 11 giờ trưa mới tới phi trường Daungmaung cách thủ đô Bangkok lối 28 cây số ngàn.
Vừa tới nơi thì thấy có cậu Phồn Anh con của cụ Nguyễn Khoa Toàn, Đại sứ V.N. ở Vọng Các ra đón rước và cùng luôn dịp đưa 2 bà tín nữ V.N., ở Kiêm Biên đi dự lễ Kết Tập Tam Tạng phần nhì mới về, sau khi trình giấy châu lưu xong lại được cậu Phồn Anh đưa về Sứ quán để tạm nghỉ đặng xin chiếu khán của Tổng Lãnh Sự Miến Điện và ghi chỗ với hãng hàng không, công việc rất lộn xộn nhưng mọi việc đều nhờ Sứ quán V.N. lo xong cả, sáng hôm sau lối 6 giờ sáng lại trở ra phi trường để sang Rangoon; hôm ấy hành khách rất đông nên mãi hơn 8 giờ 30 phi cơ mới cất cánh, gần 1 giờ trưa mới tới phi trường Rangoon. Vừa tới nơi thì ông U. Chaw-Seng, nhân viên của Hội Phật giáo Miến Điện đến tiếp rước và lo giấy thông hành cho tất cả phái đoàn tới Hội nghị, xong lại đưa ra về Kaba Aye là chỗ để cho Hội Phật giáo Thế giới yên nghỉ và Hội nghị. Sau khi tới yên nghỉ một lúc thì có Sư Hộ Tông, Sư Thông Kham, Sư Hộ Giác, Sa di Thiện Hạnh và các bà tín nữ đã đến Rangoon trước để dự lễ Kết Tập Tam Tạng phần nhì, đến thăm và trách móc sao không cho hay tin trước để ra đón rước, mãi mấy hôm sau cô Diệu Phước (Chùa Huệ Lâm) đang tùng học nơi ni đường Miến Điện mới đến thăm tôi.
Buổi khai mạc sáng hôm 3-12-1954, đúng 8 giờ sáng thì tất cả 30 nước trên thế giới đều có đại diện tới tham dự đủ mặt nơi Đại Thạch Động, tôi nhận thấy như là: Tàu, Nhựt Bản, Phi Luật Tân, V.N., Tân-gia-ba, Pénang, Nam Dương quần đảo, Úc châu, Tích Lan, Ấn Độ, Miến Điện, Cao Miên, Xiêm, Lào, Anh, Mỹ, Pháp, Ý đại lợi, Finland, Đức, Áo, Hawaii v.v…
Đúng 8 giờ 30, Tổng Thống Miến Điện vừa tới thì trống còi và đại bác nổi lên inh ỏi để làm biểu hiệu cho buổi khai mạc được thêm phần long trọng, khi tiếng trống còi im lặng thì Đại đức Reveta Chủ tịch ban Kết Tập Tam Tạng lần thứ Sáu bắt đầu cho tam qui và ngũ giới cho tất cả phái đoàn trên thế giới (trừ Tăng già ra mà thôi), kế đó bác sĩ U.Ba Tổng Thống xứ Miến Điện từ từ đứng dậy tới trước máy truyền thanh đọc một bài diễn văn để chúc mừng cuộc lễ khai mạc và cầu chúc cho cuộc Hội nghị Phật giáo Thế giới sẽ đem lại nhiều sự kết quả tốt đẹp cho nhân loại. Kế tiếp, ông U. Chan Htoon, Tổng Chưởng Lý và Chánh Hội Trưởng Phật giáo Thế giới địa phương Miến Điện, đọc một bài diễn văn để chào mừng tất cả phái đoàn trên thế giới vì đã tốn công hao của và phải trải qua nhiều sự khó khăn từ phương xa ngàn dặm tới dự rất đông đủ và ông khiêm tốn xin thứ lỗi cho, nếu trong khi lưu trú có điều chi không vừa lòng đẹp ý. Rồi lần lượt đọc những lời chúc mừng của các vị Đế Vương và Quốc Trưởng của các nước trên thế giới gởi đến, sau cùng ông G.P Malala Sekera Hội Trưởng Hội Phật giáo Thế giới đọc một bài diễn văn đại ý, kể sơ qua lịch sử của Hội Phật giáo Thế giới thành lập đầu tiên năm 1950 tại Colombo, Tích Lan, năm 1952 Hội nghị tại Nhựt Bản, tới năm nay là năm 1954 lại Hội nghị tại xứ Miến Điện, với mục đích đem lại sự sáng tỏ nền Phật giáo chánh truyền còn nguyên vẹn theo Tam Tạng Pāli và gây tình cảm bác ái đối với tất cả người tu Phật không phân biệt tôn, phái, màu sắc chi cả, chỉ biết chúng ta là một khối người tu Phật, như con một cha. Vì Đức Phật cũng như đấng Cha Lành chung cho tất cả người tu Phật. Bác sĩ lại nhấn mạnh thêm rằng còn hai năm nữa là 1956, là đúng thời kỳ phân nửa Phật Pháp 2500 kể từ khi Đức Phật nhập Niết-Bàn đúng ngày Rằm tháng Tư. Hiện nay có hơn 550 triệu người tu Phật trên khắp cả Thế giới đều chuẩn bị để làm lễ Phật nhập Niết-Bàn. Tôi cũng hiểu biết rằng có nhiều nơi ý kiến bất đồng về ngày đản sanh và ngày nhập diệt của Đức Phật. Nhưng dầu sao chúng tôi cũng tự tin rằng Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni giáng sanh, đắc đạo và nhập diệt cũng tại trung Ấn Độ, mà Ấn Độ và các nước trực tiếp về nền Phật giáo theo Ấn Độ cũng đều tin rằng hiện nay Phật Pháp đã qua 2498 năm, dầu đúng hay không chúng ta cũng nên đồng hòa hiệp nhau thống nhứt lại tạo cuộc lễ cho hòa hợp nhau thì càng làm cho được phần long trọng và chúng ta nên tin rằng Đức Phật là một bậc vĩ nhân, ngày sanh và diệt Ngài cũng lựa một ngày cho các hàng môn đệ dễ nhớ, nhứt là ngày rằm thì ít ai quên vậy; không như đạo Gia-tô hiện nay họ vẫn còn mơ hồ, phân vân ngày sinh nhựt của đấng Chúa Trời. Khi dứt bài diễn văn của bác sĩ thì vừa đúng giờ cho chư Tăng độ ngọ nên cuộc khai mạc tạm giải tán.
Đúng 1 giờ thì Hội nghị lại bắt đầu tái họp vào làm việc để xem xét những đề nghị của các nước Phật giáo đưa tới, kỳ họp lần này không phải trong Đại Thạch Động nữa mà ở tại từng thứ nhì, trong một văn phòng rộng rãi lối (10mx30) là một Tăng đường tên Amaragoyāna phía sau Đại Thạch Động, kỳ họp lần này có cả thảy gần 300 đại diện của thế giới và hơn 300 người quan sát viên (observateurs). Phần P.G.N.T.V.N. theo thứ tự mẫu âm Đ.Đ. Bửu Chơn được sắp vào ngày thứ nhì để đọc diễn văn phúc trình sự hoạt động. Đại ý bài diễn văn nói rằng: Hiện nay nhân loại đang bị áp lực của tham, sân, si đè nén nặng nề, muốn chữa trị những chứng bịnh ấy cần phải có một phương thuốc thật hay mới mạnh được, không chi hơn là tất cả nhân loại nên quay về Phật giáo, vì Phật giáo có tánh cách không thù oán, hãm hại, tàn sát lẫn nhau và nên tu tập theo hạnh bố thí để trừ bớt lòng tham lam, trì giới để dứt bỏ lần lòng thù oán, vì nếu mỗi người đều giữ giới thì còn ai mà chém giết tàn sát nhau, mà nếu không có chém giết sát hại thì đâu có sanh ra giặc giã chiến tranh. Hơn nữa, cần phải ráng tham thiền để trừ bớt lòng si mê và cho được minh tâm kiến tánh thấy rõ chơn lý của vạn vật đều là vô thường, khổ não, vô ngã thì tự nhiên các bịnh tham, sân, si ấy sẽ lành mạnh, chừng ấy không cần nói cả Thế giới đều được hoàn toàn hạnh phúc và thái bình thạnh vượng.
Trong 3 ngày Hội nghị, hội chia ra làm 4 Ủy ban để bàn luận về 4 vấn đề:
Ủy ban thứ nhứt: Bàn luận về vấn đề “Giáo hóa”, Ủy ban này yêu cầu nên tạo thêm những trường học cho nhi đồng Phật tử, nên lập ra những lớp học ngày chúa nhật để dạy cho học sinh am hiểu về Phật giáo và nếu có thể nên lập ra trường đại học về Phật giáo tùy theo khả năng của mỗi trung tâm Phật giáo Thế giới địa phương.
Ủy ban thứ nhì: Bàn luận về vấn đề “trực tiếp với xã hội”, Ủy ban này dẫn dụ rằng: nên giúp đỡ cho xã hội về sự thành lập dưỡng đường, cô nhi viện, nhà riêng cho những người có bịnh hủi và các nơi tiếp độ sức khỏe cho loại thú, nên tiếp độ cho người bị tai hại về nạn chiến tranh hoặc bị tai hại trong lúc thừa hành phận sự trong các cơ xưởng trong các ngành kỹ nghệ.
Ủy ban thứ ba: Bàn luận về vấn đề “truyền bá giáo lý Phật Đà”, Ủy ban này bàn luận rất lâu và sôi nổi, đại khái về sự thành lập trụ sở trung ương và trụ sở địa phương của hội để làm việc về sự truyền bá Phật giáo Thế giới và kế hoạch của sự truyền bá là:
Khởi xướng về sự hành đạo trong xứ đã có Phật giáo.
Trong xứ không có Phật Pháp thì nên tiếp giúp công chuyện từ thiện như Ủy ban thứ nhì, thuyết pháp, nói đạo và tự mình phải thực hành cho đúng đắn theo chánh giáo để làm gương mẫu.
Nên lập những tư thục để huấn luyện cho phái Tăng già và thiện tín về phương pháp và tư cách của các nhà đi truyền giáo cùng một khuôn khổ.
Ủy ban thứ tư: Bàn luận về vấn đề “hoạt động của Phật giáo Thế giới”, Ủy ban này đưa ra rất nhiều đề nghị đại khái như là: thành lập sự đoàn kết để làm cho hiểu biết nhau giữa người tu Phật bất cứ là nơi nào, nên thay đổi nhau qua lại về các nhà sư đi truyền giáo và gởi các học sinh Phật giáo đi các nơi, nên thành lập một hội thanh niên nam, nữ Phật giáo Quốc tế, nên thông dụng lá cờ Phật giáo trong các cuộc lễ nào có tánh cách về Phật giáo.
Và thông dụng Phật lịch là kể từ Đức Phật nhập Niết-Bàn đến nay đã được 2498=1954, nên bày ra một biểu hiệu chung cho tất cả Phật tử. Về căn bản hoạt động của sự truyền bá của Phật giáo thì nên căn cứ vào Kinh-Luật của Đức Phật, nhứt là mỗi người Phật tử đều giữ ngũ giới cho trong sạch, vấn đề này có 2 nhà sư Bắc tôn ở Lastonie cãi rằng như rượu bia hoặc rượu chát người tu Phật uống cũng được vì nó làm cho sự tiêu hóa dễ dàng, sau một lúc bàn luận, hội bác hẳn lời của 2 nhà sư này, nên trao đổi nhau để ấn tống những tin tức của Phật giáo khắp nơi và lập 1 quyển sách cho biết chung tất cả những ngày lễ của Phật giáo luôn có cả tam qui và ngũ giới theo Pāli. Hơn nữa, nhân danh H.P.G.T.G., xin kêu gọi tất cả các Chánh phủ nên ra lịnh cấm sự chế tạo và dùng đến bom nguyên tử, bom khinh khí và tất cả những khí giới có tánh cách sát hại một lần thật nhiều người, vì muốn đem lại sự an ninh cho nhân loại. Các nhà Phật tử nên cấm các con em đừng cho chơi những món đồ có tánh cách sát hại như gươm, súng giả v.v…vì nó ám ảnh và khêu gợi tánh nết hung dữ của trẻ con. Sau khi 4 Ủy ban trên đây đề nghị và bàn luận xong lại đưa lên Tổng Ủy ban để biểu quyết chung một lần nữa khi đã đồng chấp thuận mới được đem ra thi hành.
Qua ngày thứ tư thì tất cả phái đoàn trên thế giới được đưa vào Đại Thạch Động để dự kiến 500 chư Tăng Thế giới đang Kết Tập Tam Tạng phần nhì (2ème Session) kế đó đưa đi viếng các nơi Phật tích trong thủ đô Rangoon.
Bắt đầu từ ngày thứ năm sắp lên thì Chánh phủ Miến Điện có sắp đặt cả thảy 52 toa xe lửa thượng hạng để đưa tất cả phái đoàn đi chiêm bái các nơi Phật tích và các bảo tháp thờ Xá Lợi trên xứ Miến Điện như là tỉnh Mandalay là cựu Thủ Đô của xứ Miến và là nơi Kết Tập Tam Tạng lần thứ Năm, nơi này có 729 tấm bia đá cẩm thạch chạm đủ Tam Tạng Pāli, mỗi bia đá ấy lại được bảo tồn bằng một bảo tháp vuông vức 2 thước tây bề cao lối 3 thước. Những bia đá này đã tạo ra lối 1 thế kỷ, nên những tấm bia ấy chữ vẫn còn rành rạnh, kế đến viếng xứ Pagan cũng là 1 cựu Thủ Đô của xứ Miến, xứ này có một danh từ đặc biệt gọi là rừng tháp, vì tại xứ này có cả thảy trên 55.000 bảo tháp. Kế viếng xứ Mingun là nơi mà một vị Thánh Tăng đã nhập diệt hơn 3 năm, hiện nay xác Ngài còn quàn mà vẫn không hôi thối. Lúc trở về có viếng một vị Thánh Tăng đương còn hiện tại, nơi xứ Kyaw-sê…
Phương tiện phái đoàn đi chiêm bái, khi hết tàu hỏa sang tàu thủy, xe hơi v.v… Công việc do Chánh phủ sắp đặt hết sức châu đáo, mỗi nhà ga hoặc mỗi thỉnh lỵ để tạm dừng khi thọ thực hoặc giải khát thì Chánh phủ địa phương đều có sửa soạn trang hoàng để tiếp rước rất long trọng. Nếu khi tạm trú trong một đêm, thì có tổ chức các cuộc múa hát bổn xứ để giúp vui cho phái đoàn, công việc đi chiêm bái ấy mất hết cả 9 ngày mới xong, lại đưa phái đoàn trở về Rangoon và sáng hôm sau là đúng ngày 18-12-1954, thì tất cả phái đoàn lần lượt lên đàng về xứ hoặc ai muốn sang Ấn Độ để chiêm bái bốn chỗ động tâm thì đi, nhưng sự tổn phí thì tự mình chịu lấy.
Riêng phần phái đoàn P.G.N.T.V.N. còn nhiều công việc phải thu xếp nên tới ngày 22-12-1954 mới lên đàng về xứ…
Nhưng trước ngày lên đường về xứ, ông Tổng Thống bộ Lễ Ngài U.Win tiếp P.Đ.P.G.N.T.V.N.
Ngày 20-12-1954, P.Đ.P.G.N.T.V.N. được ông U.Win Tổng Trưởng bộ Lễ tiếp rước nơi biệt thự Ngài rất ân cần và vui vẻ hỏi thăm về công việc tiến hành của P.G.N.T.V.N. Sau khi nghe Đ.Đ. Bửu Chơn thuật lại về công việc Phật giáo ở V.N. và vụ mất trộm Ngọc Xá Lợi độ nọ, Ngài Tổng Trưởng bèn cho biết rằng mới rồi ở sở Khảo cổ có tìm được một bảo tháp sụp đổ tại xứ Sandaw giáp ranh xứ Miến Điện và Ấn Độ do Đức Vua Arakan sáng tạo cách đây hơn 900 năm, trong tháp ấy có nhiều Ngọc Xá Lợi của Đức Phật Tổ và A-la-hán, hiện giờ Chánh phủ đang giao cho ông gìn giữ. Khi nghe Đ.Đ. Bửu Chơn thuật xong Ngài rất cảm động và xin đề nghị với Chánh phủ để hiến cho Phật giáo Việt Nam những Ngọc Xá Lợi của Đức Phật Tổ và A-la-hán ấy.
Lời đề nghị của Ngài rất kết quả, qua ngày 21-12-1954 chính tay Ngài Tổng Trưởng viết một bức thơ và trao những Ngọc Xá Lợi đã kể trên cho Đ.Đ. Nāga Thera (Bửu Chơn), thỉnh về xứ hôm ngày 4-1-1955 và cuộc cung nghinh Xá Lợi đã có tường thuật trong số báo Tín Điển ngày 6-1-1955.
Nguyên văn bức thơ như vầy: Buddhas’Rilics and Arahat Rilics presented by the Hon’ble U.Win, Minister for Religionus Affairs to the Ven’ble Nāga There, Hear of Viet Nam Delegation on the 21stDecember, 1954, was discovered in the ruins of Sandaw Padoga built about 900 years ago by an Arakann king in Sandoway.
Dịch: Tôi U.Win Tổng Trưởng bộ Lễ của xứ Miến Điện, kính tặng những viên Ngọc Xá Lợi của Đức Phật Tổ và A-la-hán đến Đ.Đ. Nāga Thera (Bửu Chơn) trưởng phái đoàn Phật giáo V.N. hôm ngày 21-12-1954. Những Ngọc Xá Lợi này đã tìm ra được nơi một bảo tháp sụp đổ, bảo tháp này đã tạo ra trước đây lối 900 năm do Đức Vua Arakann nơi xứ Sandoway.
Ký tên: U.Win
Tổng Trưởng bộ Lễ
(Ngưỡng Quang) Miến Điện.
Lúc về có bảy bà tín nữ đã qua Rangoon trước để chiêm bái và chờ kỳ hội nghị nên luôn dịp các bà cũng tháp tùng về theo. Khi về đến Thailand trễ luôn mấy chuyến phi cơ vì không có chỗ. Có nhiều hành khách đã ghi tên trước nên phải ở lại Bangkok hơn 10 ngày vì vậy mà phái đoàn được nhiều thì giờ rảnh rang đi chiêm bái các nơi Phật tích trong Thủ Đô Bangkok nhứt là viếng chùa Phật Ngọc, chùa Cẩm Thạch, tháp thờ Xá Lợi đầu tiên trên xứ Thái tại Nakol Pathom, chùa Preak Bat có dấu chân Đức Phật Tổ cách châu thành Vọng Các hơn 100 cây số. Trong khi lưu trú tại Vọng Các mọi việc đều nhờ Sứ quán V.N. lo liệu nhứt là cụ Nguyễn Khoa Toàn rất ân cần tiếp đãi.
Đến ngày 4-1-1955, phái đoàn mới ghi được chỗ của hãng Hàng không V.N., và đáp phi cơ về đến phi trường T.S.N vào 18g30 ngày 4-1-1955. Có rất đông chư Tăng và tín đồ đã chực sẵn để đón rước và cung nghênh Xá Lợi về chùa Kỳ Viên.
Lễ Bế Mạc Kết Tập Tam Tạng Lần VI Và Lễ Kỷ Niệm 2500 Phật Lịch Tại Rangoon – Miến ĐiệnTừ 22 Đến 27-5-1956
Lối 1 giờ trưa ngày 18 tháng 4 dl, một số đông chư Tăng, thiện nam, tín nữ Chùa Kỳ Viên đã tập hợp tại chùa để đưa chúng tôi ra phi trường T.S.N. Đi theo tôi có Ô. Nghiêm Xuân Thiện chủ nhiệm tờ báo Thời Luận, gần 14 giờ phi cơ mới cất cánh, hơn nửa giờ thì lại đáp xuống phi trường P.P, chư thiện tín Nam Vang đã chờ sẵn để đón chào chúng tôi; sau khi hành khách lên xuống xong thì con chim sắt lại cất cánh bay thẳng về thủ đô Vọng Các, gần 5 giờ mới đến phi trường Daung Maung (Thái). Khi vừa xuống phi cơ thì đã có các nhân viên của tòa Sứ quán Việt Nam ở Bangkok ra đón rước chúng tôi và rước về nghỉ tạm tại Thủ Đô Vọng Các trong một hôm.
Sáng hôm sau khi độ ngọ trai tại Sứ quán xong lại phải trở ra phi trường Daung Maung để sang Rangoon cho kịp chuyến tàu của hãng hàng không U.B.A. sẽ cất cánh 1 giờ rưỡi trưa. Sau gần 4 giờ mới đến phi trường Rangoon, khi trình giấy thông hành xong chúng tôi cùng về trụ sở của Hội Phật giáo tại Kaba Aye (chỗ Hội nghị).
Nghỉ được vài hôm cho có sức khỏe, đúng ngày 22-4-1956 thì bắt đầu khai mạc cuộc lễ Kết Tập Tam Tạng phần chót, mỗi ngày 500 vị chư Tăng của thế giới phải đến để cộng sự đều vào Đại Thạch Động sớm mai từ 8 giờ cho đến 10 giờ rưỡi, chiều từ 1 giờ cho đến 4g30 mới nghỉ. Làm luôn như vậy cho đến ngày 22 tháng 5 dl là đúng ngày khởi hành cuộc lễ bế mạc, nhưng sự kết tập vẫn tiếp tục làm luôn cho đến đúng ngày 24-5-1956 là ngày rằm mới mãn.
Cuộc lễ này khởi hành từ ngày 22 cho đến 27-5-1956, dưới quyền Chủ Tọa của Tổng Thống và Thủ Tướng Miến Điện, về chư Tăng thì 2.500 vị trên khắp Thế giới được thỉnh đến để dự lễ, ngoài ra còn những người đi xem trên 2 triệu, có tất cả các sứ thần của các nước đến dự, tất cả các xe cộ đều phải đi có một chiều nhưng vậy mà trong ngày 23, 24 trong một khoảng đường độ 5 cây số có tới 4.500 chiếc xe phải bò từ từ đến 3 tiếng đồng hồ mới đến chỗ dự lễ, còn người vì chờ lâu nên xuống đi bộ có hơn 90.000 người trong khoảng đường ấy.
Về chương trình rất dài không thể kể hết được chỉ kể sơ những điểm quan trọng vậy thôi. Chánh phủ cho lập 4 dưỡng đường và 4 nhà thí cơm nước để săn sóc và trợ giúp cho những người tứ phương đến xem lễ. Trong mỗi ngày có 10.000 người đến ăn uống khỏi phải tốn kém chi, có tất cả 6 nhà múa hát để giúp vui trong cuộc lễ và có lập tạm các sở như: Bưu Điện, Thông Tin, Cảnh Sát, Y Tế, Sở Tân Đảo và 1 đại đội quân lính để lo hầu hạ và dâng cúng vật thực đến chư Tăng, Chánh phủ cũng cho triển lãm các vật cổ tích về Phật giáo và các kỹ nghệ, thổ sản trong xứ cho công chúng xem.
Trong khi hành lễ các đại diện trên thế giới đều có đọc một bài diễn văn để chúc mừng cuộc lễ, phái đoàn V.N. cũng có đọc một bài chúc mừng bằng Anh ngữ do Đ.Đ. Bửu Chơn đại diện cho V.N. đọc trước máy phóng thanh xong, nhà báo The Burman có xin để đăng tải. Chánh phủ ra lệnh ân xá cho tất cả tội nhân trên toàn xứ Miến như người bị án tử hình thì được hạ xuống còn chung thân khổ sai, người nào bị từ 1 tháng đến 2 năm được giảm 6 tháng, từ 2 năm tới 10 năm được giảm 2 năm, từ 10 năm sắp lên được giảm một phần ba. Như thế rất nhiều người được trả tự do vì đã mãn hạn, số tội nhân còn lại thì cho nghỉ luôn trong 3 ngày lễ…Về chư Tăng tu theo Phật giáo Nguyên Thủy đến dự lễ thì thấy có Thailand, Việt Nam, Cao Miên, Lào, Nhựt, Tàu, Tích Lan, Ấn Độ, Népal, Assam, Úc Châu và Đức. Ngoài ra, cũng có mời một số chư Tăng phái Bắc Tông đến dự. Các đại diện Sứ quán của thế giới ở trên đất Miến đều có mặt tại Đại Thạch Động để dự lễ, riêng phần Chánh phủ Thái Lan do một vị Đại tá đại diện đem theo lễ vật như là: tam y, quả bát, quạt và 10 cái dèm (túi) đều có khắc chữ của Chánh phủ Thái Lan xin dâng cho các vị trưởng phái đoàn đã kể trên để làm kỷ niệm. Trong số ấy V.N. cũng được lãnh một phần danh dự do Đ.Đ. Bửu Chơn thọ lãnh đem về chùa Kỳ Viên.
Trong 3 ngày chót là từ 25 đến 27-5, chính tay Tổng Thống và tất cả quan chức cao cấp Miến đều có mặt tại Thạch Động để dâng Tam Tạng, cấp bằng trong cuộc Kết Tập Tam Tạng các món vật dụng cho tất cả 2.500 vị Tỳ Khưu đã cộng sự trong 2 năm trường.
Về chi phí trong cuộc lễ, Hội Phật giáo đã dự trù một số tiền lối 2 triệu 300 ngàn đồng rupies (gần 300 triệu đồng xứ ta) kể sơ về sở tổn trai tăng trong 1 ngày hết 10.000 rupies (gần 80 ngàn đồng xứ ta) về nước giải lao trong buổi chiều hết 1.250 rupies (hơn 100.000 ngàn đồng xứ ta) tổn phí như thế luôn trong 6 ngày đại lễ. Nhân trong dịp lễ ấy, bà Thủ tướng U.Nu có làm lễ xuất gia cho con gái bà và con gái của các vị Tổng Trưởng hết thảy trên 40 người đồng xuất gia theo cô ni trong một thời gian để gieo duyên lành tại chùa Hansāvady, cùng trong dịp ấy bà cũng hộ cho 2.500 giới tử về y, bát để làm lễ xuất gia kỷ niệm cho 2.500 Phật lịch, nhưng số ấy lại tăng thêm lên cho đến 2.618 vị đồng xuất gia một lượt tại trong Thạch Động, cuộc lễ này hết sức long trọng và vĩ đại từ xưa tới nay chưa từng có.
Ngoài ra, hội còn lo cho tất cả chư Tăng ngoại quốc đi chiêm bái các nơi Thánh tích tại xứ Mandalay là chỗ Kết Tập Tam Tạng lần thứ Năm và có hàng ngàn cổ tháp đã tạo ra trên ngàn năm trong lịch sử.
Tóm luận trong cuộc lễ vĩ đại tại Rangoon có hàng ngàn ngàn người đến dự nhưng rất đặc biệt là không thấy có bán một nhỏ rượu nào, cũng không ai cãi lộn, đánh lộn, giựt đồ bao giờ, mỗi người đều giữ tròn phận sự mình là lễ bái cúng dường tùy theo sức mình vậy thôi, sở dĩ được thái bình, yên ổn có phải chăng là do một phần lớn ảnh hưởng của Phật giáo đã huấn luyện và đào tạo? Hay là do sự khôn khéo sắp đặt trong guồng máy chánh trị của Chánh phủ Miến? Cho nên mỗi người dân Miến đều thích đi chùa cúng bông hoa và đọc kinh trong mỗi ngày không ngớt. Một điều đặc biệt nhất là trong cuộc lễ lớn lao như thế nhưng không thấy có một sòng cờ bạc nào cho tới bong vụ hay là quay số cũng không có. Nhưng người Miến hình như ưa “xâm mình” nên trong cuộc lễ thấy có rất nhiều chỗ bày ra xâm mình đủ thứ hình các loại, thú, phi cầm họ xâm rất mau lẹ độ trong 10 phút là xong hình một con thú nơi cánh tay hoặc ngực.
Cô Diệu Đáng con Đ.Đ. Hộ Tông đang tùng học tại ni đường Rangoon luôn luôn tới lui hỏi thăm tin tức các bà V.N. có ai qua không? Sau khi cuộc lễ bế mạc xong các phái đoàn trên thế giới đã lần lượt về xứ, phần tôi cũng sửa soạn xin chiếu khán đặng trở về xứ.
Ngày 30 tháng 5 dl, thình lình lại nghe tiếng nói người V.N., từ trên lầu trông xuống thấy Sư Giới Nghiêm và các bà tín nữ đang ngơ ngẩn tìm hỏi phái đoàn V.N. vì điện văn đến trễ nên tôi không biết trước để ra đón tiếp và lo giùm giấy tờ, các bà ấy là: Bà Ngô Thị Lợi, Lê Thị Hương, Trần Thuận Anh, Hà Thúc Hòa, cô Hương và cô Xuân, nhứt là cô Trần Thuận Anh khi đến phi trường mà không thấy tôi ra đón đã phụng phịu muốn rơi nước mắt, nhưng về tới Kaba Aye gặp được tôi thì các bà mới hết lo buồn, sau rốt lại may các bà cũng được chiêm bái răng nhọn Đức Phật, tháp thờ 8 sợi tóc của Đức Phật và nơi Thánh tích khác trong xứ Rangoon và Pegu, rất tiếc là các bà muốn đi Mandalay nhưng hỏi xe lửa cũng không có chỗ, máy bay cũng không, cho đến 8 ngày sau mà cũng chưa có chỗ vì chư Tăng và thiện tín họ tới hàng ngàn ngàn nên sự chuyên chở hành khách rất chậm trễ thành ra các bà phải buộc lòng ghi giấy để trở về Bangkok ngày 6-6-56. Phần Sư Giới Nghiêm có lòng muốn ở lại để học tham thiền trong một hạ, nên các bà từ giã Sư Giới Nghiêm và Sư Thiện Hạnh để lên tàu về xứ.
Khi về tới phi trường Daung Maung vì điện văn đến trễ nên không có Sứ quán V.N. ra rước, nhưng sở hàng không Thái rất tử tế đưa phái đoàn cho đến tận Sứ quán V.N. Trong khi lưu trú tạm tại Bangkok mọi việc đều nhờ Sứ quán lo cho, nhất là ông Mai Văn Hàm Đại sứ toàn quyền V.N. tại Vọng Các rất nhã nhặn, vui vẻ, bình dân đối đãi chúng tôi một cách hết sức thân mật. Trong khi ở Thái được xứ quán đưa cho xem những Thánh tích như là: Chùa Phật Ngọc, Chùa Cẩm Thạch, Chùa Phật nằm, bề dài hơn 46 thước tây, chùa Arūn, chùa Phật bằng vàng nặng lối 1.500 k, tháp vàng chùa Sakêt và tháp Nakon Pathom là một bảo tháp sáng tạo đầu tiên trên xứ Thái Lan.
Con đường hàng không từ Vọng Các tới Saigon rất bất tiện, phái đoàn phải chờ 6 hôm mới có chỗ của chuyến tàu hãng hàng không V.N. về Saigon ngày 12-6-1956 vào lối 12 giờ trưa phi cơ cất cánh mãi gần 7 giờ tối mới đến phi cảng T.S.N. thì đã có bà con chờ đón rước rất đông, sau khi trình giấy tờ xong toàn thể phái đoàn đều về Kỳ Viên Tự.
—
Hội Nghị Phật giáo Thế giới Lần IV Tại Kathmandu Népal (15-11-1956) Và Hội Nghị Triết Học Tại Newdelhi Ấn Độ (24-11-1956 Đến 30-11-1956) PL.2500
Được giấy mời của Hội Phật giáo Thế giới Địa Phương tại Kathmandu Népal gửi đến thỉnh tôi và giấy mời của Chánh phủ Ấn Độ do Thủ tướng Nehru gửi đến thỉnh tôi đến Hội nghị Triết học tại Newdelhi vào ngày đã kể bên trên.
Tôi liền đệ đơn lên xin Tổng Thống V.N.C.H. cho phép tôi sang Hội nghị, đến ngày 5-11-1956 tôi liền được lịnh của Tổng Thống ưng thuận cho phép tôi và ông Nguyễn Văn Nẩm, bà Huỳnh Thị Kỳ để sang Népal và Ấn Độ Hội nghị.
Vì bận rộn lo giấy tờ cần thiết để xuất dương mãi cho đến ngày 13-11-1956 mới có chuyến phi cơ của hãng hàng không Air France sang Calcutta vào 8 giờ đêm, nhân dịp ấy cũng có bà Phũ Như ở Phnompenh và bà Diệp Xung, bà Kao Kim Liêng ở Cần Ché cũng đồng tháp tùng theo một chuyến tàu để sang Ấn Độ chiêm bái các nơi Phật tích, thành ra phái đoàn được cả thảy 6 người.
Đúng 20 giờ phi cơ cất cánh, trên tàu các cô bồi hầu toàn là người Pháp cách tiếp đãi với hành khách rất lễ độ, nào là tiếp thắt dây đai chỗ ngồi cho mấy bà già và cắt nghĩa cho hành khách biết dùng áo cứu nguy, khi có sự tai nạn. Ban đêm trên hư không tiết trời lạnh lắm, nên hãng Hàng không phải phát mền len cho hành khách đắp cho đỡ lạnh, vì mệt mỏi suốt ngày, nên khi vừa mơ màng giấc điệp thì có còi báo hiệu cho biết, phi cơ sắp đỗ xuống phi trường Calcutta lối 3 giờ rưỡi sáng, sau khi trình giấy tờ xong thì toàn thể phái đoàn được đưa về trụ sở của Hội Đại Bồ Đề tạm nghỉ, chờ sáng ra ghi chỗ để lên phi cơ qua xứ Népal, ngày hôm ấy không còn một chỗ nào, phải chờ qua ngày 15-11-1956 mới có chỗ, phi cơ cất cánh lối 7 giờ sáng mãi đến 9 giờ hơn mới đáp xuống phi trường Patna để trình giấy thông hành.
Vì phi cảng nằm giáp ranh với Ấn Độ và Népal nên phải sang phi cơ khác đặng vô xứ Népal, hơn 10 giờ phi cơ mới cất cánh bay sang Kathmandu lối 12 giờ hơn mới đến phi trường Kathmandu, ở đây đã có ban tiếp tân chực sẵn để tiếp rước và đưa các quan khách về chỗ trú ngụ, nhưng khi phái đoàn V.N. đến thì cũng gần đến giờ khai mạc, nên toàn thể phái đoàn đều được đưa ngay lại chỗ Hội nghị. Đúng 1 giờ thì cuộc lễ bắt đầu khai mạc, có Quốc Vương Mahindra và các quan chức cao cấp xứ Népal đến dự, các đại diện trên thế giới đều ngồi trên khán đài, tôi nhìn qua thấy cả thảy 32 nước đến dự như là: Ấn Độ, Lào, Xiêm, Miến Điện, Tích Lan, Tân Gia Ba, Phi Luật Tân, Nam Hàn, Mãn Châu, Tàu, Nhựt, Pháp, Anh, Mỹ, Ý, Đức, Nga, Tiệp Khắc, Hạ huy và Việt Nam v.v… Cuộc khai mạc này trên một bãi cỏ vuông vức lối 5.000 thước vuông, dân chúng tụ họp có trên 200.000 người, cuộc lễ kéo dài đến 5 giờ chiều mới giải tán, tất cả phái đoàn đều được đưa về nhà trọ, còn các nhà Sư thì được đưa đi an nghỉ nơi Ananda Kutti trên núi Swayambhu cách tỉnh thành độ 10 cây số.
Xứ Népal ở gần chơn núi Hy mã lạp sơn nên tuyết trời lạnh lắm, mới tháng 10 mà hàng thử biểu xuống đến 15, 16 độ, sáng ra thấy toàn một góc trời đều tuyết phủ trắng phau. Tỉnh thành đóng đô tại nơi một thung lũng chung quanh đều là núi non bao bọc, sự giao thông rất hiểm trở, trừ phi cơ ra thì muốn vào xứ ấy phải đi đường rừng và leo qua nhiều dãy núi mới vào xứ ấy được, dân số lối 13 triệu, người coi có vẻ mộc mạc, chơn thật và quê mùa nhưng trông có vẻ cảm tình, ưa thờ những thần thánh, có nhiều cổ giáo lạ lùng như Hồi giáo, Hỏa giáo, Bà-la-môn giáo v.v…, về Phật giáo thì xu hướng theo phái Bắc Tông, nên chùa chiền thì hay thờ các vị Bồ Tát, nhứt là Quan Thế Âm, phần nhiều đều chịu ảnh hưởng của Tây Tạng truyền sang. Đường sá thì rất chật hẹp, nhà cửa kiến trúc theo lối cổ nên rất thấp, nhưng nhiều từng và nghệ thuật chạm trổ có lẽ là xưa nhất và rất tinh xảo, chỗ nào cũng có đền vua cũ thuở xưa cho nên có một danh hiệu đặc biệt gọi là xứ đền đài vua chúa (pays des Palaces). Vì mỗi vị vua lên ngôi đều dời đền đi nơi khác.
Chương trình hội nghị
Trong ngày đầu để cho các phái đoàn trên thế giới đọc diễn văn chúc mừng buổi khai mạc và những thông điệp của các Quốc Trưởng gởi đến. Phái đoàn Nguyên Thủy V.N. do Đ.Đ. Bửu Chơn hướng đạo, cũng có đọc một bài diễn văn đại ý nói rằng: Hiện nay nhân loại đang bị bịnh tham, sân, si đè nén nặng nề và lo sợ vì nạn chiến tranh đe dọa, muốn trị các ch��ng bịnh khổ sở ấy cần phải có một phương thuốc hiệu nghiệm. Vậy không chi hơn là tất cả nhân loại nên thực hành theo Phật giáo, vì Phật giáo có tánh cách bình đẳng từ bi bác ái và không có lòng hãm hại tàn sát lẫn nhau, nên bắt đầu tu tập hạnh bố thí để trừ bớt lòng tham lam, trì giới để bớt lần lòng hãm hại, thù oán, nếu mỗi người mà giữ giới thì còn ai đâu mà chém giết, tàn sát lẫn nhau, mà nếu không có chém giết tàn sát thì đâu còn có giặc giã chiến tranh mà lo sợ. Không những thế ta còn phải cần tham thiền cho thân tâm được thanh tịnh mới phân biệt đâu là chơn thật giả tà và thấy rõ chơn tánh của vạn vật đều là vô thường, khổ não, vô ngã thì tất nhiên các bịnh tham, sân, si khổ não ấy sẽ tự tiêu diệt. Lẽ dĩ nhiên, chừng ấy cả Thế giới đều được thái bình và nhân loại đều được an cư lạc nghiệp.
Cách thức làm việc trong Hội nghị được chia ra làm 4 Ủy ban như sau:
Ủy ban thứ nhứt: Nghiên cứu về vấn đề giáo hóa, Ủy ban này đề nghị rằng: nên tạo những trường học cho nhi đồng Phật tử, lập các lớp học ngày chúa nhật để dạy cho học sinh am hiểu về Phật giáo và nếu có thể lập ra các trường trung học hoặc đại học về Phật giáo tùy theo khả năng của mỗi trung tâm Phật giáo Thế giới Địa Phương.
Ủy ban thứ nhì: Nghiên cứu về vấn đề trực tiếp với xã hội, Ủy ban này đề nghị rằng: nên tham gia các công cuộc cứu tế xã hội bằng cách thiết lập dưỡng đường, cô nhi viện, trợ giúp các cơ quan cứu tế cho những người bị tai nạn và bảo vệ sức khỏe cho các loại cầm thú.
Ủy ban thứ ba: Nghiên cứu về vấn đề truyền bá Phật giáo trên thế giới, Ủy ban này thảo luận rất lâu, sau cùng đề nghị nên thành lập các trụ sở địa phương để truyền bá Phật giáo theo 3 kế hoạch như sau đây:
Ráng hành động cho cao thượng lên thêm trong những xứ đã có Phật Pháp.
Xứ nào chưa có Phật Pháp thì nên tham gia công cuộc cứu tế xã hội theo đề nghị của Ủy ban thứ nhì, rồi tùy phương tiện thuyết pháp, nói đạo cho công chúng nghe và tự mình phải thực hành cho đúng theo chánh giáo để làm gương mẫu cho người.
Nên lập các giáo đường để huấn luyện Tăng già và thiện tín về phương thế và tư cách cho các nhà đi truyền giáo cùng một khuôn khổ.
Ủy ban thứ tư: Nghiên cứu về sự hoạt động của Phật giáo Thế giới, Ủy ban này đưa ra rất nhiều đề nghị đại khái như là: thành lập tình đoàn kết và làm cho hiểu biết nhau giữa người tu Phật bất kỳ là nơi nào, nên trao đổi các nhà sư để đi truyền giáo và gửi các học Tăng đi học thêm Phật giáo ở các xứ, nên thành lập một hội thanh niên nam nữ Phật giáo quốc tế, nên thông dụng lá cờ Phật giáo trong các cuộc lễ của Phật giáo và thông dụng Phật lịch (là kể từ khi Đức Phật nhập Niết-Bàn tới nay là được 2.500 năm, dl 1956), về căn bản của sự truyền bá Phật giáo thì phải căn cứ vào Tam Tạng là Kinh, Luật, Luận bằng tiếng Pāli, mỗi Phật tử phải gìn giữ giới luật cho trong sạch, nên viết ra một quyển sách để tất cả ngày lễ của Phật giáo cho được thống nhứt và cách thọ tam qui, ngũ giới cho đúng theo Phạn ngữ. Hội Phật giáo Thế giới còn kêu gọi các nước, nên cấm chế tạo dùng bom nguyên tử và khinh khí cùng tất cả các món khí giới có tánh cách sát hại cả khối người, với mỹ ý mong cầu đem lại sự an ninh cho nhân loại, các nhà Phật tử nên cấm các con em đừng cho chơi những các món đồ có tánh cách khêu khích tánh tình hung dữ của trẻ con.
Bốn Ủy ban này thảo luận xong lại đưa lên cho Tổng Ủy ban để bàn luận chung lại một lần nữa và khi đã được toàn thể Hội nghị chuẩn y thì mới đem ra ban hành và áp dụng.
Trong kỳ Hội nghị này cũng như mấy kỳ trước, nhưng chỉ khác ba điểm quan trọng là:
Trước kia những người nào muốn là hội viên của Hội Phật giáo Thế giới phải đóng 1.000 rupies trong mỗi năm, nhưng bây giờ chỉ sụt lại còn 100 rupies mà thôi.
Những kinh sách bằng tiếng Pāli được phiên dịch ra bằng các thứ tiếng quan trọng trên thế giới, nhứt là Anh, khi mỗi hội viên mua thì được trừ cho 20%.
Trụ sở Trung Ương của Hội Phật giáo Thế giới không được nhứt định để trên một nước nào, nghĩa là tùy nước nào có đủ khả năng thì được luân phiên đem về xứ ấy.
Sau khi 3 ngày Hội nghị xong thì tất cả đại diện và quan sát viên lối 300 vị đều được Chánh phủ Népal đưa cho đi chiêm bái các nơi cổ tích và Phật tích trong xứ, đến ngày chót chính bà Hoàng Hậu xứ Népal đứng ra thết một tiệc trà tại Hoàng cung của Tiên vương để tiễn biệt tất cả các đại diện trên thế giới và luôn dịp bà nhân danh cho Chánh phủ Népal tặng cho mỗi vị trưởng phái đoàn 1 pho tượng Quan Thế Âm Bồ Tát bằng đồng để kỷ niệm.
Đến ngày chót Chánh phủ cấp cho mấy chuyến phi cơ đưa các phái đoàn sang chiên bái vườn Lumbini là nơi Đức Bồ Tát Sĩ Đạt Ta giáng sanh gần giáp ranh với xứ Ấn Độ và làm lễ bế mạc luôn cuộc Hội nghị ấy lối 5 giờ chiều ngày 21-11-1956. Sau khi làm lễ bế mạc xong thì toàn thể phái đoàn đều được đưa đi qua nhà ga Nawgarh để lên tàu hỏa sang Newdelhi dự Hội nghị Triết học vào ngày 24-11-1956. Tại nhà ga đã có Chánh phủ Ấn Độ sửa soạn sẵn sàng để tiếp rước tất cả các đại diện nào đã được Chánh phủ Ấn Độ gửi thông điệp thỉnh đến.
Lối 9 giờ đêm thì tàu hỏa bắt đầu chuyển bánh ầm ầm xì xịt, mãi cho đến 2 đêm 1 ngày là sáng ngày 23-11-1956 mới đến Newdelhi, ở đây đã có Ủy ban tiếp tân chực sẵn để rước về chỗ yên nghỉ tại Ashoka hotel, khách sạn này của Chánh phủ Ấn Độ đã cất hơn năm nay, mới vừa xong nhưng còn sắp đặt kiến thiết nội dung, cao đến 8 từng, có cả thảy lối 700 cái phòng, trong mỗi phòng bề ngang lối 3 thước rưỡi, bề dài lối 6 thước, bên ngoài có hành lang, mỗi phòng đều có trải khảm bằng lông trừu, có máy làm cho điều hòa, có tủ bàn, tủ lạnh, giường, bàn ghế, phòng tắm có cả nước lạnh, nước nóng, và điện thoại mỗi mỗi đều mới tinh xảo.
Các đại diện chánh thức do Chánh phủ thỉnh đến mỗi nước chỉ được có bốn người, hết thảy gần lối 100 vị mà thôi, nhưng sự tiếp đãi hết sức châu đáo mỗi phái đoàn đều có cho một chiếc xe hơi để túc trực từ sáng cho đến 12 giờ đêm, để đưa rước các đại diện đến chỗ Hội nghị và tới lui trong đô thị, hoặc là đi xem các ban văn nghệ trong buổi tối, luôn như thế cho đến 10 ngày tại Tân-đề-li, riêng nước Cộng Hòa Việt Nam chỉ có tôi và ông Mai Thọ Truyền được Chánh phủ Ấn Độ mời chánh thức nên mỗi việc đều được dễ dàng, còn phần mấy ông và quí bà kia vì không phải Chánh phủ mời đến, nên không được phép ở chung với các đại diện, nhưng cũng được trú ngụ tại chùa Birla Mindia, ăn và ở đều khỏi phải tốn phí chi cả.
Đến ngày 24-11 bắt đầu Hội nghị, các đại diện được đưa đến một nơi biệt thự thật to lớn cũng vừa mới cất xong, kiến trúc theo nhà hát tây, chứa đựng lối 1.000 người, rộng rãi, mỗi chỗ ngồi đều có bàn viết và ống nghe các thứ tiếng, do thông ngôn dịch lại. Đúng giờ khai mạc cuộc lễ rất long trọng, chính Tổng Thống Prasad và Thủ tướng Nehru đến dự lễ khai mạc, trong khi ấy cũng có Thủ tướng U.Nu Miến Điện, và hai vị lãnh đạo tinh thần của xứ Tây Tạng là Penchen Lama và Dalai Lama đến dự. Cuộc Hội nghị trong bảy hôm để thảo luận và bàn luận về bốn vấn đề:
Để bàn luận và trưng bày những nghệ thuật (art of Buddhism) của Phật giáo trong mỗi xứ, nhất là các kiểu mẫu tháp, chùa và hình tượng của mỗi xứ Phật giáo.
Bàn luận về văn hóa, có liên quan đến Phật giáo như các thi thơ hoặc học đường v.v… được do ảnh hưởng và hấp thụ theo Phật giáo.
Bàn luận về Kinh Luật của Phật giáo, áp dụng trong mỗi xứ, như cách nào còn chánh truyền và cách nào không còn phải là chánh truyền.
Bàn luận về sự thực (hành đạo) theo Phật giáo trong mỗi nước, như có nước cũng mang tiếng là theo Phật giáo, nhưng sự thờ cúng rất phức tạp, như thờ nhiều vị thần linh, hoặc ông này bà nọ đầy trong chùa, hoặc các nhà sư cũng có khi cũng có vợ con, và cũng ăn cơm chiều cũng như người thế v.v…
Sau khi bàn luận bảy hôm mới xong, Thế giới đều công nhận hễ là tu theo Phật giáo thì cần phải thực hành cho đúng theo Kinh, Luật, Luận Pāli y theo đường lối của Đức Phật đã giáo truyền trong 45 năm, sau khi Hội nghị xong, Thủ tướng Nehru có thết một ngọ trai tại tư dinh của ngài, để cúng dường đến chư Tăng Thế giới đã thỉnh đến Hội nghị, luôn cả thân quyến của ngài cũng đều đến dâng cúng vật thực cho chư Tăng.
Trước một hôm khi tất cả phái đoàn sẽ từ giã Tân-Đề-Li để lên tàu hỏa đi chiêm bái các nơi Phật tích, thì Tổng Thống Prasad có tạo một tiệc trà tại dinh ngài để tiễn biệt các vị đại diện, ngài thân hành ra khách đường để chào mừng quan khách một cách thân mật, luôn hôm ấy cũng vừa được tin một vị hòa thượng V.N. pháp danh Huệ Quang đi Hội nghị Phật giáo tại Népal luôn tiện Ngài qua Ấn Độ để chiêm bái, chẳng may vì tuổi già, đến 76 tuổi nên chịu không nổi với sự vất vả và lạnh lẽo, nên ngài tịch vào lối 6 giờ chiều ngày 2-12-1956, tại dưỡng đường Newdelhi, vì mỗi người đều có phận sự riêng, và giấy tờ ghi xong nên rất tiếc phái đoàn không có ai ở lại được để đưa đám táng của ngài.
Sáng hôm sau, nhằm ngày 3-12-1956, lối 9 giờ thì tất cả phái đoàn trên thế giới lên tàu hỏa để đi Sanchi viếng một cổ tháp thờ Xá Lị Đức Phật, kiến trúc đẹp nhứt đã tạo từ thời vua A-Dục rồi đi xứ Agra để viếng Taj Mahal là một kỳ quan thứ 7 của thế giới làm toàn bằng đá cẩm thạch, đi viếng xứ Savathi nơi chùa Bố Kim Tự là chỗ mà Đức Phật thường hay ngự trong khi còn tại thế, đi Kusinara để viếng chỗ mà Đức Phật nhập đại Niết-Bàn, đi xứ Balanai (Benares) để viếng vườn Lộc Giả, chỗ Đức Phật chuyển pháp luân lần đầu cho năm thầy Kiều Trần Như, kế đi viếng xứ Patna cựu thủ đô của vua A-Dục, và nơi Kết Tập Tam Tạng lần thứ ba, xong lại quay qua xứ Vương Xá Thành (Rajagaha) để viếng trường Malanda một cựu đại học đường Phật giáo rất có danh tiếng hồi thế kỷ thứ XII và XIII và viếng chỗ Kết Tập Tam Tạng lần thứ nhất tại thạch động Sattapparani, chùa Trúc Lâm Tịnh Xá (Veluvana Vihara) suối ôn tuyền, thạch động chỗ ĐĐ. Ca-Diếp thường cư ngụ, chỗ núi Kicchayutta Kỳ Xà Quật chỗ Đức Phật thường ngự, và nơi có nhiều ngạ quỉ nhất, và chỗ Đề-Bà-Đạt-Đa lăn đá xuống để giết Phật v.v… Xong lại trở qua Bồ Đề Tràng (Bodhi gayā) để chiêm bái chỗ Đức Phật thành đạo, chỗ rắn bảy đầu đến che cho Ngài trong khi mưa to gió lớn, chỗ Ngài đi kinh hành, xóm cô Sojatā dâng cơm trộn sữa dê cho Ngài, con sông Ni-liên chỗ Ngài tắm xong mới thành đạo v.v… cũng tại Bồ Đề Tràng, tất cả các đại diện đều làm lễ bế mạc, cuộc đi chiêm bái và giải tán tại đây, nhưng Chánh phủ cũng đưa phái đoàn nào về ngả Calcutta cách đây độ 500 cây số mới giải tán, cuộc chiêm bái này kéo dài gần 2 tuần mới chấm dứt, tổn phí đều do Chánh phủ đài thọ. Riêng phần tôi không được cái hân hạnh đi chiêm bái với phái đoàn Chánh Phủ, vì còn mấy bà con đi theo, không được Chánh phủ cho phép đi chung với các vị đại diện, quan khách của Chánh Phủ, nên tôi phải tách ra để hướng dẫn phái đoàn V.N. đi chiêm bái riêng, nhưng cũng được đi các nơi như Chánh phủ hướng dẫn, chỉ phải trả có phân nửa tiền tàu hỏa mà thôi. Nhưng rất may là đi đến đâu nhờ có tôi là khách của Chánh Phủ, nên họ cũng tiếp đãi tử tế, và được ở ngay nhà trọ (Rest house) của Chánh phủ luôn cả phái đoàn cũng được ở khỏi phải tốn kém chi (nên biết rằng lúc này các nhà trọ, các nhà nghỉ mát, khách sạn đều có người giữ chỗ trước hết, vì những người đi chiêm bái đến hàng ngàn người, nên không có chỗ ở, phải ngủ đỡ nơi hành lang mấy nhà trọ, hoặc ngoài đường ngoài sá chẳng hạn, rất cực khổ vất vả lắm…)
Vì phái đoàn tách riêng ra nên đi đến chỗ nào muốn ở bao lâu cũng được, thành ra mãi đến 17-12-1956 mới về đến Calcutta ở tại hội Bồ Đề trong 3 hôm nhằm 20-12-1956, mới có chuyến phi cơ đi xuống xứ Madras, tỉnh thành này cũng to lớn, dân số có đến hơn 6 triệu, phần nhiều là dân Tamil, có nhiều phong tục kỳ dị là hay ăn trong lá, đàn ông thì phần nhiều thì đeo bông, còn đàn bà thì xỏ mũi để đeo bông, đeo kiềng và hay xâm mình cho đẹp, mấy ngón cẳng hay đeo cà rá, phái đoàn phải chờ 5 ngày mới có chuyến phi cơ để đi Tích-Lan, còn rộng ngày giờ nên được đi viếng các nơi trong đô thị, nhứt là viếng trụ sở Trung Ương của hội Thông thiên học tại vườn Adya cách tỉnh thành Madras độ 20 cây số ở dọc theo mé biển, nên khí hậu mát mẻ và phong cảnh rất kì quan, ở đây phái đoàn được ông Hội Trưởng và Tổng Thơ Ký tiếp rước rất nồng hậu.
Đúng ngày 25-12-56, phái đoàn đều lên phi cơ để bay qua Tích Lan, phi cơ cất cánh lối 12 giờ trưa, mãi gần đến 4 giờ chiều mới đến phi trường Colombo, vì có đánh điện văn cho hay trước, nên Đ.Đ. Narada có cho hai người đem hai chiếc xe hơi ra tận phi trường để đón rước phái đoàn về chùa Vajirārāma cư ngụ, tôi và ông Công Minh thì được ở lại chùa, còn mấy bà thì được đưa đi ở nơi nhà của bà Salgado thiện tín của chùa ở gần đấy, tới đây ai nấy cũng đều mỏi mệt, nhưng cũng ráng đi chiêm bái các Phật tích trên xứ Tích Lan, rất may nhờ Đ.Đ. Narada cho hay, nên có Sư Hộ Giác đến chờ, vì Sư ở xa Colombo hơn 100 cây số ngàn, phái đoàn có mướn được một chiếc xe để đi chiêm bái trong 6 hôm các nơi Phật tích như là: Xứ Anuradhapura, chỗ con Vua A Dục đem cây bồ đề qua trồng đầu tiên hơn 2200 năm nay mà vẫn còn sống, kế viếng xứ Mahintale chỗ Đại đức Mahinda bay qua đầu tiên, đứng trên một trái núi hóa hào quang ra để độ Đức Vua Devanampatissa đặng truyền bá Phật Pháp trong toàn xứ Tích Lan, núi Sigiriya, chỗ một đền vua cất trên chót núi, xứ Polonaruwa cựu thủ đô của một vị vua hộ trì Phật Pháp, xứ Badula để viếng một ngôi chùa làm trong hang núi rất cực kỳ mỹ thuật, viếng Aloka Vihara chỗ Chư Thánh Tăng cu hội lại để Kết Tập Tam Tạng lần thứ tư, và chép kinh hữu tự ra trước hết trong lịch sử. Viếng xứ Kandy chỗ thờ răng nhọn của Đức Phật, viếng xứ Mahiyangamma chỗ Đức Phật bay qua lần đầu tiên, viếng xứ Haton để chiêm bái dấu chân Đức Phật đạp để trên chót núi Siripāda khi Ngài bay qua xứ Tích Lan lần thứ ba, còn rất nhiều chỗ Phật tích khác nữa, nhưng không có đủ thì giờ, vì còn phải ghi giấy để về Singapore nên phải trờ về Colombo, trong kỳ đi chiêm bái này rất vui vẻ và thú vị lắm, vì có Sư Hộ Giác và một nhà Sư Nhật cùng đi theo, riêng phần ông Công Minh không được hưởng chung hạnh phước này, vì ông than mỏi mệt và đau chân, phần thì gần hết tiền, lại than van ăn ka-ri hoài đứt ruột không chịu nổỉ, nên ông ở lại chùa để ăn cơm Tàu cho tiện.
Qua đến ngày 7-1-1957 mới có chuyến phi cơ bay qua Singapore của hãng hàng không B.O.A.C, riêng phần bà Diệp Xung người Tàu nên giấy tờ rất khó khăn lắm, không thể đi về bằng phi cơ được, nên bà phải về bằng tàu thủy đến Saigon một mình, mấy ngày sau thành ra phái đoàn buộc lòng phải từ giã bà để lên phi cơ về trước với tấm lòng ngùi ngùi vì bỏ bà ở lại đi tàu một mình.
Sáng ngày 7-1-1957 thì phái đoàn phải ra phi trường Talamana để lên phi cơ của hãng hàng không B.O.A.C của Anh, đúng 7 giờ 30 thì phi cơ cất cánh bay qua Ấn Độ Dương, mãi cho đến chiều 6 giờ 30 mới đến phi trường Singapore nhờ có gởi thơ cho hay trước nên có nhân viên Sứ quán V.N. tại Tân-Gia-Ba ra đón rước và lo giấy tờ giùm, xong lại được đưa về nhà khách sạn của hãng hàng không an nghỉ. Còn phần tôi thì được đưa về chùa Sirilanka do một nhà sư Tích Lan cai quản, nhà sư này cũng là bạn thân đã quen biết với tôi từ lâu nên khi gặp nhau thì hết sức vui mừng, vì đi qua Singapore chỉ lưu trú tạm nên không được ở lâu, nhưng rất may nhờ có Hội Phật giáo Thế giới Địa Phương hay tôi đến nên sáng ra đã đến thăm và sắp đặt một chiếc xe sẵn sàng để đưa phái đoàn đi viếng tỉnh thành Singapore và các chùa chiền trong xứ, châu thành này dân số lối 1 triệu rưỡi, phần đông toàn là người Huê kiều, chiếm hầu hết các phần thương mãi trong đô thị. Tại đây đồ hàng hóa rất rẻ vì không có đánh thuế nhập cảng, châu thành thì đóng theo dọc bờ biển nên rất mát mẻ, sạch sẽ và thẩm mỹ.
Sau khi đi chiêm bái khắp châu thành thì tôi được thỉnh về thọ trai tại chùa Sirilanka, thọ trai xong lại phải đưa ra phi trường liền cho kịp giờ lên phi cơ, đúng 12 giờ 30 thì phi cơ cất cánh, theo đường cũng không có chi lạ, khi phi cơ bay qua vừa khỏi biển đến đất liền thì còi báo hiệu phải thắt dây đai, vì phi cơ sắp đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất lối 3 giờ 30 chiều ngày 8-1-1957, khi lo giấy tờ xong đã có ông Nguyễn Văn Hiểu và bà ra trước đón rước, nên được đưa về chùa Kỳ Viên trong lúc 4 giờ. Tại chùa đã có chư thiện nam tín nữ chực sẵn đầy chùa để chào mừng phái đoàn trở về được bình an.
Tóm luận, kỳ Hội nghị này hết sức long trọng vì Chánh phủ Ấn xuất ra một số tiền rất nhiều, lối 75 triệu đồng rupies (600 triệu đồng bạc xứ ta) để sửa sang đường sá cầu kỳ, cất nhà trọ, đem đèn nước đến tận nơi, các xứ có Phật tích cho người đến chiêm bái dễ dàng, thuận tiện, và có mỹ ý để phục hưng lại nền Phật giáo trên đất Ấn. Tất cả phái đoàn lại được Chánh phủ Ấn Độ tặng cho mỗi vị một biểu hiệu bằng bạc của cuộc lễ, một cuốn album, một khuôn tháp bằng đồng đen kiến trúc nhái theo kiểu tháp Sanchi và rất nhiều sách để làm kỉ niệm.
Bài Phúc Trình Của Đại đức Nāga Thera Bửu Chơn Trưởng Phái Đoàn Phật giáo VN
Dự Lễ 2500 Năm Kỷ Nguyên Phật giáo Tại Phnompenh – Cao MiênTừ Ngày 11-5-1957 Đến 18-5-1957
Ngày 9-5-1957 có lệnh của phủ Tổng Thống phái tôi làm trưởng phái đoàn Phật giáo và Thượng Tọa Thích Trí Thủ phái viên cùng ông Trần Thành Hiệp làm thơ ký để dự lễ 2.500 kỷ nguyên Phật giáo tại Phnompenh Cao Miên.
Vì ông thầy tế độ tôi tịch nên tôi đã về Phnompenh trước mấy hôm. Tôi phải đến tòa đại diện Chánh phủ V.N.C.H. tại Phnompenh lãnh nhiệm vụ lệnh ngày 11-5-1957, còn Thượng Tọa Thích Trí Thủ vì lý do sức khỏe nên không đến dự được. Chánh phủ phái Đ.Đ. Hộ Giác thay thế, còn ông Trần Thành Hiệp thì cũng vắng mặt luôn thành ra phái đoàn V.N. chỉ có tôi và Sư Hộ Giác mà thôi.
Lúc 4 giờ chiều hôm ấy lại được thiệp của Đức Vua Cao Miên mời tất cả phái đoàn trên thế giới vào triều đình để Ngài chào mừng và yết kiến Ngài. Phái đoàn V.N. được sắp ngồi nơi hàng ghế danh dự trước mặt Đức Vua và Hoàng Hậu, Đức Vua bắt đầu chúc mừng cho tất cả các phái đoàn, đại khái Ngài nói rằng: Với danh nghĩa của Quốc Vương và luôn cho cả dân tộc Cao Miên, xin cầu chúc cho tất cả phái đoàn đều được dễ dàng trong mọi tiện nghi và yên vui trong khi lưu trú trên lãnh thổ của Ngài. Ngài nói bằng tiếng Cao Miên do thái tử Sihanouk thông dịch lại bằng tiếng Anh và Pháp, kế đó các phái đoàn đều được phép đáp lời lại để phúc chúc Ngài tùy theo phái đoàn nào muốn nói. Trước hết phái đoàn Úc châu chúc mừng cho Ngài xong thì phái đoàn V.N. do Đ.Đ. Bửu Chơn liên tiếp chúc hạ cho Đức Vua và Hoàng Hậu bằng tiếng Anh, đại khái nói rằng: Xin thay mặt cho Phật giáo V.N. và toàn thể Phật tử cầu cho Đức Vua và Hoàng Hậu và luôn cả dân tộc Cao Miên đều được yên vui khỏe mạnh để hộ trì Phật Pháp cho được tấn hóa lâu dài. Khi thái tử Sihanouk thông dịch xong thì Đức Vua đáp từ lại bằng tiếng Cao Miên, tôi liền trả lời lại bằng tiếng Cao Miên Sadhu, Đức Vua và Hoàng Hậu hết sức ngạc nhiên hỏi tôi biết tiếng Cao Miên sao? Tôi trả lời rằng tôi biết tiếng Cao Miên rành vì trước kia tôi có tùng sự với Chánh phủ bảo hộ Pháp hơn 10 năm tại Kim Biên. Đức Vua và Hoàng Hậu rất mừng rỡ và nói rằng chúng tôi không dè nước V.N. cũng có Phật giáo Nguyên Thủy như chúng tôi. Rồi Đức Vua xin thành tâm cầu chúc cho quí Ngài được khỏe mạnh vẹn toàn để truyền bá chánh giáo của Đức Thế Tôn trên lãnh thổ V.N. Kể từ đó về sau mỗi khi trò chuyện thì dùng tiếng Cao Miên theo Hoàng phái, khi các phái đoàn chúc hạ cho Đức Vua và Hoàng Hậu xong rồi giải tán.
Tất cả phái đoàn đều được đưa về một biệt thự mới cất tinh xảo để trú ngụ, riêng phần phái đoàn V.N. đều là các nhà Sư nên ở nơi ấy bất tiện vì phải chung chạ cả nam lẫn nữ, nên chúng tôi xin về ở chùa Mohamontrey cho thanh tịnh. Chánh phủ Cao Miên cũng ưng thuận và có cấp cho chúng tôi một chiếc xe hơi để tùy nghi sử dụng, cho một ông thiếu úy để hầu cận, một người hạ sĩ quan và một chiếc xe moto có còi để hộ tống chúng tôi trong khi đi dự lễ.
Sáng ngày 12-5-1957 là ngày khai mạc cuộc lễ phải cung nghinh Ngọc Xá Lỵ Đức Phật Tổ từ đền Vua đến an vị nơi chỗ hành lễ (trước nhà gare xe lửa). Trước hết Đức Vua Cao Miên lên diễn đàn đọc diễn văn khai mạc xong, thì kế Đức Vua Sãi cũng đọc một bài diễn từ ý nghĩa nói về cuộc lễ kỷ niệm 2500 kỷ nguyên Phật giáo vừa xong thì hết buổi sáng. Đến chiều thì có cuộc lễ xuất gia cho 2.500 vị Tỳ Khưu và những người thọ trì thập giới được lịnh mời đến nơi hành lễ để Đức Vua Sãi ban huấn từ dạy dỗ theo phận sự trong Phật giáo, xong thì tất cả những vị ấy được dâng những lễ vật của tín thí đem đến cúng dường. Đến tối thì có thuyết pháp, dưng cộ về sự tích của Đức Phật, đốt pháo bông và tiếp tục luôn những cuộc diễn hành khác để giúp vui trong cuộc lễ.
Sáng ngày thứ hai 13-5-1957 nhằm ngày rằm tháng Vesakha (tháng tư âm lịch) chính ngày lễ Tam hợp là Phật Đản Sanh, Thành Đạo và Nhập Niết-Bàn, nên cuộc lễ cử hành suốt ngày và đêm càng thêm long trọng hơn hôm trước vì người đến xem lễ có trên 400.000, nào những lá cờ bay phất phới trên các dinh thự phố xá, những tiếng còi xe lẫn với tiếng người và tiếng truyền thanh kêu la inh ỏi làm cho một quang cảnh hết sức tưng bừng náo nhiệt luôn như thế trong cả 7 ngày lễ.
Mỗi buổi sáng lối 9 giờ đều có cuộc lễ để bát cho 2.500 vị Tỳ Khưu do tín đồ các nơi đem đến cúng dường. Sáng hôm rằm có cuộc lễ truyền giới “bát quan trai” cho tất cả thiện nam tín nữ trên khắp lãnh thổ Cao Miên bằng đài phát thanh, xong đúng 8 giờ tất cả các phái đoàn trên thế giới có Đức Vua Cao Miên và Hoàng Hậu cùng tất cả những quần thần trong triều đình và nhân vật quan trọng trong Chánh phủ Cao Miên đều có mặt tại khán đài. Khán đài này chia làm hai bên, bên tả là người thế, bên hữu chư Tăng, ở chính giữa thì một cái đài thật cao tạm tôn trí Ngọc Xá Lỵ trong khi hành lễ.
Hôm ấy, thái tử Sihanouk kiêm Thủ tướng lên đọc diễn văn để khai lễ, xong thì lần lượt tất cả 15 phái đoàn đến dự đều được mời lên đài phát thanh để phát biểu ý kiến, vì sắp theo thứ tự của mẫu âm nên phái đoàn Australie Úc châu được lên phát biểu ý kiến trước nhứt, kế Miến Điện, Tích Lan, Tàu, Nhựt, Anh, Ấn Độ, Pháp, Lào, Mã Lai, Việt Nam miền Bắc, Việt Nam miền Nam, Thái Lan, Nga và Hoa Kỳ. Đại ý trong các bài diễn văn cũng không chi lạ hơn là cầu chúc cho cuộc lễ được thành tựu mỹ mãn và sẽ đem lại nhiều điều hạnh phúc cho Đức Vua và Hoàng Hậu luôn cả dân tộc Cao Miên cũng như tất cả nhân loại trên thế giới. Các phái đoàn thì phát biểu ý kiến bằng tiếng Anh, Pháp, hoặc tiếng bổn quốc của mình, duy có phái đoàn V.N. do Đ.Đ. Nāga Thera (Bửu Chơn) lãnh đạo lên đọc ba thứ tiếng là Việt, Cao Miên và Anh làm cho các phái đoàn hết sức hoan nghinh và chú ý, riêng về dân tộc Cao Miên thì lấy làm thỏa thích lắm, vì tôi nói tiếng họ một cách lưu loát và rõ rệt.
Chiều lại lối 4 giờ thì tất cả các đại diện của các Hội Phật giáo đều được mời lên đài phát thanh để phát biểu ý kiến, tôi liền phái Sư Hộ Giác thay mặt cho Phật giáo Nguyên Thủy V.N. lên phát biểu ý kiến bằng hai thứ tiếng Miên và Việt, sau cùng bài diễn văn có tuyên bố cúng vào cuộc lễ 25.000$ do tín đồ chùa Kỳ Viên Saigon, tín đồ việt kiều Phnompenh góp sức, nên rất được công chúng hoan nghinh nhiệt liệt. Tối hôm ấy, cuộc lễ tiến hành luôn cho đến sáng, nào tụng kinh đọc kệ thuyết Pháp đúng 5 giờ sáng thì đốt pháo bông tượng trưng hình ảnh Đức Phật hóa hào quang ra sáu màu ở trên hư không để làm tiêu biểu khi Đức Phật thành đạo trong lúc rạng đông.
Sáng ngày 14-5-1957 sau khi điểm tâm xong thì tất cả các phái đoàn trên 40 người được Chánh phủ Cao Miên sắp đặt đưa đi viếng Đế Thiên Đế Thích ở Siêm-Réap bằng hai chiếc phi cơ, lối 10 giờ thì phi cơ đến phi trường Siêm-Réap, tại nơi đây đã có ban Tổ chức địa phương chực hờ sẵn để rước phái đoàn về cư trú nơi Grand Hotel, còn các nhà Sư thì được đưa đi cư ngụ riêng nơi một biệt thự, trong hai ngày ban Tổ chức đưa đi xem các kỳ quan thắng cảnh. Các phái đoàn chưa từng đến Angkor Wat thì đều tấm tắc khen ngợi cho là một kỳ quan vĩ đại, còn riêng ph��n tôi thì đền Angkor không lấy gì làm lạ vì tôi đã có viếng nhiều lần…
Sau hai ngày đi du lịch nơi đền Angkor đến sáng ngày 16-5-1957, lối 9 giờ thì tất cả các phái đoàn được đưa lên phi cơ để trở về Phnompenh. Tối hôm ấy có lịnh của Đức Vua cho mời các vị trưởng phái đoàn vào cung để dự yến, theo lẽ thì tôi không nên đi vì buổi chiều không có ăn uống chi được, nhưng vì nhân danh cho một phái đoàn, buộc lòng tôi phải vào cung cho có mặt vì không có ai thay thế, nên tôi phải thân hành đến nơi để cầu chúc cho Đức Vua và Hoàng Hậu được quý thể an khương và để hộ trì Phật pháp cho được tấn hóa lâu dài. Khi tôi vào đến nơi thì Đức Vua và Hoàng Hậu đều đứng dậy chấp tay vái chào rất cung kính và mời ngồi nơi ghế của Thủ Tướng bên cạnh Ngài để hàn huyên chuyện vãn. Ngài hỏi thăm việc truyền bá Phật giáo trên đất nước V.N., sau cùng Ngài nhân danh Chánh phủ Cao Miên và cho tất cả dân tộc Ngài để cầu chúc cho tôi và cả dân tộc V.N. đều được luôn luôn khỏe mạnh để thực hành theo giáo pháp của Đức Thế Tôn cho được mau đến nơi giải thoát. Sau khi dùng nước giải lao xong thì tôi đứng dậy kiếu từ Ngài và Hoàng Hậu để trở về chùa.
Hôm sau, 17-5-1957 lối 8 giờ sáng thì các phái đoàn đều được mời đến dự lễ Vua cày ruộng, khi cuộc lễ khởi hành thì có một vị quan và một cung phi thay thế cho Đức Vua và Hoàng Hậu ra cầm cày đi ba vòng. Cuộc lễ này có ba cặp bò trang sức rất uy nghiêm. Vua cầm cày đi trước, theo sau là Hoàng Hậu hốt lúa rải theo trong ba vòng mới thả bò ra cho ăn đồ để trong bảy cái mâm là: cỏ, lúa, bắp, đậu, mè, nước và rượu. Chỉ có hai con bò được thả cho ăn, nhưng con nào ăn trước món nào, thì tùy theo đó mà bàn theo cổ truyền của Bà-la-môn, nếu con bò ăn cỏ thì trong năm ấy súc vật có nhiều bịnh dịch, như ăn lúa thì lúa trúng mùa, ăn bắp, đậu mè thì các món ấy được dồi dào, còn như uống nước thì sẽ có mưa nhiều và bị nước lụt, còn như uống rượu thì trong nước sẽ có nổi loạn, hoặc bị trộm cướp. Nhưng năm thì bò ăn đậu và bắp mà thôi, nên ai nấy cũng bàn năm nay hai thứ ấy sẽ trúng mùa nhiều hơn hết. Khi đúng 11 giờ là xong cuộc lễ “Cày Ruộng”. Chiều lại thì dự lễ phóng xả tội nhân, đến tối lúc 8 giờ lại phải vào dinh Thủ Tướng để dự bữa tiệc của Ngài thết đãi để tiễn hành các phái đoàn. Tôi không ăn uống chi nhưng cũng phải vào dinh Ngài. Khi tôi và Sư Hộ Giác đến thì Thủ tướng Sihanouk đứng dậy chấp tay vái chào chúng tôi và thỉnh chúng tôi ngồi vào chỗ Ngài ngự, còn Ngài thì ngồi ghế gần bên cạnh để hầu chuyện. Vì Ngài đã có xuất gia nên rất cung kính chư Tăng, Ngài rất vui vẻ ân cần hỏi thăm điều nọ lẽ kia, vì chúng tôi nói toàn là tiếng Cao Miên (theo tiếng cả nhà vua) nên Ngài thích lắm. Sau khi chúng tôi độ nước giải lao xong, đứng dậy nhân danh cho V.N. cầu cho Ngài và cho nước Cao Miên được thái bình thạnh trị. Ngài nhân danh cho Chánh phủ và dân tộc Cao Miên ngỏ lời cám ơn Chánh phủ V.N. đã phái quí Ngài đến dự lễ và cũng cầu chúc cho chúng tôi được đầy đủ sức khỏe để truyền bá chánh giáo của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Sáng ngày 18-5-1957, lối 8 giờ thì phải đến dự lễ Đức Vua an vị Ngọc Xá Lị vĩnh viễn trên một bảo tháp đã cất xong gần trước nhà gare Phnompenh. Chiều lại dự lễ thuyết pháp Kết Tập Tam Tạng, xong thì Thái Tử Sihanouk lên đài phát thanh đọc diễn văn để bế mạc cuộc lễ vào lối 5 giờ. Đồng thời có còi báo hiệu và bắn luôn 25 tiếng súng đồng để công bố lên cho quần chúng biết cuộc lễ đã bế mạc.
Tóm luận, trong cuộc lễ kỉ niệm 2.500 năm Phật giáo tại Cao Miên hết sức long trọng không thể nào mô tả cho hết được. Những chi tiết về phái đoàn V.N. đã thâu thập được nhiều kết quả vẻ vang, như hôm ngày khai mạc, được Đức Vua Sãi tuyển lựa bốn vị cao Tăng để biếu lễ vật là một pho tượng Phật đá cẩm thạch và một bộ tam y, trong ấy nước V.N. cũng được lãnh một phần danh dự và hôm ngày bế mạc cũng được tặng cho một pho tượng bằng bạc, hơn nữa rất được Đức Vua và các quan triều thần kính nể, nhứt là gây nhiều cảm tình thân mật giữa hai quốc gia Miên-Việt.
Sau khi bế mạc còn có ít phận sự phải lo xong cho nên mãi đến ngày 21-5-1957, mới đáp phi cơ của hãng hàng không Việt Nam về xứ.
Dự Hội Nghị Quốc Tế Về Lịch Sử Tôn Giáo Lần Thứ IX Tại Tokyo Ngày 27-8-1958 Đến 9-9-1958
Ngày 19-7-1958, chúng tôi được lịnh bộ Ngoại Giao Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa cho phép sang Đông Kinh (Nhựt Bổn) để dự Hội nghị Quốc Tế về lịch sử Tôn Giáo lần thứ IX, cùng đi theo có ông Ngô Ngọc Cửu làm thơ ký.
Sau khi lo những giấy tờ thường lệ xong, đến ngày 9-8-1958 chúng tôi xuống tàu Cambodge của hãng hàng hải Messageries Maritimes Saigon lối 4 giờ chiều, có chư Đại đức trong ban Chưởng Quản GHTGNTVN và một số thiện nam tín nữ rất đông đến tiễn đưa chúng tôi xuống tàu. Nhưng mãi 8 giờ sáng hôm sau tàu mới nhổ neo, đúng giờ tàu từ từ rời bến, tôi đứng trên boong tàu trông xuống không thấy một người quen nào, cảnh bến tàu cũng không náo nhiệt như buổi chiều hôm qua, ngoài những nhân viên của hãng hàng hải Messageries Maritimes và các công chức của sở Thương Khẩu thì bến tàu vắng hoe. Tôi vẫn đứng xem phong cảnh nước nhà dọc theo những khúc quanh quẹo con sông Saigon, lối 11 giờ trưa thì tàu ra đến Vũng Tàu, chiếc tàu Cambodge vẫn vô tình lướt sóng trực chỉ thẳng Hải Cảng Manila (Phi-Luật-Tân), bây giờ tàu lần lần ra bể khơi và không còn thấy tâm dạng chi của bờ bến cả, giữa một vùng nước xanh rì mịt mù khơi trong cõi xa xăm, dưới một bầu trời quang đãng.
Ngoài tôi và ông Cửu ra, không có một hành khách Việt Nam nào, toàn là những du khách ngoại bang, chuyến này tàu chở lối 600 hành khách, mãi đang ngắm cảnh thình lình có còi báo hiệu cho biết đã đến giờ ăn (11 giờ 15) tôi và ông Cửu xuống phòng ăn, xong về phòng an nghỉ, trong phòng có đủ các tiện nghi nào điện thoại, máy lạnh, máy nóng, phòng tắm, phòng rửa mặt v.v… Theo lệ, 4 giờ chiều thì hãng tàu cho hành khách uống trà, đồng thời hôm ấy còi báo hiệu cho biết tất cả hành khách đều phải mang “phao hộ thân” theo (Sauvetàge) lên trên boong tàu của mỗi hạng để cho vị thuyền trưởng tập dượt và điều khiển vì hôm ấy có hơi sóng gió. Trong lúc tàu chạy, ngoài ra trời, nước, sóng, gió và tiếng ì ầm của động cơ thì cũng không có chi lạ, tôi nhân dịp ấy ráng làm xong hai bài diễn từ để đọc trong khi Hội nghị, xong việc trong lúc nhàn rỗi, tôi vì tánh xã giao mới làm quen với ông Saddier đại úy làm bác sĩ cho hãng tàu Messageries Maritimes, vì ông hay đi tới đi lui trên boong để xem hành khách có bịnh hoạn chi, nhân tiện để hỏi thăm về sự hoạt động của chiếc tàu Cambodge.
Ông thuật lại với tôi tàu này có đến 188 người làm công từ quan tàu cho đến thủy thủ, tổn phí lối một triệu đồng quan mỗi ngày, bề dài 168 thước, bề ngang 18 thước, bề sâu từ mặt nước lên đến chót cột buồm 32 thước, từ mặt nước trở xuống 7 thước 25, cả thảy lối 40 thước, có 7 từng từ A đến G, ở dưới đáy chở hàng hóa, từng ba A thì chở hành khách, hạng tư và hạng ba, từng B phòng ăn hạng nhứt và hạng nhì, phòng nấu ăn và phòng giải trí, giải lao cho hạng di lịch từng C thuộc về hạng du lịch, hạng nhì, phòng nhân viên cao cấp như cò tàu, bác sĩ v.v… và cũng có ít phòng cho hạng nhứt. Từng D toàn là phòng hạng nhứt, từng E phòng đọc sách, khiêu vũ, phòng viết thư, phòng giải khát, sân đánh Ping-pong, thảy banh tròn và hồ tắm của hạng nhứt, từng F có phòng vô tuyến điện, phòng nhân viên coi lái tàu và phòng giải trí trẻ con, từng G những máy móc để chỉ huy tàu chạy hoặc khi cập bến, máy Radas để coi chừng đá ngầm dưới nước, hoặc tàu bè phía trước trong lúc sa mù, ống viễn thị và những hiệu lệnh của hoa tiêu, tốc độ trung bình khoảng 40 cây số 1 giờ.
Ngoài ra, khi ông rảnh còn hỏi thăm về giáo lý của Bắc Tông và Nam Tông, vì ngoài giờ nghỉ trưa ra tôi lên phòng đọc sách cho khỏi chóng mặt và tiêu khiển thì giờ nên ông thường hay đến bàn luận về triết lý, có khi ông thỉnh tôi về phòng ông để giải lao, ngoài ra còn có hai ông bà René Sutra, bác sĩ khoa học và vật lý học ở tại Paris cùng đi một chuyến tàu, hai ông bà không theo đạo nào cả, nhiều khi thấy tôi ngồi yên lặng trên boong tàu nhìn ra biển khơi, ông bà lại gần xin lỗi hỏi thăm, sau khi được biết tôi đi dự Hội nghị Tôn Giáo Thế giới nên từ đó ông bà luôn luôn hay lại hỏi thăm về đạo lý của Phật giáo, vì ông bà đã có từng đi du lịch các nước Phật giáo Nam Tông. Ông bà nói chúng tôi không theo đạo nào, nhưng chúng tôi khảo cứu các nguồn tôn giáo, riêng chúng tôi thích nhất chủ nghĩa Phật giáo vì có tánh ôn hòa, từ bi, bác ái và rộng lượng khoan hồng hơn các tôn giáo khác. Màn đàm luận cho tiêu khiển thì giờ, mãi cho đến ngày 12-8-1958 lúc hơn 10 giờ sáng thì tàu mới cập bến Hải cảng Manila (Phi-Luật-Tân), mọi người đều được phép lên bờ giải trí, chỉ có tôi và ông Cửu không được phép lên bờ, vì trong Passe-Port không có để cho vào xứ ấy, tuy nhiên tôi cũng không chịu thua họ, tôi bèn gọi điện thoại cho Sứ quán V.N. tại Manila đến lãnh giùm, nhờ sự can thiệp của Sứ quán mà trong nửa giờ sau có xe của Sứ quán đến rước chúng tôi lên bờ đến viếng thăm Sứ quán, sau câu chuyện hàn huyên Sứ quán có đưa xe cho chúng tôi đi viếng thủ đô Manila gần 3 tiếng đồng hồ mới đưa chúng tôi xuống tàu, vì tàu sắp nhổ neo trong lúc 7 giờ tối. Nhưng còn nhiều việc trễ nãi, nên mãi đến 10 giờ đêm tàu mới nhổ neo trực chỉ thẳng đến Hông Kông, tàu chạy hơn 2 ngày 2 đêm mới đến hải cảng Hồng Kông vào lúc 9 giờ sáng ngày 14-8-1958. Hải cảng này rất dễ mỗi hành khách đi thông qua đều được phép lên bờ để viếng cảnh nên chúng tôi không có làm rộn đến Sứ quán chỉ có gọi điện thoại cho hay vậy thôi, vì tàu cập bến không lâu nên không có đến viếng Sứ quán chỉ lên bờ để viếng cảnh và xả hơi, vì mấy ngày ở dưới tàu cũng có hơi chóng mặt, ở đây phần nhiều đều nói tiếng Anh và tiếng Quảng Đông, nhà cửa rất nguy nga, đồ sộ có đến 16, 17 từng nhưng vuông dài như cái hộp quẹt, đồ hàng hóa rất rẻ vì là một hải cảng tự do không có đánh thuế thương khẩu. Nên ngành thương mãi rất phồn thịnh, trên bờ thì có nhiều loại xe chuyên chở hành khách nhứt là xe ô-tô buýt 2 từng, dưới sông thì tàu bè đậu dài theo hải cảng như xuồng đi chợ tết chen lại dày đặc, hai bên thì đều là hòn đảo nên phi trường phải làm khơi ra ngoài biển, phong cảnh trông rất ngoạn mục.
Đến 7 giờ tối hôm ấy, thì tàu rời bến trực chỉ thẳng đến xứ mặt trời, lối 5 giờ chiều ngày 15-8-1958, tàu chạy ngang đảo Đài Loan (Formose) trông thấy một hòn đảo đồ sộ xanh rì ở giữa bể khơi, chung quanh bao bọc những sương mù dường như che đậy không muốn cho ai khám phá những sự bí mật của đảo ấy, tàu Cambodge vẫn ầm ầm lướt sóng cũng không để ý gì đến đảo Đài Loan.
Mãi đến 3 giờ chiều ngày 17-8-1958, tàu mới cập bến hải cảng Kobé là một hải cảng to lớn thứ nhì xứ Nhật Bản, đến đây những hành khách du lịch phần nhiều đều lên bờ, tàu đậu ở đây hơn một ngày một đêm nên chúng tôi lên bờ viếng vài ngôi chùa, mãi đến 10 giờ đêm ngày 18-8-1958 tàu mới rời hải cảng Kobé thẳng đến hải cảng Yokohama đến 3 giờ chiều ngày 19-8-1958 tàu mới đến Yokohama. Hải cảng này to lớn nhứt trong xứ Nhật Bản, tàu bè đậu dọc theo hải cảng như xuồng đi chợ tết ở xứ ta. Hổm rày cỡi thuyền quá hải chinh đông vẫn được sóng lặng, bể êm, nhưng khi tàu gần cặp bến thì liền phát dông to gió lớn, vì vậy mà tàu phải khó khăn lắm mới cặp bến xong thì đã 4 giờ chiều. Tôi ở trên boong tàu trông xuống coi có ai quen không, nhưng không thể phân biệt là ai được toàn là một làn sóng người Nhật vô số vẫy tay, giở nón ra hiệu chào người mình muốn đón rước, tôi thấy một nhóm người có hai nhà Sư Nhật cứ vẫy tay ngay tôi, tôi phỏng đoán có lẽ họ đến rước mình chăng? Nhưng sự đoán của tôi không sai, sau tàu cập bến và trình những giấy tờ thường lệ, xong chúng tôi kêu được người khuân hành lý lên bờ thì có 2 nhà Sư và 2 người thế đến vái chào và tiếp rước chúng tôi và cho biết rằng Hội đồng ban Tổ chức Khoa học có phái ông Phó Thơ ký ra đón rước chúng tôi về nhà trọ Ymca gần chỗ Hội nghị Sankeikaikan đi bộ lối 10 phút, nhà trọ này chỉ dành riêng cho người nam mà thôi, người nữ không được phép trú ngụ, có nhà trọ khác chỉ tiếp rước riêng biệt người nữ, nhà trọ này cả thảy 8 từng, trên 6 từng và dưới đất 2 từng có đến gần 700 phòng.
Đô thị Tokyo thật to lớn, dân số gần 9 triệu, chiều dài đến 60 cây số ngàn, bề rộng lối 40 cây số ngàn, đường phần nhiều không tên, nhà không số, chỉ có tên từ khu, khóm vậy thôi, phần nhiều mỗi nhà đều có máy radio và vô tuyến truyền hình còn điện thoại thì dày đặc chỗ nào cũng có, nhưng lạ một điều là không khi nào nghe tiếng ồn ào của radio như ở xứ ta. Khi họ cần họ chỉ mở vừa cho trong nhà nghe thôi ngoài đường thật sạch sẽ không thấy ai buôn gánh bán bưng, hoặc ăn uống ngoài đường như xứ ta, hoặc cãi cọ ồn ào, cũng không thấy những người hành khất đi xin ăn hoặc trẻ con chạy giỡn chơi la ó ngoài đường, mỗi người hình như đều lo phận sự riêng của mình, vẫn yên lặng mà đi, mua bán thì có giá để sẵn khỏi cần phải trả giá. Về sự chuyên chở đi lại thì rất rẻ và dễ dàng: như xe điển, xe taxi, xe autobus, xe điển chạy trên nóc nhà, xe chạy ở dưới hầm ngầm ở dưới đất, có luôn cả nhà hàng buôn bán ở dưới hầm ấy nữa, không có xe cyclo, xe gắn máy và xe đạp rất ít, thành phố to lớn như thế nhưng ít thấy có người tàn phế đi xin ăn ngoài đường, một điều lạ là không thấy người phụ nữ nào có thai đi ngoài đường bao giờ. Bổn tánh người Nhật ưa thích chưng bông vì vậy mà có lối 300 trường dạy học cách chưng bông khắp trong các tỉnh lỵ xứ Nhật, mỗi khi ra trường thi đậu thì có thể làm Giáo sư hoặc làm việc coi về cách chưng bông cho các hãng to hay công sở. Tại Tokyo có hơn 50 đại học đường còn ở Kyoto thì có lối 40 đại học đường dạy đủ các ngành kỹ nghệ, văn hóa và chuyên nghiệp, mỗi người Nhật, nam hoặc nữ cũng phải học ít lắm tới trung học vì vậy mà xứ Nhật ít có người mù chữ.
Về tôn giáo thì có nhiều phe phái khác nhau như Khổng giáo, Lão giáo, Công giáo, Phật giáo và Võ Sĩ đạo (Shintoism), đạo này thờ những tấm kiếng tròn vo như mặt trời tượng trưng cho các vị thần phò hộ trong nước cho được thái bình, họ cho rằng các vị thần này lúc còn sống thì phò vua giúp nước, khi thác thì thành thần, vì vậy mà họ rất trọng và thường đến cúng vái các đền thờ này rất tấp nập. Mỗi khi họ đến chiêm ngưỡng họ thảy vào thùng ít đồng bạc, kéo chuông nghe rôn rổn vỗ tay hai lần xong cúi mình lui ra. Còn về Phật giáo thì chia làm nhiều phái như: phái Thiên Thai, phái Shingon (Mật Tông), phái Jodo (Di Đà), phái Nichiren (trì tụng Diệu Pháp Liên Hoa kinh sẽ thành Chánh giác), phái Thiền Tông (Zen Buddhism) phái này chuyên môn về thiền định để giải thoát, vì vậy mà phái này hiện còn đương thạnh hành lắm, có nhiều chùa chiền thật to lớn, địa thế chiếm gần bằng một châu thành nhỏ, có chỗ thanh tịnh để cho nhà Sư và thiện tín riêng biệt để tham thiền, hôm ấy có các phái đoàn Thế giới đến viếng, họ lấy cây đập thử mấy người đang tham thiền nghe chan chát cho mình xem. Trong các phái to lớn này còn có rất nhiều phái nhỏ khác nữa không thể kể hết được.
Chương trình và thể thức hội nghị
Chiều ngày 27-8-1958, tất cả các đại diện trên thế giới cả thảy 32 nước đều đến trình diện lãnh hồ sơ và chương trình nghị sự. Tôi nhận thấy các nước ấy là: Úc châu, Áo, Bỉ, Canada, Miến Điện, Tích Lan, Pháp, Đức, Anh, Ấn Độ, Ý Đại Lợi, Thái Lan, Việt Nam, Do Thái, Afghanistan, Bồ Đào Nha, Hy Lạp, Hoà Lan, Thụy sĩ, Norway, Nam Dương quần đảo, Tân-Gia-Ba, Hồng Kông, Triều tiên và Mỹ quốc, Nhật v.v…
Sáng ngày 28-8-1958, lối 9 giờ thì Hội nghị khai mạc, bắt đầu bằng một bản âm nhạc du dương, hóa dịu của tiếng đờn tranh do các phụ nữ Nhật chuyên môn biểu diễn, sau một hồi nhạc thăng trầm, xướng ngôn viên lần lượt xướng danh từ người để lên đọc diễn văn khai mạc. Hôm ấy có ông bà hoàng Mikasa em Đức Vua Thiên Hoàng làm Chủ Tọa danh dự.
Hội nghị chia ra làm 3 phần. Phần thứ nhứt chia ra 4 nhóm: nhóm A) Bàn về sự khởi thủy các tôn giáo; nhóm B) Bàn về cổ giáo; nhóm C) Bàn về sự hoạt động các tôn giáo hiện tại; nhóm D) Bàn về các vấn đề tổng quát. Phần thứ nhì, chia ra làm 2 nhóm: A) Hội họp chung tất cả các đại diện trên thế giới để bàn luận chung trong 5 phiên; B) Chia ra làm 12 vấn đề Hội nghị bàn tròn trong 3 ngày, mỗi ngày 4 vấn đề, hội viên tùy thích vấn đề nào thì vào bàn luận với phe ấy. Phần thứ ba, đi châu du các xứ như là: Nikko, Kamakura, Ise, Tenri, Nara, Tokyo và Kyoto để khảo cứu các chùa chiền về văn hóa, kỹ thuật và cổ tích.
Kỳ Hội nghị này là lần đầu tiên ở xứ Á châu, vì các kỳ trước kia đều toàn là họp ở Âu châu cả. Tuy nhiên, cuộc Hội nghị đem lại nhiều kết quả tốt đẹp là được hiểu biết lẫn nhau về tôn chỉ và giáo lý của các tôn giáo khác nhau. Sự tổ chức hết sức chu đáo như trong lúc Hội nghị bàn luận đều có tốc ký viên ghi chép, thu thanh, quay phim, nhiếp ảnh, phát thanh và vô tuyến truyền hình, mọi việc đều sẵn sàng, êm đềm hòa thuận trật tự, do nhờ sự sắp đặt khéo léo của ban Tổ chức.
Hội nghị đề xướng rằng nên khuyến khích, học hỏi, nghiên cứu về lịch sử các tôn giáo Âu châu và Á châu cho hiểu biết lẫn nhau, để đánh tan sự hiểu lầm giữa người Âu và Á cho rằng: quan niệm của sự văn minh Âu châu đối với các tôn giáo hoàn toàn là vô hiệu quả. Về mặt các tôn giáo không nên giải thích và cho rằng một giáo lý hoặc một quan niệm riêng biệt của mỗi phe mỗi phái, hoặc dùng quyền lực đàn áp sự tín ngưỡng của người khác, nhưng trái lại nên cho rằng là một việc làm cho được phát triển nền đại học văn hóa của thế giới, là một đặc tính của sự tư tưởng làm cho sinh hoạt và giá trị của mỗi cá nhân và nhân loại mà thôi.
Một giải pháp về các tôn giáo, là nên thân cận và trao đổi ý kiến tốt đẹp giữa Âu-Á không về mặt chủ nghĩa giáo lý, nhưng với mục đích là khởi xướng sự hiểu biết lẫn nhau về các tôn giáo dưới hình thức văn hóa, theo sự nhu cầu của khoa học hiện đại.
Hội IAHR (The International Association for the History of Religions) khuyên tất cả các đại diện trên thế giới nên thành lập một ban IAHR địa phương, ban này khi thành lập xong nên gửi tên ngay cho tổng hội IAHR thì sẽ được tham dự làm hội viên. Các nước sau đây đã hứa sẽ lập một ban IAHR địa phương như: Ấn Độ, Nhật Bản, Ả Rập, Miến Điện, Pakistan, Triều Tiên và có thể vào để đảm nhiệm chức vụ trong Tổng Ban Chấp Hành của IAHR, nếu được đại hội đề cử và chấp thuận. Năm 1960 hội IAHR sẽ họp tại Marburg (Đức quốc) và có lẽ năm 1963 sẽ họp tại New-Delhi (Ấn Độ) nếu xứ này thành lập xong ban quản trị địa phương.
Sau khi khai mạc đến ngày thứ nhì, tới phiên phái đoàn Việt Nam do Đại đức Nāga Thera Bửu Chơn hướng dẫn lên đọc diễn từ nói về lịch sử Phật giáo xứ Việt Nam và một bài nói về quan niệm của Phật giáo, sau khi thuyết trình xong vị Chủ Tọa có hỏi thính giả 3 lần ai có muốn hỏi chi không, nhưng họ vẫn yên lặng vì lí lẽ trong diễn từ rõ và hợp lý nên không ai bác bẻ chi cả.
Nguyên văn bài diễn từ bằng tiếng Anh như vầy:
THE TEACHINGS OF THE BUDDHA BY NĀGA THERA (BỦU CHƠN)
In the name of Việt Nam Theravada Sangha Order, I congratulate all Brothers and Sisters coming from any continent of the world to attend this useful Symposium.
I have the honour and opportunity to speak a few world in this solemn Symposium which is very interesting to all Nations.
Whether all Religions in the world are different forms but the aims are almost similar. The Islamism has the thought of “Peace” and they adore the St.Josaphat which name is derived from Buddhist Bodhisatta. The Hinduism has the aim of “Ahimsà-Harmlessness” then they consider Buddha as their Vishnu avatāra-incarnation of Vishnu. The Protestant has the ideal of “Neighbourliness”. Rationalism considers Buddha as a Greatest Thinker. The Confusius taught: The viser has to make like a non-intelligent one, the powerful man considers himself as a weak one, the richman does not forget when he was poor. As for Buddhism is “Mettā-loving kindness”. Therefore all Religions have the similar aims e.g. friendliness, harmlessness, neighbourliness, helpfulness and loving kindness. In Pāli, the language of Buddhist ures, Mettā is known under the name of “Brahma vihāra”, this term may be rendered by: excellent lofty or sublime state of mind, or alternatively, by Brahma-like or divine Abode.
It is said to be excellent or sudlime, because it is the right, or ideal, way of conduct towards all living beings. This attitude of mind provides in fact the answer to all situations arising from social contact. It is the great remover of tension, the great peace-maker in social conflict the great healer of wounds suffered in the struggle of existence, leveller of social barriers, builder of harmonious communities, awakener, of slumbering magnanimity long forgotten reviver of joy and hope long abandoned, promoter of human brotherhood against the forces of egotism. It is incompatible with a hateful state of mind, and in that is akin to Brahma who is conceived as the hateless one, inbeneficial contrast to many other conceptions of deities, in East and West, who by their own devolees, are said to show anger, wrath, jealousy and “righteous indignations”.
He who assiduously develops this Subline state, by conduct and meditation, is said to become an equal of Brahma and if one becomes the dominant influence in his mind, he will be reborn in congenial worlds, the Realms of Brahma. Therefore this state of mind is called God-like, Brahma-like. It is called Adobe, because it should become mind’s constact dwelling place where our mind feel “at home”, it should not remain merely place of rare and short visit, soon foggotten. In the other words, our mind should become thoroughly saturated by it. Mettā should become the inseparable companion of our days, and we should be mindful of it in all our common activities as far as it has any concern with this mental attitude. As in the Mettā sutta quotes: When standing, walking, sitting, lying down; whenever he feels free of tiredness; let him establish well mindfulness; this, it is said, is the Divine Adobe.
The Doctrine of the Lord Buddha is not noly Mettā loving-kindness but there are many other ways for practising. In the Tripitaka-Three Baskets, we have 84.000 of Dhamma. But the Buddha summarizes them in one Pāli stanza thus: Sabba pāpassa akaranaṃ. Kusallass’ upasampadā. Sacitta pariyoda panaṃ. Etaṃ Buddhāna sāsanaṃ. That is to avoid all bad actions to flourish all merits, to purify one heart, that are the teachings of all Buddhas.
Moreover, the foundations of Buddhism is based on Law of Cause and Effect and the Four Noble Truths. A pure Buddhist should not believe or implore to the other Powerful Gods or any Supernatural Being or even the Buddha who might give us the happiness or painfulness, pure or impure but one has to recourse to oneself, as the Buddha said: Attāhi attāno nātho, kohi nātho paro siyā- e.g. One should have to recourse oneself, not by the other’s protection. The same way, in the Catholic Bible says: As thou sowest, so thou shalt reap.
The teachings of the Buddha calls Buddhism, it is Western term The Buddha Wasa Man, Buddhist should not regarding Him as a God, do not pray to him “Dependence on the others for Salvation is negative, dependence on oneself is positive”. To depend on another is to shelve making the effort, and to lose one’s independence.
Buddha is not a name, but an appellation, meaning Englishtened One. Former Buddhas have existed in the past ages, and other Buddhas are expected in the future, the present Buddha is Gautama or Sakyamumi. All Buddhas teach the same Doctrine. Among us whether we are Buddhist or not, we should learn and practice the “Science of Life” that is we must control ourselves the deed, speech and thought, do not let them discard the wholesome volition or the other words we should follow the “Noble Eighfold Path with embodies eight principles or rules of conducts, then one can improve the happiness in this very life as well as in the future’s. The Lord Buddha had foresighted that, in the future, His disciples would mistake Him as a Redeemer of the world or a Powerful God, then they engage only in the ritual ceremony of worshiping, and they do not set forth to practising the Dhamma, in other to escape all sufferings. So He recommended to His disciples as the following Pali stanza: Tumhehi kiccaṃ ātappaṃ – Akkhātara Tathāgatā. // Patipañño pamokkhanti – Jhāyino māra bandhnā. That is, you have to practice diligently the Dhamma, all Buddhas are only showing the way, if you follow the Path that I had shown, then you will escape the ties of the Māra or difilements, so you safety reach the stage of Salvation.
All these arguments testify that Buddhism is absolute and rationalist Doctrine which is not grasping on Atheism, Heresy or others power in order to get Deliverance. I am sure that, if the moderm world tries to understand and usefulness of Buddhism which teaches the mankind to be non-violent but compassionate, then the whole world would be peaceful. Finally, I hope that this significant Symposium will bring happiness and cordiality to all Nations.
Bản dịch:
Bài diễn từ của Đại đức Bửu Chơn – Nāga Thera trong kỳ Hội Nghị Lịch Sử Tôn giáo Thế giới lần thứ chín tại Đông Kinh.
GIÁO LÝ CỦA ĐỨC PHẬT
Nhơn danh cho Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam, tôi xin chúc mừng tất cả các huynh đệ nam, nữ trên khắp Thế giới đến dự Hội nghị Triết học hữu ích này.
Tôi lấy làm may mắn và danh dự được phát biểu ít lời trong kỳ Hội nghị Triết học long trọng này, nó rất hữu ích cho tất cả quốc gia.
Mặc dù tất cả Tôn giáo có hình thức khác nhau nhưng tôn chỉ gần giống nhau như: Hồi giáo có quan niệm “hòa bình” và họ tôn sùng vị thánh Josephat mà danh từ này tương đồng từ nguồn gốc “Bồ đề tát đỏa” của Phật giáo, Ấn giáo có tôn chỉ là “vô hại” họ cho Đức Phật như là một hiện thân của vị thần Vishnu của họ. Tin lành giáo có quan niệm là “tương thân” hay tương trợ lẫn nhau. Hợp lý giáo hay Thuần lý giáo thì cho Đức Phật là một bậc “đại tư tưởng”, Khổng giáo thì dạy rằng: Người trí thức nên làm như người ngu muội, người có quyền thế nên tự cho mình như kẻ yếu hèn, người giàu sang không nên quên mình trong lúc hàn vi. Còn về Phật giáo thì có bản chất “từ bi, bác ái”, vì vậy mà tất cả các tôn giáo đều có tôn chỉ tương đồng là: tình huynh đệ, không hãm hại nhau, tương thân tương trợ và từ bi bác ái.
Pāli là thứ tiếng dùng trong Kinh nhà Phật, thì tiếng Metta – Bác ái còn gọi là Brahma Vihāra = Phạm hạnh, danh từ này còn có nghĩa là: vô lượng cao quí hay là trạng thái cao thượng của tinh thần hay nói một cách khác là sự ưa mến của các bực phạm hạnh hay là “nơi mà tâm các vị Thần tiên cư trú”.
Sở dĩ nói là vô lượng cao quí là vì có quan niệm hành động chân chánh đối với tất cả chúng sanh, vì trạng thái của tâm bác ái để đối phó lại hay là trả lời cho tất cả trường hợp xảy ra trong sự trực tiếp với xã hội. Chính tâm ấy rất quan trọng trong sự dứt bỏ tình trạng căng thẳng giữa đôi bên. Nó làm cho xã hội xung đột nhau được hòa bình, nó làm cho lành mạnh những vết thương đau khổ trong sự tranh đấu của đời người, nó bẻ gãy hàng rào giai cấp của xã hội, nó xây dựng một xã hội nhu hòa, nó thức tỉnh cho lòng rộng lượng đã bỏ quên từ lâu đời, khiêu gợi lại sự vui vẻ và hy vọng đã hoang phế, nó khởi xướng tình huynh đệ của nhân loại và gạt bỏ sức lực mạnh mẽ của sự ích kỷ, nó không thích hợp với trạng thái ghét vơ của tâm hồn.
Và chính tâm bác ái ấy rất thân cận với trời “Phạm Thiên” là bực không có tâm thù oán và sân hận, nó trái ngược lại với những quan niệm của các Thần Giáo khác, ở Á cũng như Âu châu, do sự sùng tín của họ mà có khi tỏ ra ganh tỵ, sân hận, giận dữ, công phẫn mà họ cho là việc làm chánh đáng. Người nào siêng năng thực hành đức tánh cao cả này bằng sự tham thiền thì người ấy trở nên đồng đẳng như trời Phạm Thiên, và nếu tâm người ấy được thấm nhuần phép thiền định về bác ái thì sau khi chết sẽ được tái sanh về cõi trời ấy, như thế nên mới gọi trạng thái của tâm này là “như Chư Thiên hoặc như Phạm Thiên”.
Còn nói về sự cư ngụ là tâm luôn luôn phải khắng khít ở trong pháp bác ái ấy cũng như chỗ ở của mình, chớ không phải chỗ mà mình chỉ đến viếng cấp thời rồi quên đi mau chóng. Nói một cách khác, là tâm của chúng ta nên luôn luôn khắng khít vào đấy. Hằng ngày lòng bác ái như người bạn không rời chúng ta và trong tất cả mọi sự hành vi luôn luôn phải chủ tâm đến nó, cho đến tất cả những sự việc nào có liên quan đến trạng thái của tâm này. Cũng như trong Kinh bác ái có giải rằng: Dù khi đi, đứng, ngồi, nằm, bất luận trong lúc nào mà không mỏi mệt thì nên cố gắng niệm lòng bác ái, như vậy nên mới gọi là “chỗ cư ngụ của Chư Thiên”.
Giáo lý của Đức Phật chẳng phải có tâm bác ái mà thôi nhưng còn rất nhiều cách thực hành khác nữa. Trong Tam Tạng còn có đến tám muôn bốn nghìn pháp môn, nhưng Đức Phật tóm lại trong bài kệ Pāli như vầy: Phải tránh xa các điều ác, nên làm các điều lành. Trau tâm cho trong sạch, đó là những lời giáo huấn của chư Phật. Hơn nữa, Phật giáo căn bản trên Lý nhân quả và Tứ diệu đế.
Người Phật tử thuần thành không nên tin tưởng và van lơn khấn vái với các thần lực hoặc một nhân vật siêu phàm xuất chúng nào, dầu cho Đức Phật, để đem lại cho ta vui hay khổ, trong sạch hay nhơ bẩn, nhưng trái lại con người phải tự nương nhờ lấy mình như Đức Phật có nói: “Tự mình hãy nương nhờ lấy mình chớ không nên nương nhờ hoặc cầu cứu nơi kẻ khác”, cũng như thế ấy trong kinh Thánh của đạo Gia-tô có nói: “Người gieo giống nào, người sẽ gặt lại giống ấy”. Đức Phật là một nhân vật như chúng ta, người Phật tử không nên coi Ngài như một vị Thần linh, không nên cầu khẩn Ngài. Trong Phật giáo không có sự nhờ người khác mà giải thoát, nhưng phải tự lực mình mới giải thoát được cho mình. Sự do nhờ nơi kẻ khác tức là làm ngăn trở sự cố gắng và làm cho ta mất sự tự lập và tự chủ.
Đức Phật không phải là một cái tên, nhưng đó chỉ là một danh từ kêu gọi vậy thôi, thật ra Phật có nghĩa là “Một đấng đã giác ngộ hay sáng suốt”. Trong thời quá khứ cũng có nhiều vị Phật và cũng sẽ có những vị Phật trong thời vị lai, còn trong hiện tại là Đức Phật Gautama hay Sakyāmuni đang giáo truyền.
Tất cả chư Phật đều giảng dạy đồng một giáo lý, chúng ta ở đây dầu là Phật tử hay không cũng nên luyện tập một “cuộc đời thanh khiết”, là chúng ta nên tự kiểm điểm mọi sự hành vi của thân, khẩu, ý đừng cho nó hoạt động ngoài phạm vi của pháp thiện, hay nói một cách khác là chúng ta nên thực hành theo “Bát chánh đạo”, con đường có 8 chi để trau dồi hạnh kiểm của mình, nếu được như vậy thì con người tự mình có thể làm cho tăng trưởng nhân vị của mình và hạnh phúc trong kiếp hiện tại và trong những kiếp vị lai.
Đức Phật Ngài đã có viễn kiến thấy rằng, trong ngày vị lai các hàng môn đệ của Ngài có thể lầm tưởng Ngài là một “Bậc Cứu Thế” hoặc là một “Vị Thần Linh”, như vậy họ chỉ chuyên cần theo nghi thức lễ bái cúng dường mà thôi chớ không quan tâm thực hiện theo giáo lý của Ngài đặng thoát khỏi sự thống khổ. Nên Ngài mới căn dặn các hàng môn đệ như vầy: “Các người hãy cố gắng thực hành theo giáo pháp, tất cả chư Phật chỉ là người chỉ đường vậy thôi, nếu các người thực hành con đường Như Lai đã chỉ thì sẽ thoát khỏi sự cột trói của Ma vương (hay là phiền não), như vậy thì các người mới đến nơi giải thoát một cách an toàn”.
Tất cả những bằng chứng đã kể trên để minh định rằng Phật giáo là một giáo lý tuyệt đối hợp lý, không cố chấp vào thần linh, tà thuyết hay do nơi năng lực của kẻ khác mà được giải thoát sự thống khổ. Tôi dám quả quyết rằng, nếu Thế giới văn minh mà khoa học này mà hiểu được sự lợi ích của Phật giáo đã giáo hóa nhân loại không có tàn ác, bạo ngược nhưng trái lại có tâm bác ái, rộng lượng, khoan dung thì Thế giới sẽ chắc chắn được hưởng sự “hòa bình”. Đến đây tôi mong ước sao cho cuộc Hội nghị “Lịch sử tôn giáo” có đầy ý nghĩa này sẽ đem lại sự hạnh phúc và tình thân ái cho nhân loại và các quốc gia.
Bài này sau lại hội đồng trong ban Tổ chức được tuyển chọn và in ra sách để gởi đi khắp các nơi trong các Đại Học Đường Nhật Bản để cho sinh viên học hỏi.
Sau khi Hội nghị xong, các phái đoàn đều được đưa đi chiêm bái và khảo cứu các xứ đã kể trên, phần nhiều chùa chiền của Phật giáo và phái Võ sĩ đạo, kiến trúc rất đẹp và nguy nga đồ sộ, các đền thờ của võ sĩ đạo thì phần nhiều lợp bằng vỏ cây theo cổ truyền, thật dày trong 20 năm mới thay lợp lại một lần. Ở trước đền khi vào ngay cửa chính thì thấy một sợi dây rơm thắt lại bằng cườm tay là tiêu biểu của sự đoàn kết về võ sĩ đạo, còn các chùa Phật giáo thì thường cất nơi thanh vắng và trên núi non.
Các phái đoàn đi chiêm bái lần lần đến xứ Kyoto một cựu thủ đô xứ Nhật đúng ngày 9-9-1958, lối 11 giờ trưa, Ban Tổ chức và các phái đoàn cu hội tại Đại Học Đường Kyoto và tuyên bố bế mạc Hội nghị nơi ấy.
Trong lúc Hội nghị có sáu bữa tiệc để thết đãi các phái đoàn, ngày thứ nhứt do ông Chủ tịch Hội Đồng Khoa Học và ban Tổ chức thết đãi, ngày thứ nhì do đức Hoàng Tử Mikasa, ngày thứ ba do ông Nobusuke Kishi Thủ tướng Nhật, ngày thứ tư do ông Bộ trưởng bộ Giáo dục tổ chức, ngày thứ năm do ông Vương Ngoại xứ Tenriko, ngày bế mạc do ông Giám đốc đại học đường Kyoto thết đãi để tiễn biệt các phái đoàn Thế giới và giải tán luôn cuộc Hội nghị nơi ấy.
Trong khi lưu trú tại Đông kinh được nhiều bạn Nhật đã từng gặp trước kia tại Rangoon đến thăm, ngoài ra tòa Sứ quán Việt Nam có tổ chức một buổi tiệc để thết đãi phái đoàn trước khi về xứ. Ông bà đại sứ Bùi Văn Thinh rất ân cần khoản đãi, luôn tất cả nhân viên trong xứ quán cũng rất vui vẻ giúp đỡ chúng tôi trong khi hữu sự.
Tối hôm ấy phái đoàn Việt Nam phải lên tàu hỏa lúc 10 giờ đêm để trở về Tokyo cách đô thị Kyoto 600 cây số ngàn, tàu hỏa chạy suốt đêm sáng hôm sau lối 9 giờ mới về tới Tokyo, suốt ngày hôm ấy phải lo sắp đặt hành lý và đến kiếu từ Sứ quán vì sáng mai lúc 6 giờ phải ra phi trường để lên đường về xứ.
Vừa hừng sáng thì đã có xe Sứ quán đến rước chúng tôi ra phi trường và đưa chúng tôi ra tận nơi phi trường để tiễn biệt. 8 giờ 15 thì phi cơ cất cánh (lối 6 giờ sáng xứ ta) mãi đến 4 giờ chiều phi cơ mới đỗ xuống phi cảng Hồng Kông cho hành khách lên xuống độ 45 phút thì lại cất cánh trực chỉ phi trường Tân Sơn Nhứt, mãi đến 19 giờ 30 mới đến nơi cả thảy lối 13 tiếng đồng hồ, khi xuống phi cơ để về chùa thì đã có các vị Đại đức trong ban chưởng quản và một số thiện nam tín nữ rất đông đến tiếp rước chúng tôi một cách nồng nhiệt, sau khi mừng rỡ hàn huyên phái đoàn lên xe đưa về Kỳ Viên tự.
Trong lúc tôi Hội nghị và chiêm bái các nơi Phật tích cũng được công đức đa thiểu, vậy tôi xin hồi hướng quả phúc ấy cho tất cả bà con có lòng trong sạch hộ độ tôi đa thiểu về chi phí, do năng lực phước báu ấy xin cho tất cả bà con thiện nam tín nữ được mọi điều an vui, hạnh phúc.
Hội Nghị Lịch Sử Tôn Giáo Quốc Tế Lần Thứ XTại Marburg (Tây Đức) (11-24/9/1960)
Cuộc hành trình
Ngày 24-8-1960 tôi được giấy bộ Nội Vụ mời tôi đến để lấy giấy tờ sang Tây Đức Hội nghị Lịch Sử Tôn Giáo lần thứ X tại Marburg-Lahn.
Sau khi lo xong giấy tờ thường lệ đến ngày 8-9-60, lúc 20 giờ, có chư Tăng và thiện tín rất đông tụ hội tại chùa Kỳ Viên tụng kinh cầu an và phúc chúc cho tôi thượng lộ bình an. Xong có hai xe tiễn đưa tôi ra phi trường: một xe chư Tăng có Sư Hộ Giác làm hướng đạo, một xe của bà Vũ Thị Kiểm đưa tôi và ít người thiện tín. Vì ban đêm vào phi trường phải xin phép nên một số chư Tăng và thiện tín đành phải ở lại, chỉ tiễn chân tôi trước chùa thôi.
Đến phi trường còn phải chờ hơn 1 tiếng đồng hồ: đến 21 giờ 30 thì phi cơ mới cất cánh. Trên hư không ban đêm khí trời lạnh nên nhân viên của hãng hàng không Air France biếu cho mỗi người một chiếc mền len và một đôi vớ mang cho đỡ lạnh. Đêm đã khuya trên phi cơ đều tắt đèn hết, chỉ chừa ánh sáng hơi lu lờ cho hành khách an nghỉ. Phần tôi không thể nào ngủ được, ngồi dựa lưng vào ghế lo nghĩ vơ vẩn đâu đâu. Vì các kỳ Hội nghị khác đều có người theo giúp đỡ, chuyến này lại không có ai, chỉ có một mình một bóng tôi mà thôi. Phần cuộc hành trình rất xa xôi trên lãnh thổ Âu châu, không phải là xứ Phật giáo, nhưng tôi cũng cứ hy sanh nhẫn nại để làm tròn xứ mạng, vì phải đương đầu với bao nhiêu sự khó khăn nên tôi nguyện đành liều cho phần phước đến đâu hay đến đó. Mảng suy nghĩ vu vơ bỗng có còi báo hiệu cho hành khách phải thắt dây đai vì phi cơ sắp đổ xuống phi trường Bangkok lúc 12 giờ đêm. Khi hành khách lên xuống xong lại cất cánh trực chỉ thẳng qua Karachi. Khi đến nơi thì trời vừa sáng, hành khách được đưa đi đến một nhà hàng để điểm tâm, xong lại cất cánh thẳng qua Teheran (Perse). Trên phi cơ trông xuống thấy toàn toàn là đồng cát trắng phau phau, có chỗ thì núi non gồ ghề, chớn chở, trơ trọi, không có cây cối chi. Phi cơ bay hàng mấy tiếng đồng hồ, nhưng vì đây là một bãi sa mạc thật to của xứ Ba-tư (Perse) vậy.
Từ Teheran qua Rome (Ý Đại Lợi) phi cơ phải bay thật cao vì bị sa mù và núi non hiểm trở. Gần 8 tiếng đồng hồ phi cơ mới báo hiệu cho biết gần đến phi trường Ciampino (Rome). Ở đây thì giờ khác hơn bên ta 6 tiếng đồng hồ, nên khi đến nơi thì trời vừa tối. Có xe của hãng hàng không đưa về Hotel, nghỉ tạm chờ chuyến phi cơ ngày mai mới đi qua Frankfurt (Đức). Hôm ấy cùng đi một chuyến có ông bà Nguyễn Xuân Nhẩn đi dự Hội nghị giáo huấn ở Rome, cùng ở chung một Hotel, nên dùng điện thoại chuyện vãn với nhau cho đỡ buồn. Tôi cũng có gọi điện thoại cho Sứ quán Việt Nam tại Rome để báo tin cho hay. Tình cờ lại gặp ông Đỗ Văn Minh đang làm việc cho Sứ quán tại Rome. Vì trước đây 2 năm, tôi cũng đi dự Hội nghị IAHR tại Đông kinh (Tokyo) cũng gặp ông đang tùng sự nơi ấy. Ông rất mừng và yêu cầu tôi có cần chi đến ông thì ông sẵn sàng giúp đỡ. Tôi cho hay rằng ngày mai lối 17 giờ 30, tôi phải lên phi cơ nên không có cần chi. Nhưng ông cũng không chịu làm ngơ, ông mua đủ thứ trái cây, sai tài xế đem đến biếu tôi. Vì đã quá ngọ nên tôi tạm lãnh và cho luôn ông bà Nguyễn Xuân Nhẩn.
Đúng 17 giờ thì có xe Sứ quán V.N. đ���n đưa tôi ra phi trường cách đô thị lối 15 cây số ngàn. Phi cảng này thật to rộng khi đến thì ở một nơi, khi đi thì ở một chỗ khác nữa, cách nhau độ 3 cây số, đâu mặt lại với nhau. Theo luật Chánh phủ Ý thì mỗi hành khách khi đi phải đóng một số tiền là 700 lires, lối 50$ xứ ta. Mọi việc đều nhờ Sứ quán V.N. lo cho cả. Phi cơ này của hãng hàng không Lufthansa của Đức, chở lối 100 hành khách bay trên 2 tiếng đồng hồ mới đến phi trường Frankfurt (Tây Đức). Trên phi cơ trông xuống thấy toàn là tuyết trắng xóa, bao phủ những dãy núi cao chớn chở. Khí trời ở đây lạnh lắm, lối 17-18 độ, ban đêm có khi 10-11 độ hoặc 12-13 độ là cùng. Khi phi cơ báo hiệu cho biết gần đến phi trường thì hơn 8 giờ. Các phi trường Âu châu rất dễ, không cần biên giấy kê khai hoặc thẻ kiểm điểm chi cả. Khi đến nơi, họ chỉ hỏi giấy thông hành, xem xong họ đóng dấu rồi đưa lại và cám ơn mình nữa. Còn về quan thuế, thì họ hỏi mình có chi kê khai không như rượu mạnh, thuốc điếu, dầu thơm… Khi mình nói không có chi khai, thì họ đóng dấu và cho đi liền.
Trước khi đó một giờ có Sứ quán V.N. ra đón rước, nhưng khi hỏi chuyến phi cơ từ Saigon qua thẳng Frankfurt thì hãng hàng không trả lời không có người V.N. nào qua cả. Vì tôi có gởi thơ cho hay trước sẽ đi qua chuyến đó, nhưng không có chỗ nên đi vòng qua Rome thành ra cuộc tiếp rước mới sai như vậy. Nhưng cũng may có người cùng đi Hội nghị đưa tôi lên tàu hỏa tốc hành lên Marburg, chỗ Hội nghị cách đó 100 cây số ngàn. Khi tàu hỏa đến nơi thì đã có Ủy ban Tổ chức họ chực sẵn để tiếp rước các phái đoàn đưa về nhà trọ. Tôi được đưa về nhà trọ một biệt thự của Giáo sư Dr. Seidelmann cùng với hai người đại diện Thụy Điển: một ông kỹ sư khoáng vật và một ông cử nhân thần học, cùng ở chung nhau mỗi người một phòng. Lúc bấy giờ đã hơn 10 giờ đêm, phần thì đi đường mệt nhọc nên phải nghỉ sớm cho có sức khỏe để mai bắt đầu Hội nghị.
Sáng ngày 11-9-1960, khi điểm tâm xong, tôi cùng hai ông Thụy Điển đi đến chỗ Hội nghị. Chỗ này ở trên một chót đồi, có hai vật cổ truyền là một nhà thờ Thiên Chúa giáo đã xây dựng từ năm 1235-1335 do nữ hoàng Elisabeth và được tu bổ phục hưng lại năm 1470, và một trường đại học thành lập từ năm 1527 hiện giờ có luôn luôn lối 6.000 học sanh đến học đủ các ngành và các khoa đại học.
#ducphap #TyKhuuBuuChon #thienphatgiao #thiensu #theravada Theo nguồn: https://theravada.vn/book/tong-hop-bai-tuong-thuat-hoi-nghi-quoc-te-cua-ty-khuu-buu-chon/
from Theravada https://theravadavn.tumblr.com/post/622863159261347840
0 notes
Text
Tổng Hợp Bài Tường Thuật Hội Nghị Quốc Tế Của Tỳ Khưu Bửu Chơn
Nên thừa lúc nhàn rỗi tôi ráng soạn lại những điều mắt thấy tai nghe, mặc dầu quí vị chỉ đọc qua những lời tường thuật và hình ảnh thì cũng có thể hiểu biết được và thông cảm những gì mà họ thảo luận trong kỳ Hội nghị, và luôn cả phong cảnh, cách tổ chức trình bày, nghi lễ phong tục, trong mỗi quốc độ khác nhau tùy theo sự tiến hóa của tinh thần hay vật chất, để giúp thêm một phần tài liệu nào cho các bạn hậu tấn có dịp sẽ dự những Hội nghị Quốc tế trong mai hậu.
Phi Lộ
Trong thời gian qua hơn 10 năm tôi đã đi dự Hội nghị Quốc tế nhiều lần nhưng không có dịp soạn thảo lại những bài tường thuật để cống hiến quí vị độc giả không được sự may mắn đi đến nơi để quan sát tận mắt.
Nên thừa lúc nhàn rỗi tôi ráng soạn lại những điều mắt thấy tai nghe, mặc dầu quí vị chỉ đọc qua những lời tường thuật và hình ảnh thì cũng có thể hiểu biết được và thông cảm những gì mà họ thảo luận trong kỳ Hội nghị, và luôn cả phong cảnh, cách tổ chức trình bày, nghi lễ phong tục, trong mỗi quốc độ khác nhau tùy theo sự tiến hóa của tinh thần hay vật chất, để giúp thêm một phần tài liệu nào cho các bạn hậu tấn có dịp sẽ dự những Hội nghị Quốc tế trong mai hậu.
Hơn nữa cũng là một thiêng lịch sử kỷ niệm trong đời tu học của tôi đã mang chuông đi đánh xứ người và giúp ích gì cho nền đạo giáo nước nhà.
Trong những bài tường thuật có bài đã viết từ lâu nên lối hành văn có hơi cổ kính, nhưng tôi vẫn giữ nguyên vẹn của chuyện thật không muốn sửa đổi trau chuốt văn hoa làm mất bản chất chính yếu và quan niệm thành thật chất phác trong thời kỳ ấy.
Dù sao cũng không thể nào tránh khỏi sự sơ thất một đôi chỗ trong khi soạn thảo có một mình, ước mong quí vị hoan hỷ tha thứ cho.
Trong lúc soạn thảo nhờ cô Viriyā một đệ tử chân thành tinh tấn, hy sinh thì giờ quí báu đánh máy, cách trình bày nội dung và sửa giùm bản thảo giúp tôi.
Tôi xin thành thật cám ơn và chia phần công đức cho cô.
Tôi cũng xin thành kính dâng lên quả phúc này đến thầy tổ và song thân.
Kính bút
Nāga Mahā Thera – Tỳ Khưu Bửu Chơn
Tăng Thống G.H.T.G.N.T.V.N
Nguyên Phó Chủ tịch Hội Phật giáo Thế giới
Mùa Xuân Năm Giáp Thìn.
Hội Nghị Lễ Kết Tập Tam Tạng Lần VI Tại Rangoon Miến Điện (17-5-1954)Bài tường thuật của Thượng tọa Nāga Thera (Bửu Chơn)
Vào ngày 6-5-1954 tôi được danh thiệp của ngài Chánh Hội Trưởng Hội Đồng Toàn Quốc Phật giáo xứ Miến Điện gửi đến thỉnh tôi và các chư đạo hữu chùa Kỳ Viên là Trụ sở Trung ương của Phật giáo Nguyên Thủy, để dự lễ khai mạc kỳ Kết Tập Tam Tạng lần thứ sáu.
Dưới đây là danh thiệp của ngài Chánh Hội Trưởng:
From: Tharo Thiri Thudhamma Sir U Thwin Chairman of the Union Buddha Sasanā Council Rangoon, Burma.
To: Ven. Nāga Thera dit Pham Van Tong c/o Ky Vien Tu Banco Saigon.
Dear Sir,
As you are aware the Opening Proceedings of the CHATTHA SANGĀYANĀ (the Sixth Great Buddhist Councit) are to commence on the Vesakha Punnima, 2498 B.E (17th May 1954) at the Maha Pasana Guha Rangoon, and we have the pleasure and honour to invite you to join with us in witnessing and sharing the Merit of the Opening Proceedings on this felicitous occasion.
Mettecittena, Sign, U. THWIN.
Bản dịch: Thado Thiri Thudhamma U Thwin Chánh Hội Trưởng Hội đồng Phật giáo toàn quốc xứ Miến Điện.
Kính gửi Đại đức Nāga Thera (Bửu Chơn), chùa Kỳ Viên Bàn Cờ Saigon.
Bạch Ngài,
Ngày khai mạc kỳ lễ Kết Tập Tam Tạng lần thứ sáu nhằm ngày rằm tháng tư Phật lịch 2498 đúng 17 Mai 1954, nơi Đại Thạch Động Rangoon Miến Điện.
Nhơn dịp lễ khai mạc này, với tư cách của Chánh Hội trưởng, danh dự và hoan hỷ, chúng tôi xin thỉnh Ngài tới dự lễ và chia phước cùng chúng tôi.
Tấm lòng thân ái, ký tên, U. ThWIN
Khi được thiệp mời, tôi liền hết sức vận động và phải trải qua nhiều sự khó khăn mới được đủ giấy tờ cho xuất dương cho kịp kỳ khai mạc.
Đúng ngày 14-5-1954, phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam chùa Kỳ Viên Bàn Cờ Saigon, do Thượng Tọa Nāga Thera – Bửu Chơn trưởng đoàn hướng dẫn phái đoàn lìa khỏi phi trường Tân Sơn Nhứt lối 14 giờ rưỡi, phi cơ từ từ cất cách sau khi gần một tiếng đồng hồ thì lại đáp cánh xuống phi trường P.P để chờ hành khách lên xuống và trình giấy thông hành, sau khi nửa tiếng đồng hồ thì phi cơ lại cất cánh trực chỉ thủ đô Bangkok, gần 6 giờ chiều thì phi cơ mới đổ xuống phi trường Daungmaung Bangkok.
Khi phi cơ vừa hạ cách thì tôi thấy rất nhiều khách quan ra đón chào thân quyến, riêng phái đoàn V.N. thì có ông Cố vấn và Tổng Thơ Ký của tòa Đại Sứ V.N. tại Bangkok ra vái chào và đón rước về Sứ quán. Sau khi trình giấy thông hành xong thì toàn thể phái đoàn được đưa về Sứ quán để yên nghỉ, chờ sáng hôm sau phải đáp tàu sang Rangoon.
Vừa hừng sáng lại phải trở ra phi trường để sang Rangoon, mãi lối 9 giờ hơn thì phi cơ mới cất cánh, ngót trên hai tiếng đồng hồ mới tới phi trường Rangoon (Miến Điện).
Hôm ấy có cả phái đoàn Việt Nam, Cao Miên, Lào và Thailand nên cuộc tiếp rước hết sức long trọng. Sau khi câu chuyện hàn huyên và lời chúc hạ xong lại đưa tất cả phái đoàn về Kapa Aye (World Peace Pagoda) Chùa Thế giới Hòa Bình là nơi trụ sở trung ương Kết Tập Tam Tạng lần thứ sáu.
Xe vừa tới nơi thì thấy vô số lầu đài, dinh thự hai, ba từng. Hỏi ra mới biết nào là Tăng đường, Trai đường và các Ty các Sở như là: Sở Ngoại Giao, Bộ Thông Tin, Sở Y Tế, Sở Cảnh Sát và các cơ sở của Hội Đồng Kết Tập Tam Tạng v.v…
Chính giữa một khu vực trên 100 mẫu có một trái núi giả bên trong là nơi để cho Chư Tăng Cư hội để kết tập. Trái núi giả ấy gọi là Đại Thạch Động chứa được lối 6.500 người có phòng tham thiền, phòng giải lao, phòng tắm và tiện nghi, có ba từng lên xuống đều dùng thang điện, có sáu cây cột và sáu cái cửa cái để ra vô là tượng trưng cho sự kết tập lần thứ sáu.
Đại Thạch Động này Chánh phủ Miến Điện xuất ra lối 9 triệu và 100.000 Rupies, lối 72 triệu bạc xứ ta. Những đồ vật liệu để xây cất thạch động này thì lối 130.000m3 (thước khối) gạch bể, 225.000m3(thước khối) đá xanh (thứ sỏi để tráng đường), 559.572 tấn đá, 170.000m3 (thước khối) cát, 11.973 tấn kẽm, 757 tấn cây vuông và 125 tấn cây giá tị. Bề dài 455 feet lối 145 thước, bề ngang 370 feet lối 120m (thước). Thời gian xây dựng chỉ trong vòng 14 tháng là xong hết.
Tới ngày Rằm tháng Tư nhằm 17 Mai 1954, đúng 12 giờ trưa là giờ để khởi sự khai mạc, mỗi phái đoàn trên thế giới đều có mặt, tôi nhận thấy như phái đoàn Việt Nam, Cao Miên, Lào, Thailand, Tàu, Nhựt, Malaya, Nam Dương, Indonésia, Đức, Anh, Népal, Tích Lan, Ấn Độ, Sikkimy, Pakistan (Hồi quốc) v.v… và các sứ thần đại diện cho mỗi nước trên thế giới. Trong lễ khai mạc dùng ba thứ tiếng là: Pāli, Miến Điện và Anh ngữ.
Vừa đúng giờ thì trời mưa xối xả trên ngót một tiếng đồng hồ, ai ai cũng đều đồng lòng cho là một điềm lành của cuộc Kết tập và sẽ đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Khi mọi người đều an tọa thì tiếng đại bác, đại cổ, tiếng đại hồng chung và tiếng còi (sirène) reo lên inh ỏi để làm biểu hiệu cho cuộc lễ khai mạc.
Một vị Thượng Tọa lão niên đứng lên long trọng tuyên bố thay Ban Hội Đồng Kết Tập trước sự hiện diện của 2.500 vị Thượng Tọa, Đại đức của thế giới tới cộng sự, kế tiếp lần lượt các đại diện đọc thông điệp chúc hạ của các vị Đế Vương và Quốc Trưởng Thế giới gởi tới. Phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy V.N. được sắp vào bữa thứ nhì để đọc diễn văn do Đại đức Nāga Thera Bửu Chơn lên đài phát thanh trước đọc bằng Phạn ngữ sau lại bằng tiếng Anh. Đại đức Bửu Chơn và Sư Hộ Giác được ghi tên vào sổ để tiếp tục kết tập phần nhứt. Vì sự kết tập được chia ra làm 5 phần (cinq Sections), mỗi phần có 500 vị.
Về cách thức kết tập thì một vị Thượng Tọa Chủ Tịch tuyên bố, hai vị Thượng Tọa khác một vị vấn một vị đáp. Bắt đầu từ Tạng Luật, Kinh và Luận, vị vấn hỏi kỹ lưỡng mỗi Tạng hoặc mỗi điều học, như hỏi bất cộng trụ thứ nhứt vì nguyên nhân làm sao mà Phật cấm, ai phạm điều học ấy trước hết, tại xứ nào? Phật chỉ định mấy lần và cấm chỉ mấy lần? Thế nào là phạm tội, thế nào là không phạm tội? Khi xong mỗi điều học thì chư tăng cộng sự đồng lòng đọc lên điều học một lần để tỏ lòng tán thành điều học ấy là đúng theo chánh truyền của Đức Phật, lần lượt như thế cho đến khi tròn đủ tám muôn bốn ngàn pháp môn (84.000 Dhammakhandha). Mỗi ngày ba thời, sáng từ 8 giờ đến 10 giờ, trưa từ 1 giờ tới 3g30 nghỉ giải lao nửa giờ rồi tiếp tục cho tới 5 giờ mới giải tán, công cuộc tiến hành như thế cho tới hai năm mới chấm dứt là đúng Phật lịch 2500 năm.
Chánh phủ đã dự định một số tiền khổng lồ là 90 triệu đồng Rupies lối 650 triệu bạc ta để hộ trợ cho công cuộc kết tập trong hai năm cho được thành tựu.
Về phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy V.N. rất được nhiều nước hoan nghinh vì có biếu cho đại hội 1.000 đồng Rupies và một tấm tranh năm con rồng vàng nhứt là các vị sư biết nói tiếng Pāli và tiếng Anh trôi chảy.
Sau khi ba ngày khai mạc thì Chánh phủ Miến đã sắp đặt cho tất cả phái đoàn trên thế giới tới dự lễ được đi chiêm bái các nơi Phật Tích toàn xứ Miến Điện, như là xứ Pegu, Mandalay, Sagan, Pagan cách tỉnh thành Rangoon độ trên 1.000 cây số. Toàn xứ Miến Điện bảo tháp nhiều nhứt là xứ Mandalay và Pagan có trên 55 ngàn bảo tháp, Chánh phủ chu cấp cho bảy chiếc phi cơ để đưa đi chiêm bái và các sở phí đều do Chánh phủ đài thọ. Tại tỉnh Mandalay, cựu thủ đô Miến, là nơi Kết Tập Tam Tạng lần thứ năm cách đây lối một thế kỷ, có nhiều cổ tháp có trên 1.000 năm, trên mỗi chót tháp đều thếp vàng, nên khi du khách vừa mới tới thì những sự chói sáng của bảo tháp dưới ánh thái dương làm cho chói lòa cả mắt.
Xứ Miến Điện rất rộng lớn nhưng dân số chỉ lối 18 triệu, chư Tăng lối 80 ngàn vị, có cả các nước ngoại quốc tới học nền đạo đức như là người Mỹ, Anh, Ấn, Tích, Đức v.v… Vì vậy mà xứ Miến Điện nay rất có tên tuổi trên thế giới về Phật giáo Nguyên Thủy (Nam Tông) vì còn giữ nguyên vẹn những tinh túy của chánh truyền, đến hiện nay mà vẫn còn có nhiều vị đắc đạo quả. Như cách đây độ hai năm có một vị A-la-hán đã nhập diệt hiện nay xác vẫn còn quàn mà chưa hôi thối và còn mềm mại.
Tóm lại, ai muốn tìm chánh truyền của Phật giáo Nam Tông (Nguyên Thủy) thì nên đến xứ Miến để học hỏi và nghiên cứu thì sẽ đạt được như ý nguyện.
Về pháp học thì còn nhiều nhà sư thuộc nằm lòng Tam Tạng Pāli, còn pháp hành thì cũng còn nhiều vị Thánh Tăng đắc được đạo quả Niết-Bàn.
Nhựt kí của phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy
Khởi hành ngày 14-5-1954: Phái đoàn PGNT (Chùa Kỳ Viên) gồm có: Đ.Đ. Nāga Thera (Bửu Chơn) trưởng phái đoàn, Đ.Đ. Buddhapala (Hộ Giác), Ô. Nguyễn Văn Hiểu thơ ký, Nguyễn Văn Mẫn, B. Huỳnh Thị Kỷ, Đoàn Thị Liên, Huỳnh Thị Có, Kiều Thị Giàu, và Ni cô Trần Thị Thọ đã đáp phi cơ hãng Thái-Airway lúc 13 giờ 45, ngày 14-5-1954, trực chỉ Miến Điện, để dự Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng lần thứ sáu tại Rangoon.
Có nhiều người đến phi trường Tân Sơn Nhứt, tiễn đưa rất đông đầy: Đ.Đ. Tối Thắng dẫn đầu Bổn đạo chùa Kỳ Viên, Đ.Đ. Trụ trì, chư Tăng và Bổn đạo chùa Chantaransey, Đ.Đ. Trụ trì và Bổn đạo chùa Huê Lâm, ông Jethmal và nhiều thân bằng quyến thuộc của các nhân viên trong phái đoàn.
Đúng 14 giờ 40, khi máy bay đáp xuống phi trường Nam-Vian, đã có chư Tăng Miến, Việt và toàn thể thiện tín việt kiều trực tiếp rước vào nhà hàng thết đãi nước cam và ân cần cầu chúc cho cuộc hành trình của phái đoàn V.N. sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp cho nền Phật giáo nước nhà.
Sau khi rước thêm hành khách, máy bay từ giã phi trường Ponchentong, lúc 15 giờ 30, qua hai giờ sau đã đến phi trường Donmuong, cách xa kinh đô Bangkok 28 cây số ngàn.
Nơi đây có hai vị đại diện Sứ quán Việt Nam là quí ông Nguyễn Duy Liển, Cố vấn tòa Đại sứ, và Nguyễn Khoa Phòn vừa là thơ ký và con của cụ Sứ Thần chực đón phái đoàn với hai cỗ xe Sứ quán.
Quê người xứ lạ, nếu không có hai vị kiều bào này lo giùm giấy tờ và rước về an nghỉ tại Sứ quán V.N., thì mặc dầu có Đ.Đ. Bửu Chơn thông thạo tiếng Anh, tiếng Thái cũng phải mất thì giờ chờ đợi và bối rối về chỗ tạm nghỉ.
Khi đến Sứ quán mới hay rằng cụ Nguyễn Khoa Toàn, Sứ thần V.N. tại Bangkok, và phu nhân đã đáp phi cơ về Saigon sớm mai. Nhưng ở nhà có bà Phòn dâu thứ năm của cụ, lo bữa ăn và chỗ ngủ chu đáo. Bà là người quê quán ở Saigon, khi gặp đồng bào từ quê nhà đến, bà tuy tuổi độ chừng 20 xuân, mà rất lịch duyệt, niềm nở tiếp đãi, chuyện trò mật thiết, nhất là đối với năm bà tín nữ.
Ngày 15-5-1954, sáng sớm bà đã lo sẵn đồ điểm tâm mời hai Đại đức và thiện nam, tín nữ xuống phòng ăn, lót lòng. Còn cậu Phòn thì lo sắp đặt đồ hành lý lên xe, chực sẵn đưa phái đoàn ra phi trường. Rồi cũng lo giấy tờ xong xuôi hết, mới kiếu từ trở về Sứ quán vận động cho Đ.Đ. Hộ Giác và ba bà tín nữ đi cho kịp chuyến máy bay sau, bởi tại Bangkok có rất nhiều phái đoàn, như phái đoàn Thái Lan và Cao Miên đã ghi tên trước chỉ còn có 5 chỗ dành cho phái đoàn V.N., trong 9 chỗ của hãng Air-Vietnam đã đánh điện xin.
Tại phi trường Don Muang, Phật tử Thái Lan tiễn đưa phái đoàn của họ rất long trọng, nào là diễn văn, tràng hoa, nhiếp ảnh và tiệc điểm tâm dâng cho chư Tăng.
Máy bay 4 động cơ, 60 chỗ ngồi, không còn một chỗ trống. Vì hành lý nhiều, phải chờ sắp đặt, nên phi cơ cất cánh đã trễ hết một giờ trong chương trình định trước.
Khởi bay từ 10 giờ 30 đến 12 giờ 30, đã tới phi trường Rangoon, cách châu thành 15 cây số ngàn.
Tại đây có Đ.Đ. Kelasa, Giám đốc Đại học đường Rangoon, đại diện cho Giáo hội Tăng già Miến Điện, quan Chưởng lý U Chan Htoon, Tổng Thơ ký Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng, đón rước chư Tăng được đưa về Tăng đường tại chỗ Kết Tập Tam Tạng cách xa Rangoon 12 cây số ngàn, còn thiện tín về tạm trú trong nhiều biệt thự tại trung tâm châu thành.
Tới nơi, sau khi tắm rửa, mạnh ai nấy ngủ lấy sức, tới 4 giờ chiều bị đánh thức mời đi ăn bánh và uống trà sữa. Trong khi ấy, ông Trưởng ban ‘Tiếp tân’ cho hay vị nào cần dùng tiền xài trước khi đi lãnh ngân phiếu, muốn bao nhiêu ông sẵn lòng cho mượn và cho biết từ khi đến tới ngày về, các khách ngoại quốc được nuôi ăn ở khỏi phải tốn tiền.
Ngày 16-5-1964, người Việt Nam đi ra khỏi xứ, nếu không biết tiếng Anh thật là vô phước. Muốn cái chi không biết nói làm sao cho người ta hiểu, thành ra mình là người câm. Rồi nhớ lại, khi ở bên nhà có người bạn rầy sao cho con học Anh văn và Pháp văn. Ông bạn ấy biểu phải cho con học toàn chữ Việt, mới là người công dân trung thành với Tổ quốc. Phải lúc này, tại Rangoon; có ông bạn ấy ở đây để ổng bảo coi phải làm cách nào đặng hỏi thăm đường đi nước bước, và tìm hiểu những điều nghe thấy giùm cho nhóm người Việt, giữa các phái đoàn Mã Lai, Tích Lan, Thái Lan, Ấn Độ, Népal, Tàu, Nhựt, Anh, Đức, Pakistan, Sikkim, Ryukyu, Yougoslaves, v.v… đương giao thiệp mật thiết với người Miến Điện.
Tại đây, người trí thức đến thường dân đều dùng Anh ngữ để nói chuyện với khách tứ phương.
May ra phái đoàn V.N. gặp được bà thân mẫu của ông Mac Phsu, vị thương gia bán dầu cù là đường Lê Lợi, gần chợ Saigon, ra tận phi trường đón rước tình nguyện làm hướng đạo và thông ngôn. Nhờ bà quen biết nhiều, có thân thế, nên ai ai cũng sẵn lòng làm vừa ý muốn. Bà có người chị ruột, trước kia có ở Saigon, nên khi gặp phái đoàn V.N., hai ông bà và 7 cháu (4 gái, 3 trai) đều xem chúng tôi như thân quyến, cách biệt lâu ngày bây giờ gặp nhau, thôi mừng là mừng. Bà thuộc về Hoàng phái, ông cũng là dòng sang trọng, quí danh là U Soe Gywe, đương giúp một cách đắc lực cho Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng. Ông bà biểu chúng tôi phải lại ở tại biệt thự riêng của ông bà, mấy cháu kéo níu không cho đi. Đó là duyên lành của kẻ đi tìm làm việc lành ở tận phương xa.
Cho đến những người Miến Điện, khi gặp người Việt, cúi chào với một nụ cười đầy thiện cảm. Vợ chồng, con cái, dắt nhau đi xem các gian phòng của chư Tăng, vừa thấy chúng tôi đương hầu chuyện với hai Sư V.N., họ dòm không khỏi mắt nhứt là xem các bà tín nữ, dường như đã có gặp nhau trong dĩ vãng; hơn nữa cách búi tóc của phụ nữ V.N. mường tượng như của đàn bà Miến. Rồi họ hỏi thăm ở đâu lại, khi biết là người V.N., vợ chồng, con cái xin vào đảnh lễ chư Sư V.N., ngồi hỏi thăm đủ chuyện. Chẳng phải tọc mạch, bởi họ là người chất phác ở thôn quê đến; có lẽ vì mối cảm tình thiên nhiên của người đồng đạo, một cảm tình thân mật giữa đám con chung của một đấng Cha Lành.
Nói về ngày thứ hai của Phái đoàn V.N. tại thành Rangoon. Nhờ tạm trú trong một biệt thự đầy đủ tiện nghi: đất rộng, gió mát, đèn điện, quạt máy, nên sau một đêm dưỡng sức, ai ai cũng hân hoan vui vẻ. Sáng sớm, dùng điểm tâm rồi, chúng tôi rảo bước xem lại tường tận các biệt thự vừa mới cất xong để rước các phái đoàn ngoại quốc. Cả thảy 25 biệt thự in nhau một kiểu mẫu, cất trên một vuông đất độ 12 mẫu. Mỗi biệt thự 2 từng lầu, chứa 60 giường, mùng mền, nệm, gối toàn đồ mới. Tổng cộng được 1.500 chỗ nghỉ. Nhà nào cũng đầy khách ngoại quốc, mỗi phái đoàn đều có bảng đề chữ lớn trước cửa. Tối lại đèn thắp sáng trưng, ở xa xem như một hội chợ. Ban tiếp tân gồm có một vị Trưởng Ban, 16 nhân viên và 75 bồi phòng, có chỗ làm việc, có điện thoại và 6, 7 cổ xe Jeep để đưa khách đi nơi này chỗ nọ, tùy theo ý muốn. Có máy thâu thanh tại phòng khách và phòng ăn, cho khách mua vui. Mỗi khi đi đâu trên mỗi xe có một nhân viên đi theo dẫn đường, và khi trở về, họ phải xem xét coi có đủ số không; nếu thiếu họ chạy đôn đáo kiếm người vắng mặt, sợ lạc đường không biết nẻo về, vì thành phố Rangoon rộng lớn bằng ba thành Saigon. Tối ngủ, họ cũng cho đủ số người; khách vừa ngủ họ lo đóng cửa. Khi khách ra khỏi phòng, h��� đặt người trông nom đồ hành lý, mặc dầu dưới từng dưới có cảnh sát gìn giữ an ninh.
Tóm lại, các phái đoàn đều được săn sóc châu đáo, cẩn thận. Cách tổ chức của Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng, về phương diện tiếp khách, thật đáng kính phục.
Mỗi tối lại còn biếu nào là sách vở về Phật giáo, về xứ Miến Điện, nào là tin tức tiếp rước các phái đoàn sắp đến.
Lúc rảnh chúng tôi xin xe đi viếng chư Sư V.N. và dạo châu thành, có bà thân mẫu của ông Cù Là Mac-Phsu ngồi kế cận thông ngôn. Thành Rangoon có nhiều công sở, nhà hàng, rạp chớp bóng, nhà ngân hàng to tát đồ sộ. Xe cộ nơm nớp xe Autobus, xe Taxis, xe nhà toàn hiệu Anh Mỹ. Xe lửa chạy dưới sâu, nên không có một cái cổng làm trở ngại sự giao thông. Dưới bến có nhiều tàu ngoại quốc và tàu Miến ăn hàng rất náo nhiệt.
Đến một công trường thấy hình đồng của một nhà Sư, chúng tôi hỏi tại sao Ông Sư này được dựng hình? Người hướng đạo trả lời rằng ấy là Đại đức U Wisaya, trong thời kì xứ Miến bị đô hộ, Ngài thấy đồng bào Ngài bị thực dân hà hiếp quá lẽ, Ngài đứng ra binh vực, bị bắt cầm tù. Khi vào khám Ngài tuyệt thực đến chết. Dân chúng cảm mến ơn đức từ bi vô lượng của Ngài, chung đậu tiền dựng hình Ngài để kẻ qua người lại chiêm bái hàng ngày.
Giữa châu thành có một cái chùa tháp, như Namvian, nhưng rất lớn và cao hơn bội phần, gọi là chùa Shwedagon; bể tròn 300 thước; cao 50 thước; phía ngoài phết toàn bằng vàng lá. Chùa này cất trên 2.000 năm, trong ấy thờ Xá Lợi Phật Tổ (8 sợi tóc thỉnh từ Ấn Độ). Chúng tôi chưa có dịp vào chiêm bái và xem cho tường tận. Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng có cho mỗi người khách một quyển sách 100 trương nói về sự tích của ngôi chùa ấy.
Ngoài ra chẳng biết bao nhiêu biệt thự cất trên những khoảnh đất rộng rãi, vườn tược cây cối sum suê.
Đất tại Rangoon mường tượng như ở Dalat, nhà cửa cất trên đồi nhỏ, khoảng khoát, mát mẻ. Người Miến thích nhà nhiều nóc như nóc chùa, mái nhà không dốc đổ như ở Saigon, mặc dầu lợp bằng ngói móc.
Xe chạy xớt qua, chưa có dịp bước chân xuống đất, chờ dự lễ khai mạc 3 ngày, rồi sau khi đi viếng Mandalay, trở về có thì giờ, sẽ cuốc bộ từ phố này qua phố nọ, mới biết được tường tận.
Sau khi đi một vòng cùng khắp châu thành Rangoon, chúng tôi trở về tắm rửa, rồi rủ nhau đến viếng chư Sư V.N. để hỏi thăm về lễ Sima (kết giới) chỗ Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng, đã cử hành buổi sáng. Công việc này thuộc về Tăng sự, nên thiện tín, dầu muốn dự kiến, cũng chỉ đứng ngoài xa dòm vô. Chỗ Kết Tập Tam Tạng chỉ có sáu cửa vào, mà người đi xem có cả đôi trăm ngàn, dầu có đến đó, cũng khó vào gần cửa được. Vả lại, chúng tôi cũng đã biết cách làm lễ Sima ra sao rồi, nên thừa lúc ấy chúng tôi đi xem phong cảnh kinh đô Rangoon. Sau lại vì tánh tọc mạch, muốn biết coi cách thức kết giới ở Miến Điện có khác ở V.N. không, để khi về xứ, nói lại cho bà con biết những điều mới lạ của xứ người.
Nên sau khi vắng mặt, nghĩ lại ăn năn, liền dắt nhau lên tận Tăng Đường, yêu cầu chư Sư V.N. cho biết cách hành lễ buổi sáng có chỗ chi lạ thường không.
Hai Sư nói: Trong các giới Phật giáo Nguyên Thủy, xứ nào cũng đồng tuân theo lời của Phật Tổ Như Lai di truyền trong Tam Tạng Pháp Bảo, nên cuộc lễ Kết Giới đã cử hành y theo một nguyên tắc. Có khác là khác về tánh cách long trọng, bởi lễ này do 2.000 vị Tỳ Khưu trong hoàn cầu hiệp lại làm, lại thêm có 3 vị Pháp Chủ, lớn tuổi và cao hạ nhứt, làm Chủ Tọa là: Đ.Đ. Pakantaik Sayadaw, Đ.Đ. Thit Seintgyitaik Sayadaw (cả hai đều được 82 tuổi và 63 hạ) và Đ.Đ. Sangharaja Chuon Nath (vua Sãi Cao Miên) được 71 tuổi và 52 hạ. Cả ba đều xuất gia từ lúc 19 tuổi.
Sau khi chư Tăng tụng tuyên ngôn phân ranh giới rồi thì chỗ Kết Tập Tam Tạng trở thành Thánh Địa. Từ nay về sau, dầu các bậc Đế Vương, hay Tổng Thống cũng chẳng được phép mang giày đi vào đó. Người ngoại quốc dầu cao sang đến đâu cũng phải tuân theo luật ấy, bằng chẳng vậy, không được mời vào.
Ba ngày khai mạc Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng (17, 18 và 19 tháng 5 năm 1954).
Ngày đầu nhằm ngày trăng tròn tháng Wesak Via Giáng Sanh, Thành Đạo và Nhập Niết-Bàn của Phật Tổ Gotama, năm thứ 2498 sau khi Đức Thế Tôn viên tịch.
Chỗ Hội nghị. Một vùng đất cao ráo, diện tích 100 mẫu, cách xa kinh đô Rangoon 12 cây số ngàn, trước kia là một gò nổi hoang vu, vì đất pha trộn nhiều đá đỏ, nay trở thành một Thánh địa phồn thạnh, nguy nga, do toàn thể dân chúng Miến Điện sáng lập. Chương trình kiến trúc chỉ mới thực hiện được nửa phần: một thạch động, bốn tăng đường, một trai đường, nhiều nhà tạm, đường sá, cầu cống và đèn điện, khởi làm từ 14 tháng trước.
Chùa Kaba Aye. Trong vòng Hội nghị có một Chùa Tháp, tên là Chùa Kaba Aye, cất năm 1952, để biểu dương nguyện vọng hòa bình Thế giới của Phật tử Miến Điện, và luôn luôn làm trung tâm cho H.N Kết Tập Tam Tạng kỳ thứ VI. Chùa này kiểu tròn, 2 lớp vách cách nhau 4 thước, trên nóc là một cái tháp giống như tháp Shwedagon tại Rangoon, châu vi 35 thước, bề cao cũng 35 thước. Ngay 4 cửa vô, có thờ 4 tượng Phật phết vàng, lớn bằng 2 con người. Trên tường, cận nóc trần, thờ nhiều tượng Phật nhỏ hơn, để trên chơn qui, đúc cốt sắt ve ra khỏi vách. Nơi vòng trong, còn thờ một tượng Phật lớn bằng 4 lần tượng thờ ngay cửa vào. Chung quanh bàn thờ ấy, vòng theo vách có tủ chứa đầy bửu vật, đã tìm ra nơi các cổ tháp hư đổ và nhiều Xá Lợi để trong hộp vàng. Cách mặt đất 6 thước trở lên, bên ngoài Chùa Tháp đều phết vàng, vàng lá thứ thiệt, như nóc Tháp Shwedagon.
Thạch động Maha Pasana Guha. Cách Chùa Kaba Aye vài trăm thước về phái tây, là chỗ Kết Tập Tam Tạng. Hang này tạo ra để nhắc lại hang Sattapanni, là nơi Đại đức Kassapa (Ca-Diếp) triệu tập Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng lần đầu tiên tại Rajagaha (Vương Xá). Đứng xa xem như một hòn núi nhỏ, lại gần tưởng như một thành lũy kiên cố, xây bằng đá xanh, chỗ cao, chỗ thấp, dường như công việc chưa rồi. Đứng xa dòm kỹ theo khoảng trống các vồ đá trên chót núi, thấy có nóc nhà lợp thiếc. Hang này bề dày độ 150 thước, bề ngang 120 thước và bề cao 25 thước. Hướng đông và tây, mỗi hướng có 2 cửa vô, hướng bắc và nam mỗi hướng chỉ có 1 cửa. Cả thảy 6 đại môn, cao 10 thước, rộng 4 thước. Từ chơn núi đến cửa 30 thước, sau các cửa ấy là chỗ K.T.T.T., bốn phía có một vách tường kiên cố bằng bit-ton cốt sắt 1th20 bề dày, 90 thước bề dài, 40 thước bề ngang, 14 thước bề cao, có 6 cây cột tròn, trực kính 1 thước, cao 14 thước. Trên đầu không thấy nóc vì bị trần che án. Trên đầu cửa vô phía bắc, có một cái đài vinh dự, ve ra khỏi tường 6 thước, bề ngang 10 thước. Tiếp theo 2 bên đài dọc theo 2 vách phía đông, tây có kệ ngồi 6 cấp, bề ngang 1 thước, bằng sạn đúc, như giảng đường trong các trường đại học. Trên đài danh dự và kệ ngồi là nơi an tọa của chư Tăng. Khoảng giữa hai hàng cột, đất lót gạch bông, là chỗ cư hội của thiện nam, tín nữ. Sau vách phía bắc còn một tòa lầu ba từng, dài 35 thước, rộng 12 thước, cao 17 thước, nóc bằng, nối liền với hành lang, rộng 2 thước, chạy chung quanh nóc nhà lợp thiếc (chỗ K.T.T.T.). Dọc theo hành lang có nhiều động đá nhỏ, để làm chỗ tham thiền cho Chư Tăng. Mỗi từng lầu đều có phòng tắm, phòng tiêu kiêm thời. Nơi góc hướng tây có một cầu thang đúc sạn và một cầu thang điển.
Trong chỗ Hội nghị, vách tường sơn màu xanh da trời, xa xa có lỗ hơi, nhìn như cái bông tròn 24 cánh, tượng trương Bánh Xe Pháp. Giữa lỗ hơi có quạt điển hút gió mát vô, trên có khoảng trống cho gió nóng bay ra. Dọc theo các khoảng trống ấy có gắn đền ống (néon) nối liền nhau, như chạy chỉ xanh trên trần. Ban đêm, đèn rọi từ dưới chơn lên ngọn núi, làm cho thạch động được thấy rõ như ban ngày.
Thật là một kiến trúc vĩ đại, khác thường và kiên cố sáu đại môn, sáu cột nhà, sáu cấp cho chư Tăng ngồi và nhiều bội số khác (multiple de 6) của con số 6 như Xa Pháp 24 cánh, 108 cái đồng la v.v… mà ít ai để ý, đều ám chỉ kỳ thứ sáu của H.N.K.T.T.T.
Có sáu cây Đại Kỳ Phật giáo và nhiều cờ nhỏ phất phơ trên chót đảnh. Chung quanh chơn núi có 108 cái đồng la, trực kính 8 tấc, trên mặt có đúc hình Bánh Xe Pháp, tượng trưng cho 12 nhân duyên (kể xuôi từ Vô Minh… tới Lão, Tử, là Luân Hồi; kể ngược là bẻ gãy từ cây căm, cho đến diệt tận Vô Minh, là Niết-Bàn). Khách thập phương tự do muốn đánh đồng la, cứ đánh. 108 cái chuông này tiêu biểu cho 108 loại phiền não ái dục, mà người đến đây đều mong nếm được hương vị Phật giáo, để rửa sạch bợn trần nhơ, cầu mau giải thoát khỏi nẻo luân hồi thống khổ.
Tăng đường. Cách thạch động 150 thước, nơi phía nam, là 4 gian nhà, 2 từng lầu, bề dài 64 thước, bề ngang 12 thước. Hai gian cách nhau một đường lộ trải đá rộng 20 thước, hai nhà lầu cất xa nhau, hai tòa khác cất dính theo hình thước nách (En équerre) vựa ngã ba đường. Mỗi gian nhà có họa đồ chỉ sáu chỗ Kết Tập Tam Tạng. 120 phòng đâu lưng, hai hành lang 2 thước giáp vòng chung, chặng giữa có 2 thanh đúc, mỗi đầu cũng có 2 thanh đúc và phòng tiêu, phòng tắm. Trong mỗi phòng có 2 giường, có đèn điện, quạt máy. Bốn gian nhà chứa được 2.500 vị Tỳ Khưu, ngoài ra còn có phòng văn, phòng nhóm của ban Tổ chức cho hai phái xuất gia và tại gia, phòng xuất bản tạp chí, máy in và phòng nhiếp ảnh, chớp bóng.
Trai đường. Sau bốn gian này còn một ngôi nhà khác, cũng 2 từng lầu 30×20 và một gian nhà trệt 60×12 để làm nơi trai tăng. Trong nhà trệt gần cửa cái có thờ 80 tượng sơn son phết vàng, tượng trưng cho 80 vị đại A-la-hán, đệ tử kế cận của Đức Thế Tôn khi xưa. Từ các Tăng đường đến Trai đường có nhà cầu lợp thiếc, để cho chư Tăng qua lại khỏi mưa nắng.
Chỗ làm việc. Hai bên cửa đông, có hai gian nhà một từng, để làm văn phòng cho trường đại học, sắp mở sau khi H.N.K.T.T.T. bế mạc (Tăng đường hiện giờ sẽ làm nội trú cho sinh viên, là các vị Tỳ Khưu trong hoàn cầu, đến học Pāli và Tam Tạng). Chung quang Tăng đường còn 30 gian nhà tạm 30×18 cao cẳng, lợp thiếc, để làm trụ sở tạm cho Hồng Thập Tự, sở Chữa lửa, sở Kiến thiết, bộ Thông tin, bộ Ngoại giao, sở Tân đáo, sở Cảnh sát, sở Hiến binh, chỗ đãi khách, kho thực phẩm, nhà bếp và nhà đục mưa nắng cho tín đồ. Nhơn viên của các bộ, các sở nói trên có phận sự cho tin tức, lo giấy tờ thông hành cho các phái đoàn, gìn giữ trật tự an ninh và săn sóc bịnh nhân.
Nơi cửa vào trai đường có sở Giao thông quản xuất 20 xe Cars mới tinh hảo và nhiều xe mui kiến của các quan cho mượn, túc trực ngày đêm để đưa rước chư Tăng và khách của các Ngài lên xuống từ chỗ K.T.T.T. đến Rangoon. Ông tổng thơ ký có lòng trong sạch cấp cho Đại đức Bửu Chơn một cỗ xe riêng để Ngài tùy sử dụng. Toàn thể nhơn viên đều hết lòng lo tròn phận sự. Công việc bề bộn phải ăn, nghỉ tại chỗ. Coi bộ họ rất mệt nhọc, nhưng vẫn vui vẻ niềm nở, ân cần tiếp rước và làm vừa lòng các phái đoàn.
Công việc đương làm. Trước Chùa Kaba Aye, hai bên đại môn có hai ngôi nhà một từng vừa cất xong nhưng chưa sử dụng. Đương cất một tháp để tham thiền, giữa một ao hồ rộng lớn, một gian nhà lầu làm hợp tác xã, nhiều nền móng đương đổ bích-ton…, đặt ống cống, trồng cây, trồng cỏ, tráng đường. Tuy là ngày lễ, nhưng sở Kiến trúc vẫn tiếp tục làm các công việc, không cho gián đoạn. Đại học đường chưa chánh thức mở cửa, nhưng đã tạm dạy trong một gian nhà cao cẳng, bằng cây, lợp ngói. Nghe như công việc kiến trúc đã làm rồi, chỉ mới được nửa phần của chương trình, và đã xài hết 200 triệu roupies (1.500 triệu bạc V.N).
Đây nói về ba ngày lễ khai mạc H.N.K.T.T.T. từ 17 tới 19 tháng 5 năm 1954 nhằm ngày vía Giáng Sanh, Thành Đạo và Nhập Niết-Bàn của Phật Tổ Thích Ca, đúng năm 2.498 của Phật lịch Nguyên Thủy.
Ngày 17-5-1954. Sớm mai 9 giờ, quan Thủ tướng U-Nu mời các phái đoàn dự lễ trai tăng cho 2.500 vị Tỳ Khưu tại Chùa Tháp Shwedagong. Nơi trai tăng là một cái nhà tạm lợp lá, lót ván, cất trên một khoảng đất trống, gần chưn tháp. Vì nổng cao, đất hẹp, nên nhà tạm chỉ vừa đủ chứa 2.500 nhà sư và các phái đoàn, còn người bổn xứ phải nhường chỗ đứng và quì phía ngoài. Vật thực để trong những hộp bằng aluminium, được khiêng lên trước, quan Thủ tướng lên sau với một sĩ quan hầu cận. Xe đến tận nấc thang, từ đường lộ ngài lột giày leo thang như các tín đồ, đến nơi ngài và vị sĩ quan vào quì lạy chư Tăng ba lạy, trở ra trước nhà trai tăng làm lễ chào cờ, có binh lính dàn hầu và trổi quốc thiều. Xong rồi, ngài đi vào lạy ba lạy nữa và xin thọ giới. Xin giới xong có một ông quan đứng lại tại micro đọc bài dâng vật thực. Chư Tăng thọ rồi đọc kinh cầu chúc cho thí chủ, dứt câu kinh toàn thể người dự lễ đồng thanh hô to ba tiếng “lành thay” (không có đọc kinh hồi hướng). Cuộc lễ đã chấm dứt.
Các phái đoàn trở về lo cơm nước, chờ đúng 11 giờ xe rước đi dự lễ khai mạc H.N.K.T.T.T. Đúng 12 giờ chư Tăng và quan khách đều có mặt trong hang Maha Pusana Guha. Trên 10.000 vị Tỳ Khưu có mặt tại Kapa Aye, nhưng chỉ có 2.500 vị được thỉnh vào dự lễ, trong ấy có hai nhà Sư V.N. là Đ.Đ. Bửu Chơn và Hộ Giác. Trên 200.000 người đến Kapa Aye, phần đông là người bổn xứ, chỉ có các sứ thần, quan khách và phái đoàn độ 2.000 người vào dự lễ, trong ấy có 7 đại diện phái Bảo Thủ V.N. (2 thiện nam: Nguyễn Văn Mẫn, Nguyễn Văn Hiếu; 5 tín nữ: Đoàn Thị Liên, Huỳnh Thị Kỳ, Huỳnh Thị Có, Khấu Thị Giàu và cô diệu Trần Thị Thọ).
Đúng 12 giờ 12 phút, (là một giờ có ý nghĩa thế nào mà tôi không có dịp hỏi nơi các vị cao Tăng) trong hang Maha Pusana Guha, sáu tiếng chuông khởi ngân vang dội, phá tan không khí lặng lẽ của 4.500 Tăng và tục, đương nghiêm trang chờ đợi cái giờ cu hội chánh thức của bao nhiêu tâm hồn ngưỡng mộ Phật Pháp, từ bốn phương trời tìm gặp nhau nơi đây, để biểu dương tinh thần đoàn kết trong một giáo lý duy nhứt của Đấng Cha Chung. Cũng trong giờ phút ấy, bên ngoài có đại bác bắn bổng lên hư không sáu lá cờ Phật giáo, nhờ sáu cây dù nâng đỡ giữa lừng, để mặc tình gió lôi cuốn trong bao la Thế giới của hàng Chư Thiên trong các cõi Trời. Báo hiệu vừa dứt, một vị Thượng Tọa đứng trên đài hướng bắc tuyên bố bằng tiếng Pāli và tiếng Miến Điện: “Giờ này là giờ khai mạc Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng lần thứ Sáu, nhằm bữa trăng tròn tháng Wesak, năm thứ 2.498 từ khi Đức Từ Phụ Giáo Chủ Gotama nhập Niết-Bàn”. Một vị Thượng Tọa thứ nhì, cao hạ nhứt trong 2.500 vị Tỳ Khưu trong Hội nghị, đứng lên đề cử Đại đức Giáo Tông (vua Sãi) Miến Điện là Ngài Abhidhaja Maharathaguru Bhaddanta Revata làm Chủ Tọa Hội nghị. Toàn thể chư Tăng chấp thuận bằng cách nín thinh, Đại đức Chủ Tọa được thỉnh lên Pháp tọa, giữa trung đài hướng bắc. Trên hai hang ghế thấp, hai bên Pháp tọa có 9 vị Trưởng Lão ngồi hầu, nơi cấp ba có 10 vị Tăng Trưởng, toàn là bậc đại thiện hữu trí thức trong Tăng già. Đèn rọi từ phía nam (của sở chớp bóng) phựt chiếu ngay đài hướng bắc, giờ phút uy nghiêm, cảm động, Đại đức Chủ Tọa ngồi trên ngai vàng và chư Tăng trong Ban Chấp Sự từ cao dòm xuống với vẻ hiền lành, hoan hỷ, dường như đương ban bố phước huệ của các Ngài đã vun bồi trong cả đời tu học, cho toàn thể đại diện Phật tử hoàn cầu, từ dưới đất mọp lạy lên, để rước lấy nguồn hạnh phúc tươi nhuận hầu đem về chia sớt lại cho các bạn đồng đạo trong xứ mình. Đại đức Bhaddanta Pandita, một vị Trưởng Lão trong Ban Chấp Sự, đứng lên ca tụng Hội nghị bằng tiếng Pāli, và nhấn mạnh rằng tánh cách Hội nghị này khác hơn năm kỳ Hội nghị trước, là bởi do nơi nguyện vọng tha thiết và sự ủng hộ nhiệt thành, chẳng những của dân chúng Miến Điện, mà lại là của toàn thể Phật tử các xứ yêu chuộng Đạo Giáo tối cổ của Đức Từ Phụ Gotama. Kế đó một đại diện phái Tại gia ông U Saing Kyaw, bước ra đảnh lễ ba lạy, đọc bài ca tụng ân đức Tăng Bảo, rồi cùng thiện nam, tín nữ bái chào thêm ba lạy nữa. Tiếp theo, ông Tổng Trưởng bộ Lễ U Win đứng ra đảnh lễ, rồi đọc một bài diễn văn về lịch sử của các kỳ Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng thứ nhất đến thứ năm, ca tụng ân đức của chư vị Thánh Tăng, nhứt là Đại đức Kassapa (Ca-Diếp), có công sắp Phật ngôn ra ba Tạng, mỗi Tạng có mấy pháp môn, mỗi pháp môn có mấy tiếng, khiến cho các nhà Sư trụy lạc phá giới hậu lai không thể canh cải sửa đổi lời di huấn của Đức Thế Tôn được. Và nhờ niêm luật đó, trong thời đại sau, mỗi khi có bọn ký sanh dắt dẫn tín đồ sai đường lạc nẻo, chư Tăng có thể Kết Tập Tam Tạng lại để sùng hưng Phật giáo. Sau rốt ông Tổng Trưởng bộ Lễ ca tụng công đức chư Tăng đã hết lòng phụng sự Phật Pháp, nên kỳ Hội nghị thứ Sáu này được thành tựu mỹ mãn. Ông lạy chư Tăng để tỏ lòng biết ơn các Ngài. Cũng từ trong nhóm Cư Sĩ, ông Tổng Thống Ba U bước ra đảnh lễ chư Tăng, và nhân danh của các tín đồ nhiệt thành vì đạo của các xứ chịu ảnh hưởng Phật giáo Nguyên Thủy, đã triệu thỉnh chư Tăng hoan lâm gia nhập Hội nghị hôm nay, tỏ lòng cung kính bái tạ các Ngài. Rồi ông sơ lược nhắc lại lịch sử tín ngưỡng của nhơn loại từ thời thượng cổ. Xưa kia, vì sợ tai ách do hiện tượng thiên nhiên đem lại, người ta đặt ra đủ loại thần thánh, để thờ cúng mong được giải thoát những nguy biến của vũ trụ. Cho đến khi Phật Tổ ra đời giáo hóa, người ta mới thức tỉnh, biết rằng không thể mong cầu nơi các vị thần linh ấy, mà được giải thoát những thống khổ ở đời. Trái lại, phải nương nhờ nơi Tam bảo, mới được hạnh phúc yên vui vĩnh viễn. Chúng ta có phận sự hộ trì Tam bảo cho được trường tồn hưng thịnh, bằng chẳng vậy Phật Pháp sẽ bị suy vong, nếu để Phật Pháp lu lờ, chúng ta chớ mong giải thoát khỏi vòng đau khổ. Muốn cho nền đạo giáo cao quí của Đức Thế Tôn được thạnh đạt, toàn thể tín đồ phải hết lòng phụng sự ngôi Tam bảo. Trong thời kỳ nước Miến Điện bị ngoại quốc đô hộ, Phật giáo suýt chinh nghiêng hư đổ, vì dân chúng khi ấy không đủ khả năng chống chỏi. Đến khi xứ Miến Điện được hoàn toàn độc lập, Chánh phủ liền bắt tay vào công việc trùng tu Chùa Tháp và phấn khởi dân chúng lập ra các hội Phật học để nâng đỡ chư Tăng, lần lần tới ngày nay mới hiệp tác cùng Phật tử tứ phương tổ chức được Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng này. Sự hy sinh của chúng ta, hôm nay đã đem lại kết quả vô cùng tốt đẹp, chẳng những có lợi ích riêng cho chúng ta, mà còn có ảnh hưởng lớn lao cho nền hòa bình Thế giới. Sau khi dứt lời, ông Tổng Thống đảnh lễ bước lui, nhường chỗ cho ông Tổng Trưởng Tư Pháp U Thwin quì lạy, rồi nhơn danh Phó Chủ tịch Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng, đọc bài tán dương Tam bảo và xin thay mặt cho Chánh phủ Miến Điện, hứa lãnh trách nhiệm đối với chỗ ở, vật thực, y phục và thuốc men, cũng như về các vật cần thiết khác trong thời hạn hai năm kết tập đến ngày chư Tăng trở về quê quán. Ông còn yêu cầu chư Tăng để ý xem xét các phần tử trụy lạc đương ẩn núp theo Tăng già, làm thương tổn Phật Pháp và đề nghị phương pháp diệt trừ bọn ký sanh ấy. Ông hứa sẽ dùng uy quyền của Chánh phủ ban cho ông để trừng trị thẳng tay bọn phá hoại Phật Pháp, để bảo tồn ngôi Tam bảo, hầu hoằng khai Chánh Pháp cùng khắp năm châu bốn biển, cho nhơn loại hưởng nhờ. Kế tiếp, đại diện của các vị Giáo Tông (vua Sãi), các bậc Đế Vương, các Chánh phủ của những xứ được mời dự Hội nghị, đứng ra đảnh lễ, đọc thông điệp tán dương và cầu chúc cho lễ Kết Tập Tam Tạng được thành tựu như ý nguyện của Phật tử trên hoàn cầu và đem lại hạnh phúc hòa bình cho nhơn loại. Cuộc chúc từ kéo dài lối một giờ, rồi tạm ngưng để nối tiếp trong hai ngày sau, y theo chương trình đã định. Đại đức Agga Maha Pandita Bhaddanta Tridasabha đứng trên đài, nhơn danh H.N.K.T.T.T., đọc một bài đáp lại những lời chúc từ của các thông điệp nói trên. Đại đức Chủ Tọa cũng tỏ lời cám ơn các vị giáo tông bằng tiếng Pāli và các Chánh phủ bằng tiếng Miến Điện.
Cuộc lễ chấm dứt hồi 2 giờ 30 phút. Chư Tăng được thỉnh ra hai từng lầu phía sau chỗ Hội nghị giải lao, còn quan khách được mời ra nhà hàng nơi cửa Đông dùng cơm trưa.
Đúng 3 giờ 30, chư Tăng tái họp lại, khai diễn chánh thức công việc Kết Tập Tam Tạng. Cũng 6 tiếng chuông và 6 tiếng đại bác mở đầu như lúc khai mạc. Đây là phần việc của chư Tăng, thiện nam, tín nữ được phép vào dự thính, nhưng vào nơi trong phải nghiêm trang yên lặng và phải ngồi cho mãn giờ mới được ra. Tiếng báo hiệu vừa dứt, Đại đức Chủ Tọa từ trên ngai vàng tuyên bố rằng: Y theo cách thức Kết Tập Tam Tạng của Đại đức Ca-Diếp lần đầu tiên, Hội nghị kỳ thứ Sáu này phải chọn hai vị Trưởng Lão vấn đáp phân minh, cho biết do nơi đâu và tại xứ nào, Đức Thế Tôn đã ban hành các điều luật răn cấm trong Tạng Luật. Vậy xin đề nghị Đại đức Agga Mahapandita Bhaddanta Javana làm người vấn (Pucchaka) và Đại đức Tipika Kadhara Dhammabandagarika Bhaddanta Viccittasera là người đáp (Vissajjaka). Chư Tăng ưng thuận bằng cách nín thinh, hai Đại đức này liền lên ngồi hai Pháp tọa sơn son phết vàng, hai bên ngài Chủ Tọa. Rồi ông Pucchaka bắt đầu hỏi: “Vì nguyên do nào và tại nơi đâu Đức Thế Tôn ban hành điều luật Parajika (I) thứ nhứt, trong tạng Vinaya Pitaka nói về phạm hạnh của các thầy tỳ khưu?” Ông đáp, tay cầm quạt màu ngà, tượng trưng tợ như cây quạt của Đại đức Shin Maha Kathapa trong kỳ kết tập thứ nhứt, trả lời rằng: “Đức Thế Tôn chế ngự điều luật thứ nhứt ấy tại thành Vesali, vì bởi thầy tỳ khưu Ashin Thurein, con của một nhà triệu phú đã thổ lộ hạnh kiểm xấu xa”. Mười vị Tăng trưởng ngồi cấp dưới đồng rập nhau lập lại câu trả lời nói trên cho chư Tăng nghe. 2.500 vị Tỳ Khưu trong Hội nghị đồng đọc lại một lượt điều luật thứ nhứt Parajika sikkha (là điều học về Bất cộng trụ). Xong rồi, toàn thể chư Tăng đọc ba lần Sādhu (lành thay). Tiếp theo, chuông và còi rộ lên thổi vang rần, hưởng ứng ba tiếng lành thay của chư Tăng.
Một vị Trưởng Lão tuyên bố: Buổi kết tập đầu tiên đã kết thúc. Liền đó các thính giả đi ra để chỗ cho toàn thể chư Tăng có mặt tại Kaba Aye vào hiệp với 2.500 vị Tỳ Khưu trong Hội nghị làm lễ Uposatha (Phát lồ), vì ngày hôm nay nhằm ngày tụng giới bổn của Tăng chúng.
Về bên phái đoàn cư sĩ, ngày lễ đầu tiên này chấm dứt, sau buổi tiệc long trọng của ông Đô Trưởng Ragoon, thết đãi tại thị sảnh, có ngũ âm và múa rầm giúp vui tới đêm mới mãn.
Ngày 18-5-1954. Trong Phật giáo có một việc lạ, mà ai ai cũng để ý nhưng không thể hiểu được: Mỗi khi có lễ lớn thì trời chuyển mưa, nhằm mùa mưa thì mưa tầm tã, nhằm mùa nắng thì trời vần vũ, mưa to. Các kỳ rước Xá Lợi ở Saigon và cung nghinh Xá Lợi đến các Chùa đều có vậy; dường như mưa để rửa trược khi nơi vùng có đại lễ, hoặc cho quang cảnh mát mẻ, giúp cho người mộ đạo vui thích trong phước lành.
Hôm qua, trước giờ H.N.K.T.T.T. trời mưa xối xả, cho đến giờ khai mạc chỉ còn mưa tro rỉ rả. Cây cỏ, chùa chiền, đền đài, trong ngoài chỗ Hội nghị đều được thợ trời rửa sạch bụi cát do cả ngàn xe hơi tới lui tấp nập trong mấy ngày trước. Bao nhiêu dơ uế trên mặt đất được nước cuốn ra khỏi vùng Thánh địa. Nếu cho đó là một sự tình cờ do hiện tượng vũ trụ đem lại, sự tình cờ này có lẽ cũng tùy thuộc nơi tâm lành của khối người trong sạch với đạo lành của đấng Trọn Lành duy nhất trong thế gian vậy.
Hôm nay, ngày thứ nhì, trời quang mây tạnh, và nhờ bên trong có nhiều chỗ rộng, ban Tổ chức cho thính giả vào thêm 1.500 người nữa, thành ra trong hang kết tập có cả 6.000 người: 2.500 vị Tỳ Khưu và 3.500 tín đồ. Còn lại gần 200.000 người ở ngoài, lớp đi chung quanh đua nhau đánh 108 cái đồng la, cầu cho phiền não mau tận diệt do duyên lành cấu tạo hôm nay; lớp vào chiêm bái trong Chùa Hòa Bình Kaba Aye, lớp thì lóng nghe trước các ống loa các lời tuyên bố của chư Tăng, cùng những bài chúc từ của đại diện các xứ bên trong. Phái đoàn V.N. hôm nay đến trễ 10 phút vì bận lo đi lãnh bạc nơi ngân hàng. Tuy đến trễ, nhưng được vô thong thả, nhờ mỗi người có treo trước ngực một thẻ ngà, biểu hiệu của khách ngoại quốc, một biểu hiệu đơn giản, nhưng rất linh nghiệm đi tới đâu cũng được nhường chỗ, cho đến giữa thành phố cũng được người ta niềm nở chỉ chọc đường đi nước bước. Vì đến trễ mà có một bà tín nữ không quen vừa đi vừa chạy, cũng không quen đi chân không trên lộ trải đá, bá cẳng vào vật chi mà phải trầy chân đổ máu, lại bị trật gân sưng cẳng, tối về nóng lạnh.
Hôm nay, buổi lễ khởi hành đúng 12 giờ. Cũng như bữa đầu, dứt tiếng chuông còi, một vị Đại đức đứng ra tuyên bố Hội nghị khai mạc ngày thứ nhì. Ông Thủ tướng U Nu bước ra đảnh lễ chư Tăng và đọc một bài diễn văn ca tụng các Hội Nghị K.T.T.T. đầu tiên, giải thích nguyện vọng và mục đích của cuộc Hội nghị kỳ sáu này, Phật tử đều muốn cho Phật Pháp được gìn giữ nguyên vẹn theo Phật ngôn lưu truyền. Công trình vĩ đại này thành tựu được chỉ nhờ sự cố gắng của Tăng già và tín đồ. Ông Thủ tướng nhân danh dân tộc Miến Điện cầu chư Tăng làm tròn nhiệm vụ cao cả này, y theo tinh thần và thủ tục của chư vị A-la-hán xưa kia. Kế tiếp, các vị Đại đức, trưởng phái đoàn mỗi xứ và đại diện các Chánh phủ luân phiên đọc bài chúc từ. Khi đọc chúc từ các nhà Sư đứng trên bảo đài, còn bên cư sĩ thì đứng dưới đất. Cũng như hôm qua, mỗi lần có đọc diễn văn, mỗi chớp đèn chụp ảnh quay phim.
Đúng 2 giờ 30, tạm ngưng, Đại đức Agga Mahapandita Bhaddanta Indasabha đứng lên đáp lời cùng diễn giả. Dứt lời chuông và còi reo lên chấm dứt buổi lễ.
Đến 3 giờ 30, chư Tăng họp lại Kết Tập Tam Tạng. Hôm nay ông vấn (Puccaka) hỏi ông đáp (Vissajjaka) về điều học thứ nhì và thứ ba của giới Bất cộng trụ (Parajika). Mười vị Trưởng Lão đọc lại hai câu đáp, 2.500 vị Tỳ Khưu đọc trọn điều học thứ nhì và thứ ba dứt lời, toàn thể Hội nghị hoan hô bằng ba tiếng “Lành thay”.
Buổi kết tập thứ nhì của Hội nghị thứ sáu chấm dứt đúng 5 giờ 30.
Khi ra khỏi Hội nghị lúc 2 giờ 30, các phái đoàn được mời ra nhà hàng dự tiệc xế chiều. Ra đến nơi gặp 3 bà tín nữ Huỳnh Thị Có, Khấu Thị Giàu, và cô diệu Trần Thị Thọ đứng trước bộ Ngoại giao với vẻ mặt buồn xo và bí xị. Ba bà từ Bangkok đến từ 12 giờ trưa với Đại đức Hộ Giác, được ban tiếp tân rước ngay về chỗ Hội nghị, chờ các phái đoàn dự lễ rồi về nơi cư trú tại Rangoon một lượt, bởi giờ đó khách ngoại quốc đều ở trong hang Kết Tập Tam Tạng. Riêng mình Sư Hộ Giác được đưa thẳng đến Tăng đường, nơi phòng của Đại đức Bửu Chơn đã ký chú sẵn cho Ngài. Sư Thông Kham cũng từ Bangkok đến một lượt với Sư Hộ Giác, Ngài cũng được đưa đến Tăng đường, theo phái đoàn Lào bởi Ngài từ Vientiane đến, nhưng cũng ở chung một gian nhà với phái đoàn V.N.
Chiều lại được đưa đến một nhà hàng lớn nhứt, dự tiệc của ông Tổng Trưởng Ngoại Giao thết đãi các phái đoàn. Buổi tiệc này có tánh cách lạ lạ: đồ ăn để một nơi, khách ngồi một nơi, khi ráp lại ăn, mạnh ai nấy đi lấy đĩa, muỗng, dao, khăn rồi tự tiện thích món nào gắp món nấy vào dĩa, rồi đem lại bàn ngồi ăn. Boy chỉ có phận sự đi rót nước cam, nước suối thôi. Xứ Phật giáo không có dùng một nhỏ rượu. Ngoài nước cam, xá xị, người ta uống nước lạnh trong lu, cũng không dùng nước trà. Các nhà Sư cũng không có nước trà hoặc nước nóng. Ăn rồi cũng không có diễn văn. Từ bàn này sang qua bàn khác, kiếm người quen nói chuyện đã rồi kéo nhau ra về, cũng không cần biết tới ông chủ nhà. Ông cũng bình dân chen lộn trong đám khách để kiếm ăn và nói chuyện với bạn bè của ông.
Ngày 19-5-1954. Ngày hôm nay là ngày thứ ba, ngày chót của lễ khai mạc.
Phái đoàn V.N. tính lên Kaba Aye ở trọn bữa, trước để thăm hai Sư Hộ Giác và Thông Kham mới đến, sau để leo lên các từng lầu và chót núi đá bao phủ chỗ Hội nghị. Sáng sớm, lót lòng rồi, quí bà dự bị trầu cau, mua sắm vật thực dâng cho ba Sư V.N. Quí bà giàu lòng tín ngưỡng, hay dòm ngó coi chư Sư thiếu thốn món chi, mua sắm không sót, nào là bàn chải chà răng, phấn đánh răng, xà phòng, bình thủy, khăn lau mặt v.v… Phận cư sĩ thì lêu lổng, vô tình, không làm được những việc cao quí ấy. Bề trong thì khen thầm cử chỉ của quí bà, bề ngoài lại thắc mắc, bắt bẻ đủ điều, để che đậy cái tệ của mình: “Đi chung một phái đoàn muốn làm một việc phước nào, dầu lớn, dầu nhỏ cũng phải toan tính với nhau, quí bà ỷ có tiền, muốn làm gì không cho chúng tôi hay biết”. Đây là ăn hiếp gió: mấy bà lật đật sám hối, có biết đâu cái thâm tâm của bọn râu mày.
Gặp Đ.Đ. Thông Kham vui mừng trò chuyện, thì mới hay Ngài nhờ ông Tổng Trưởng Tư Pháp Lào, là ông Phya Kham Mau gởi Ngài qua Miến Điện, theo phái đoàn học sinh. Ngài tới Bangkok ở chờ Chánh phủ Lào gởi thêm ngân phiếu qua đặng mua giấy máy bay sang Rangoon, vì đi thình lình không kịp lấy đủ giấy tờ. Chờ hoài không được, Ngài cậy sứ thần Lào Bangkok, mua giùm giấy máy bay, mới qua sớm một lượt với Đ.Đ. Hộ Giác.
Sư Hộ Giác nhờ ở mấy ngày ở tại Sứ quán V.N., Bangkok, có đi tìm học được hai Sư Tịnh Sự (Sư giáo Vĩnh Long) và Thiện Tâm, đương từng học tại Chùa Rakhang. Vừa đến nơi, Sư Hộ Giác liền bắt tay vào công việc Kết Tập Tam Tạng. Mặc dầu còn mệt nhọc nhưng Ngài vẫn vui lòng tham dự, nhơn danh Phật giáo xứ V.N., cũng như Đ.Đ. Bửu Chơn, Đ.Đ. Bửu Chơn cũng lo cho Đ.Đ. Thông Kham sang qua phái đoàn V.N. để thay thế cho Ngài trở về dưỡng bịnh.
Hội Nghị Phật giáo Thế giới Lần III Tại Rangoon – Miến Điện (Ngày 3 Tháng Chạp D.L 1954 -2498)
Hôm ngày 12 tháng 11 dl.1954, tôi vừa được một bức điện văn của Hội Phật giáo Thế giới Miến Điện gửi sang để thỉnh hai đại diện cho Phật giáo Nguyên Thủy V.N., đến dự Hội nghị Phật giáo Thế giới lần thứ ba tại Rangoon Miến Điện vào ngày 3 tháng chạp D.L. 1954.
Lẽ cố nhiên tôi phải lãnh một trách nhiệm về phần hướng đạo và một vị đạo hữu đã có yêu cầu trước, là ông Vĩnh Cơ có thiện chí muốn sang Miến Điện để quan sát về nền Phật giáo và chiêm bái các nơi Phật tích, tôi liền đánh điện văn cho ông hay, nhưng rất tiếc vì trường hợp xảy ra bất ngờ làm cho ông không thể nào đi được, nên một bức điện văn từ Đà Nẵng đánh vào để cáo lỗi và yêu cầu xin ông Nguyễn Văn Hiểu đi thế, lẽ dĩ nhiên ông Hiểu phải ráng lãnh trách nhiệm nhưng có hơi dụ dự là vì ông đã có đi một lần rồi vả lại cũng bị bận nhiều công việc sau khi xin giấy tờ vừa xong, thì rất rủi thay công việc nhà ông lại xảy ra bất ngờ mà ông không thể nào bỏ đi được. Thế thì tôi phải một mình một bóng lìa khỏi phi trường Tân Sơn Nhứt lối 7 giờ 30 ngày 30 tháng 11dl. 1954 để sang Miến Điện cho kịp kỳ khai mạc.
Phi cơ từ từ cất cánh trực chỉ về hướng tây gần một tiếng đồng hồ lại hạ cánh xuống phi trường Pochentong Phnompenh để cho hành khách lên xuống và trình giấy thông hành độ nửa tiếng đồng hồ lại cất cánh trực chỉ thủ đô Vọng Các (Bangkok), mãi hơn 11 giờ trưa mới tới phi trường Daungmaung cách thủ đô Bangkok lối 28 cây số ngàn.
Vừa tới nơi thì thấy có cậu Phồn Anh con của cụ Nguyễn Khoa Toàn, Đại sứ V.N. ở Vọng Các ra đón rước và cùng luôn dịp đưa 2 bà tín nữ V.N., ở Kiêm Biên đi dự lễ Kết Tập Tam Tạng phần nhì mới về, sau khi trình giấy châu lưu xong lại được cậu Phồn Anh đưa về Sứ quán để tạm nghỉ đặng xin chiếu khán của Tổng Lãnh Sự Miến Điện và ghi chỗ với hãng hàng không, công việc rất lộn xộn nhưng mọi việc đều nhờ Sứ quán V.N. lo xong cả, sáng hôm sau lối 6 giờ sáng lại trở ra phi trường để sang Rangoon; hôm ấy hành khách rất đông nên mãi hơn 8 giờ 30 phi cơ mới cất cánh, gần 1 giờ trưa mới tới phi trường Rangoon. Vừa tới nơi thì ông U. Chaw-Seng, nhân viên của Hội Phật giáo Miến Điện đến tiếp rước và lo giấy thông hành cho tất cả phái đoàn tới Hội nghị, xong lại đưa ra về Kaba Aye là chỗ để cho Hội Phật giáo Thế giới yên nghỉ và Hội nghị. Sau khi tới yên nghỉ một lúc thì có Sư Hộ Tông, Sư Thông Kham, Sư Hộ Giác, Sa di Thiện Hạnh và các bà tín nữ đã đến Rangoon trước để dự lễ Kết Tập Tam Tạng phần nhì, đến thăm và trách móc sao không cho hay tin trước để ra đón rước, mãi mấy hôm sau cô Diệu Phước (Chùa Huệ Lâm) đang tùng học nơi ni đường Miến Điện mới đến thăm tôi.
Buổi khai mạc sáng hôm 3-12-1954, đúng 8 giờ sáng thì tất cả 30 nước trên thế giới đều có đại diện tới tham dự đủ mặt nơi Đại Thạch Động, tôi nhận thấy như là: Tàu, Nhựt Bản, Phi Luật Tân, V.N., Tân-gia-ba, Pénang, Nam Dương quần đảo, Úc châu, Tích Lan, Ấn Độ, Miến Điện, Cao Miên, Xiêm, Lào, Anh, Mỹ, Pháp, Ý đại lợi, Finland, Đức, Áo, Hawaii v.v…
Đúng 8 giờ 30, Tổng Thống Miến Điện vừa tới thì trống còi và đại bác nổi lên inh ỏi để làm biểu hiệu cho buổi khai mạc được thêm phần long trọng, khi tiếng trống còi im lặng thì Đại đức Reveta Chủ tịch ban Kết Tập Tam Tạng lần thứ Sáu bắt đầu cho tam qui và ngũ giới cho tất cả phái đoàn trên thế giới (trừ Tăng già ra mà thôi), kế đó bác sĩ U.Ba Tổng Thống xứ Miến Điện từ từ đứng dậy tới trước máy truyền thanh đọc một bài diễn văn để chúc mừng cuộc lễ khai mạc và cầu chúc cho cuộc Hội nghị Phật giáo Thế giới sẽ đem lại nhiều sự kết quả tốt đẹp cho nhân loại. Kế tiếp, ông U. Chan Htoon, Tổng Chưởng Lý và Chánh Hội Trưởng Phật giáo Thế giới địa phương Miến Điện, đọc một bài diễn văn để chào mừng tất cả phái đoàn trên thế giới vì đã tốn công hao của và phải trải qua nhiều sự khó khăn từ phương xa ngàn dặm tới dự rất đông đủ và ông khiêm tốn xin thứ lỗi cho, nếu trong khi lưu trú có điều chi không vừa lòng đẹp ý. Rồi lần lượt đọc những lời chúc mừng của các vị Đế Vương và Quốc Trưởng của các nước trên thế giới gởi đến, sau cùng ông G.P Malala Sekera Hội Trưởng Hội Phật giáo Thế giới đọc một bài diễn văn đại ý, kể sơ qua lịch sử của Hội Phật giáo Thế giới thành lập đầu tiên năm 1950 tại Colombo, Tích Lan, năm 1952 Hội nghị tại Nhựt Bản, tới năm nay là năm 1954 lại Hội nghị tại xứ Miến Điện, với mục đích đem lại sự sáng tỏ nền Phật giáo chánh truyền còn nguyên vẹn theo Tam Tạng Pāli và gây tình cảm bác ái đối với tất cả người tu Phật không phân biệt tôn, phái, màu sắc chi cả, chỉ biết chúng ta là một khối người tu Phật, như con một cha. Vì Đức Phật cũng như đấng Cha Lành chung cho tất cả người tu Phật. Bác sĩ lại nhấn mạnh thêm rằng còn hai năm nữa là 1956, là đúng thời kỳ phân nửa Phật Pháp 2500 kể từ khi Đức Phật nhập Niết-Bàn đúng ngày Rằm tháng Tư. Hiện nay có hơn 550 triệu người tu Phật trên khắp cả Thế giới đều chuẩn bị để làm lễ Phật nhập Niết-Bàn. Tôi cũng hiểu biết rằng có nhiều nơi ý kiến bất đồng về ngày đản sanh và ngày nhập diệt của Đức Phật. Nhưng dầu sao chúng tôi cũng tự tin rằng Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni giáng sanh, đắc đạo và nhập diệt cũng tại trung Ấn Độ, mà Ấn Độ và các nước trực tiếp về nền Phật giáo theo Ấn Độ cũng đều tin rằng hiện nay Phật Pháp đã qua 2498 năm, dầu đúng hay không chúng ta cũng nên đồng hòa hiệp nhau thống nhứt lại tạo cuộc lễ cho hòa hợp nhau thì càng làm cho được phần long trọng và chúng ta nên tin rằng Đức Phật là một bậc vĩ nhân, ngày sanh và diệt Ngài cũng lựa một ngày cho các hàng môn đệ dễ nhớ, nhứt là ngày rằm thì ít ai quên vậy; không như đạo Gia-tô hiện nay họ vẫn còn mơ hồ, phân vân ngày sinh nhựt của đấng Chúa Trời. Khi dứt bài diễn văn của bác sĩ thì vừa đúng giờ cho chư Tăng độ ngọ nên cuộc khai mạc tạm giải tán.
Đúng 1 giờ thì Hội nghị lại bắt đầu tái họp vào làm việc để xem xét những đề nghị của các nước Phật giáo đưa tới, kỳ họp lần này không phải trong Đại Thạch Động nữa mà ở tại từng thứ nhì, trong một văn phòng rộng rãi lối (10mx30) là một Tăng đường tên Amaragoyāna phía sau Đại Thạch Động, kỳ họp lần này có cả thảy gần 300 đại diện của thế giới và hơn 300 người quan sát viên (observateurs). Phần P.G.N.T.V.N. theo thứ tự mẫu âm Đ.Đ. Bửu Chơn được sắp vào ngày thứ nhì để đọc diễn văn phúc trình sự hoạt động. Đại ý bài diễn văn nói rằng: Hiện nay nhân loại đang bị áp lực của tham, sân, si đè nén nặng nề, muốn chữa trị những chứng bịnh ấy cần phải có một phương thuốc thật hay mới mạnh được, không chi hơn là tất cả nhân loại nên quay về Phật giáo, vì Phật giáo có tánh cách không thù oán, hãm hại, tàn sát lẫn nhau và nên tu tập theo hạnh bố thí để trừ bớt lòng tham lam, trì giới để dứt bỏ lần lòng thù oán, vì nếu mỗi người đều giữ giới thì còn ai mà chém giết tàn sát nhau, mà nếu không có chém giết sát hại thì đâu có sanh ra giặc giã chiến tranh. Hơn nữa, cần phải ráng tham thiền để trừ bớt lòng si mê và cho được minh tâm kiến tánh thấy rõ chơn lý của vạn vật đều là vô thường, khổ não, vô ngã thì tự nhiên các bịnh tham, sân, si ấy sẽ lành mạnh, chừng ấy không cần nói cả Thế giới đều được hoàn toàn hạnh phúc và thái bình thạnh vượng.
Trong 3 ngày Hội nghị, hội chia ra làm 4 Ủy ban để bàn luận về 4 vấn đề:
Ủy ban thứ nhứt: Bàn luận về vấn đề “Giáo hóa”, Ủy ban này yêu cầu nên tạo thêm những trường học cho nhi đồng Phật tử, nên lập ra những lớp học ngày chúa nhật để dạy cho học sinh am hiểu về Phật giáo và nếu có thể nên lập ra trường đại học về Phật giáo tùy theo khả năng của mỗi trung tâm Phật giáo Thế giới địa phương.
Ủy ban thứ nhì: Bàn luận về vấn đề “trực tiếp với xã hội”, Ủy ban này dẫn dụ rằng: nên giúp đỡ cho xã hội về sự thành lập dưỡng đường, cô nhi viện, nhà riêng cho những người có bịnh hủi và các nơi tiếp độ sức khỏe cho loại thú, nên tiếp độ cho người bị tai hại về nạn chiến tranh hoặc bị tai hại trong lúc thừa hành phận sự trong các cơ xưởng trong các ngành kỹ nghệ.
Ủy ban thứ ba: Bàn luận về vấn đề “truyền bá giáo lý Phật Đà”, Ủy ban này bàn luận rất lâu và sôi nổi, đại khái về sự thành lập trụ sở trung ương và trụ sở địa phương của hội để làm việc về sự truyền bá Phật giáo Thế giới và kế hoạch của sự truyền bá là:
Khởi xướng về sự hành đạo trong xứ đã có Phật giáo.
Trong xứ không có Phật Pháp thì nên tiếp giúp công chuyện từ thiện như Ủy ban thứ nhì, thuyết pháp, nói đạo và tự mình phải thực hành cho đúng đắn theo chánh giáo để làm gương mẫu.
Nên lập những tư thục để huấn luyện cho phái Tăng già và thiện tín về phương pháp và tư cách của các nhà đi truyền giáo cùng một khuôn khổ.
Ủy ban thứ tư: Bàn luận về vấn đề “hoạt động của Phật giáo Thế giới”, Ủy ban này đưa ra rất nhiều đề nghị đại khái như là: thành lập sự đoàn kết để làm cho hiểu biết nhau giữa người tu Phật bất cứ là nơi nào, nên thay đổi nhau qua lại về các nhà sư đi truyền giáo và gởi các học sinh Phật giáo đi các nơi, nên thành lập một hội thanh niên nam, nữ Phật giáo Quốc tế, nên thông dụng lá cờ Phật giáo trong các cuộc lễ nào có tánh cách về Phật giáo.
Và thông dụng Phật lịch là kể từ Đức Phật nhập Niết-Bàn đến nay đã được 2498=1954, nên bày ra một biểu hiệu chung cho tất cả Phật tử. Về căn bản hoạt động của sự truyền bá của Phật giáo thì nên căn cứ vào Kinh-Luật của Đức Phật, nhứt là mỗi người Phật tử đều giữ ngũ giới cho trong sạch, vấn đề này có 2 nhà sư Bắc tôn ở Lastonie cãi rằng như rượu bia hoặc rượu chát người tu Phật uống cũng được vì nó làm cho sự tiêu hóa dễ dàng, sau một lúc bàn luận, hội bác hẳn lời của 2 nhà sư này, nên trao đổi nhau để ấn tống những tin tức của Phật giáo khắp nơi và lập 1 quyển sách cho biết chung tất cả những ngày lễ của Phật giáo luôn có cả tam qui và ngũ giới theo Pāli. Hơn nữa, nhân danh H.P.G.T.G., xin kêu gọi tất cả các Chánh phủ nên ra lịnh cấm sự chế tạo và dùng đến bom nguyên tử, bom khinh khí và tất cả những khí giới có tánh cách sát hại một lần thật nhiều người, vì muốn đem lại sự an ninh cho nhân loại. Các nhà Phật tử nên cấm các con em đừng cho chơi những món đồ có tánh cách sát hại như gươm, súng giả v.v…vì nó ám ảnh và khêu gợi tánh nết hung dữ của trẻ con. Sau khi 4 Ủy ban trên đây đề nghị và bàn luận xong lại đưa lên Tổng Ủy ban để biểu quyết chung một lần nữa khi đã đồng chấp thuận mới được đem ra thi hành.
Qua ngày thứ tư thì tất cả phái đoàn trên thế giới được đưa vào Đại Thạch Động để dự kiến 500 chư Tăng Thế giới đang Kết Tập Tam Tạng phần nhì (2ème Session) kế đó đưa đi viếng các nơi Phật tích trong thủ đô Rangoon.
Bắt đầu từ ngày thứ năm sắp lên thì Chánh phủ Miến Điện có sắp đặt cả thảy 52 toa xe lửa thượng hạng để đưa tất cả phái đoàn đi chiêm bái các nơi Phật tích và các bảo tháp thờ Xá Lợi trên xứ Miến Điện như là tỉnh Mandalay là cựu Thủ Đô của xứ Miến và là nơi Kết Tập Tam Tạng lần thứ Năm, nơi này có 729 tấm bia đá cẩm thạch chạm đủ Tam Tạng Pāli, mỗi bia đá ấy lại được bảo tồn bằng một bảo tháp vuông vức 2 thước tây bề cao lối 3 thước. Những bia đá này đã tạo ra lối 1 thế kỷ, nên những tấm bia ấy chữ vẫn còn rành rạnh, kế đến viếng xứ Pagan cũng là 1 cựu Thủ Đô của xứ Miến, xứ này có một danh từ đặc biệt gọi là rừng tháp, vì tại xứ này có cả thảy trên 55.000 bảo tháp. Kế viếng xứ Mingun là nơi mà một vị Thánh Tăng đã nhập diệt hơn 3 năm, hiện nay xác Ngài còn quàn mà vẫn không hôi thối. Lúc trở về có viếng một vị Thánh Tăng đương còn hiện tại, nơi xứ Kyaw-sê…
Phương tiện phái đoàn đi chiêm bái, khi hết tàu hỏa sang tàu thủy, xe hơi v.v… Công việc do Chánh phủ sắp đặt hết sức châu đáo, mỗi nhà ga hoặc mỗi thỉnh lỵ để tạm dừng khi thọ thực hoặc giải khát thì Chánh phủ địa phương đều có sửa soạn trang hoàng để tiếp rước rất long trọng. Nếu khi tạm trú trong một đêm, thì có tổ chức các cuộc múa hát bổn xứ để giúp vui cho phái đoàn, công việc đi chiêm bái ấy mất hết cả 9 ngày mới xong, lại đưa phái đoàn trở về Rangoon và sáng hôm sau là đúng ngày 18-12-1954, thì tất cả phái đoàn lần lượt lên đàng về xứ hoặc ai muốn sang Ấn Độ để chiêm bái bốn chỗ động tâm thì đi, nhưng sự tổn phí thì tự mình chịu lấy.
Riêng phần phái đoàn P.G.N.T.V.N. còn nhiều công việc phải thu xếp nên tới ngày 22-12-1954 mới lên đàng về xứ…
Nhưng trước ngày lên đường về xứ, ông Tổng Thống bộ Lễ Ngài U.Win tiếp P.Đ.P.G.N.T.V.N.
Ngày 20-12-1954, P.Đ.P.G.N.T.V.N. được ông U.Win Tổng Trưởng bộ Lễ tiếp rước nơi biệt thự Ngài rất ân cần và vui vẻ hỏi thăm về công việc tiến hành của P.G.N.T.V.N. Sau khi nghe Đ.Đ. Bửu Chơn thuật lại về công việc Phật giáo ở V.N. và vụ mất trộm Ngọc Xá Lợi độ nọ, Ngài Tổng Trưởng bèn cho biết rằng mới rồi ở sở Khảo cổ có tìm được một bảo tháp sụp đổ tại xứ Sandaw giáp ranh xứ Miến Điện và Ấn Độ do Đức Vua Arakan sáng tạo cách đây hơn 900 năm, trong tháp ấy có nhiều Ngọc Xá Lợi của Đức Phật Tổ và A-la-hán, hiện giờ Chánh phủ đang giao cho ông gìn giữ. Khi nghe Đ.Đ. Bửu Chơn thuật xong Ngài rất cảm động và xin đề nghị với Chánh phủ để hiến cho Phật giáo Việt Nam những Ngọc Xá Lợi của Đức Phật Tổ và A-la-hán ấy.
Lời đề nghị của Ngài rất kết quả, qua ngày 21-12-1954 chính tay Ngài Tổng Trưởng viết một bức thơ và trao những Ngọc Xá Lợi đã kể trên cho Đ.Đ. Nāga Thera (Bửu Chơn), thỉnh về xứ hôm ngày 4-1-1955 và cuộc cung nghinh Xá Lợi đã có tường thuật trong số báo Tín Điển ngày 6-1-1955.
Nguyên văn bức thơ như vầy: Buddhas’Rilics and Arahat Rilics presented by the Hon’ble U.Win, Minister for Religionus Affairs to the Ven’ble Nāga There, Hear of Viet Nam Delegation on the 21stDecember, 1954, was discovered in the ruins of Sandaw Padoga built about 900 years ago by an Arakann king in Sandoway.
Dịch: Tôi U.Win Tổng Trưởng bộ Lễ của xứ Miến Điện, kính tặng những viên Ngọc Xá Lợi của Đức Phật Tổ và A-la-hán đến Đ.Đ. Nāga Thera (Bửu Chơn) trưởng phái đoàn Phật giáo V.N. hôm ngày 21-12-1954. Những Ngọc Xá Lợi này đã tìm ra được nơi một bảo tháp sụp đổ, bảo tháp này đã tạo ra trước đây lối 900 năm do Đức Vua Arakann nơi xứ Sandoway.
Ký tên: U.Win
Tổng Trưởng bộ Lễ
(Ngưỡng Quang) Miến Điện.
Lúc về có bảy bà tín nữ đã qua Rangoon trước để chiêm bái và chờ kỳ hội nghị nên luôn dịp các bà cũng tháp tùng về theo. Khi về đến Thailand trễ luôn mấy chuyến phi cơ vì không có chỗ. Có nhiều hành khách đã ghi tên trước nên phải ở lại Bangkok hơn 10 ngày vì vậy mà phái đoàn được nhiều thì giờ rảnh rang đi chiêm bái các nơi Phật tích trong Thủ Đô Bangkok nhứt là viếng chùa Phật Ngọc, chùa Cẩm Thạch, tháp thờ Xá Lợi đầu tiên trên xứ Thái tại Nakol Pathom, chùa Preak Bat có dấu chân Đức Phật Tổ cách châu thành Vọng Các hơn 100 cây số. Trong khi lưu trú tại Vọng Các mọi việc đều nhờ Sứ quán V.N. lo liệu nhứt là cụ Nguyễn Khoa Toàn rất ân cần tiếp đãi.
Đến ngày 4-1-1955, phái đoàn mới ghi được chỗ của hãng Hàng không V.N., và đáp phi cơ về đến phi trường T.S.N vào 18g30 ngày 4-1-1955. Có rất đông chư Tăng và tín đồ đã chực sẵn để đón rước và cung nghênh Xá Lợi về chùa Kỳ Viên.
Lễ Bế Mạc Kết Tập Tam Tạng Lần VI Và Lễ Kỷ Niệm 2500 Phật Lịch Tại Rangoon – Miến ĐiệnTừ 22 Đến 27-5-1956
Lối 1 giờ trưa ngày 18 tháng 4 dl, một số đông chư Tăng, thiện nam, tín nữ Chùa Kỳ Viên đã tập hợp tại chùa để đưa chúng tôi ra phi trường T.S.N. Đi theo tôi có Ô. Nghiêm Xuân Thiện chủ nhiệm tờ báo Thời Luận, gần 14 giờ phi cơ mới cất cánh, hơn nửa giờ thì lại đáp xuống phi trường P.P, chư thiện tín Nam Vang đã chờ sẵn để đón chào chúng tôi; sau khi hành khách lên xuống xong thì con chim sắt lại cất cánh bay thẳng về thủ đô Vọng Các, gần 5 giờ mới đến phi trường Daung Maung (Thái). Khi vừa xuống phi cơ thì đã có các nhân viên của tòa Sứ quán Việt Nam ở Bangkok ra đón rước chúng tôi và rước về nghỉ tạm tại Thủ Đô Vọng Các trong một hôm.
Sáng hôm sau khi độ ngọ trai tại Sứ quán xong lại phải trở ra phi trường Daung Maung để sang Rangoon cho kịp chuyến tàu của hãng hàng không U.B.A. sẽ cất cánh 1 giờ rưỡi trưa. Sau gần 4 giờ mới đến phi trường Rangoon, khi trình giấy thông hành xong chúng tôi cùng về trụ sở của Hội Phật giáo tại Kaba Aye (chỗ Hội nghị).
Nghỉ được vài hôm cho có sức khỏe, đúng ngày 22-4-1956 thì bắt đầu khai mạc cuộc lễ Kết Tập Tam Tạng phần chót, mỗi ngày 500 vị chư Tăng của thế giới phải đến để cộng sự đều vào Đại Thạch Động sớm mai từ 8 giờ cho đến 10 giờ rưỡi, chiều từ 1 giờ cho đến 4g30 mới nghỉ. Làm luôn như vậy cho đến ngày 22 tháng 5 dl là đúng ngày khởi hành cuộc lễ bế mạc, nhưng sự kết tập vẫn tiếp tục làm luôn cho đến đúng ngày 24-5-1956 là ngày rằm mới mãn.
Cuộc lễ này khởi hành từ ngày 22 cho đến 27-5-1956, dưới quyền Chủ Tọa của Tổng Thống và Thủ Tướng Miến Điện, về chư Tăng thì 2.500 vị trên khắp Thế giới được thỉnh đến để dự lễ, ngoài ra còn những người đi xem trên 2 triệu, có tất cả các sứ thần của các nước đến dự, tất cả các xe cộ đều phải đi có một chiều nhưng vậy mà trong ngày 23, 24 trong một khoảng đường độ 5 cây số có tới 4.500 chiếc xe phải bò từ từ đến 3 tiếng đồng hồ mới đến chỗ dự lễ, còn người vì chờ lâu nên xuống đi bộ có hơn 90.000 người trong khoảng đường ấy.
Về chương trình rất dài không thể kể hết được chỉ kể sơ những điểm quan trọng vậy thôi. Chánh phủ cho lập 4 dưỡng đường và 4 nhà thí cơm nước để săn sóc và trợ giúp cho những người tứ phương đến xem lễ. Trong mỗi ngày có 10.000 người đến ăn uống khỏi phải tốn kém chi, có tất cả 6 nhà múa hát để giúp vui trong cuộc lễ và có lập tạm các sở như: Bưu Điện, Thông Tin, Cảnh Sát, Y Tế, Sở Tân Đảo và 1 đại đội quân lính để lo hầu hạ và dâng cúng vật thực đến chư Tăng, Chánh phủ cũng cho triển lãm các vật cổ tích về Phật giáo và các kỹ nghệ, thổ sản trong xứ cho công chúng xem.
Trong khi hành lễ các đại diện trên thế giới đều có đọc một bài diễn văn để chúc mừng cuộc lễ, phái đoàn V.N. cũng có đọc một bài chúc mừng bằng Anh ngữ do Đ.Đ. Bửu Chơn đại diện cho V.N. đọc trước máy phóng thanh xong, nhà báo The Burman có xin để đăng tải. Chánh phủ ra lệnh ân xá cho tất cả tội nhân trên toàn xứ Miến như người bị án tử hình thì được hạ xuống còn chung thân khổ sai, người nào bị từ 1 tháng đến 2 năm được giảm 6 tháng, từ 2 năm tới 10 năm được giảm 2 năm, từ 10 năm sắp lên được giảm một phần ba. Như thế rất nhiều người được trả tự do vì đã mãn hạn, số tội nhân còn lại thì cho nghỉ luôn trong 3 ngày lễ…Về chư Tăng tu theo Phật giáo Nguyên Thủy đến dự lễ thì thấy có Thailand, Việt Nam, Cao Miên, Lào, Nhựt, Tàu, Tích Lan, Ấn Độ, Népal, Assam, Úc Châu và Đức. Ngoài ra, cũng có mời một số chư Tăng phái Bắc Tông đến dự. Các đại diện Sứ quán của thế giới ở trên đất Miến đều có mặt tại Đại Thạch Động để dự lễ, riêng phần Chánh phủ Thái Lan do một vị Đại tá đại diện đem theo lễ vật như là: tam y, quả bát, quạt và 10 cái dèm (túi) đều có khắc chữ của Chánh phủ Thái Lan xin dâng cho các vị trưởng phái đoàn đã kể trên để làm kỷ niệm. Trong số ấy V.N. cũng được lãnh một phần danh dự do Đ.Đ. Bửu Chơn thọ lãnh đem về chùa Kỳ Viên.
Trong 3 ngày chót là từ 25 đến 27-5, chính tay Tổng Thống và tất cả quan chức cao cấp Miến đều có mặt tại Thạch Động để dâng Tam Tạng, cấp bằng trong cuộc Kết Tập Tam Tạng các món vật dụng cho tất cả 2.500 vị Tỳ Khưu đã cộng sự trong 2 năm trường.
Về chi phí trong cuộc lễ, Hội Phật giáo đã dự trù một số tiền lối 2 triệu 300 ngàn đồng rupies (gần 300 triệu đồng xứ ta) kể sơ về sở tổn trai tăng trong 1 ngày hết 10.000 rupies (gần 80 ngàn đồng xứ ta) về nước giải lao trong buổi chiều hết 1.250 rupies (hơn 100.000 ngàn đồng xứ ta) tổn phí như thế luôn trong 6 ngày đại lễ. Nhân trong dịp lễ ấy, bà Thủ tướng U.Nu có làm lễ xuất gia cho con gái bà và con gái của các vị Tổng Trưởng hết thảy trên 40 người đồng xuất gia theo cô ni trong một thời gian để gieo duyên lành tại chùa Hansāvady, cùng trong dịp ấy bà cũng hộ cho 2.500 giới tử về y, bát để làm lễ xuất gia kỷ niệm cho 2.500 Phật lịch, nhưng số ấy lại tăng thêm lên cho đến 2.618 vị đồng xuất gia một lượt tại trong Thạch Động, cuộc lễ này hết sức long trọng và vĩ đại từ xưa tới nay chưa từng có.
Ngoài ra, hội còn lo cho tất c��� chư Tăng ngoại quốc đi chiêm bái các nơi Thánh tích tại xứ Mandalay là chỗ Kết Tập Tam Tạng lần thứ Năm và có hàng ngàn cổ tháp đã tạo ra trên ngàn năm trong lịch sử.
Tóm luận trong cuộc lễ vĩ đại tại Rangoon có hàng ngàn ngàn người đến dự nhưng rất đặc biệt là không thấy có bán một nhỏ rượu nào, cũng không ai cãi lộn, đánh lộn, giựt đồ bao giờ, mỗi người đều giữ tròn phận sự mình là lễ bái cúng dường tùy theo sức mình vậy thôi, sở dĩ được thái bình, yên ổn có phải chăng là do một phần lớn ảnh hưởng của Phật giáo đã huấn luyện và đào tạo? Hay là do sự khôn khéo sắp đặt trong guồng máy chánh trị của Chánh phủ Miến? Cho nên mỗi người dân Miến đều thích đi chùa cúng bông hoa và đọc kinh trong mỗi ngày không ngớt. Một điều đặc biệt nhất là trong cuộc lễ lớn lao như thế nhưng không thấy có một sòng cờ bạc nào cho tới bong vụ hay là quay số cũng không có. Nhưng người Miến hình như ưa “xâm mình” nên trong cuộc lễ thấy có rất nhiều chỗ bày ra xâm mình đủ thứ hình các loại, thú, phi cầm họ xâm rất mau lẹ độ trong 10 phút là xong hình một con thú nơi cánh tay hoặc ngực.
Cô Diệu Đáng con Đ.Đ. Hộ Tông đang tùng học tại ni đường Rangoon luôn luôn tới lui hỏi thăm tin tức các bà V.N. có ai qua không? Sau khi cuộc lễ bế mạc xong các phái đoàn trên thế giới đã lần lượt về xứ, phần tôi cũng sửa soạn xin chiếu khán đặng trở về xứ.
Ngày 30 tháng 5 dl, thình lình lại nghe tiếng nói người V.N., từ trên lầu trông xuống thấy Sư Giới Nghiêm và các bà tín nữ đang ngơ ngẩn tìm hỏi phái đoàn V.N. vì điện văn đến trễ nên tôi không biết trước để ra đón tiếp và lo giùm giấy tờ, các bà ấy là: Bà Ngô Thị Lợi, Lê Thị Hương, Trần Thuận Anh, Hà Thúc Hòa, cô Hương và cô Xuân, nhứt là cô Trần Thuận Anh khi đến phi trường mà không thấy tôi ra đón đã phụng phịu muốn rơi nước mắt, nhưng về tới Kaba Aye gặp được tôi thì các bà mới hết lo buồn, sau rốt lại may các bà cũng được chiêm bái răng nhọn Đức Phật, tháp thờ 8 sợi tóc của Đức Phật và nơi Thánh tích khác trong xứ Rangoon và Pegu, rất tiếc là các bà muốn đi Mandalay nhưng hỏi xe lửa cũng không có chỗ, máy bay cũng không, cho đến 8 ngày sau mà cũng chưa có chỗ vì chư Tăng và thiện tín họ tới hàng ngàn ngàn nên sự chuyên chở hành khách rất chậm trễ thành ra các bà phải buộc lòng ghi giấy để trở về Bangkok ngày 6-6-56. Phần Sư Giới Nghiêm có lòng muốn ở lại để học tham thiền trong một hạ, nên các bà từ giã Sư Giới Nghiêm và Sư Thiện Hạnh để lên tàu về xứ.
Khi về tới phi trường Daung Maung vì điện văn đến trễ nên không có Sứ quán V.N. ra rước, nhưng sở hàng không Thái rất tử tế đưa phái đoàn cho đến tận Sứ quán V.N. Trong khi lưu trú tạm tại Bangkok mọi việc đều nhờ Sứ quán lo cho, nhất là ông Mai Văn Hàm Đại sứ toàn quyền V.N. tại Vọng Các rất nhã nhặn, vui vẻ, bình dân đối đãi chúng tôi một cách hết sức thân mật. Trong khi ở Thái được xứ quán đưa cho xem những Thánh tích như là: Chùa Phật Ngọc, Chùa Cẩm Thạch, Chùa Phật nằm, bề dài hơn 46 thước tây, chùa Arūn, chùa Phật bằng vàng nặng lối 1.500 k, tháp vàng chùa Sakêt và tháp Nakon Pathom là một bảo tháp sáng tạo đầu tiên trên xứ Thái Lan.
Con đường hàng không từ Vọng Các tới Saigon rất bất tiện, phái đoàn phải chờ 6 hôm mới có chỗ của chuyến tàu hãng hàng không V.N. về Saigon ngày 12-6-1956 vào lối 12 giờ trưa phi cơ cất cánh mãi gần 7 giờ tối mới đến phi cảng T.S.N. thì đã có bà con chờ đón rước rất đông, sau khi trình giấy tờ xong toàn thể phái đoàn đều về Kỳ Viên Tự.
—
Hội Nghị Phật giáo Thế giới Lần IV Tại Kathmandu Népal (15-11-1956) Và Hội Nghị Triết Học Tại Newdelhi Ấn Độ (24-11-1956 Đến 30-11-1956) PL.2500
Được giấy mời của Hội Phật giáo Thế giới Địa Phương tại Kathmandu Népal gửi đến thỉnh tôi và giấy mời của Chánh phủ Ấn Độ do Thủ tướng Nehru gửi đến thỉnh tôi đến Hội nghị Triết học tại Newdelhi vào ngày đã kể bên trên.
Tôi liền đệ đơn lên xin Tổng Thống V.N.C.H. cho phép tôi sang Hội nghị, đến ngày 5-11-1956 tôi liền được lịnh của Tổng Thống ưng thuận cho phép tôi và ông Nguyễn Văn Nẩm, bà Huỳnh Thị Kỳ để sang Népal và Ấn Độ Hội nghị.
Vì bận rộn lo giấy tờ cần thiết để xuất dương mãi cho đến ngày 13-11-1956 mới có chuyến phi cơ của hãng hàng không Air France sang Calcutta vào 8 giờ đêm, nhân dịp ấy cũng có bà Phũ Như ở Phnompenh và bà Diệp Xung, bà Kao Kim Liêng ở Cần Ché cũng đồng tháp tùng theo một chuyến tàu để sang Ấn Độ chiêm bái các nơi Phật tích, thành ra phái đoàn được cả thảy 6 người.
Đúng 20 giờ phi cơ cất cánh, trên tàu các cô bồi hầu toàn là người Pháp cách tiếp đãi với hành khách rất lễ độ, nào là tiếp thắt dây đai chỗ ngồi cho mấy bà già và cắt nghĩa cho hành khách biết dùng áo cứu nguy, khi có sự tai nạn. Ban đêm trên hư không tiết trời lạnh lắm, nên hãng Hàng không phải phát mền len cho hành khách đắp cho đỡ lạnh, vì mệt mỏi suốt ngày, nên khi vừa mơ màng giấc điệp thì có còi báo hiệu cho biết, phi cơ sắp đỗ xuống phi trường Calcutta lối 3 giờ rưỡi sáng, sau khi trình giấy tờ xong thì toàn thể phái đoàn được đưa về trụ sở của Hội Đại Bồ Đề tạm nghỉ, chờ sáng ra ghi chỗ để lên phi cơ qua xứ Népal, ngày hôm ấy không còn một chỗ nào, phải chờ qua ngày 15-11-1956 mới có chỗ, phi cơ cất cánh lối 7 giờ sáng mãi đến 9 giờ hơn mới đáp xuống phi trường Patna để trình giấy thông hành.
Vì phi cảng nằm giáp ranh với Ấn Độ và Népal nên phải sang phi cơ khác đặng vô xứ Népal, hơn 10 giờ phi cơ mới cất cánh bay sang Kathmandu lối 12 giờ hơn mới đến phi trường Kathmandu, ở đây đã có ban tiếp tân chực sẵn để tiếp rước và đưa các quan khách về chỗ trú ngụ, nhưng khi phái đoàn V.N. đến thì cũng gần đến giờ khai mạc, nên toàn thể phái đoàn đều được đưa ngay lại chỗ Hội nghị. Đúng 1 giờ thì cuộc lễ bắt đầu khai mạc, có Quốc Vương Mahindra và các quan chức cao cấp xứ Népal đến dự, các đại diện trên thế giới đều ngồi trên khán đài, tôi nhìn qua thấy cả thảy 32 nước đến dự như là: Ấn Độ, Lào, Xiêm, Miến Điện, Tích Lan, Tân Gia Ba, Phi Luật Tân, Nam Hàn, Mãn Châu, Tàu, Nhựt, Pháp, Anh, Mỹ, Ý, Đức, Nga, Tiệp Khắc, Hạ huy và Việt Nam v.v… Cuộc khai mạc này trên một bãi cỏ vuông vức lối 5.000 thước vuông, dân chúng tụ họp có trên 200.000 người, cuộc lễ kéo dài đến 5 giờ chiều mới giải tán, tất cả phái đoàn đều được đưa về nhà trọ, còn các nhà Sư thì được đưa đi an nghỉ nơi Ananda Kutti trên núi Swayambhu cách tỉnh thành độ 10 cây số.
Xứ Népal ở gần chơn núi Hy mã lạp sơn nên tuyết trời lạnh lắm, mới tháng 10 mà hàng thử biểu xuống đến 15, 16 độ, sáng ra thấy toàn một góc trời đều tuyết phủ trắng phau. Tỉnh thành đóng đô tại nơi một thung lũng chung quanh đều là núi non bao bọc, sự giao thông rất hiểm trở, trừ phi cơ ra thì muốn vào xứ ấy phải đi đường rừng và leo qua nhiều dãy núi mới vào xứ ấy được, dân số lối 13 triệu, người coi có vẻ mộc mạc, chơn thật và quê mùa nhưng trông có vẻ cảm tình, ưa thờ những thần thánh, có nhiều cổ giáo lạ lùng như Hồi giáo, Hỏa giáo, Bà-la-môn giáo v.v…, về Phật giáo thì xu hướng theo phái Bắc Tông, nên chùa chiền thì hay thờ các vị Bồ Tát, nhứt là Quan Thế Âm, phần nhiều đều chịu ảnh hưởng của Tây Tạng truyền sang. Đường sá thì rất chật hẹp, nhà cửa kiến trúc theo lối cổ nên rất thấp, nhưng nhiều từng và nghệ thuật chạm trổ có lẽ là xưa nhất và rất tinh xảo, chỗ nào cũng có đền vua cũ thuở xưa cho nên có một danh hiệu đặc biệt gọi là xứ đền đài vua chúa (pays des Palaces). Vì mỗi vị vua lên ngôi đều dời đền đi nơi khác.
Chương trình hội nghị
Trong ngày đầu để cho các phái đoàn trên thế giới đọc diễn văn chúc mừng buổi khai mạc và những thông điệp của các Quốc Trưởng gởi đến. Phái đoàn Nguyên Thủy V.N. do Đ.Đ. Bửu Chơn hướng đạo, cũng có đọc một bài diễn văn đại ý nói rằng: Hiện nay nhân loại đang bị bịnh tham, sân, si đè nén nặng nề và lo sợ vì nạn chiến tranh đe dọa, muốn trị các chứng bịnh khổ sở ấy cần phải có một phương thuốc hiệu nghiệm. Vậy không chi hơn là tất cả nhân loại nên thực hành theo Phật giáo, vì Phật giáo có tánh cách bình đẳng từ bi bác ái và không có lòng hãm hại tàn sát lẫn nhau, nên bắt đầu tu tập hạnh bố thí để trừ bớt lòng tham lam, trì giới để bớt lần lòng hãm hại, thù oán, nếu mỗi người mà giữ giới thì còn ai đâu mà chém giết, tàn sát lẫn nhau, mà nếu không có chém giết tàn sát thì đâu còn có giặc giã chiến tranh mà lo sợ. Không những thế ta còn phải cần tham thiền cho thân tâm được thanh tịnh mới phân biệt đâu là chơn thật giả tà và thấy rõ chơn tánh của vạn vật đều là vô thường, khổ não, vô ngã thì tất nhiên các bịnh tham, sân, si khổ não ấy sẽ tự tiêu diệt. Lẽ dĩ nhiên, chừng ấy cả Thế giới đều được thái bình và nhân loại đều được an cư lạc nghiệp.
Cách thức làm việc trong Hội nghị được chia ra làm 4 Ủy ban như sau:
Ủy ban thứ nhứt: Nghiên cứu về vấn đề giáo hóa, Ủy ban này đề nghị rằng: nên tạo những trường học cho nhi đồng Phật tử, lập các lớp học ngày chúa nhật để dạy cho học sinh am hiểu về Phật giáo và nếu có thể lập ra các trường trung học hoặc đại học về Phật giáo tùy theo khả năng của mỗi trung tâm Phật giáo Thế giới Địa Phương.
Ủy ban thứ nhì: Nghiên cứu về vấn đề trực tiếp với xã hội, Ủy ban này đề nghị rằng: nên tham gia các công cuộc cứu tế xã hội bằng cách thiết lập dưỡng đường, cô nhi viện, trợ giúp các cơ quan cứu tế cho những người bị tai nạn và bảo vệ sức khỏe cho các loại cầm thú.
Ủy ban thứ ba: Nghiên cứu về vấn đề truyền bá Phật giáo trên thế giới, Ủy ban này thảo luận rất lâu, sau cùng đề nghị nên thành lập các trụ sở địa phương để truyền bá Phật giáo theo 3 kế hoạch như sau đây:
Ráng hành động cho cao thượng lên thêm trong những xứ đã có Phật Pháp.
Xứ nào chưa có Phật Pháp thì nên tham gia công cuộc cứu tế xã hội theo đề nghị của Ủy ban thứ nhì, rồi tùy phương tiện thuyết pháp, nói đạo cho công chúng nghe và tự mình phải thực hành cho đúng theo chánh giáo để làm gương mẫu cho người.
Nên lập các giáo đường để huấn luyện Tăng già và thiện tín về phương thế và tư cách cho các nhà đi truyền giáo cùng một khuôn khổ.
Ủy ban thứ tư: Nghiên cứu về sự hoạt động của Phật giáo Thế giới, Ủy ban này đưa ra rất nhiều đề nghị đại khái như là: thành lập tình đoàn kết và làm cho hiểu biết nhau giữa người tu Phật bất kỳ là nơi nào, nên trao đổi các nhà sư để đi truyền giáo và gửi các học Tăng đi học thêm Phật giáo ở các xứ, nên thành lập một hội thanh niên nam nữ Phật giáo quốc tế, nên thông dụng lá cờ Phật giáo trong các cuộc lễ của Phật giáo và thông dụng Phật lịch (là kể từ khi Đức Phật nhập Niết-Bàn tới nay là được 2.500 năm, dl 1956), về căn bản của sự truyền bá Phật giáo thì phải căn cứ vào Tam Tạng là Kinh, Luật, Luận bằng tiếng Pāli, mỗi Phật tử phải gìn giữ giới luật cho trong sạch, nên viết ra một quyển sách để tất cả ngày lễ của Phật giáo cho được thống nhứt và cách thọ tam qui, ngũ giới cho đúng theo Phạn ngữ. Hội Phật giáo Thế giới còn kêu gọi các nước, nên cấm chế tạo dùng bom nguyên tử và khinh khí cùng tất cả các món khí giới có tánh cách sát hại cả khối người, với mỹ ý mong cầu đem lại sự an ninh cho nhân loại, các nhà Phật tử nên cấm các con em đừng cho chơi những các món đồ có tánh cách khêu khích tánh tình hung dữ của trẻ con.
Bốn Ủy ban này thảo luận xong lại đưa lên cho Tổng Ủy ban để bàn luận chung lại một lần nữa và khi đã được toàn thể Hội nghị chuẩn y thì mới đem ra ban hành và áp dụng.
Trong kỳ Hội nghị này cũng như mấy kỳ trước, nhưng chỉ khác ba điểm quan trọng là:
Trước kia những người nào muốn là hội viên của Hội Phật giáo Thế giới phải đóng 1.000 rupies trong mỗi năm, nhưng bây giờ chỉ sụt lại còn 100 rupies mà thôi.
Những kinh sách bằng tiếng Pāli được phiên dịch ra bằng các thứ tiếng quan trọng trên thế giới, nhứt là Anh, khi mỗi hội viên mua thì được trừ cho 20%.
Trụ sở Trung Ương của Hội Phật giáo Thế giới không được nhứt định để trên một nước nào, nghĩa là tùy nước nào có đủ khả năng thì được luân phiên đem về xứ ấy.
Sau khi 3 ngày Hội nghị xong thì tất cả đại diện và quan sát viên lối 300 vị đều được Chánh phủ Népal đưa cho đi chiêm bái các nơi cổ tích và Phật tích trong xứ, đến ngày chót chính bà Hoàng Hậu xứ Népal đứng ra thết một tiệc trà tại Hoàng cung của Tiên vương để tiễn biệt tất cả các đại diện trên thế giới và luôn dịp bà nhân danh cho Chánh phủ Népal tặng cho mỗi vị trưởng phái đoàn 1 pho tượng Quan Thế Âm Bồ Tát bằng đồng để kỷ niệm.
Đến ngày chót Chánh phủ cấp cho mấy chuyến phi cơ đưa các phái đoàn sang chiên bái vườn Lumbini là nơi Đức Bồ Tát Sĩ Đạt Ta giáng sanh gần giáp ranh với xứ Ấn Độ và làm lễ bế mạc luôn cuộc Hội nghị ấy lối 5 giờ chiều ngày 21-11-1956. Sau khi làm lễ bế mạc xong thì toàn thể phái đoàn đều được đưa đi qua nhà ga Nawgarh để lên tàu hỏa sang Newdelhi dự Hội nghị Triết học vào ngày 24-11-1956. Tại nhà ga đã có Chánh phủ Ấn Độ sửa soạn sẵn sàng để tiếp rước tất cả các đại diện nào đã được Chánh phủ Ấn Độ gửi thông điệp thỉnh đến.
Lối 9 giờ đêm thì tàu hỏa bắt đầu chuyển bánh ầm ầm xì xịt, mãi cho đến 2 đêm 1 ngày là sáng ngày 23-11-1956 mới đến Newdelhi, ở đây đã có Ủy ban tiếp tân chực sẵn để rước về chỗ yên nghỉ tại Ashoka hotel, khách sạn này của Chánh phủ Ấn Độ đã cất hơn năm nay, mới vừa xong nhưng còn sắp đặt kiến thiết nội dung, cao đến 8 từng, có cả thảy lối 700 cái phòng, trong mỗi phòng bề ngang lối 3 thước rưỡi, bề dài lối 6 thước, bên ngoài có hành lang, mỗi phòng đều có trải khảm bằng lông trừu, có máy làm cho điều hòa, có tủ bàn, tủ lạnh, giường, bàn ghế, phòng tắm có cả nước lạnh, nước nóng, và điện thoại mỗi mỗi đều mới tinh xảo.
Các đại diện chánh thức do Chánh phủ thỉnh đến mỗi nước chỉ được có bốn người, hết thảy gần lối 100 vị mà thôi, nhưng sự tiếp đãi hết sức châu đáo mỗi phái đoàn đều có cho một chiếc xe hơi để túc trực từ sáng cho đến 12 giờ đêm, để đưa rước các đại diện đến chỗ Hội nghị và tới lui trong đô thị, hoặc là đi xem các ban văn nghệ trong buổi tối, luôn như thế cho đến 10 ngày tại Tân-đề-li, riêng nước Cộng Hòa Việt Nam chỉ có tôi và ông Mai Thọ Truyền được Chánh phủ Ấn Độ mời chánh thức nên mỗi việc đều được dễ dàng, còn phần mấy ông và quí bà kia vì không phải Chánh phủ mời đến, nên không được phép ở chung với các đại diện, nhưng cũng được trú ngụ tại chùa Birla Mindia, ăn và ở đều khỏi phải tốn phí chi cả.
Đến ngày 24-11 bắt đầu Hội nghị, các đại diện được đưa đến một nơi biệt thự thật to lớn cũng vừa mới cất xong, kiến trúc theo nhà hát tây, chứa đựng lối 1.000 người, rộng rãi, mỗi chỗ ngồi đều có bàn viết và ống nghe các thứ tiếng, do thông ngôn dịch lại. Đúng giờ khai mạc cuộc lễ rất long trọng, chính Tổng Thống Prasad và Thủ tướng Nehru đến dự lễ khai mạc, trong khi ấy cũng có Thủ tướng U.Nu Miến Điện, và hai vị lãnh đạo tinh thần của xứ Tây Tạng là Penchen Lama và Dalai Lama đến dự. Cuộc Hội nghị trong bảy hôm để thảo luận và bàn luận về bốn vấn đề:
Để bàn luận và trưng bày những nghệ thuật (art of Buddhism) của Phật giáo trong mỗi xứ, nhất là các kiểu mẫu tháp, chùa và hình tượng của mỗi xứ Phật giáo.
Bàn luận về văn hóa, có liên quan đến Phật giáo như các thi thơ hoặc học đường v.v… được do ảnh hưởng và hấp thụ theo Phật giáo.
Bàn luận về Kinh Luật của Phật giáo, áp dụng trong mỗi xứ, như cách nào còn chánh truyền và cách nào không còn phải là chánh truyền.
Bàn luận về sự thực (hành đạo) theo Phật giáo trong mỗi nước, như có nước cũng mang tiếng là theo Phật giáo, nhưng sự thờ cúng rất phức tạp, như thờ nhiều vị thần linh, hoặc ông này bà nọ đầy trong chùa, hoặc các nhà sư cũng có khi cũng có vợ con, và cũng ăn cơm chiều cũng như người thế v.v…
Sau khi bàn luận bảy hôm mới xong, Thế giới đều công nhận hễ là tu theo Phật giáo thì cần phải thực hành cho đúng theo Kinh, Luật, Luận Pāli y theo đường lối của Đức Phật đã giáo truyền trong 45 năm, sau khi Hội nghị xong, Thủ tướng Nehru có thết một ngọ trai tại tư dinh của ngài, để cúng dường đến chư Tăng Thế giới đã thỉnh đến Hội nghị, luôn cả thân quyến của ngài cũng đều đến dâng cúng vật thực cho chư Tăng.
Trước một hôm khi tất cả phái đoàn sẽ từ giã Tân-Đề-Li để lên tàu hỏa đi chiêm bái các nơi Phật tích, thì Tổng Thống Prasad có tạo một tiệc trà tại dinh ngài để tiễn biệt các vị đại diện, ngài thân hành ra khách đường để chào mừng quan khách một cách thân mật, luôn hôm ấy cũng vừa được tin một vị hòa thượng V.N. pháp danh Huệ Quang đi Hội nghị Phật giáo tại Népal luôn tiện Ngài qua Ấn Độ để chiêm bái, chẳng may vì tuổi già, đến 76 tuổi nên chịu không nổi với sự vất vả và lạnh lẽo, nên ngài tịch vào lối 6 giờ chiều ngày 2-12-1956, tại dưỡng đường Newdelhi, vì mỗi người đều có phận sự riêng, và giấy tờ ghi xong nên rất tiếc phái đoàn không có ai ở lại được để đưa đám táng của ngài.
Sáng hôm sau, nhằm ngày 3-12-1956, lối 9 giờ thì tất cả phái đoàn trên thế giới lên tàu hỏa để đi Sanchi viếng một cổ tháp thờ Xá Lị Đức Phật, kiến trúc đẹp nhứt đã tạo từ thời vua A-Dục rồi đi xứ Agra để viếng Taj Mahal là một kỳ quan thứ 7 của thế giới làm toàn bằng đá cẩm thạch, đi viếng xứ Savathi nơi chùa Bố Kim Tự là chỗ mà Đức Phật thường hay ngự trong khi còn tại thế, đi Kusinara để viếng chỗ mà Đức Phật nhập đại Niết-Bàn, đi xứ Balanai (Benares) để viếng vườn Lộc Giả, chỗ Đức Phật chuyển pháp luân lần đầu cho năm thầy Kiều Trần Như, kế đi viếng xứ Patna cựu thủ đô của vua A-Dục, và nơi Kết Tập Tam Tạng lần thứ ba, xong lại quay qua xứ Vương Xá Thành (Rajagaha) để viếng trường Malanda một cựu đại học đường Phật giáo rất có danh tiếng hồi thế kỷ thứ XII và XIII và viếng chỗ Kết Tập Tam Tạng lần thứ nhất tại thạch động Sattapparani, chùa Trúc Lâm Tịnh Xá (Veluvana Vihara) suối ôn tuyền, thạch động chỗ ĐĐ. Ca-Diếp thường cư ngụ, chỗ núi Kicchayutta Kỳ Xà Quật chỗ Đức Phật thường ngự, và nơi có nhiều ngạ quỉ nhất, và chỗ Đề-Bà-Đạt-Đa lăn đá xuống để giết Phật v.v… Xong lại trở qua Bồ Đề Tràng (Bodhi gayā) để chiêm bái chỗ Đức Phật thành đạo, chỗ rắn bảy đầu đến che cho Ngài trong khi mưa to gió lớn, chỗ Ngài đi kinh hành, xóm cô Sojatā dâng cơm trộn sữa dê cho Ngài, con sông Ni-liên chỗ Ngài tắm xong mới thành đạo v.v… cũng tại Bồ Đề Tràng, tất cả các đại diện đều làm lễ bế mạc, cuộc đi chiêm bái và giải tán tại đây, nhưng Chánh phủ cũng đưa phái đoàn nào về ngả Calcutta cách đây độ 500 cây số mới giải tán, cuộc chiêm bái này kéo dài gần 2 tuần mới chấm dứt, tổn phí đều do Chánh phủ đài thọ. Riêng phần tôi không được cái hân hạnh đi chiêm bái với phái đoàn Chánh Phủ, vì còn mấy bà con đi theo, không được Chánh phủ cho phép đi chung với các vị đại diện, quan khách của Chánh Phủ, nên tôi phải tách ra để hướng dẫn phái đoàn V.N. đi chiêm bái riêng, nhưng cũng được đi các nơi như Chánh phủ hướng dẫn, chỉ phải trả có phân nửa tiền tàu hỏa mà thôi. Nhưng rất may là đi đến đâu nhờ có tôi là khách của Chánh Phủ, nên họ cũng tiếp đãi tử tế, và được ở ngay nhà trọ (Rest house) của Chánh phủ luôn cả phái đoàn cũng được ở khỏi phải tốn kém chi (nên biết rằng lúc này các nhà trọ, các nhà nghỉ mát, khách sạn đều có người giữ chỗ trước hết, vì những người đi chiêm bái đến hàng ngàn người, nên không có chỗ ở, phải ngủ đỡ nơi hành lang mấy nhà trọ, hoặc ngoài đường ngoài sá chẳng hạn, rất cực khổ vất vả lắm…)
Vì phái đoàn tách riêng ra nên đi đến chỗ nào muốn ở bao lâu cũng được, thành ra mãi đến 17-12-1956 mới về đến Calcutta ở tại hội Bồ Đề trong 3 hôm nhằm 20-12-1956, mới có chuyến phi cơ đi xuống xứ Madras, tỉnh thành này cũng to lớn, dân số có đến hơn 6 triệu, phần nhiều là dân Tamil, có nhiều phong tục kỳ dị là hay ăn trong lá, đàn ông thì phần nhiều thì đeo bông, còn đàn bà thì xỏ mũi để đeo bông, đeo kiềng và hay xâm mình cho đẹp, mấy ngón cẳng hay đeo cà rá, phái đoàn phải chờ 5 ngày mới có chuyến phi cơ để đi Tích-Lan, còn rộng ngày giờ nên được đi viếng các nơi trong đô thị, nhứt là viếng trụ sở Trung Ương của hội Thông thiên học tại vườn Adya cách tỉnh thành Madras độ 20 cây số ở dọc theo mé biển, nên khí hậu mát mẻ và phong cảnh rất kì quan, ở đây phái đoàn được ông Hội Trưởng và Tổng Thơ Ký tiếp rước rất nồng hậu.
Đúng ngày 25-12-56, phái đoàn đều lên phi cơ để bay qua Tích Lan, phi cơ cất cánh lối 12 giờ trưa, mãi gần đến 4 giờ chiều mới đến phi trường Colombo, vì có đánh điện văn cho hay trước, nên Đ.Đ. Narada có cho hai người đem hai chiếc xe hơi ra tận phi trường để đón rước phái đoàn về chùa Vajirārāma cư ngụ, tôi và ông Công Minh thì được ở lại chùa, còn mấy bà thì được đưa đi ở nơi nhà của bà Salgado thiện tín của chùa ở gần đấy, tới đây ai nấy cũng đều mỏi mệt, nhưng cũng ráng đi chiêm bái các Phật tích trên xứ Tích Lan, rất may nhờ Đ.Đ. Narada cho hay, nên có Sư Hộ Giác đến chờ, vì Sư ở xa Colombo hơn 100 cây số ngàn, phái đoàn có mướn được một chiếc xe để đi chiêm bái trong 6 hôm các nơi Phật tích như là: Xứ Anuradhapura, chỗ con Vua A Dục đem cây bồ đề qua trồng đầu tiên hơn 2200 năm nay mà vẫn còn sống, kế viếng xứ Mahintale chỗ Đại đức Mahinda bay qua đầu tiên, đứng trên một trái núi hóa hào quang ra để độ Đức Vua Devanampatissa đặng truyền bá Phật Pháp trong toàn xứ Tích Lan, núi Sigiriya, chỗ một đền vua cất trên chót núi, xứ Polonaruwa cựu thủ đô của một vị vua hộ trì Phật Pháp, xứ Badula để viếng một ngôi chùa làm trong hang núi rất cực kỳ mỹ thuật, viếng Aloka Vihara chỗ Chư Thánh Tăng cu hội lại để Kết Tập Tam Tạng lần thứ tư, và chép kinh hữu tự ra trước hết trong lịch sử. Viếng xứ Kandy chỗ thờ răng nhọn của Đức Phật, viếng xứ Mahiyangamma chỗ Đức Phật bay qua lần đầu tiên, viếng xứ Haton để chiêm bái dấu chân Đức Phật đạp để trên chót núi Siripāda khi Ngài bay qua xứ Tích Lan lần thứ ba, còn rất nhiều chỗ Phật tích khác nữa, nhưng không có đủ thì giờ, vì còn phải ghi giấy để về Singapore nên phải trờ về Colombo, trong kỳ đi chiêm bái này rất vui vẻ và thú vị lắm, vì có Sư Hộ Giác và một nhà Sư Nhật cùng đi theo, riêng phần ông Công Minh không được hưởng chung hạnh phước này, vì ông than mỏi mệt và đau chân, phần thì gần hết tiền, lại than van ăn ka-ri hoài đứt ruột không chịu nổỉ, nên ông ở lại chùa để ăn cơm Tàu cho tiện.
Qua đến ngày 7-1-1957 mới có chuyến phi cơ bay qua Singapore của hãng hàng không B.O.A.C, riêng phần bà Diệp Xung người Tàu nên giấy tờ rất khó khăn lắm, không thể đi về bằng phi cơ được, nên bà phải về bằng tàu thủy đến Saigon một mình, mấy ngày sau thành ra phái đoàn buộc lòng phải từ giã bà để lên phi cơ về trước với tấm lòng ngùi ngùi vì bỏ bà ở lại đi tàu một mình.
Sáng ngày 7-1-1957 thì phái đoàn phải ra phi trường Talamana để lên phi cơ của hãng hàng không B.O.A.C của Anh, đúng 7 giờ 30 thì phi cơ cất cánh bay qua Ấn Độ Dương, mãi cho đến chiều 6 giờ 30 mới đến phi trường Singapore nhờ có gởi thơ cho hay trước nên có nhân viên Sứ quán V.N. tại Tân-Gia-Ba ra đón rước và lo giấy tờ giùm, xong lại được đưa về nhà khách sạn của hãng hàng không an nghỉ. Còn phần tôi thì được đưa về chùa Sirilanka do một nhà sư Tích Lan cai quản, nhà sư này cũng là bạn thân đã quen biết với tôi từ lâu nên khi gặp nhau thì hết sức vui mừng, vì đi qua Singapore chỉ lưu trú tạm nên không được ở lâu, nhưng rất may nhờ có Hội Phật giáo Thế giới Địa Phương hay tôi đến nên sáng ra đã đến thăm và sắp đặt một chiếc xe sẵn sàng để đưa phái đoàn đi viếng tỉnh thành Singapore và các chùa chiền trong xứ, châu thành này dân số lối 1 triệu rưỡi, phần đông toàn là người Huê kiều, chiếm hầu hết các phần thương mãi trong đô thị. Tại đây đồ hàng hóa rất rẻ vì không có đánh thuế nhập cảng, châu thành thì đóng theo dọc bờ biển nên rất mát mẻ, sạch sẽ và thẩm mỹ.
Sau khi đi chiêm bái khắp châu thành thì tôi được thỉnh về thọ trai tại chùa Sirilanka, thọ trai xong lại phải đưa ra phi trường liền cho kịp giờ lên phi cơ, đúng 12 giờ 30 thì phi cơ cất cánh, theo đường cũng không có chi lạ, khi phi cơ bay qua vừa khỏi biển đến đất liền thì còi báo hiệu phải thắt dây đai, vì phi cơ sắp đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất lối 3 giờ 30 chiều ngày 8-1-1957, khi lo giấy tờ xong đã có ông Nguyễn Văn Hiểu và bà ra trước đón rước, nên được đưa về chùa Kỳ Viên trong lúc 4 giờ. Tại chùa đã có chư thiện nam tín nữ chực sẵn đầy chùa để chào mừng phái đoàn trở về được bình an.
Tóm luận, kỳ Hội nghị này hết sức long trọng vì Chánh phủ Ấn xuất ra một số tiền rất nhiều, lối 75 triệu đồng rupies (600 triệu đồng bạc xứ ta) để sửa sang đường sá cầu kỳ, cất nhà trọ, đem đèn nước đến tận nơi, các xứ có Phật tích cho người đến chiêm bái dễ dàng, thuận tiện, và có mỹ ý để phục hưng lại nền Phật giáo trên đất Ấn. Tất cả phái đoàn lại được Chánh phủ Ấn Độ tặng cho mỗi vị một biểu hiệu bằng bạc của cuộc lễ, một cuốn album, một khuôn tháp bằng đồng đen kiến trúc nhái theo kiểu tháp Sanchi và rất nhiều sách để làm kỉ niệm.
Bài Phúc Trình Của Đại đức Nāga Thera Bửu Chơn Trưởng Phái Đoàn Phật giáo VN
Dự Lễ 2500 Năm Kỷ Nguyên Phật giáo Tại Phnompenh – Cao MiênTừ Ngày 11-5-1957 Đến 18-5-1957
Ngày 9-5-1957 có lệnh của phủ Tổng Thống phái tôi làm trưởng phái đoàn Phật giáo và Thượng Tọa Thích Trí Thủ phái viên cùng ông Trần Thành Hiệp làm thơ ký để dự lễ 2.500 kỷ nguyên Phật giáo tại Phnompenh Cao Miên.
Vì ông thầy tế độ tôi tịch nên tôi đã về Phnompenh trước mấy hôm. Tôi phải đến tòa đại diện Chánh phủ V.N.C.H. tại Phnompenh lãnh nhiệm vụ lệnh ngày 11-5-1957, còn Thượng Tọa Thích Trí Thủ vì lý do sức khỏe nên không đến dự được. Chánh phủ phái Đ.Đ. Hộ Giác thay thế, còn ông Trần Thành Hiệp thì cũng vắng mặt luôn thành ra phái đoàn V.N. chỉ có tôi và Sư Hộ Giác mà thôi.
Lúc 4 giờ chiều hôm ấy lại được thiệp của Đức Vua Cao Miên mời tất cả phái đoàn trên thế giới vào triều đình để Ngài chào mừng và yết kiến Ngài. Phái đoàn V.N. được sắp ngồi nơi hàng ghế danh dự trước mặt Đức Vua và Hoàng Hậu, Đức Vua bắt đầu chúc mừng cho tất cả các phái đoàn, đại khái Ngài nói rằng: Với danh nghĩa của Quốc Vương và luôn cho cả dân tộc Cao Miên, xin cầu chúc cho tất cả phái đoàn đều được dễ dàng trong mọi tiện nghi và yên vui trong khi lưu trú trên lãnh thổ của Ngài. Ngài nói bằng tiếng Cao Miên do thái tử Sihanouk thông dịch lại bằng tiếng Anh và Pháp, kế đó các phái đoàn đều được phép đáp lời lại để phúc chúc Ngài tùy theo phái đoàn nào muốn nói. Trước hết phái đoàn Úc châu chúc mừng cho Ngài xong thì phái đoàn V.N. do Đ.Đ. Bửu Chơn liên tiếp chúc hạ cho Đức Vua và Hoàng Hậu bằng tiếng Anh, đại khái nói rằng: Xin thay mặt cho Phật giáo V.N. và toàn thể Phật tử cầu cho Đức Vua và Hoàng Hậu và luôn cả dân tộc Cao Miên đều được yên vui khỏe mạnh để hộ trì Phật Pháp cho được tấn hóa lâu dài. Khi thái tử Sihanouk thông dịch xong thì Đức Vua đáp từ lại bằng tiếng Cao Miên, tôi liền trả lời lại bằng tiếng Cao Miên Sadhu, Đức Vua và Hoàng Hậu hết sức ngạc nhiên hỏi tôi biết tiếng Cao Miên sao? Tôi trả lời rằng tôi biết tiếng Cao Miên rành vì trước kia tôi có tùng sự với Chánh phủ bảo hộ Pháp hơn 10 năm tại Kim Biên. Đức Vua và Hoàng Hậu rất mừng rỡ và nói rằng chúng tôi không dè nước V.N. cũng có Phật giáo Nguyên Thủy như chúng tôi. Rồi Đức Vua xin thành tâm cầu chúc cho quí Ngài được khỏe mạnh vẹn toàn để truyền bá chánh giáo của Đức Thế Tôn trên lãnh thổ V.N. Kể từ đó về sau mỗi khi trò chuyện thì dùng tiếng Cao Miên theo Hoàng phái, khi các phái đoàn chúc hạ cho Đức Vua và Hoàng Hậu xong rồi giải tán.
Tất cả phái đoàn đều được đưa về một biệt thự mới cất tinh xảo để trú ngụ, riêng phần phái đoàn V.N. đều là các nhà Sư nên ở nơi ấy bất tiện vì phải chung chạ cả nam lẫn nữ, nên chúng tôi xin về ở chùa Mohamontrey cho thanh tịnh. Chánh phủ Cao Miên cũng ưng thuận và có cấp cho chúng tôi một chiếc xe hơi để tùy nghi sử dụng, cho một ông thiếu úy để hầu cận, một người hạ sĩ quan và một chiếc xe moto có còi để hộ tống chúng tôi trong khi đi dự lễ.
Sáng ngày 12-5-1957 là ngày khai mạc cuộc lễ phải cung nghinh Ngọc Xá Lỵ Đức Phật Tổ từ đền Vua đến an vị nơi chỗ hành lễ (trước nhà gare xe lửa). Trước hết Đức Vua Cao Miên lên diễn đàn đọc diễn văn khai mạc xong, thì kế Đức Vua Sãi cũng đọc một bài diễn từ ý nghĩa nói về cuộc lễ kỷ niệm 2500 kỷ nguyên Phật giáo vừa xong thì hết buổi sáng. Đến chiều thì có cuộc lễ xuất gia cho 2.500 vị Tỳ Khưu và những người thọ trì thập giới được lịnh mời đến nơi hành lễ để Đức Vua Sãi ban huấn từ dạy dỗ theo phận sự trong Phật giáo, xong thì tất cả những vị ấy được dâng những lễ vật của tín thí đem đến cúng dường. Đến tối thì có thuyết pháp, dưng cộ về sự tích của Đức Phật, đốt pháo bông và tiếp tục luôn những cuộc diễn hành khác để giúp vui trong cuộc lễ.
Sáng ngày thứ hai 13-5-1957 nhằm ngày rằm tháng Vesakha (tháng tư âm lịch) chính ngày lễ Tam hợp là Phật Đản Sanh, Thành Đạo và Nhập Niết-Bàn, nên cuộc lễ cử hành suốt ngày và đêm càng thêm long trọng hơn hôm trước vì người đến xem lễ có trên 400.000, nào những lá cờ bay phất phới trên các dinh thự phố xá, những tiếng còi xe lẫn với tiếng người và tiếng truyền thanh kêu la inh ỏi làm cho một quang cảnh hết sức tưng bừng náo nhiệt luôn như thế trong cả 7 ngày lễ.
Mỗi buổi sáng lối 9 giờ đều có cuộc lễ để bát cho 2.500 vị Tỳ Khưu do tín đồ các nơi đem đến cúng dường. Sáng hôm rằm có cuộc lễ truyền giới “bát quan trai” cho tất cả thiện nam tín nữ trên khắp lãnh thổ Cao Miên bằng đài phát thanh, xong đúng 8 giờ tất cả các phái đoàn trên thế giới có Đức Vua Cao Miên và Hoàng Hậu cùng tất cả những quần thần trong triều đình và nhân vật quan trọng trong Chánh phủ Cao Miên đều có mặt tại khán đài. Khán đài này chia làm hai bên, bên tả là người thế, bên hữu chư Tăng, ở chính giữa thì một cái đài thật cao tạm tôn trí Ngọc Xá Lỵ trong khi hành lễ.
Hôm ấy, thái tử Sihanouk kiêm Thủ tướng lên đọc diễn văn để khai lễ, xong thì lần lượt tất cả 15 phái đoàn đến dự đều được mời lên đài phát thanh để phát biểu ý kiến, vì sắp theo thứ tự của mẫu âm nên phái đoàn Australie Úc châu được lên phát biểu ý kiến trước nhứt, kế Miến Điện, Tích Lan, Tàu, Nhựt, Anh, Ấn Độ, Pháp, Lào, Mã Lai, Việt Nam miền Bắc, Việt Nam miền Nam, Thái Lan, Nga và Hoa Kỳ. Đại ý trong các bài diễn văn cũng không chi lạ hơn là cầu chúc cho cuộc lễ được thành tựu mỹ mãn và sẽ đem lại nhiều điều hạnh phúc cho Đức Vua và Hoàng Hậu luôn cả dân tộc Cao Miên cũng như tất cả nhân loại trên thế giới. Các phái đoàn thì phát biểu ý kiến bằng tiếng Anh, Pháp, hoặc tiếng bổn quốc của mình, duy có phái đoàn V.N. do Đ.Đ. Nāga Thera (Bửu Chơn) lãnh đạo lên đọc ba thứ tiếng là Việt, Cao Miên và Anh làm cho các phái đoàn hết sức hoan nghinh và chú ý, riêng về dân tộc Cao Miên thì lấy làm thỏa thích lắm, vì tôi nói tiếng họ một cách lưu loát và rõ rệt.
Chiều lại lối 4 giờ thì tất cả các đại diện của các Hội Phật giáo đều được mời lên đài phát thanh để phát biểu ý kiến, tôi liền phái Sư Hộ Giác thay mặt cho Phật giáo Nguyên Thủy V.N. lên phát biểu ý kiến bằng hai thứ tiếng Miên và Việt, sau cùng bài diễn văn có tuyên bố cúng vào cuộc lễ 25.000$ do tín đồ chùa Kỳ Viên Saigon, tín đồ việt kiều Phnompenh góp sức, nên rất được công chúng hoan nghinh nhiệt liệt. Tối hôm ấy, cuộc lễ tiến hành luôn cho đến sáng, nào tụng kinh đọc kệ thuyết Pháp đúng 5 giờ sáng thì đốt pháo bông tượng trưng hình ảnh Đức Phật hóa hào quang ra sáu màu ở trên hư không để làm tiêu biểu khi Đức Phật thành đạo trong lúc rạng đông.
Sáng ngày 14-5-1957 sau khi điểm tâm xong thì tất cả các phái đoàn trên 40 người được Chánh phủ Cao Miên sắp đặt đưa đi viếng Đế Thiên Đế Thích ở Siêm-Réap bằng hai chiếc phi cơ, lối 10 giờ thì phi cơ đến phi trường Siêm-Réap, tại nơi đây đã có ban Tổ chức địa phương chực hờ sẵn để rước phái đoàn về cư trú nơi Grand Hotel, còn các nhà Sư thì được đưa đi cư ngụ riêng nơi một biệt thự, trong hai ngày ban Tổ chức đưa đi xem các kỳ quan thắng cảnh. Các phái đoàn chưa từng đến Angkor Wat thì đều tấm tắc khen ngợi cho là một kỳ quan vĩ đại, còn riêng phần tôi thì đền Angkor không lấy gì làm lạ vì tôi đã có viếng nhiều lần…
Sau hai ngày đi du lịch nơi đền Angkor đến sáng ngày 16-5-1957, lối 9 giờ thì tất cả các phái đoàn được đưa lên phi cơ để trở về Phnompenh. Tối hôm ấy có lịnh của Đức Vua cho mời các vị trưởng phái đoàn vào cung để dự yến, theo lẽ thì tôi không nên đi vì buổi chiều không có ăn uống chi được, nhưng vì nhân danh cho một phái đoàn, buộc lòng tôi phải vào cung cho có mặt vì không có ai thay thế, nên tôi phải thân hành đến nơi để cầu chúc cho Đức Vua và Hoàng Hậu được quý thể an khương và để hộ trì Phật pháp cho được tấn hóa lâu dài. Khi tôi vào đến nơi thì Đức Vua và Hoàng Hậu đều đứng dậy chấp tay vái chào rất cung kính và mời ngồi nơi ghế của Thủ Tướng bên cạnh Ngài để hàn huyên chuyện vãn. Ngài hỏi thăm việc truyền bá Phật giáo trên đất nước V.N., sau cùng Ngài nhân danh Chánh phủ Cao Miên và cho tất cả dân tộc Ngài để cầu chúc cho tôi và cả dân tộc V.N. đều được luôn luôn khỏe mạnh để thực hành theo giáo pháp của Đức Thế Tôn cho được mau đến nơi giải thoát. Sau khi dùng nước giải lao xong thì tôi đứng dậy kiếu từ Ngài và Hoàng Hậu để trở về chùa.
Hôm sau, 17-5-1957 lối 8 giờ sáng thì các phái đoàn đều được mời đến dự lễ Vua cày ruộng, khi cuộc lễ khởi hành thì có một vị quan và một cung phi thay thế cho Đức Vua và Hoàng Hậu ra cầm cày đi ba vòng. Cuộc lễ này có ba cặp bò trang sức rất uy nghiêm. Vua cầm cày đi trước, theo sau là Hoàng Hậu hốt lúa rải theo trong ba vòng mới thả bò ra cho ăn đồ để trong bảy cái mâm là: cỏ, lúa, bắp, đậu, mè, nước và rượu. Chỉ có hai con bò được thả cho ăn, nhưng con nào ăn trước món nào, thì tùy theo đó mà bàn theo cổ truyền của Bà-la-môn, nếu con bò ăn cỏ thì trong năm ấy súc vật có nhiều bịnh dịch, như ăn lúa thì lúa trúng mùa, ăn bắp, đậu mè thì các món ấy được dồi dào, còn như uống nước thì sẽ có mưa nhiều và bị nước lụt, còn như uống rượu thì trong nước sẽ có nổi loạn, hoặc bị trộm cướp. Nhưng năm thì bò ăn đậu và bắp mà thôi, nên ai nấy cũng bàn năm nay hai thứ ấy sẽ trúng mùa nhiều hơn hết. Khi đúng 11 giờ là xong cuộc lễ “Cày Ruộng”. Chiều lại thì dự lễ phóng xả tội nhân, đến tối lúc 8 giờ lại phải vào dinh Thủ Tướng để dự bữa tiệc của Ngài thết đãi để tiễn hành các phái đoàn. Tôi không ăn uống chi nhưng cũng phải vào dinh Ngài. Khi tôi và Sư Hộ Giác đến thì Thủ tướng Sihanouk đứng dậy chấp tay vái chào chúng tôi và thỉnh chúng tôi ngồi vào chỗ Ngài ngự, còn Ngài thì ngồi ghế gần bên cạnh để hầu chuyện. Vì Ngài đã có xuất gia nên rất cung kính chư Tăng, Ngài rất vui vẻ ân cần hỏi thăm điều nọ lẽ kia, vì chúng tôi nói toàn là tiếng Cao Miên (theo tiếng cả nhà vua) nên Ngài thích lắm. Sau khi chúng tôi độ nước giải lao xong, đứng dậy nhân danh cho V.N. cầu cho Ngài và cho nước Cao Miên được thái bình thạnh trị. Ngài nhân danh cho Chánh phủ và dân tộc Cao Miên ngỏ lời cám ơn Chánh phủ V.N. đã phái quí Ngài đến dự lễ và cũng cầu chúc cho chúng tôi được đầy đủ sức khỏe để truyền bá chánh giáo của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Sáng ngày 18-5-1957, lối 8 giờ thì phải đến dự lễ Đức Vua an vị Ngọc Xá Lị vĩnh viễn trên một bảo tháp đã cất xong gần trước nhà gare Phnompenh. Chiều lại dự lễ thuyết pháp Kết Tập Tam Tạng, xong thì Thái Tử Sihanouk lên đài phát thanh đọc diễn văn để bế mạc cuộc lễ vào lối 5 giờ. Đồng thời có còi báo hiệu và bắn luôn 25 tiếng súng đồng để công bố lên cho quần chúng biết cuộc lễ đã bế mạc.
Tóm luận, trong cuộc lễ kỉ niệm 2.500 năm Phật giáo tại Cao Miên hết sức long trọng không thể nào mô tả cho hết được. Những chi tiết về phái đoàn V.N. đã thâu thập được nhiều kết quả vẻ vang, như hôm ngày khai mạc, được Đức Vua Sãi tuyển lựa bốn vị cao Tăng để biếu lễ vật là một pho tượng Phật đá cẩm thạch và một bộ tam y, trong ấy nước V.N. cũng được lãnh một phần danh dự và hôm ngày bế mạc cũng được tặng cho một pho tượng bằng bạc, hơn nữa rất được Đức Vua và các quan triều thần kính nể, nhứt là gây nhiều cảm tình thân mật giữa hai quốc gia Miên-Việt.
Sau khi bế mạc còn có ít phận sự phải lo xong cho nên mãi đến ngày 21-5-1957, mới đáp phi cơ của hãng hàng không Việt Nam về xứ.
Dự Hội Nghị Quốc Tế Về Lịch Sử Tôn Giáo Lần Thứ IX Tại Tokyo Ngày 27-8-1958 Đến 9-9-1958
Ngày 19-7-1958, chúng tôi được lịnh bộ Ngoại Giao Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa cho phép sang Đông Kinh (Nhựt Bổn) để dự Hội nghị Quốc Tế về lịch sử Tôn Giáo lần thứ IX, cùng đi theo có ông Ngô Ngọc Cửu làm thơ ký.
Sau khi lo những giấy tờ thường lệ xong, đến ngày 9-8-1958 chúng tôi xuống tàu Cambodge của hãng hàng hải Messageries Maritimes Saigon lối 4 giờ chiều, có chư Đại đức trong ban Chưởng Quản GHTGNTVN và một số thiện nam tín nữ rất đông đến tiễn đưa chúng tôi xuống tàu. Nhưng mãi 8 giờ sáng hôm sau tàu mới nhổ neo, đúng giờ tàu từ từ rời bến, tôi đứng trên boong tàu trông xuống không thấy một người quen nào, cảnh bến tàu cũng không náo nhiệt như buổi chiều hôm qua, ngoài những nhân viên của hãng hàng hải Messageries Maritimes và các công chức của sở Thương Khẩu thì bến tàu vắng hoe. Tôi vẫn đứng xem phong cảnh nước nhà dọc theo những khúc quanh quẹo con sông Saigon, lối 11 giờ trưa thì tàu ra đến Vũng Tàu, chiếc tàu Cambodge vẫn vô tình lướt sóng trực chỉ thẳng Hải Cảng Manila (Phi-Luật-Tân), bây giờ tàu lần lần ra bể khơi và không còn thấy tâm dạng chi của bờ bến cả, giữa một vùng nước xanh rì mịt mù khơi trong cõi xa xăm, dưới một bầu trời quang đãng.
Ngoài tôi và ông Cửu ra, không có một hành khách Việt Nam nào, toàn là những du khách ngoại bang, chuyến này tàu chở lối 600 hành khách, mãi đang ngắm cảnh thình lình có còi báo hiệu cho biết đã đến giờ ăn (11 giờ 15) tôi và ông Cửu xuống phòng ăn, xong về phòng an nghỉ, trong phòng có đủ các tiện nghi nào điện thoại, máy lạnh, máy nóng, phòng tắm, phòng rửa mặt v.v… Theo lệ, 4 giờ chiều thì hãng tàu cho hành khách uống trà, đồng thời hôm ấy còi báo hiệu cho biết tất cả hành khách đều phải mang “phao hộ thân” theo (Sauvetàge) lên trên boong tàu của mỗi hạng để cho vị thuyền trưởng tập dượt và điều khiển vì hôm ấy có hơi sóng gió. Trong lúc tàu chạy, ngoài ra trời, nước, sóng, gió và tiếng ì ầm của động cơ thì cũng không có chi lạ, tôi nhân dịp ấy ráng làm xong hai bài diễn từ để đọc trong khi Hội nghị, xong việc trong lúc nhàn rỗi, tôi vì tánh xã giao mới làm quen với ông Saddier đại úy làm bác sĩ cho hãng tàu Messageries Maritimes, vì ông hay đi tới đi lui trên boong để xem hành khách có bịnh hoạn chi, nhân tiện để hỏi thăm về sự hoạt động của chiếc tàu Cambodge.
Ông thuật lại với tôi tàu này có đến 188 người làm công từ quan tàu cho đến thủy thủ, tổn phí lối một triệu đồng quan mỗi ngày, bề dài 168 thước, bề ngang 18 thước, bề sâu từ mặt nước lên đến chót cột buồm 32 thước, từ mặt nước trở xuống 7 thước 25, cả thảy lối 40 thước, có 7 từng từ A đến G, ở dưới đáy chở hàng hóa, từng ba A thì chở hành khách, hạng tư và hạng ba, từng B phòng ăn hạng nhứt và hạng nhì, phòng nấu ăn và phòng giải trí, giải lao cho hạng di lịch từng C thuộc về hạng du lịch, hạng nhì, phòng nhân viên cao cấp như cò tàu, bác sĩ v.v… và cũng có ít phòng cho hạng nhứt. Từng D toàn là phòng hạng nhứt, từng E phòng đọc sách, khiêu vũ, phòng viết thư, phòng giải khát, sân đánh Ping-pong, thảy banh tròn và hồ tắm của hạng nhứt, từng F có phòng vô tuyến điện, phòng nhân viên coi lái tàu và phòng giải trí trẻ con, từng G những máy móc để chỉ huy tàu chạy hoặc khi cập bến, máy Radas để coi chừng đá ngầm dưới nước, hoặc tàu bè phía trước trong lúc sa mù, ống viễn thị và những hiệu lệnh của hoa tiêu, tốc độ trung bình khoảng 40 cây số 1 giờ.
Ngoài ra, khi ông rảnh còn hỏi thăm về giáo lý của Bắc Tông và Nam Tông, vì ngoài giờ nghỉ trưa ra tôi lên phòng đọc sách cho khỏi chóng mặt và tiêu khiển thì giờ nên ông thường hay đến bàn luận về triết lý, có khi ông thỉnh tôi về phòng ông để giải lao, ngoài ra còn có hai ông bà René Sutra, bác sĩ khoa học và vật lý học ở tại Paris cùng đi một chuyến tàu, hai ông bà không theo đạo nào cả, nhiều khi thấy tôi ngồi yên lặng trên boong tàu nhìn ra biển khơi, ông bà lại gần xin lỗi hỏi thăm, sau khi được biết tôi đi dự Hội nghị Tôn Giáo Thế giới nên từ đó ông bà luôn luôn hay lại hỏi thăm về đạo lý của Phật giáo, vì ông bà đã có từng đi du lịch các nước Phật giáo Nam Tông. Ông bà nói chúng tôi không theo đạo nào, nhưng chúng tôi khảo cứu các nguồn tôn giáo, riêng chúng tôi thích nhất chủ nghĩa Phật giáo vì có tánh ôn hòa, từ bi, bác ái và rộng lượng khoan hồng hơn các tôn giáo khác. Màn đàm luận cho tiêu khiển thì giờ, mãi cho đến ngày 12-8-1958 lúc hơn 10 giờ sáng thì tàu mới cập bến Hải cảng Manila (Phi-Luật-Tân), mọi người đều được phép lên bờ giải trí, chỉ có tôi và ông Cửu không được phép lên bờ, vì trong Passe-Port không có để cho vào xứ ấy, tuy nhiên tôi cũng không chịu thua họ, tôi bèn gọi điện thoại cho Sứ quán V.N. tại Manila đến lãnh giùm, nhờ sự can thiệp của Sứ quán mà trong nửa giờ sau có xe của Sứ quán đến rước chúng tôi lên bờ đến viếng thăm Sứ quán, sau câu chuyện hàn huyên Sứ quán có đưa xe cho chúng tôi đi viếng thủ đô Manila gần 3 tiếng đồng hồ mới đưa chúng tôi xuống tàu, vì tàu sắp nhổ neo trong lúc 7 giờ tối. Nhưng còn nhiều việc trễ nãi, nên mãi đến 10 giờ đêm tàu mới nhổ neo trực chỉ thẳng đến Hông Kông, tàu chạy hơn 2 ngày 2 đêm mới đến hải cảng Hồng Kông vào lúc 9 giờ sáng ngày 14-8-1958. Hải cảng này rất dễ mỗi hành khách đi thông qua đều được phép lên bờ để viếng cảnh nên chúng tôi không có làm rộn đến Sứ quán chỉ có gọi điện thoại cho hay vậy thôi, vì tàu cập bến không lâu nên không có đến viếng Sứ quán chỉ lên bờ để viếng cảnh và xả hơi, vì mấy ngày ở dưới tàu cũng có hơi chóng mặt, ở đây phần nhiều đều nói tiếng Anh và tiếng Quảng Đông, nhà cửa rất nguy nga, đồ sộ có đến 16, 17 từng nhưng vuông dài như cái hộp quẹt, đồ hàng hóa rất rẻ vì là một hải cảng tự do không có đánh thuế thương khẩu. Nên ngành thương mãi rất phồn thịnh, trên bờ thì có nhiều loại xe chuyên chở hành khách nhứt là xe ô-tô buýt 2 từng, dưới sông thì tàu bè đậu dài theo hải cảng như xuồng đi chợ tết chen lại dày đặc, hai bên thì đều là hòn đảo nên phi trường phải làm khơi ra ngoài biển, phong cảnh trông rất ngoạn mục.
Đến 7 giờ tối hôm ấy, thì tàu rời bến trực chỉ thẳng đến xứ mặt trời, lối 5 giờ chiều ngày 15-8-1958, tàu chạy ngang đảo Đài Loan (Formose) trông thấy một hòn đảo đồ sộ xanh rì ở giữa bể khơi, chung quanh bao bọc những sương mù dường như che đậy không muốn cho ai khám phá những sự bí mật của đảo ấy, tàu Cambodge vẫn ầm ầm lướt sóng cũng không để ý gì đến đảo Đài Loan.
Mãi đến 3 giờ chiều ngày 17-8-1958, tàu mới cập bến hải cảng Kobé là một hải cảng to lớn thứ nhì xứ Nhật Bản, đến đây những hành khách du lịch phần nhiều đều lên bờ, tàu đậu ở đây hơn một ngày một đêm nên chúng tôi lên bờ viếng vài ngôi chùa, mãi đến 10 giờ đêm ngày 18-8-1958 tàu mới rời hải cảng Kobé thẳng đến hải cảng Yokohama đến 3 giờ chiều ngày 19-8-1958 tàu mới đến Yokohama. Hải cảng này to lớn nhứt trong xứ Nhật Bản, tàu bè đậu dọc theo hải cảng như xuồng đi chợ tết ở xứ ta. Hổm rày cỡi thuyền quá hải chinh đông vẫn được sóng lặng, bể êm, nhưng khi tàu gần cặp bến thì liền phát dông to gió lớn, vì vậy mà tàu phải khó khăn lắm mới cặp bến xong thì đã 4 giờ chiều. Tôi ở trên boong tàu trông xuống coi có ai quen không, nhưng không thể phân biệt là ai được toàn là một làn sóng người Nhật vô số vẫy tay, giở nón ra hiệu chào người mình muốn đón rước, tôi thấy một nhóm người có hai nhà Sư Nhật cứ vẫy tay ngay tôi, tôi phỏng đoán có lẽ họ đến rước mình chăng? Nhưng sự đoán của tôi không sai, sau tàu cập bến và trình những giấy tờ thường lệ, xong chúng tôi kêu được người khuân hành lý lên bờ thì có 2 nhà Sư và 2 người thế đến vái chào và tiếp rước chúng tôi và cho biết rằng Hội đồng ban Tổ chức Khoa học có phái ông Phó Thơ ký ra đón rước chúng tôi về nhà trọ Ymca gần chỗ Hội nghị Sankeikaikan đi bộ lối 10 phút, nhà trọ này chỉ dành riêng cho người nam mà thôi, người nữ không được phép trú ngụ, có nhà trọ khác chỉ tiếp rước riêng biệt người nữ, nhà trọ này cả thảy 8 từng, trên 6 từng và dưới đất 2 từng có đến gần 700 phòng.
Đô thị Tokyo thật to lớn, dân số gần 9 triệu, chiều dài đến 60 cây số ngàn, bề rộng lối 40 cây số ngàn, đường phần nhiều không tên, nhà không số, chỉ có tên từ khu, khóm vậy thôi, phần nhiều mỗi nhà đều có máy radio và vô tuyến truyền hình còn điện thoại thì dày đặc chỗ nào cũng có, nhưng lạ một điều là không khi nào nghe tiếng ồn ào của radio như ở xứ ta. Khi họ cần họ chỉ mở vừa cho trong nhà nghe thôi ngoài đường thật sạch sẽ không thấy ai buôn gánh bán bưng, hoặc ăn uống ngoài đường như xứ ta, hoặc cãi cọ ồn ào, cũng không thấy những người hành khất đi xin ăn hoặc trẻ con chạy giỡn chơi la ó ngoài đường, mỗi người hình như đều lo phận sự riêng của mình, vẫn yên lặng mà đi, mua bán thì có giá để sẵn khỏi cần phải trả giá. Về sự chuyên chở đi lại thì rất rẻ và dễ dàng: như xe điển, xe taxi, xe autobus, xe điển chạy trên nóc nhà, xe chạy ở dưới hầm ngầm ở dưới đất, có luôn cả nhà hàng buôn bán ở dưới hầm ấy nữa, không có xe cyclo, xe gắn máy và xe đạp rất ít, thành phố to lớn như thế nhưng ít thấy có người tàn phế đi xin ăn ngoài đường, một điều lạ là không thấy người phụ nữ nào có thai đi ngoài đường bao giờ. Bổn tánh người Nhật ưa thích chưng bông vì vậy mà có lối 300 trường dạy học cách chưng bông khắp trong các tỉnh lỵ xứ Nhật, mỗi khi ra trường thi đậu thì có thể làm Giáo sư hoặc làm việc coi về cách chưng bông cho các hãng to hay công sở. Tại Tokyo có hơn 50 đại học đường còn ở Kyoto thì có lối 40 đại học đường dạy đủ các ngành kỹ nghệ, văn hóa và chuyên nghiệp, mỗi người Nhật, nam hoặc nữ cũng phải học ít lắm tới trung học vì vậy mà xứ Nhật ít có người mù chữ.
Về tôn giáo thì có nhiều phe phái khác nhau như Khổng giáo, Lão giáo, Công giáo, Phật giáo và Võ Sĩ đạo (Shintoism), đạo này thờ những tấm kiếng tròn vo như mặt trời tượng trưng cho các vị thần phò hộ trong nước cho được thái bình, họ cho rằng các vị thần này lúc còn sống thì phò vua giúp nước, khi thác thì thành thần, vì vậy mà họ rất trọng và thường đến cúng vái các đền thờ này rất tấp nập. Mỗi khi họ đến chiêm ngưỡng họ thảy vào thùng ít đồng bạc, kéo chuông nghe rôn rổn vỗ tay hai lần xong cúi mình lui ra. Còn về Phật giáo thì chia làm nhiều phái như: phái Thiên Thai, phái Shingon (Mật Tông), phái Jodo (Di Đà), phái Nichiren (trì tụng Diệu Pháp Liên Hoa kinh sẽ thành Chánh giác), phái Thiền Tông (Zen Buddhism) phái này chuyên môn về thiền định để giải thoát, vì vậy mà phái này hiện còn đương thạnh hành lắm, có nhiều chùa chiền thật to lớn, địa thế chiếm gần bằng một châu thành nhỏ, có chỗ thanh tịnh để cho nhà Sư và thiện tín riêng biệt để tham thiền, hôm ấy có các phái đoàn Thế giới đến viếng, họ lấy cây đập thử mấy người đang tham thiền nghe chan chát cho mình xem. Trong các phái to lớn này còn có rất nhiều phái nhỏ khác nữa không thể kể hết được.
Chương trình và thể thức hội nghị
Chiều ngày 27-8-1958, tất cả các đại diện trên thế giới cả thảy 32 nước đều đến trình diện lãnh hồ sơ và chương trình nghị sự. Tôi nhận thấy các nước ấy là: Úc châu, Áo, Bỉ, Canada, Miến Điện, Tích Lan, Pháp, Đức, Anh, Ấn Độ, Ý Đại Lợi, Thái Lan, Việt Nam, Do Thái, Afghanistan, Bồ Đào Nha, Hy Lạp, Hoà Lan, Thụy sĩ, Norway, Nam Dương quần đảo, Tân-Gia-Ba, Hồng Kông, Triều tiên và Mỹ quốc, Nhật v.v…
Sáng ngày 28-8-1958, lối 9 giờ thì Hội nghị khai mạc, bắt đầu bằng một bản âm nhạc du dương, hóa dịu của tiếng đờn tranh do các phụ nữ Nhật chuyên môn biểu diễn, sau một hồi nhạc thăng trầm, xướng ngôn viên lần lượt xướng danh từ người để lên đọc diễn văn khai mạc. Hôm ấy có ông bà hoàng Mikasa em Đức Vua Thiên Hoàng làm Chủ Tọa danh dự.
Hội nghị chia ra làm 3 phần. Phần thứ nhứt chia ra 4 nhóm: nhóm A) Bàn về sự khởi thủy các tôn giáo; nhóm B) Bàn về cổ giáo; nhóm C) Bàn về sự hoạt động các tôn giáo hiện tại; nhóm D) Bàn về các vấn đề tổng quát. Phần thứ nhì, chia ra làm 2 nhóm: A) Hội họp chung tất cả các đại diện trên thế giới để bàn luận chung trong 5 phiên; B) Chia ra làm 12 vấn đề Hội nghị bàn tròn trong 3 ngày, mỗi ngày 4 vấn đề, hội viên tùy thích vấn đề nào thì vào bàn luận với phe ấy. Phần thứ ba, đi châu du các xứ như là: Nikko, Kamakura, Ise, Tenri, Nara, Tokyo và Kyoto để khảo cứu các chùa chiền về văn hóa, kỹ thuật và cổ tích.
Kỳ Hội nghị này là lần đầu tiên ở xứ Á châu, vì các kỳ trước kia đều toàn là họp ở Âu châu cả. Tuy nhiên, cuộc Hội nghị đem lại nhiều kết quả tốt đẹp là được hiểu biết lẫn nhau về tôn chỉ và giáo lý của các tôn giáo khác nhau. Sự tổ chức hết sức chu đáo như trong lúc Hội nghị bàn luận đều có tốc ký viên ghi chép, thu thanh, quay phim, nhiếp ảnh, phát thanh và vô tuyến truyền hình, mọi việc đều sẵn sàng, êm đềm hòa thuận trật tự, do nhờ sự sắp đặt khéo léo của ban Tổ chức.
Hội nghị đề xướng rằng nên khuyến khích, học hỏi, nghiên cứu về lịch sử các tôn giáo Âu châu và Á châu cho hiểu biết lẫn nhau, để đánh tan sự hiểu lầm giữa người Âu và Á cho rằng: quan ni��m của sự văn minh Âu châu đối với các tôn giáo hoàn toàn là vô hiệu quả. Về mặt các tôn giáo không nên giải thích và cho rằng một giáo lý hoặc một quan niệm riêng biệt của mỗi phe mỗi phái, hoặc dùng quyền lực đàn áp sự tín ngưỡng của người khác, nhưng trái lại nên cho rằng là một việc làm cho được phát triển nền đại học văn hóa của thế giới, là một đặc tính của sự tư tưởng làm cho sinh hoạt và giá trị của mỗi cá nhân và nhân loại mà thôi.
Một giải pháp về các tôn giáo, là nên thân cận và trao đổi ý kiến tốt đẹp giữa Âu-Á không về mặt chủ nghĩa giáo lý, nhưng với mục đích là khởi xướng sự hiểu biết lẫn nhau về các tôn giáo dưới hình thức văn hóa, theo sự nhu cầu của khoa học hiện đại.
Hội IAHR (The International Association for the History of Religions) khuyên tất cả các đại diện trên thế giới nên thành lập một ban IAHR địa phương, ban này khi thành lập xong nên gửi tên ngay cho tổng hội IAHR thì sẽ được tham dự làm hội viên. Các nước sau đây đã hứa sẽ lập một ban IAHR địa phương như: Ấn Độ, Nhật Bản, Ả Rập, Miến Điện, Pakistan, Triều Tiên và có thể vào để đảm nhiệm chức vụ trong Tổng Ban Chấp Hành của IAHR, nếu được đại hội đề cử và chấp thuận. Năm 1960 hội IAHR sẽ họp tại Marburg (Đức quốc) và có lẽ năm 1963 sẽ họp tại New-Delhi (Ấn Độ) nếu xứ này thành lập xong ban quản trị địa phương.
Sau khi khai mạc đến ngày thứ nhì, tới phiên phái đoàn Việt Nam do Đại đức Nāga Thera Bửu Chơn hướng dẫn lên đọc diễn từ nói về lịch sử Phật giáo xứ Việt Nam và một bài nói về quan niệm của Phật giáo, sau khi thuyết trình xong vị Chủ Tọa có hỏi thính giả 3 lần ai có muốn hỏi chi không, nhưng họ vẫn yên lặng vì lí lẽ trong diễn từ rõ và hợp lý nên không ai bác bẻ chi cả.
Nguyên văn bài diễn từ bằng tiếng Anh như vầy:
THE TEACHINGS OF THE BUDDHA BY NĀGA THERA (BỦU CHƠN)
In the name of Việt Nam Theravada Sangha Order, I congratulate all Brothers and Sisters coming from any continent of the world to attend this useful Symposium.
I have the honour and opportunity to speak a few world in this solemn Symposium which is very interesting to all Nations.
Whether all Religions in the world are different forms but the aims are almost similar. The Islamism has the thought of “Peace” and they adore the St.Josaphat which name is derived from Buddhist Bodhisatta. The Hinduism has the aim of “Ahimsà-Harmlessness” then they consider Buddha as their Vishnu avatāra-incarnation of Vishnu. The Protestant has the ideal of “Neighbourliness”. Rationalism considers Buddha as a Greatest Thinker. The Confusius taught: The viser has to make like a non-intelligent one, the powerful man considers himself as a weak one, the richman does not forget when he was poor. As for Buddhism is “Mettā-loving kindness”. Therefore all Religions have the similar aims e.g. friendliness, harmlessness, neighbourliness, helpfulness and loving kindness. In Pāli, the language of Buddhist ures, Mettā is known under the name of “Brahma vihāra”, this term may be rendered by: excellent lofty or sublime state of mind, or alternatively, by Brahma-like or divine Abode.
It is said to be excellent or sudlime, because it is the right, or ideal, way of conduct towards all living beings. This attitude of mind provides in fact the answer to all situations arising from social contact. It is the great remover of tension, the great peace-maker in social conflict the great healer of wounds suffered in the struggle of existence, leveller of social barriers, builder of harmonious communities, awakener, of slumbering magnanimity long forgotten reviver of joy and hope long abandoned, promoter of human brotherhood against the forces of egotism. It is incompatible with a hateful state of mind, and in that is akin to Brahma who is conceived as the hateless one, inbeneficial contrast to many other conceptions of deities, in East and West, who by their own devolees, are said to show anger, wrath, jealousy and “righteous indignations”.
He who assiduously develops this Subline state, by conduct and meditation, is said to become an equal of Brahma and if one becomes the dominant influence in his mind, he will be reborn in congenial worlds, the Realms of Brahma. Therefore this state of mind is called God-like, Brahma-like. It is called Adobe, because it should become mind’s constact dwelling place where our mind feel “at home”, it should not remain merely place of rare and short visit, soon foggotten. In the other words, our mind should become thoroughly saturated by it. Mettā should become the inseparable companion of our days, and we should be mindful of it in all our common activities as far as it has any concern with this mental attitude. As in the Mettā sutta quotes: When standing, walking, sitting, lying down; whenever he feels free of tiredness; let him establish well mindfulness; this, it is said, is the Divine Adobe.
The Doctrine of the Lord Buddha is not noly Mettā loving-kindness but there are many other ways for practising. In the Tripitaka-Three Baskets, we have 84.000 of Dhamma. But the Buddha summarizes them in one Pāli stanza thus: Sabba pāpassa akaranaṃ. Kusallass’ upasampadā. Sacitta pariyoda panaṃ. Etaṃ Buddhāna sāsanaṃ. That is to avoid all bad actions to flourish all merits, to purify one heart, that are the teachings of all Buddhas.
Moreover, the foundations of Buddhism is based on Law of Cause and Effect and the Four Noble Truths. A pure Buddhist should not believe or implore to the other Powerful Gods or any Supernatural Being or even the Buddha who might give us the happiness or painfulness, pure or impure but one has to recourse to oneself, as the Buddha said: Attāhi attāno nātho, kohi nātho paro siyā- e.g. One should have to recourse oneself, not by the other’s protection. The same way, in the Catholic Bible says: As thou sowest, so thou shalt reap.
The teachings of the Buddha calls Buddhism, it is Western term The Buddha Wasa Man, Buddhist should not regarding Him as a God, do not pray to him “Dependence on the others for Salvation is negative, dependence on oneself is positive”. To depend on another is to shelve making the effort, and to lose one’s independence.
Buddha is not a name, but an appellation, meaning Englishtened One. Former Buddhas have existed in the past ages, and other Buddhas are expected in the future, the present Buddha is Gautama or Sakyamumi. All Buddhas teach the same Doctrine. Among us whether we are Buddhist or not, we should learn and practice the “Science of Life” that is we must control ourselves the deed, speech and thought, do not let them discard the wholesome volition or the other words we should follow the “Noble Eighfold Path with embodies eight principles or rules of conducts, then one can improve the happiness in this very life as well as in the future’s. The Lord Buddha had foresighted that, in the future, His disciples would mistake Him as a Redeemer of the world or a Powerful God, then they engage only in the ritual ceremony of worshiping, and they do not set forth to practising the Dhamma, in other to escape all sufferings. So He recommended to His disciples as the following Pali stanza: Tumhehi kiccaṃ ātappaṃ – Akkhātara Tathāgatā. // Patipañño pamokkhanti – Jhāyino māra bandhnā. That is, you have to practice diligently the Dhamma, all Buddhas are only showing the way, if you follow the Path that I had shown, then you will escape the ties of the Māra or difilements, so you safety reach the stage of Salvation.
All these arguments testify that Buddhism is absolute and rationalist Doctrine which is not grasping on Atheism, Heresy or others power in order to get Deliverance. I am sure that, if the moderm world tries to understand and usefulness of Buddhism which teaches the mankind to be non-violent but compassionate, then the whole world would be peaceful. Finally, I hope that this significant Symposium will bring happiness and cordiality to all Nations.
Bản dịch:
Bài diễn từ của Đại đức Bửu Chơn – Nāga Thera trong kỳ Hội Nghị Lịch Sử Tôn giáo Thế giới lần thứ chín tại Đông Kinh.
GIÁO LÝ CỦA ĐỨC PHẬT
Nhơn danh cho Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam, tôi xin chúc mừng tất cả các huynh đệ nam, nữ trên khắp Thế giới đến dự Hội nghị Triết học hữu ích này.
Tôi lấy làm may mắn và danh dự được phát biểu ít lời trong kỳ Hội nghị Triết học long trọng này, nó rất hữu ích cho tất cả quốc gia.
Mặc dù tất cả Tôn giáo có hình thức khác nhau nhưng tôn chỉ gần giống nhau như: Hồi giáo có quan niệm “hòa bình” và họ tôn sùng vị thánh Josephat mà danh từ này tương đồng từ nguồn gốc “Bồ đề tát đỏa” của Phật giáo, Ấn giáo có tôn chỉ là “vô hại” họ cho Đức Phật như là một hiện thân của vị thần Vishnu của họ. Tin lành giáo có quan niệm là “tương thân” hay tương trợ lẫn nhau. Hợp lý giáo hay Thuần lý giáo thì cho Đức Phật là một bậc “đại tư tưởng”, Khổng giáo thì dạy rằng: Người trí thức nên làm như người ngu muội, người có quyền thế nên tự cho mình như kẻ yếu hèn, người giàu sang không nên quên mình trong lúc hàn vi. Còn về Phật giáo thì có bản chất “từ bi, bác ái”, vì vậy mà tất cả các tôn giáo đều có tôn chỉ tương đồng là: tình huynh đệ, không hãm hại nhau, tương thân tương trợ và từ bi bác ái.
Pāli là thứ tiếng dùng trong Kinh nhà Phật, thì tiếng Metta – Bác ái còn gọi là Brahma Vihāra = Phạm hạnh, danh từ này còn có nghĩa là: vô lượng cao quí hay là trạng thái cao thượng của tinh thần hay nói một cách khác là sự ưa mến của các bực phạm hạnh hay là “nơi mà tâm các vị Thần tiên cư trú”.
Sở dĩ nói là vô lượng cao quí là vì có quan niệm hành động chân chánh đối với tất cả chúng sanh, vì trạng thái của tâm bác ái để đối phó lại hay là trả lời cho tất cả trường hợp xảy ra trong sự trực tiếp với xã hội. Chính tâm ấy rất quan trọng trong sự dứt bỏ tình trạng căng thẳng giữa đôi bên. Nó làm cho xã hội xung đột nhau được hòa bình, nó làm cho lành mạnh những vết thương đau khổ trong sự tranh đấu của đời người, nó bẻ gãy hàng rào giai cấp của xã hội, nó xây dựng một xã hội nhu hòa, nó thức tỉnh cho lòng rộng lượng đã bỏ quên từ lâu đời, khiêu gợi lại sự vui vẻ và hy vọng đã hoang phế, nó khởi xướng tình huynh đệ của nhân loại và gạt bỏ sức lực mạnh mẽ của sự ích kỷ, nó không thích hợp với trạng thái ghét vơ của tâm hồn.
Và chính tâm bác ái ấy rất thân cận với trời “Phạm Thiên” là bực không có tâm thù oán và sân hận, nó trái ngược lại với những quan niệm của các Thần Giáo khác, ở Á cũng như Âu châu, do sự sùng tín của họ mà có khi tỏ ra ganh tỵ, sân hận, giận dữ, công phẫn mà họ cho là việc làm chánh đáng. Người nào siêng năng thực hành đức tánh cao cả này bằng sự tham thiền thì người ấy trở nên đồng đẳng như trời Phạm Thiên, và nếu tâm người ấy được thấm nhuần phép thiền định về bác ái thì sau khi chết sẽ được tái sanh về cõi trời ấy, như thế nên mới gọi trạng thái của tâm này là “như Chư Thiên hoặc như Phạm Thiên”.
Còn nói về sự cư ngụ là tâm luôn luôn phải khắng khít ở trong pháp bác ái ấy cũng như chỗ ở của mình, chớ không phải chỗ mà mình chỉ đến viếng cấp thời rồi quên đi mau chóng. Nói một cách khác, là tâm của chúng ta nên luôn luôn khắng khít vào đấy. Hằng ngày lòng bác ái như người bạn không rời chúng ta và trong tất cả mọi sự hành vi luôn luôn phải chủ tâm đến nó, cho đến tất cả những sự việc nào có liên quan đến trạng thái của tâm này. Cũng như trong Kinh bác ái có giải rằng: Dù khi đi, đứng, ngồi, nằm, bất luận trong lúc nào mà không mỏi mệt thì nên cố gắng niệm lòng bác ái, như vậy nên mới gọi là “chỗ cư ngụ của Chư Thiên”.
Giáo lý của Đức Phật chẳng phải có tâm bác ái mà thôi nhưng còn rất nhiều cách thực hành khác nữa. Trong Tam Tạng còn có đến tám muôn bốn nghìn pháp môn, nhưng Đức Phật tóm lại trong bài kệ Pāli như vầy: Phải tránh xa các điều ác, nên làm các điều lành. Trau tâm cho trong sạch, đó là những lời giáo huấn của chư Phật. Hơn nữa, Phật giáo căn bản trên Lý nhân quả và Tứ diệu đế.
Người Phật tử thuần thành không nên tin tưởng và van lơn khấn vái với các thần lực hoặc một nhân vật siêu phàm xuất chúng nào, dầu cho Đức Phật, để đem lại cho ta vui hay khổ, trong sạch hay nhơ bẩn, nhưng trái lại con người phải tự nương nhờ lấy mình như Đức Phật có nói: “Tự mình hãy nương nhờ lấy mình chớ không nên nương nhờ hoặc cầu cứu nơi kẻ khác”, cũng như thế ấy trong kinh Thánh của đạo Gia-tô có nói: “Người gieo giống nào, người sẽ gặt lại giống ấy”. Đức Phật là một nhân vật như chúng ta, người Phật tử không nên coi Ngài như một vị Thần linh, không nên cầu khẩn Ngài. Trong Phật giáo không có sự nhờ người khác mà giải thoát, nhưng phải tự lực mình mới giải thoát được cho mình. Sự do nhờ nơi kẻ khác tức là làm ngăn trở sự cố gắng và làm cho ta mất sự tự lập và tự chủ.
Đức Phật không phải là một cái tên, nhưng đó chỉ là một danh từ kêu gọi vậy thôi, thật ra Phật có nghĩa là “Một đấng đã giác ngộ hay sáng suốt”. Trong thời quá khứ cũng có nhiều vị Phật và cũng sẽ có những vị Phật trong thời vị lai, còn trong hiện tại là Đức Phật Gautama hay Sakyāmuni đang giáo truyền.
Tất cả chư Phật đều giảng dạy đồng một giáo lý, chúng ta ở đây dầu là Phật tử hay không cũng nên luyện tập một “cuộc đời thanh khiết”, là chúng ta nên tự kiểm điểm mọi sự hành vi của thân, khẩu, ý đừng cho nó hoạt động ngoài phạm vi của pháp thiện, hay nói một cách khác là chúng ta nên thực hành theo “Bát chánh đạo”, con đường có 8 chi để trau dồi hạnh kiểm của mình, nếu được như vậy thì con người tự mình có thể làm cho tăng trưởng nhân vị của mình và hạnh phúc trong kiếp hiện tại và trong những kiếp vị lai.
Đức Phật Ngài đã có viễn kiến thấy rằng, trong ngày vị lai các hàng môn đệ của Ngài có thể lầm tưởng Ngài là một “Bậc Cứu Thế” hoặc là một “Vị Thần Linh”, như vậy họ chỉ chuyên cần theo nghi thức lễ bái cúng dường mà thôi chớ không quan tâm thực hiện theo giáo lý của Ngài đặng thoát khỏi sự thống khổ. Nên Ngài mới căn dặn các hàng môn đệ như vầy: “Các người hãy cố gắng thực hành theo giáo pháp, tất cả chư Phật chỉ là người chỉ đường vậy thôi, nếu các người thực hành con đường Như Lai đã chỉ thì sẽ thoát khỏi sự cột trói của Ma vương (hay là phiền não), như vậy thì các người mới đến nơi giải thoát một cách an toàn”.
Tất cả những bằng chứng đã kể trên để minh định rằng Phật giáo là một giáo lý tuyệt đối hợp lý, không cố chấp vào thần linh, tà thuyết hay do nơi năng lực của kẻ khác mà được giải thoát sự thống khổ. Tôi dám quả quyết rằng, nếu Thế giới văn minh mà khoa học này mà hiểu được sự lợi ích của Phật giáo đã giáo hóa nhân loại không có tàn ác, bạo ngược nhưng trái lại có tâm bác ái, rộng lượng, khoan dung thì Thế giới sẽ chắc chắn được hưởng sự “hòa bình”. Đến đây tôi mong ước sao cho cuộc Hội nghị “Lịch sử tôn giáo” có đầy ý nghĩa này sẽ đem lại sự hạnh phúc và tình thân ái cho nhân loại và các quốc gia.
Bài này sau lại hội đồng trong ban Tổ chức được tuyển chọn và in ra sách để gởi đi khắp các nơi trong các Đại Học Đường Nhật Bản để cho sinh viên học hỏi.
Sau khi Hội nghị xong, các phái đoàn đều được đưa đi chiêm bái và khảo cứu các xứ đã kể trên, phần nhiều chùa chiền của Phật giáo và phái Võ sĩ đạo, kiến trúc rất đẹp và nguy nga đồ sộ, các đền thờ của võ sĩ đạo thì phần nhiều lợp bằng vỏ cây theo cổ truyền, thật dày trong 20 năm mới thay lợp lại một lần. Ở trước đền khi vào ngay cửa chính thì thấy một sợi dây rơm thắt lại bằng cườm tay là tiêu biểu của sự đoàn kết về võ sĩ đạo, còn các chùa Phật giáo thì thường cất nơi thanh vắng và trên núi non.
Các phái đoàn đi chiêm bái lần lần đến xứ Kyoto một cựu thủ đô xứ Nhật đúng ngày 9-9-1958, lối 11 giờ trưa, Ban Tổ chức và các phái đoàn cu hội tại Đại Học Đường Kyoto và tuyên bố bế mạc Hội nghị nơi ấy.
Trong lúc Hội nghị có sáu bữa tiệc để thết đãi các phái đoàn, ngày thứ nhứt do ông Chủ tịch Hội Đồng Khoa Học và ban Tổ chức thết đãi, ngày thứ nhì do đức Hoàng Tử Mikasa, ngày thứ ba do ông Nobusuke Kishi Thủ tướng Nhật, ngày thứ tư do ông Bộ trưởng bộ Giáo dục tổ chức, ngày thứ năm do ông Vương Ngoại xứ Tenriko, ngày bế mạc do ông Giám đốc đại học đường Kyoto thết đãi để tiễn biệt các phái đoàn Thế giới và giải tán luôn cuộc Hội nghị nơi ấy.
Trong khi lưu trú tại Đông kinh được nhiều bạn Nhật đã từng gặp trước kia tại Rangoon đến thăm, ngoài ra tòa Sứ quán Việt Nam có tổ chức một buổi tiệc để thết đãi phái đoàn trước khi về xứ. Ông bà đại sứ Bùi Văn Thinh rất ân cần khoản đãi, luôn tất cả nhân viên trong xứ quán cũng rất vui vẻ giúp đỡ chúng tôi trong khi hữu sự.
Tối hôm ấy phái đoàn Việt Nam phải lên tàu hỏa lúc 10 giờ đêm để trở về Tokyo cách đô thị Kyoto 600 cây số ngàn, tàu hỏa chạy suốt đêm sáng hôm sau lối 9 giờ mới về tới Tokyo, suốt ngày hôm ấy phải lo sắp đặt hành lý và đến kiếu từ Sứ quán vì sáng mai lúc 6 giờ phải ra phi trường để lên đường về xứ.
Vừa hừng sáng thì đã có xe Sứ quán đến rước chúng tôi ra phi trường và đưa chúng tôi ra tận nơi phi trường để tiễn biệt. 8 giờ 15 thì phi cơ cất cánh (lối 6 giờ sáng xứ ta) mãi đến 4 giờ chiều phi cơ mới đỗ xuống phi cảng Hồng Kông cho hành khách lên xuống độ 45 phút thì lại cất cánh trực chỉ phi trường Tân Sơn Nhứt, mãi đến 19 giờ 30 mới đến nơi cả thảy lối 13 tiếng đồng hồ, khi xuống phi cơ để về chùa thì đã có các vị Đại đức trong ban chưởng quản và một số thiện nam tín nữ rất đông đến tiếp rước chúng tôi một cách nồng nhiệt, sau khi mừng rỡ hàn huyên phái đoàn lên xe đưa về Kỳ Viên tự.
Trong lúc tôi Hội nghị và chiêm bái các nơi Phật tích cũng được công đức đa thiểu, vậy tôi xin hồi hướng quả phúc ấy cho tất cả bà con có lòng trong sạch hộ độ tôi đa thiểu về chi phí, do năng lực phước báu ấy xin cho tất cả bà con thiện nam tín nữ được mọi điều an vui, hạnh phúc.
Hội Nghị Lịch Sử Tôn Giáo Quốc Tế Lần Thứ XTại Marburg (Tây Đức) (11-24/9/1960)
Cuộc hành trình
Ngày 24-8-1960 tôi được giấy bộ Nội Vụ mời tôi đến để lấy giấy tờ sang Tây Đức Hội nghị Lịch Sử Tôn Giáo lần thứ X tại Marburg-Lahn.
Sau khi lo xong giấy tờ thường lệ đến ngày 8-9-60, lúc 20 giờ, có chư Tăng và thiện tín rất đông tụ hội tại chùa Kỳ Viên tụng kinh cầu an và phúc chúc cho tôi thượng lộ bình an. Xong có hai xe tiễn đưa tôi ra phi trường: một xe chư Tăng có Sư Hộ Giác làm hướng đạo, một xe của bà Vũ Thị Kiểm đưa tôi và ít người thiện tín. Vì ban đêm vào phi trường phải xin phép nên một số chư Tăng và thiện tín đành phải ở lại, chỉ tiễn chân tôi trước chùa thôi.
Đến phi trường còn phải chờ hơn 1 tiếng đồng hồ: đến 21 giờ 30 thì phi cơ mới cất cánh. Trên hư không ban đêm khí trời lạnh nên nhân viên của hãng hàng không Air France biếu cho mỗi người một chiếc mền len và một đôi vớ mang cho đỡ lạnh. Đêm đã khuya trên phi cơ đều tắt đèn hết, chỉ chừa ánh sáng hơi lu lờ cho hành khách an nghỉ. Phần tôi không thể nào ngủ được, ngồi dựa lưng vào ghế lo nghĩ vơ vẩn đâu đâu. Vì các kỳ Hội nghị khác đều có người theo giúp đỡ, chuyến này lại không có ai, chỉ có một mình một bóng tôi mà thôi. Phần cuộc hành trình rất xa xôi trên lãnh thổ Âu châu, không phải là xứ Phật giáo, nhưng tôi cũng cứ hy sanh nhẫn nại để làm tròn xứ mạng, vì phải đương đầu với bao nhiêu sự khó khăn nên tôi nguyện đành liều cho phần phước đến đâu hay đến đó. Mảng suy nghĩ vu vơ bỗng có còi báo hiệu cho hành khách phải thắt dây đai vì phi cơ sắp đổ xuống phi trường Bangkok lúc 12 giờ đêm. Khi hành khách lên xuống xong lại cất cánh trực chỉ thẳng qua Karachi. Khi đến nơi thì trời vừa sáng, hành khách được đưa đi đến một nhà hàng để điểm tâm, xong lại cất cánh thẳng qua Teheran (Perse). Trên phi cơ trông xuống thấy toàn toàn là đồng cát trắng phau phau, có chỗ thì núi non gồ ghề, chớn chở, trơ trọi, không có cây cối chi. Phi cơ bay hàng mấy tiếng đồng hồ, nhưng vì đây là một bãi sa mạc thật to của xứ Ba-tư (Perse) vậy.
Từ Teheran qua Rome (Ý Đại Lợi) phi cơ phải bay thật cao vì bị sa mù và núi non hiểm trở. Gần 8 tiếng đồng hồ phi cơ mới báo hiệu cho biết gần đến phi trường Ciampino (Rome). Ở đây thì giờ khác hơn bên ta 6 tiếng đồng hồ, nên khi đến nơi thì trời vừa tối. Có xe của hãng hàng không đưa về Hotel, nghỉ tạm chờ chuyến phi cơ ngày mai mới đi qua Frankfurt (Đức). Hôm ấy cùng đi một chuyến có ông bà Nguyễn Xuân Nhẩn đi dự Hội nghị giáo huấn ở Rome, cùng ở chung một Hotel, nên dùng điện thoại chuyện vãn với nhau cho đỡ buồn. Tôi cũng có gọi điện thoại cho Sứ quán Việt Nam tại Rome để báo tin cho hay. Tình cờ lại gặp ông Đỗ Văn Minh đang làm việc cho Sứ quán tại Rome. Vì trước đây 2 năm, tôi cũng đi dự Hội nghị IAHR tại Đông kinh (Tokyo) cũng gặp ông đang tùng sự nơi ấy. Ông rất mừng và yêu cầu tôi có cần chi đến ông thì ông sẵn sàng giúp đỡ. Tôi cho hay rằng ngày mai lối 17 giờ 30, tôi phải lên phi cơ nên không có cần chi. Nhưng ông cũng không chịu làm ngơ, ông mua đủ thứ trái cây, sai tài xế đem đến biếu tôi. Vì đã quá ngọ nên tôi tạm lãnh và cho luôn ông bà Nguyễn Xuân Nhẩn.
Đúng 17 giờ thì có xe Sứ quán V.N. đến đưa tôi ra phi trường cách đô thị lối 15 cây số ngàn. Phi cảng này thật to rộng khi đến thì ở một nơi, khi đi thì ở một chỗ khác nữa, cách nhau độ 3 cây số, đâu mặt lại với nhau. Theo luật Chánh phủ Ý thì mỗi hành khách khi đi phải đóng một số tiền là 700 lires, lối 50$ xứ ta. Mọi việc đều nhờ Sứ quán V.N. lo cho cả. Phi cơ này của hãng hàng không Lufthansa của Đức, chở lối 100 hành khách bay trên 2 tiếng đồng hồ mới đến phi trường Frankfurt (Tây Đức). Trên phi cơ trông xuống thấy toàn là tuyết trắng xóa, bao phủ những dãy núi cao chớn chở. Khí trời ở đây lạnh lắm, lối 17-18 độ, ban đêm có khi 10-11 độ hoặc 12-13 độ là cùng. Khi phi cơ báo hiệu cho biết gần đến phi trường thì hơn 8 giờ. Các phi trường Âu châu rất dễ, không cần biên giấy kê khai hoặc thẻ kiểm điểm chi cả. Khi đến nơi, họ chỉ hỏi giấy thông hành, xem xong họ đóng dấu rồi đưa lại và cám ơn mình nữa. Còn về quan thuế, thì họ hỏi mình có chi kê khai không như rượu mạnh, thuốc điếu, dầu thơm… Khi mình nói không có chi khai, thì họ đóng dấu và cho đi liền.
Trước khi đó một giờ có Sứ quán V.N. ra đón rước, nhưng khi hỏi chuyến phi cơ từ Saigon qua thẳng Frankfurt thì hãng hàng không trả lời không có người V.N. nào qua cả. Vì tôi có gởi thơ cho hay trước sẽ đi qua chuyến đó, nhưng không có chỗ nên đi vòng qua Rome thành ra cuộc tiếp rước mới sai như vậy. Nhưng cũng may có người cùng đi Hội nghị đưa tôi lên tàu hỏa tốc hành lên Marburg, chỗ Hội nghị cách đó 100 cây số ngàn. Khi tàu hỏa đến nơi thì đã có Ủy ban Tổ chức họ chực sẵn để tiếp rước các phái đoàn đưa về nhà trọ. Tôi được đưa về nhà trọ một biệt thự của Giáo sư Dr. Seidelmann cùng với hai người đại diện Thụy Điển: một ông kỹ sư khoáng vật và một ông cử nhân thần học, cùng ở chung nhau mỗi người một phòng. Lúc bấy giờ đã hơn 10 giờ đêm, phần thì đi đường mệt nhọc nên phải nghỉ sớm cho có sức khỏe để mai bắt đầu Hội nghị.
Sáng ngày 11-9-1960, khi điểm tâm xong, tôi cùng hai ông Thụy Điển đi đến chỗ Hội nghị. Chỗ này ở trên một chót đồi, có hai vật cổ truyền là một nhà thờ Thiên Chúa giáo đã xây dựng từ năm 1235-1335 do nữ hoàng Elisabeth và được tu bổ phục hưng lại năm 1470, và một trường đại học thành lập từ năm 1527 hiện giờ có luôn luôn lối 6.000 học sanh đến học đủ các ngành và các khoa đại học.
#ducphap #TyKhuuBuuChon #thienphatgiao #thiensu #theravada Theo nguồn: https://theravada.vn/book/tong-hop-bai-tuong-thuat-hoi-nghi-quoc-te-cua-ty-khuu-buu-chon/
0 notes
Text
Soạn bài Chiều xuân
Soạn bài Chiều xuân, Giáo án Tiny sẽ cung cấp tài liệu Soạn văn 11: Chiều xuân, hy vọng sẽ giúp ích cho học sinh khi chuẩn bị bài về tác phẩm này. Soạn bài Chiều xuân Bài thơ Chiều xuân đã khắc họa vẻ đẹp của chiều xuân bình dị, mộc mạc. Đồng thời diễn tả tình yêu quê hương đất nước của tác giả. Tác phẩm sẽ được giới thiệu trong chương trình Ngữ văn lớp 11. Tài Liệu Tiny Edu sẽ cung cấp tài…
View On WordPress
0 notes