#qlvnch
Explore tagged Tumblr posts
Link
Đầu năm 1971, trong bối cảnh chiến tranh Việt Nam đang bước vào giai đoạn cam go, Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ đã mở màn một chiến dịch táo bạo mang tên Lam Sơn 719, hay còn được biết đến với tên gọi Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào. Chiến dịch này, kéo dài từ ngày 8/2 đến 25/3/1971, được xem là nỗ lực cuối cùng của Hoa Kỳ và QLVNCH nhằm ngăn chặn con đường tiếp tế chiến lược của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) qua dãy Trường Sơn hùng vĩ. Màn sương mù bao phủ chiến trường Tháng 2/1971, hơn 16.000 quân QLVNCH lặng lẽ tiến vào miền đất Lào bí ẩn. Một bức màn im lặng bao trùm lên chiến dịch đầy tham vọng này. Báo chí bị cấm đưa tin, trong khi những thông báo ít ỏi từ chính phủ miền Nam Việt Nam lại mơ hồ và đầy mâu thuẫn. Tuy nhiên, qua những nguồn tin rời rạc từ phía Hoa Kỳ, một thực tế phũ phàng dần hé lộ: mũi tiến công của QLVNCH trên Đường 9 - huyết mạch của Đường mòn Hồ Chí Minh - đã sa lầy sau ba tuần giao tranh ác liệt. Akihiko Okamura, một phóng viên ảnh người Nhật Bản, đã bất chấp hiểm nguy, trà trộn vào đoàn xe tiếp tế của QLVNCH để ghi lại những hình ảnh chân thực về chiến dịch này. Chiến sự ở Lào trên bìa Tạp chí Life số ra ngày 12/3/1971 Những bước tiến chập chững và hy vọng mong manh Ban đầu, chiến dịch diễn ra khá suôn sẻ. Được trang bị hiện đại, cùng sự yểm trợ tối đa của không quân và pháo binh Hoa Kỳ, binh lính QLVNCH tràn đầy tự tin. Okamura, người đồng hành cùng họ trên những chiếc thiết vận xa, nhận thấy sự thay đổi rõ rệt so với hình ảnh những người lính thiếu kinh nghiệm mà ông từng chứng kiến vào năm 1965. Họ nhanh gọn, kỷ luật và tràn đầy năng lượng. Nhiếp ảnh gia Akihiko Okamura dành hai tuần ở Lào với QLVNCH Mỗi ngày, đoàn quân tiến sâu thêm vào lãnh thổ Lào, để lại sau lưng con đường 9 bụi đỏ hun hút. Họ tin rằng, nếu cắt đứt được đường mòn Hồ Chí Minh, chiến tranh sẽ sớm kết thúc. Bẫy lửa và sự kháng cự quyết liệt Tuy nhiên, bước tiến của QLVNCH không kéo dài được lâu. Thời tiết xấu là một trong những yếu tố đầu tiên cản trở chiến dịch. Sương mù dày đặc hạn chế đáng kể hiệu quả của không quân Hoa Kỳ, vốn là át chủ bài của QLVNCH. Máy bay trực thăng Chinook của Quân đội Hoa Kỳ gây ra một cơn bão bụi khi vận chuyển đạn dược cho QLVNCH ở Lào. Trực thăng bây giờ là nguồn tiếp tế chính của QLVNCH. Quan trọng hơn, QĐNDVN đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng. Họ bố trí hệ thống phòng thủ kiên cố với hỏa lực mạnh, sử dụng chiến thuật du kích linh hoạt để chống trả từng bước tiến của đối phương. Bãi mìn dày đặc, những trận phục kích bất ngờ, và hỏa lực pháo binh chính xác đã giáng những đòn nặng nề vào đội hình QLVNCH. Sau khi thâm nhập 26 km vào biên giới Lào trong ba tuần đầu tiên, lính VNCH đã chứng kiến hai đợt không kích của Mỹ. Một là trận ném bom B-52 (hình trên), nhằm vào vị trí của lực lượng Bắc Việt trên một sườn núi cách đó chưa đầy ba dặm (khoảng 5km – ND). Bất chấp cuộc tấn công dữ dội, quân đội miền Bắc Việt Nam đã tái lập căn cứ pháo binh trong khu vực bị ném bom và tiếp tục nã pháo chỉ 12 giờ sau đó. Cuộc tấn công thứ hai trong cùng khu vực (hình dưới) đến từ máy bay phản lực của Không quân Hoa Kỳ, thiêu cháy kẻ thù bằng bom napalm. Mục tiêu lần này – đã được đánh dấu bằng hoả tiễn khói – là nơi tập trung quân đội miền Bắc Việt Nam đang chuẩn bị tấn công. Người cung cấp thông tin về cuộc tấn công sắp xảy ra này là một tù binh cộng sản đang hấp hối, người đã bị thương và bị bắt vào đêm trước đó. Từ chỗ tràn đầy hy vọng, binh lính QLVNCH bắt đầu cảm thấy hoang mang và sợ hãi. Sự tự tin ban đầu dần nhường chỗ cho nỗi ám ảnh về những cái bẫy chết chóc ẩn giấu trong rừng rậm. Những chiếc xe tăng, thiết giáp hiện đại bỗng trở nên vô dụng trước chiến thuật du kích linh hoạt của đối phương. Thất bại và bài học đắt giá Sau hơn một tháng sa lầy, chiến dịch Lam Sơn 719 kết thúc trong thất bại ê chề. QLVNCH không những không đạt được mục tiêu cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh, mà còn phải chịu tổn thất nặng nề về người và phương tiện. QLVNCH tiến vào Lào theo Đường 9, hướng tới Tchepone, nơi có các bãi tiếp tế và một số huyết mạch chính của Đường mòn Hồ Chí Minh (màu đỏ). QLVNCH đã cắt được một số nhánh trước khi cuộc hành quân bị đình trệ. Khe Sanh là căn cứ chính cho trực thăng của Hoa Kỳ và QLVNCH. Chiến dịch Lam Sơn 719 là một minh chứng rõ nét cho sự thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Hoa Kỳ. Nó phơi bày những hạn chế của QLVNCH về cả khả năng tác chiến độc lập lẫn ý chí chiến đấu. Bên cạnh đó, chiến dịch này cũng cho thấy quyết tâm sắt đá của QĐNDVN trong việc bảo vệ con đường tiếp tế chiến lược của mình. Một người lính miền Nam Việt Nam cắt tóc tại một tiệm hớt tóc mới mở ở một căn cứ trên Đường 9. Những tiện ích ngay tại trại quân sự như vậy xuất hiện ở Lào khi chiến dịch của QLVNCH do Hoa Kỳ hậu thuẫn – được dự định là một cuộc tấn công chớp nhoáng – bị sa lầy sau ngày thứ ba. Bài học từ thất bại của chiến dịch Lam Sơn 719 vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay. Nó nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của việc đánh giá đúng thực lực bản thân, cũng như khả năng của đối phương. Sự can thiệp quân sự thiếu minh bạch, dựa trên những to tính sai lầm sẽ chỉ dẫn đến những hậu quả đáng tiếc. Source: https://khamphalichsu.com/chien-dich-lam-son-719-van-bai-lieu-linh-va-that-bai-cay-dang-cua-qlvnch/?feed_id=278&_unique_id=672e27365df4c
0 notes
Text
Một vài suy nghĩ về Đêm Văn Nghệ ngày 5 tháng 10 năm 2024 tại San Diego với chủ đề
NGƯỜI LÍNH MỘT THỜI CHINH CHIẾN 3
Đêm văn nghệ “Người lính một thời chiến 3” do nhóm Cựu chiến binh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa tại San Diego, trưởng ban tổ chức là KQ Nguyễn Phúc Thiệu thực hiện trong một buổi chiều ấm áp ngày thứ bảy, 5 tháng 10 năm 2024 tại Nhà hàng Tràm Chim, trong không gian trang trọng và đầy cảm xúc “tình quân dân cả nước” như những ngày tháng của nửa thế kỷ trước.
Cả khán phòng chìm trong ánh sáng dịu nhẹ với 2 chiếc máy bay trực thăng của anh Tony Phan, một chiến hữu Không quân Việt Nam Cộng hòa/San Diego, đã sưu tầm sáng chế và được treo lên sân khấu, với lá cờ vàng ba sọc đỏ tung bay đầy kiêu hãnh, như đang gợi lại một thời đã qua, nhưng chưa bao giờ mất đi trong ký ức của những người có mặt.
Sau phần chào cờ Việt - Mỹ, Chiến Hữu Vũ Hữu Trường, đại diện ban tổ chức phát biểu lý do và khai mạc buổi văn nghệ. Mở đầu chương trình là một bài hợp ca nhẹ nhàng nhưng như lời biết ơn của những người ở hậu phương gửi đến những người lính ở tiền tuyến qua bài hát Giờ Này Anh Ở Đâu của nhạc sĩ Khánh Băng, đã đưa khán giả trở về những năm tháng hào hùng nhưng cũng đầy mất mát.
Mỗi bài hát hòa quyện với giọng ca trầm ấm, ngọt ngào của những tiếng hát không chuyên nghiệp nhưng vẫn nhớ ơn về những hy sinh, sự dũng cảm và tình yêu quê hương của những người lính Vi���t Nam Cộng Hòa. Ca khúc "Người ở lại Charlie" cũng gợi nhớ đến sự chiến đấu dung cảm và anh hùng của Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù Nguyễn Đình Bảo trên đỉnh đồi Charlie.
Mỗi ca khúc là một hình ảnh hoặc video clip minh hoạ đã làm sống động suốt năm tiếng đồng hồ liên tục. trong những tình khúc của một thời chinh chiến, tiêu biểu là bài hát "Tuyết Trắng" do chính phi công trực thăng Phúc Thiệu thể hiện. Buổi văn nghệ không chỉ là một chương trình ca nhạc mà còn là hành trình trở về với ký ức, về với những con người đã hy sinh cho tự do, cho niềm tin và lý tưởng. Nó nhắc nhở mọi người về giá trị của hoà bình những người đã một thời bảo vệ quê hương bằng cả trái tim và lòng can đảm.
Cũng nhờ sự nhiệt tâm những chiến hữu một thời bên nhau và đặc biệt là những hậu duệ của QLVNCH, là Kim Duyên, Lý Lê và Kiệt Nguyễn hiểu được mất mát của ông cha mình trải qua trong chiến tranh nên hợp tác một cách nhiệt tình, nhất là việc chuẩn bị chu đáo về âm thanh, ánh sáng, quay phim, chụp ảnh để chương trình văn nghệ nói trên được thêm phần hoàn hảo.
Như những phiên họp ban đầu , Ban tổ chức im lặng và không hề kêu gọi gây quỹ, nhưng nếu có dư ra thì sẽ giúp vào các hoạt động cộng đồng. Lỗ thì anh chị em cùng chia nhau ra phụ vào.
Với tất cả sự nhiệt huyết đó và sự thương yêu của quý đồng hương và các chiến hữu, may mắn lần này dư được $3,610, chúng tôi họp lại và quyết định gửi đến Hội Cứu trợ TPB và Quả Phụ để nhờ Hội chuyển về Việt Nam gọi là chút quà của anh chị em chúng tôi luôn luôn nhớ đến các chiến hữu TPB và quý Quả Phụ nơi quê nhà.
Sau 3 tháng chuẩn bị trong lo lắng, bây giờ niềm vui của những người lính xa xa quê hương là đây. Không còn hạnh phúc nào lớn hơn khi đã làm được một việc nhỏ nhưng ít ra cũng mang ý nghĩa cho cuộc đời. Chân thành cảm ơn toàn thể khách tham dự và những tấm lòng đêm hôm đó luôn nghĩ đến những người lính Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh trong cuộc chiến và hiện hữu tại thành phố San Diego.
Ghi nhanh BB Nguyễn Duật
Tues Oct 8, 2024
0 notes
Photo
1968 #TanAn northern delta #USArmy machine gunner from 9th Division shares some comradeship with #ARVN #QLVNCH soldier on patrol #VietnamWar #Vietnam #NorthVietnam #SouthVietnam #VietCong #CongSan #HoChiMinh #NgoDinhDiem #RepublicofVietnam #CongHoa #BlackApril #Hanoi #NhaTrang #Hue #Saigon #HCMC #VungTau #BienHoa #FallofSaigon #DaLat #NhoVietnam #iLoveVietnam #LoveVietnam (at Tân An, Long An)
#saigon#qlvnch#ilovevietnam#hanoi#southvietnam#congsan#vietnamwar#fallofsaigon#hue#arvn#hochiminh#nhatrang#ngodinhdiem#nhovietnam#usarmy#northvietnam#hcmc#tanan#republicofvietnam#blackapril#vietcong#vungtau#dalat#conghoa#vietnam#bienhoa#lovevietnam
1 note
·
View note
Text
Ba tôi qua đời bất ngờ năm 1964, nhỏ em út còn trong bụng Má. Tôi phải nghỉ học, tìm việc làm ngày đêm để phụ giúp Má tôi nuôi sáu đứa em còn nhỏ dại.
Đầu năm 1965, tôi được mời đến dạy kèm Toán cho cô con gái lớn một gia đình người Việt ở Nam Vang. Mỗi ngày 2 tiếng, từ 7 đến 9 giờ tối, từ thứ Hai đến thứ Sáu. Em học trường Providence, còn gọi là trường Bà Phước, lúc đó chỉ dành cho nữ sinh. Em nhỏ hơn tôi một tuổi nhưng mới ở lại Cinquième, trong khi tôi đã đậu Brevet d’Études du Premier Cycle hai năm trước.
Có lẽ vì là con gái nhà khá giả nên em h��i… làm biếng học, nhất là toán, géometrie và algèbre. Lúc đầu, tôi hơi nản lòng vì… em nhìn bài vở như thấy ma, tôi thường phải làm bài giùm em, nhưng từ từ em nghe lời tôi khuyên, chịu làm bài, chịu học bài, và được lên lớp mỗi năm.
Đầu năm 1968, em học Troisième, chuẩn bị thi Brevet. Tôi kèm em từng môn, giúp em làm những bài vở mà đúng ra tôi không cần giúp. Em trả ơn bằng cách mời tôi ở lại ăn cơm tối.
Tôi cho em mượn những quyển sách mà tôi đã học qua, trong một lần trả sách, em kèm theo tấm giấy chỉ viết một câu “cho moi làm amie intime của toi nha”. Tôi gật đầu vì sợ em giận, em không thèm học nữa. Từ đó, em hẹn tôi đi chơi cuối tuần, tôi cũng gật đầu với điều kiện là em phải xin phép Ba Má đàng hoàng và phải ráng học.
Tôi biết em thương tôi, tôi cũng thương em. Tôi gọi em là “cô Tiên” vì em có dáng dấp qua cầu gió bay, có bước đi lả lướt nhẹ nhàng như các nàng tiên nữ trong vũ khúc nghê thường, vì em đã mang đến cho tôi những cảm xúc mà người trần gian chưa từng cho tôi trước đó.
Những ngày mưa, không đi chơi được thì tôi ngồi hát em nghe bên mái hiên nhà:
Một chiều cuối tuần mưa bay lất phất và mây trắng giăng giăng
Em đến thăm anh vì trời mưa mãi nên không kịp về
Bên anh, em lặng nhìn bầu trời và ánh mắt mộng mơ
Sợ người yêu khóc, khe khẽ bên tai anh kể chuyện ngày xưa.
Chuyện xưa kể rằng trên thiên giới ấy ngày vui kết hoa đăng
Thiên Quốc đang vui một nàng tiên nữ làm rơi ly ngọc ngà
Đang say nên trời bèn đọa đày nàng tiên xuống trần gian
Làm người dương thế không biết bao lâu mới được quay về trời.
Em ơi nàng tiên ấy xuống dương trần một chiều mưa bay nhiều
Và vì thương trần thế, thương kiếp sống phong sương
Nên dù rằng một hôm Thiên Quốc trời sai
Gom mây hồng làm xe đưa tiên về
Tiên nói dối tiên còn đang giận trời nên tiên chẳng về đâu.
Nàng tiên giáng trần không đôi cánh trắng giờ đang ngắm mưa bay
Đang đứng bên anh thầm cầu mưa mãi cho tiên đừng về
Anh ơi lỡ mà trời gọi về thì tiên chẳng về đâu
(Bài hát “Huyền Thoại Một Chiều Mưa”)
Nhưng tôi luôn nhớ mình là con trai nhà nghèo, chỉ có chiếc Mobylette cà tàng làm chân đi kiếm cơm mỗi ngày. Em là con gái nhà khá giả, đi học có xe đưa rước, về nhà không làm động móng tay vì đã có chị bếp, chị bồi, chị vú lo toan mọi việc. Nếu hai đứa thành vợ thành chồng, em cực thân là cái chắc.
Trong một lần kề vai nhau đi quanh công viên Chùa Tháp, trời bỗng dưng mưa. Tôi bật dù che hai đứa nhưng mưa càng lúc càng nặng hột, em bỗng xoay người lại ôm hôn tôi dưới mưa. Tôi than thầm trong bụng “gặp oan gia truyền kiếp rồi”.
Năm đó, em thi đậu Brevet và tôi nghỉ dạy vì vừa xin được cái job thư ký kế toán ở hãng L’UCIA, Nam Vang.
Lúc trước gặp nhau 5 ngày mỗi tuần, có nhiều thì giờ để nói với nhau những gì muốn nói. Giờ phải chờ đến cuối tuần mới được gặp nhau vài tiếng, nhớ ơi là nhớ. Tôi bắt đầu làm thơ “nhớ em”…
Nhớ lúc xưa kia mới biết nhau
Rồi thương rồi nhớ suốt đêm thâu
Ðêm nào cũng vái cho mau sáng
Nhớ quá trời ơi! Nhớ phát rầu.
Nhớ những chiều em qua phố vắng
Dáng hồng xen lẫn bóng hàng cau
Mân mê vạt áo, em e lệ
Những lúc anh nhìn, má đỏ au.
Nhớ lúc mình đan tay đếm bước
Em run run hỏi: – Sẽ ra sao ?
Anh cười, anh nói như đinh đóng:
– Anh sẽ yêu em đến bạc đầu!
Đưa bài thơ cho em, em bỏ túi nói sẽ về nhà đọc. Tuần sau gặp nhau, em không nhắc gì về bài thơ của tôi mà hỏi tôi nghĩ gì về cuộc sống hai đứa sau này.
Tôi nói là nhà tôi nghèo, em nói em biết rồi, tôi phải đi làm giúp Má nuôi các em còn nhỏ, em nói em cũng biết rồi, nếu mình cưới nhau thì em sẽ cực thân hơn là sống với Ba Má em…
Em trả lời làm tôi chưng hửng “hiện nay, cái khổ nhất mà “moi” phải chịu đựng hàng ngày là nhớ “toi”, cái cực nhất mà moi phải chịu đựng hàng ngày là làm sao để gặp toi sớm hơn, nên moi không sợ gì cả. Trời sanh voi sanh cỏ”.
Tôi khuyên em nên kiên nhẫn, nói cho em hiểu lúc này là thời gian đẹp nhất trong cuộc tình hai đứa, cái nhớ cái thương bây giờ sẽ làm mình gắn bó nhau hơn sau này…
Em nghe lời tôi và chuyện hẹn hò của chúng tôi kéo dài cho tới đầu năm 1970.
Tướng Lon Nol lật đổ vua Sihanouk, tự phong là tổng thống xứ Kampuchea (Cao Miên).
Một số người Miên quá khích thừa nước đục thả câu, “cáp duồn” (nghĩa là chặt người Việt) lẻ tẻ. Đang đêm, họ đến gõ cửa nhà người Việt ở những vùng thôn quê hẻo lánh. Một số người Việt không may đã bị họ chặt đầu, xác thả trôi sông về tới Tân Châu, Hồng Ngự… Nhiều người Việt có chút của ăn của để ở Cao Miên bán tháo tài sản để về Miền Nam Việt Nam lánh nạn. Ba Má em cũng không ngoại lệ.
Em gặp tôi bàn chuyện này. Tôi đem việc này hỏi ý kiến ông giám đốc hãng L’UCIA. Ông giám đốc đưa hai đứa tôi về biệt thự do hãng mướn cho ổng ở trên đại lộ Norodom, ngay trung tâm thủ đô Nam Vang. Ổng nói: “nhà tao có 2 người bồi bếp, có 2 con chó berger giữ nhà. Nhà có 5 phòng, tao ở chỉ một phòng. Nếu hai đứa thấy ở nhà mầy không an toàn thì đến đây ở với tao. Tao tin tưởng và cần thằng B. giúp tao giữ gìn sổ sách của hãng nên hai đứa mầy muốn ở phòng nào, muốn ở bao lâu cũng được”.
Nghe vậy, chúng tôi yên tâm và quyết định ở Nam Vang dù Ba Má em có về Sàigòn.
Em về xin Ba Má cho hai đứa làm đám cưới. Má em có cảm tình với tôi nên gật đầu. Ba em im lặng vì biết tôi nghèo, sợ con gái cưng của ông sẽ cực khổ khi về làm vợ tôi. Em nói với Ba Má em “nếu Ba Má không tổ chức đám cưới cho hai đứa con, tụi con sẽ tự lo. Con muốn làm vợ anh B. danh chánh ngôn thuận”.
Và hai đứa tôi tự tổ chức lễ cưới của mình.
Sáng ngày 24/02/1970, Má tôi và tôi mang trầu cau và phẩm vật đến xin cưới em. Chúng tôi lạy bàn thờ tổ tiên nhà em, xin quý ngài chứng giám cho chúng tôi thành vợ thành chồng. Tôi mướn xe Mercedes để rước “cô Tiên” xuống trần.
Tối đến là tiệc cưới tại nhà hàng La Lune, đối diện State Olympic, với 200 quan khách, họ hàng và bạn bè nhà trai, nhà gái. Dĩ nhiên là có nhạc sống do mấy tên bạn tôi tự mang đồ nghề đến giúp vui. Đêm đó, hai đứa tôi khiêu vũ và cụng ly với bạn bè gần tới sáng.
Sau ngày chúng tôi thành hôn thì tình hình chính trị giữa hai nước Kampuchea và Miền Nam Việt Nam biến chuyển dồn dập. Ông bà nhạc tôi và gia đình bay về Sàigòn vài ngày sau đó. Vợ chồng tôi vẫn ở Nam Vang. Tôi vẫn đi làm ở L’UCIA .
Khi xác nhiều người Việt trôi về tới Hồng Ngự, Tân Châu, ông Nguyễn Cao Kỳ – lúc đó là Phó Tổng Thống VNCH – ra lệnh cho Quân-đoàn 3 tràn qua biên giới, lấy cớ là để “bảo vệ kiều bào VN”. Trung tướng Đỗ Cao Trí nhận lệnh với lời tuyên bố làm chấn động chính phủ Cao Miên: “Cho tôi 24 tiếng, tôi sẽ chiếm Nam Vang”.
Ông Lon Nol nghe muốn té đái. Mới làm tổng thống có mấy ngày, nếu để QLVNCH chiếm Nam Vang thì mất mặt bầu cua. Ông gọi điện năn nỉ chính phủ VNCH đừng chiếm Nam vang nên Quân-đoàn 3 dừng lại ở Neak Luong (người Việt mình gọi là Hố Lương), một bến phà chỉ cách Nam vang 60 cây số.
Nghe tin QLVNCH tràn qua biên giới, cả trăm ngàn kiều bào VN ở Cao Miên, trong đó có vợ chồng tôi, bỏ tất cả tài sản, dắt díu nhau vào các trại tị nạn. Các sân trường trung học, chùa, nhà thờ bỗng trở thành những trại tị nạn khổng lồ. Vợ chồng tôi vào trường Seminaire, nơi tôi đã học năm cuối chương trình Tú tài Pháp hai năm trước.
Trong trại Seminaire, người ta chia ra nhiều nhóm, mỗi nhóm 10 gia đình, trước hết là để lãnh nước uống, sau là thức ăn, lúc đó chỉ có khô cá lóc do Red Cross cung cấp. Tôi làm trưởng nhóm 31.
Đầu tháng 5/1970, ông Nguyễn Cao Kỳ bay lên Nam Vang, nói là thăm xã giao tướng Lon Nol nhưng thật sự là đi thanh tra các trại tị nạn. Tối đêm trước, tôi và các trưởng nhóm được lệnh phải thu tất cả những những gì có thể coi như là vũ khí gồm dao, gậy,… và cùng nhiều người thức gần sáng đêm để dựng cái sân khấu dã chiến.
Khi ông Kỳ vào trại Seminaire, ông đến từng lều, bắt tay và hỏi thăm từng người. Điều làm mọi người chú ý là 2 anh đại-úy cận vệ. Họ cao hơn ông Kỳ 1 cái đầu, mặc đồ bay, mang súng ngắn dưới nách, nhưng không cản trở khi kiều bào đến bắt tay, thậm chí ôm hôn ông Kỳ.
Ông Kỳ lên sấn khấu, nói vài lời thăm hỏi xã giao rồi hứa: “Tôi sẽ đưa tất cả đồng bào về quê hương!”
Ông nhận được những tràng pháo tay như sấm động của mấy ngàn người trong trại Seminaire. Nhiều bà lão bò ra khoảng trống trước sân khấu lạy ông Kỳ như tế sao.
Vài ngày sau, chúng tôi được phát thịt heo lần đầu, dù không ai biết ai cho nhưng mọi người nghĩ là từ chính phủ VNCH. Tuần sau, một đoàn “tàu há mồm” của Hải quân VNCH cặp bến sông Mekong.
Danh sách từng nhóm được gọi để rời trại xuống tàu về nước. Vợ chồng tôi thuộc danh sách thứ 31 nên gần cuối tháng 5/1970 mới được rời trại. Sau 1 ngày lênh đênh trên sông Tiền (hay sông Hậu?) thì về tới trại Đồng Tâm, Mỹ Tho, lúc đó là hậu cứ của Sư-đoàn 7 BB.
Vợ chồng tôi chỉ ở trại Đồng Tâm 5 ngày. Làm giấy tờ nhập cảnh xong thì Ba em lái xe xuống rước về Sàigòn.
Cuộc sống chúng tôi từ ngày về Sàigòn không còn… tà tà như lúc ở Nam Vang. Cũng như tất cả Việt kiều hồi hương lúc đó, tôi được hoãn dịch 18 tháng. Thời gian không nhiều nên tôi làm ngày làm đêm. Em cũng đi làm. Cuối tuần hai đứa đưa nhau đi ăn mì xào dòn, hay ăn nghiêu luộc.
Mỗi tối đi đàn về, tôi chạy thẳng vô Chợ Lớn mua cho em cái bánh bao Ông Cả Cần của Bà Năm Sa-Đéc. Lúc này em không còn thơ thẩn, mà ngược lại… em ăn rất bạo. Dù không nói ra, tôi biết em đang chuẩn bị cái bụng cho đứa con đầu lòng của chúng tôi, dù không biết lúc nào nó sẽ tượng hình.
Nhiều người trong gia tộc hai bên thường trề môi nói “thằng B. con nhà lính tính nhà quan, mới ở Nam Vang về tay trắng mà vợ nó muốn gì được nấy”….
Mấy người này không biết là lúc còn độc thân, tôi đã đọc một câu định nghĩa “người phụ nữ lý tưởng” của một người đàn ông như sau: “Người phụ nữ lý tưởng của một người đàn ông là người bạn, người tình và là người vợ của người đàn ông đó”.
Hồi đọc câu đó, tôi chưa gặp cô Tiên nên tôi đã tự hỏi ngược lại là “tôi có thể vừa là người bạn, vừa là người tình, và là chồng của vợ tôi không”. Ông nào muốn biết cái vụ này nó khó cỡ nào cứ thử cua một cô bạn gái rồi cưới cổ về làm vợ thì sẽ hiểu câu… “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”.
Nhưng khi gặp rồi thương yêu cô Tiên, cái định nghĩa xưa tự nó cho tôi lời giải đáp.
Lúc mới thương nhau, tôi thường kể em nghe chuyện bồ bịch của tôi lúc trước. Em chẳng những không ghen hờn, mà còn góp ý đôi khi rất tiếu lâm, rồi hai đứa cười hí hí. Lúc hai đứa đi chơi, gặp cô nào có “ngực tấn công, mông phòng thủ” là tôi hay quay lại nhìn, em im lặng nắm tay tôi, đợi cô đó đi khỏi tầm mắt mới hỏi “bộ toi hổng thấy cổ đi hai hàng hả?”. Khi vào tiệm bán sách, tôi có cái tật (hổng biết xấu hay tốt) là đứng hơi lâu trước mấy cái đặc san người lớn như PlayBoy. Em im lặng đứng bên tôi, đến khi rời tiệm sách em mới phê bình… “nhỏ này vú đẹp, cô kia mông teo…”. Chỉ khi đến kệ bày mấy cuốn Salut les Copains, em mới thò tay lựa cuốn mới nhất và tự ra quầy trả tiền.
Em chưa bao giờ bắt tôi trả tiền những gì em mua cho riêng em. Em chưa bao giờ lớn tiếng hay dùng lời lẽ không lịch sự với bất cứ ai, dù đôi khi tôi hay ai đó vô tình hoặc cố ý làm em giận.
Ba em nói với em “Ba thấy nó đi nhảy đầm, tay trái một con, tay mặt một con”. Em trả lời “những gì ảnh làm lúc còn độc thân là quyền của ảnh, con không cần biết (thật ra tôi đã kể em nghe hết rồi). Chỉ cần biết hiện giờ hai đứa con thương nhau thật lòng là được rồi”.
Em có cách hôn, chỉ phớt nhẹ, làm tôi hồn phi phách tán. Khi thấy tôi buồn, em cầm tay tôi, xoa nhè nhẹ lên mu bàn tay, khiến tôi quên hết mọi phiền não. Sau này thành vợ thành chồng, em vẫn là người tình tuyệt vời. Em biết cách làm tôi quên những nghiệt ngã mà tôi đã trải qua trong ngày hôm đó.
Em biết tiết kiệm, vén khéo với số tiền mà chúng tôi kiếm được. Em không se sua, dù luôn ăn mặc thanh lịch. Mỗi lần hai đứa ra đường là tôi phải ngó trước nhìn sau, coi có tên nào nhìn lén em không. Khi đứa con đầu lòng của chúng tôi chào đời năm 1972, em tự nguyện bỏ bớt chuyện mua sắm cho riêng mình, để có đủ tiền cho con chúng tôi bú sữa Guigoz 3 năm liên tục.
Cô Tiên đã là một người bạn, một người tình và là người vợ tuyệt vời của tôi.
Được một người vợ như cô Tiên, em muốn gì được nấy không có gì quá đáng.
Bán nhà cho em cũng được, huống chi là ba cái lẻ tẻ.
Tháng 4/1972, tôi hết hạn hoãn dịch, phải đi lính cho tới ngày tan hàng.
Sau 75, có ngày hai đứa phải ăn sáng bằng… cơm nguội, nhưng em luôn dành 1 hoặc 2 đồng cho con chúng tôi có gói xôi nóng hay tô cháo huyết.
Cực nhất là lúc chúng tôi về quê tôi sống từ năm 1976 đến năm 1979. Má tôi cho hai công ruộng và nửa công vườn, đủ cho gia đình chúng tôi sinh sống, không cần phải đi làm mướn, làm thuê. Nhưng không may là hai năm 77-78, lũ lụt tràn vào ngập ruộng trước khi lúa chín. Nông dân vùng Tân châu đói thể thảm. May mà tôi cất nhà sàn, cao khoảng 1.5m, nên nước ngập lé đé sàn nhà.
Nhiều nông gia ở nhà đất, phải kê tủ giường lên cao, có người kê giường tới gần đụng nóc nhà.
Mỗi ngày, cô Tiên ngồi trên sàn nước, miệt mài câu từng con cá chốt, cá sặc, cá lòng tong. Tôi không dám nhìn lâu. Đến bữa ăn chỉ có món cá kho thập cẩm vậy mà thằng con khen “má kho cá ăn ngon”. Tôi mắc nghẹn từng hồi. Rồi cũng qua.
Ở quê, em không cho con đi học, nói mấy ổng dốt mà dạy cái gì! Vợ chồng tôi thay nhau dạy con nói và viết tiếng Việt, tiếng Pháp. Bài học tiếng Việt đầu tiên là bốn câu thơ của ngài Lý Thường Kiệt :
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Tiếng Pháp thì chúng tôi dạy con nói và viết những câu chào hỏi thông thường, không ngờ khi qua Úc nó học tiếng Anh nhanh hơn những bạn tị nạn khác nhờ tiếng Pháp và tiếng Anh có nhiều chữ giống nhau.
Qua năm 79, tôi trúng mùa. Bán mấy chục giạ lúa, thêm chút tiền dành dụm, mua được cái ghe nhỏ, tính chuyện lớn. Khoang ghe chỉ vừa đủ cho hai người lớn và một đứa nhỏ chen vai nhau ngủ. Tôi không biết chèo, tập cả tháng sau mới chèo được hai chèo. Em không biết lội nhưng nhất quyết đòi đi đến những nơi có thể cho chúng tôi thấy được tương lai. Em nói “mình đã sống mấy năm ‘có miệng không nói lại câm, hai hàng nước mắt chan dầm như mưa’. Đủ rồi, phải đi tìm tương lai cho mình và cho con”.
Vậy là đi. Chèo từ Tân châu tới Long xuyên mất hai ngày. Nghỉ xả hơi một ngày rồi chèo tiếp tới Ô Môn, Cần Thơ, Ngã 7, Sóc Trăng, Hộ Phòng, Gành Hào, và sau cùng là ngã 3 cây Tàn. Ở ngã 3 cây Tàn hơn một tháng vì có người mướn tôi đào ao nuôi cá. Đào ao một tháng được hai giạ gạo và một mớ tiền. Chúng tôi trở ra Gành hào vì thấy nơi này là nơi lý tưởng để ra đi. Tôi giấu dưới khoang ghe cái máy đuôi tôm, thường ngày không dám sử dụng, sợ người ta dòm ngó, định khi nào đi mới xài.
Ở Gành Hào đêm trước, thì đêm sau bị bão.
Mưa như trút nước, sấm chớp đầy trời. Chiếc ghe tôi lắc lư như người say rượu, nửa đêm đứt dây buộc sào trôi ra giữa sông. May là lúc đó nước lớn, nước từ ngoài biển đổ vô sông, nếu ngược lại thì có thể bão đã đưa chúng tôi qua Thái Lan hay hổng chừng… vô bụng cá. Tôi cột sợi dây quanh bụng, cố gắng lội vô bờ.
Hình như… lúc không còn cái gì để sợ nữa thì mình mạnh hơn bình thường nên tôi đã kéo chiếc ghe tới dưới dạ cầu chợ Gành hào. Buộc dây ghe lại đàng hoàng là tôi ngã lăn ra thở dốc, lạnh run cầm cập. Em lau mình cho tôi và đưa tôi cái bánh bía, hổng biết em mua lúc nào, đúng là cô Tiên. Ăn cái bánh bía đêm đó, hương vị thơm ngon còn phảng phất tới bây giờ.
Bye bye Gành hào, tôi gắn máy đuôi tôm chạy về Long Xuyên. Chúng tôi ở Long Xuyên gần ba năm. Tôi làm bất cứ chuyện gì, miễn là lương thiện, để có tiền nuôi vợ con. Có lúc đạp xe lôi, có lúc vác lúa gạo ở các nhà máy xay lúa, có lúc làm tạp nhạp.
Đến tháng 2/1982, em tìm được đường dây ra nước ngoài vừa với khả năng của vợ chồng tôi lúc đó. Cái may là chúng tôi chỉ đi một lần là tới Mã Lai. Ở Bidong một tháng rưỡi là được phái đoàn Úc nhận. Qua trại chuyển tiếp Sungei Besi2, ngoại ô Kuala Lumpur để khám bệnh, bổ túc hồ sơ. Ba tháng rưỡi sau là chúng tôi có list đi Úc.
Vài ngày sau khi đặt chân lên đất Úc, lúc đó chúng tôi chỉ biết tiếng Pháp chưa biết tiếng Anh. Em nói với tôi “moi không thích nhờ thông dịch, nhà mình phải có một người giỏi tiếng Anh, toi phải đi học. Moi sẽ đi làm nuôi toi và con”! Nghe ghê chưa?
Mà em cũng không biết tiếng Anh thì đi làm cái gì? Em quên mình từng là một tiểu thơ được cơm bưng nước rót, em quên mình từng đi học có xe đưa rước, em quên mình là… cô tiên của tôi. nên ai mướn gì làm nấy. Quét dọn nhà cửa cho người Úc, chăm sóc con em của đồng hương, làm chả giò bán sĩ (không biết em học ở đâu mà làm chả giò và đổ bánh xèo ngon nhất Darwin).
Tôi cũng đi làm ban ngày, đi học ban đêm. Bảy năm ròng rã, tôi lấy được 2 cái Certificates về kế toán và quản trị địa ốc và xin được cái job “Security Administrator” tại trường đại học Charles Darwin University ở Darwin đầu năm 1985. Tôi làm việc tại CDU liên tục hơn 27 năm, đến khi nghỉ hưu cuối năm 2012.
Em không đi học tiếng Anh một ngày nào nhưng sau này… lại làm thông dịch cho bạn bè, nhiều nhất là mấy cô lấy chồng Úc, mới qua Úc chân ướt chân ráo, tìm đến em nhờ giúp đỡ. Em chở họ đi làm hồ sơ nhập cư, điền đơn xin tiền an sinh xã hội… Bà xã tôi thương đồng hương nên ai nhờ thì giúp, cứ ăn cơm nhà vác ngà voi, không đòi hỏi ai phải trả đồng bạc nào dù biết làm thông dịch cũng được trả tiền. Mấy cô vợ Úc thương em lắm, cuối tuần là ghé nhà tôi xào xào nấu nấu … thật vui.
Hỏi em mới biết, em học tiếng Anh bằng cách theo dõi các chương trình Play School trên TV. Chương trình này dạy con nít Úc nói/viết tiếng Anh để chuẩn bị vô mẫu giáo. Em đọc báo tôi mang về mỗi ngày. Không hiểu chữ nào, đoạn nào thì em hỏi tôi hay tra tự điển.
Tiếu lâm nhất là khi bà hàng xóm nhờ em làm thông dịch. Bà này gốc Ý (Italy), có chồng gốc Tây Ban Nha (Spain). Bà ta đến Úc theo diện vợ chồng năm 1978 và không đi học ngày nào. Khi rảnh rỗi bà ta qua nói chuyện với bà xã tôi. Bà ta nói “broken english” với giọng Ý nên tôi và mọi người không ai hiểu cả. Vậy mà bà xã tôi hiểu nên mỗi lần bà hàng xóm cần đi bác sĩ, hay bất cứ cơ quan công quyền nào ở Darwin là qua năn nỉ nhà tôi theo làm thông dịch.
Một năm sau ngày đến Úc, tôi được bầu làm tổng thư ký Hội Người Việt Tự Do tại Darwin, sau đổi tên thành CĐNVTD Bắc Úc cho tới bây giờ. Tôi dính với các sinh hoạt của CĐ mình cho tới năm 2017 mới rút chân ra được. Suốt thời gian này, bất cứ tôi làm cái gì đều có sự giúp đỡ, yểm trợ khi công khai khi âm thầm của cô Tiên.
Đứa con thứ hai của chúng tôi chào đời năm 1984 tại Darwin. Nhìn em cho con bú, tắm rửa cho con, nâng niu thằng nhỏ như vàng như ngọc, tôi nhớ lại những ngày hai đứa mới thương nhau, mỗi lần bên nhau là bàn chuyện mai này… tôi viết bài thơ tặng em.
Một chiều lãng đãng ánh tà dương
Em kể anh nghe chuyện mộng thường
Đôi mắt em nhìn xao xuyến quá
Như sao lấp lánh một trời thương.
Từ đó đời mình hết lẻ loi
Đan tay qua phố bước chung đôi
Em cười rạng rỡ như tiên nữ
Tiên nữ của anh – cũng được rồi.
Từ đó đời mình ươm ước mơ
Từng đêm anh cắn bút làm thơ
Mỗi dòng ôm ấp ngàn thương nhớ
Thương nhớ lớn theo nổi đợi chờ.
Từ đó mình bàn chuyện lứa đôi
Mai này, mình có hai con thôi
Trưởng nam, phần nó lo hương hỏa
Em nó, cô Ba – có rượu mời.
Từ đó mình bàn chuyện cưới nhau
Anh giành chọn áo cưới cô dâu
Màu vàng, hoàng hậu lòng anh đó
Em nói : – Màu hồng, áo cô dâu!
Từ lúc về làm vợ của anh
Âm thầm mình kết mộng ngày xanh
Trưởng nam bật khóc, cưng như ngọc
Đứa kế trai luôn, quý tựa vàng.
Nhiều đêm nằm gác tay lên trán
Anh cám ơn Trời, cám ơn em
Bảy nổi ba chìm mình chẳng ngán
Vì em có anh, anh có em.
Từ năm 2005 đến năm 2015, chúng tôi tổ chức những bữa ăn cứu trợ Thương Phế Binh còn sống khổ sở nơi quê mình bằng cách… tổ chức BBQ tại nhà tôi. Thức ăn do bà xã tôi và vài người bạn thân cùng chung sức nấu nướng, tôi bỏ tiền túi mua bia và nước giải khát. Ăn uống free. Tôi để 1 cái “Thùng Cứu trợ” trên bàn, ai cho bao nhiêu, tôi gởi về VN giúp anh em thương phế binh bấy nhiêu, theo tiêu chuẩn mỗi người 100 Úc kim.
Vì số người Việt ở Darwin rất khiêm nhường, chỉ có vài trăm người, nên lúc đầu chỉ được vài ngàn. Từ từ, bà con tin tưởng nên khi có dịp đi ngang nhà tôi là họ bỏ tiền vô thùng thơ, không đợi đến Bữa ăn Cứu trợ.
Gõ máy tới đây, bỗng nhiên làm biếng… không muốn gõ máy nữa, vì đang nhớ cô Tiên, nhớ quá xá nhớ.
Cô Tiên của tôi đã về trời sau khi đã cùng sống chung với cha con tôi 43 năm, 3 tháng, 27 ngày hạnh phúc. Em quy tiên sau một cơn bạo bệnh. Từ một người mạnh khỏe bình thường, đúng 5 tuần sau thành người thiên cổ.
Trong những ngày cuối của cuộc sống nơi dương thế, khi thấy hai con đứng nhìn em, nước mắt lưng tròng, em cầm tay con lắc lắc, mỉm cười nói: “Chúa cũng chết, Phật cũng chết, thì Má cũng chết. Má đã trả xong món nợ ân tình với Ba con và các con thì Má đi. Con trai khóc… xấu lắm”. Con tôi quẹt nước mắt… miệng cười méo xẹo.
Trong Hospice Hospital, nơi dành cho những bệnh nhân… “terminally ill”, mỗi ngày có y tá đến đánh răng và lau mình cho em. Có một lần em cám ơn họ “Thanks so much for keeping my body clean. I know it’s shutting down”. Cô y tá người Úc trợn mắt nhìn em, rưng rưng nước mắt. Sau này, cô nói với tôi “Tao chưa thấy ai sắp chết mà còn lịch sự và tỉnh táo như vợ mầy”.
Khi biết mình sắp trả xong cái nghiệp ở dương gian, em nắm tay tôi dặn dò phải tổ chức tang lễ em như thế nào. Thỉnh vị tăng ni nào chủ trì tang lễ, xong phải hỏa thiêu và chỉ giữ tro cốt 100 ngày. Sau đó mang tro cốt em rải trên sông Parramatta, đoạn gần Opéra House ở Sydney, là nơi em thích đi dạo mỗi lần đi thăm con. Em nói nhỏ nhẹ như đang lo tang lễ của ai khác. Tôi chỉ biết im lặng gật đầu, ráng kềm cho nước mắt đừng chảy ra. Tôi đã làm đúng theo lời em dặn.
Từ ngày cô Tiên về trời, cha con tôi đứt ruột đứt gan, tan nát trong lòng. Tôi đã sống những ngày như người chết chưa chôn.
Câu chuyện kể có thật của Buu Nguyen
(st) <3 <3
5 notes
·
View notes
Text
THƯ MỜI THAM DỰ ĐẠI HỘI LỄ KHÁNH THÀNH LỤC GIÁC ĐÀI VÀ THỈNH NGUYỆN ĐỨC QUỐC CÔNG LÊN NGÔI HOÀNG ĐẾ - 11/11
THƯ MỜI THAM DỰ ĐẠI HỘI LỄ KHÁNH THÀNH LỤC GIÁC ĐÀI VÀ THỈNH NGUYỆN ĐỨC QUỐC CÔNG LÊN NGÔI HOÀNG ĐẾ – 11/11
ADELANTO, CALIFORNIA, UNITED STATES, October 22, 2022 /EINPresswire.com/ — Kính gửi: Quý Đồng Bào Việt Nam thân thương trong và ngoài nước Quý Đồng Nhiệm CPQGVNLT – VNCH Đệ Tam Quý Chiến Hữu, Quý Cựu chiến binh QLVNCH, Hoa Kỳ và Đồng Minh Vào ngày 11/11/2018, ĐỨC QUỐC CÔNG ĐÀO MINH QUÂN đã đăng quang TỔNG THỐNG VNCH ĐỆ TAM theo nguyện vọng của đại diện toàn dân, ba thế hệ Lão Niên – Trung Niên –…
View On WordPress
0 notes
Photo
The PAVN, under the command of General Văn Tiến Dũng, began their final attack on Saigon on 29 April 1975, with the Army of the Republic of Vietnam (ARVN) forces commanded by General Nguyễn Văn Toàn suffering a heavy artillery bombardment. By the afternoon of the next day, the PAVN had occupied the important points of the city and raised their flag over the South Vietnamese presidential palace. The city was renamed Hồ Chí Minh City, after the late North Vietnamese President Hồ Chí Minh. The capture of the city was preceded by Operation Frequent Wind, the evacuation of almost all American civilian and military personnel in Saigon, along with tens of thousands of South Vietnamese civilians who had been associated with the Republic of Vietnam. A few Americans chose not to be evacuated. United States ground combat units had left South Vietnam more than two years prior to the fall of Saigon and were not available to assist with either the defense of Saigon or the evacuation.[5] The evacuation was the largest helicopter evacuation in history.[6]:202 In addition to the flight of refugees, the end of the war and the institution of new rules by the communists contributed to a decline in the city's population. QĐNDVN, dưới sự chỉ huy của Tướng Văn Tiến Dũng, bắt đầu cuộc tấn công cuối cùng vào Sài Gòn vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, với lực lượng Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) do Tướng Nguyễn Văn Toàn chỉ huy hứng chịu một đợt pháo kích nặng nề. Đến chiều ngày hôm sau, QĐNDVN đã chiếm các cứ điểm quan trọng của thành phố và phất cờ trên phủ tổng thống Nam Việt Nam. Thành phố được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh, theo tên cố Chủ tịch Hồ Chí Minh của Việt Nam. Việc đánh chiếm thành phố diễn ra trước Chiến dịch Gió thường xuyên, cuộc di tản của hầu hết dân thường và quân nhân Hoa Kỳ tại Sài Gòn, cùng với hàng chục ngàn thường dân miền Nam Việt Nam từng gắn bó với Việt Nam Cộng hòa. Một số ít người Mỹ đã chọn không di tản. Các đơn vị tác chiến trên bộ của Hoa Kỳ đã rời miền Nam Việt Nam hơn hai năm trước khi Sài Gòn thất thủ và không có mặt để hỗ trợ việc bảo vệ Sài Gòn cũng như việc di tản. [5] Cuộc di tản là cuộc di tản bằng máy bay trực thăng.., (at Ho Chi Minh City, Vietnam) https://www.instagram.com/p/CTvxXXYl348/?utm_medium=tumblr
0 notes
Photo
Ngày 19/06/2020 Kính thưa Đồng Bào! Thưa qúy Tướng Lãnh, quý Đại Biểu, qúy Thành Viên, Đồng Nhiệm! Thưa qúy Niên Trưởng, qúy Huynh Trưởng, qúy Chiến Hữu! và các bạn Thanh Niên, Thiếu Nữ Việt Nam thân mến! Cách đây 55 năm, để ổn định tình hình đất nước, cố Trung Tướng NGUYỄN VĂN THIỆU, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, sau này là Tổng Thống Đệ Nhị VNCH đã ký sắc lệnh số 001/a/CT/LĐQG ngày 19/06/1965 để thành lập nội các. Đó là ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) chính thức đứng ra nhận trách nhiệm với toàn dân để điều hành và quản trị quốc gia. Nhưng 10 năm sau, Cộng quân đã xé nát Hiệp Định Paris do chúng ký kết, để tấn công, cưỡng chiếm Nam Việt Nam ngày 30/04/1975. Hôm nay 19/06/2020, nhân Lễ Kỷ Niệm QLVNCH, tôi là Đào Minh Quân, Tổng Thống Đệ III VNCH, thay mặt cho Đồng Bào và tất cả qúi thành viên, cùng toàn thể Hội Đồng Nội Các, cùng nhau thắp nén tâm hương tưởng kính những Anh Linh Chiến sĩ QLVNCH và Đồng minh đã hy sinh vì lý tưởng tự do. Xin đại diện cho những người Việt bị Cộng Sản cướp nước, chúng tôi trân trọng bày tỏ lòng tri ân đến Chính Phủ và nhân dân Hoa Kỳ, cùng tất cả Đồng Minh của người Việt Nam trên toàn thế giới. Cũng nhân dịp Lễ Từ Phụ của Hoa Kỳ (FATHER’S DAY), CPQGVNLT-Đệ III VNCH trân trọng vinh danh những người Ông, người Cha, người Anh và các Em, các Cháu. Đặc biệt là những Vị Anh Hùng Vô Danh, 58,721 quân nhân Hoa Kỳ, cùng với 316,000 Chiến Sĩ VNCH và Đồng Minh đã hy sinh bảo vệ Tự Do, che chở cho Đồng Bào Việt Nam thoát sự khủng bố, sát hại của Cộng quân. Dù đã nằm xuống, nhưng Chiến Sĩ và Anh Hùng Dân Tộc không bao giờ chết. Lòng hy sinh và sự chiến đấu qủa cảm, kiên cường của họ đã trở thành bất tử, là Hồn Linh - Khí Thiêng của chúng ta, đã biến QLVNCH trở thành niềm hãnh diện, đầy tự hào của biết bao thế hệ Con Rồng, Cháu Tiên. Tinh thần anh dũng, bất khuất của QLVNCH và Đồng Minh sẽ mãi mãi là ánh thái dương để xua tan bóng ma tội ác, triệt hạ hoàn toàn chế độ Cộng Sản tại Việt Nam và trên hoàn vũ. Linh hồn của họ luôn bên cạnh chúng ta, để độ trì, phù trợ cho CPQGVNLT-ĐỆ III VNCH thêm vững mạnh, thành công trong quyết tâm phục hồi chế độ VNCH trên quê hương. Hiện nay giang sơn gấm vóc của chúng ta đang bị Cộng Sản thống trị. Chúng đã lộ nguyên hình là 1 đảng cướp phi nhân, vô đạo, tay sai Tàu Cộng để thực hiện mật ước Thành Đô, với ý đồ muốn biến nước ta thành một quận lỵ của chúng. CSVN đã nhu nhược để Hoàng Sa, Trường Sa và nhiều quần đảo, đất đai của chúng ta lọt vào tay Tàu Cộng. Bọn chúng đang đồng lõa với Tàu Cộng để khủng bố dân lành, đầu độc dân sinh, cầm tù những nhà ái quốc, triệt hạ nhân tài, phá hũy kỷ cương, giềng mối, đạo đức chân chính của người Việt Nam với âm mưu Hán hóa dân ta. Nhà Văn Hà Thúc Sinh có viết: “Ở đây cơm áo co vòi lại Chỉ biết mình thôi, không biết ai”. Và Ngục Sĩ Nguyễn Chí Thiện, người bị CS cầm tù 28 năm cũng từng thở than: “Vì ấu trĩ, vì thờ ơ ngu tối Vì muốn an thân, vì tiếc máu xương Cả nước phải qui về một mối Một mối hận thù, một mối tang thương”. Tổ Quốc đang lâm nguy, dân chúng đang bị CS đàn áp sống lầm than, thống khổ. Những người trai thế hệ, những hậu duệ anh hùng, quả cảm QLVNCH, những anh thư, hào kiệt, trí thức không thể khoanh tay đứng nhìn. Chúng tôi kêu gọi mọi người, mọi giới, mọi thành phần Quốc Gia, Dân Tộc, mọi giai cấp và tất cả các tổ chức, đảng phái chính trị, xã hội trong cộng đồng Việt Nam toàn cầu, cùng tham gia chiến dịch KÝ ĐẠP MẶT HỒ CHÍ MINH, là tên gián điệp Việt gian Tàu Cộng, dứt khoát lập trường KHÔNG CHẤP NHẬN Cộng Sản, mạnh mẽ dấn thân với CPQGVNLT-ĐỆ III VNCH để giúp dân, cứu nước, phục hưng chế độ VNCH hữu thần, nhân đạo, độc lập, tự do và dân chủ thật sự trên quê hương dấu yêu. VIỆT NAM PHẢI THAY ĐỔI, CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN PHẢI BỊ TRIỆT HẠ! Tất cả Đồng Minh, toàn thể nhân loại yêu chuộng công lý và hòa bình sẽ nhập cuộc với chúng ta. Nhất định chúng ta phải quyết tâm đoàn kết, cùng nhau triệt hạ đảng CSVN, giải thể cái gọi là “nhà nước” CHXHCNVN vô thần tay sai giặc Tàu, đang thống trị, kìm kẹp, diệt chủng dân tộc chúng ta. Chắc chắn những người Việt Nam yêu nước, sáng suốt và can đảm sẽ tạo thành đại cuộc TOÀN THẮNG VĨ ĐẠI để thực thi bản Hiến Pháp Đệ III VNCH, hầu mang đến cho toàn dân một đời sống Tự Do, Hạnh Phúc, Ấm No, giúp cho tương lai con cháu Việt Nam được sáng lạn, huy hoàng, hãnh diện sánh vai cùng Năm Châu Bốn Biển. Nguyện xin Đấng Tối Cao Trời Phật, Hồn Thiêng Sông Núi và Anh Linh Tử Sĩ luôn độ trì, ban cho chúng ta được sức khoẻ, bình an và tâm nguyện LẤY LẠI ĐẤT TỔ – KHÔNG LÀM KHỔ DÂN được thành đạt, viên mãn. Trân trọng kính chào Tổng Thống Đào Minh Quân Hiến Pháp Đệ Tam VNCH : https://ift.tt/2AbLr8v Trang Hiến Pháp Đệ Tam VNCH https://ift.tt/3foqqGU Thông báo : đón Tổng Thống Đệ Tam VNCH Đào Minh Quân ở đâu? dontongthong.com. Trưng Cầu Dân Ý, Đăng Ký Làm HDĐTVNCH, Xin nhà, Xin việc làm... : bằng cách quét QRCODE VNCH : https://ift.tt/3hmUPHk TIẾNG NÓI QUỐC NỘI Youtube : https://www.youtube.com/channel/UC5kx8kVRVn3nH-sJApBr8mw/videos?view_as=subscriber Fanpage : https://ift.tt/3fhNsio https://ift.tt/2B1kswF https://ift.tt/2YN6yXc
0 notes
Text
Ba tôi qua đời bất ngờ năm 1964, nhỏ em út còn trong bụng Má. Tôi phải nghỉ học, tìm việc làm ngày đêm để phụ giúp Má tôi nuôi sáu đứa em còn nhỏ dại.
Đầu năm 1965, tôi được mời đến dạy kèm Toán cho cô con gái lớn một gia đình người Việt ở Nam Vang. Mỗi ngày 2 tiếng, từ 7 đến 9 giờ tối, từ thứ Hai đến thứ Sáu. Em học trường Providence, còn gọi là trường Bà Phước, lúc đó chỉ dành cho nữ sinh. Em nhỏ hơn tôi một tuổi nhưng mới ở lại Cinquième, trong khi tôi đã đậu Brevet d’Études du Premier Cycle hai năm trước.
Có lẽ vì là con gái nhà khá giả nên em hơi… làm biếng học, nhất là toán, géometrie và algèbre. Lúc đầu, tôi hơi nản lòng vì… em nhìn bài vở như thấy ma, tôi thường phải làm bài giùm em, nhưng từ từ em nghe lời tôi khuyên, chịu làm bài, chịu học bài, và được lên lớp mỗi năm.
Đầu năm 1968, em học Troisième, chuẩn bị thi Brevet. Tôi kèm em từng môn, giúp em làm những bài vở mà đúng ra tôi không cần giúp. Em trả ơn bằng cách mời tôi ở lại ăn cơm tối.
Tôi cho em mượn những quyển sách mà tôi đã học qua, trong một lần trả sách, em kèm theo tấm giấy chỉ viết một câu “cho moi làm amie intime của toi nha”. Tôi gật đầu vì sợ em giận, em không thèm học nữa. Từ đó, em hẹn tôi đi chơi cuối tuần, tôi cũng gật đầu với điều kiện là em phải xin phép Ba Má đàng hoàng và phải ráng học.
Tôi biết em thương tôi, tôi cũng thương em. Tôi gọi em là “cô Tiên” vì em có dáng dấp qua cầu gió bay, có bước đi lả lướt nhẹ nhàng như các nàng tiên nữ trong vũ khúc nghê thường, vì em đã mang đến cho tôi những cảm xúc mà người trần gian chưa từng cho tôi trước đó.
Những ngày mưa, không đi chơi được thì tôi ngồi hát em nghe bên mái hiên nhà:
Một chiều cuối tuần mưa bay lất phất và mây trắng giăng giăng
Em đến thăm anh vì trời mưa mãi nên không kịp về
Bên anh, em lặng nhìn bầu trời và ánh mắt mộng mơ
Sợ người yêu khóc, khe khẽ bên tai anh kể chuyện ngày xưa.
Chuyện xưa kể rằng trên thiên giới ấy ngày vui kết hoa đăng
Thiên Quốc đang vui một nàng tiên nữ làm rơi ly ngọc ngà
Đang say nên trời bèn đọa đày nàng tiên xuống trần gian
Làm người dương thế không biết bao lâu mới được quay về trời.
Em ơi nàng tiên ấy xuống dương trần một chiều mưa bay nhiều
Và vì thương trần thế, thương kiếp sống phong sương
Nên dù rằng một hôm Thiên Quốc trời sai
Gom mây hồng làm xe đưa tiên về
Tiên nói dối tiên còn đang giận trời nên tiên chẳng về đâu.
Nàng tiên giáng trần không đôi cánh trắng giờ đang ngắm mưa bay
Đang đứng bên anh thầm cầu mưa mãi cho tiên đừng về
Anh ơi lỡ mà trời gọi về thì tiên chẳng về đâu
(Bài hát “Huyền Thoại Một Chiều Mưa”)
Nhưng tôi luôn nhớ mình là con trai nhà nghèo, chỉ có chiếc Mobylette cà tàng làm chân đi kiếm cơm mỗi ngày. Em là con gái nhà khá giả, đi học có xe đưa rước, về nhà không làm động móng tay vì đã có chị bếp, chị bồi, chị vú lo toan mọi việc. Nếu hai đứa thành vợ thành chồng, em cực thân là cái chắc.
Trong một lần kề vai nhau đi quanh công viên Chùa Tháp, trời bỗng dưng mưa. Tôi bật dù che hai đứa nhưng mưa càng lúc càng nặng hột, em bỗng xoay người lại ôm hôn tôi dưới mưa. Tôi than thầm trong bụng “gặp oan gia truyền kiếp rồi”.
Năm đó, em thi đậu Brevet và tôi nghỉ dạy vì vừa xin được cái job thư ký kế toán ở hãng L’UCIA, Nam Vang.
Lúc trước gặp nhau 5 ngày mỗi tuần, có nhiều thì giờ để nói với nhau những gì muốn nói. Giờ phải chờ đến cuối tuần mới được gặp nhau vài tiếng, nhớ ơi là nhớ. Tôi bắt đầu làm thơ “nhớ em”…
Nhớ lúc xưa kia mới biết nhau
Rồi thương rồi nhớ suốt đêm thâu
Ðêm nào cũng vái cho mau sáng
Nhớ quá trời ơi! Nhớ phát rầu.
Nhớ những chiều em qua phố vắng
Dáng hồng xen lẫn bóng hàng cau
Mân mê vạt áo, em e lệ
Những lúc anh nhìn, má đỏ au.
Nhớ lúc mình đan tay đếm bước
Em run run hỏi: – Sẽ ra sao ?
Anh cười, anh nói như đinh đóng:
– Anh sẽ yêu em đến bạc đầu!
Đưa bài thơ cho em, em bỏ túi nói sẽ về nhà đọc. Tuần sau gặp nhau, em không nhắc gì về bài thơ của tôi mà hỏi tôi nghĩ gì về cuộc sống hai đứa sau này.
Tôi nói là nhà tôi nghèo, em nói em biết rồi, tôi phải đi làm giúp Má nuôi các em còn nhỏ, em nói em cũng biết rồi, nếu mình cưới nhau thì em sẽ cực thân hơn là sống với Ba Má em…
Em trả lời làm tôi chưng hửng “hiện nay, cái khổ nhất mà “moi” phải chịu đựng hàng ngày là nhớ “toi”, cái cực nhất mà moi phải chịu đựng hàng ngày là làm sao để gặp toi sớm hơn, nên moi không sợ gì cả. Trời sanh voi sanh cỏ”.
Tôi khuyên em nên kiên nhẫn, nói cho em hiểu lúc này là thời gian đẹp nhất trong cuộc tình hai đứa, cái nhớ cái thương bây giờ sẽ làm mình gắn bó nhau hơn sau này…
Em nghe lời tôi và chuyện hẹn hò của chúng tôi kéo dài cho tới đầu năm 1970.
Tướng Lon Nol lật đổ vua Sihanouk, tự phong là tổng thống xứ Kampuchea (Cao Miên).
Một số người Miên quá khích thừa nước đục thả câu, “cáp duồn” (nghĩa là chặt người Việt) lẻ tẻ. Đang đêm, họ đến gõ cửa nhà người Việt ở những vùng thôn quê hẻo lánh. Một số người Việt không may đã bị họ chặt đầu, xác thả trôi sông về tới Tân Châu, Hồng Ngự… Nhiều người Việt có chút của ăn của để ở Cao Miên bán tháo tài sản để về Miền Nam Việt Nam lánh nạn. Ba Má em cũng không ngoại lệ.
Em gặp tôi bàn chuyện này. Tôi đem việc này hỏi ý kiến ông giám đốc hãng L’UCIA. Ông giám đốc đưa hai đứa tôi về biệt thự do hãng mướn cho ổng ở trên đại lộ Norodom, ngay trung tâm thủ đô Nam Vang. Ổng nói: “nhà tao có 2 người b��i bếp, có 2 con chó berger giữ nhà. Nhà có 5 phòng, tao ở chỉ một phòng. Nếu hai đứa thấy ở nhà mầy không an toàn thì đến đây ở với tao. Tao tin tưởng và cần thằng B. giúp tao giữ gìn sổ sách của hãng nên hai đứa mầy muốn ở phòng nào, muốn ở bao lâu cũng được”.
Nghe vậy, chúng tôi yên tâm và quyết định ở Nam Vang dù Ba Má em có về Sàigòn.
Em về xin Ba Má cho hai đứa làm đám cưới. Má em có cảm tình với tôi nên gật đầu. Ba em im lặng vì biết tôi nghèo, sợ con gái cưng của ông sẽ cực khổ khi về làm vợ tôi. Em nói với Ba Má em “nếu Ba Má không tổ chức đám cưới cho hai đứa con, tụi con sẽ tự lo. Con muốn làm vợ anh B. danh chánh ngôn thuận”.
Và hai đứa tôi tự tổ chức lễ cưới của mình.
Sáng ngày 24/02/1970, Má tôi và tôi mang trầu cau và phẩm vật đến xin cưới em. Chúng tôi lạy bàn thờ tổ tiên nhà em, xin quý ngài chứng giám cho chúng tôi thành vợ thành chồng. Tôi mướn xe Mercedes để rước “cô Tiên” xuống trần.
Tối đến là tiệc cưới tại nhà hàng La Lune, đối diện State Olympic, với 200 quan khách, họ hàng và bạn bè nhà trai, nhà gái. Dĩ nhiên là có nhạc sống do mấy tên bạn tôi tự mang đồ nghề đến giúp vui. Đêm đó, hai đứa tôi khiêu vũ và cụng ly với bạn bè gần tới sáng.
Sau ngày chúng tôi thành hôn thì tình hình chính trị giữa hai nước Kampuchea và Miền Nam Việt Nam biến chuyển dồn dập. Ông bà nhạc tôi và gia đình bay về Sàigòn vài ngày sau đó. Vợ chồng tôi vẫn ở Nam Vang. Tôi vẫn đi làm ở L’UCIA .
Khi xác nhiều người Việt trôi về tới Hồng Ngự, Tân Châu, ông Nguyễn Cao Kỳ – lúc đó là Phó Tổng Thống VNCH – ra lệnh cho Quân-đoàn 3 tràn qua biên giới, lấy cớ là để “bảo vệ kiều bào VN”. Trung tướng Đỗ Cao Trí nhận lệnh với lời tuyên bố làm chấn động chính phủ Cao Miên: “Cho tôi 24 tiếng, tôi sẽ chiếm Nam Vang”.
Ông Lon Nol nghe muốn té đái. Mới làm tổng thống có mấy ngày, nếu để QLVNCH chiếm Nam Vang thì mất mặt bầu cua. Ông gọi điện năn nỉ chính phủ VNCH đừng chiếm Nam vang nên Quân-đoàn 3 dừng lại ở Neak Luong (người Việt mình gọi là Hố Lương), một bến phà chỉ cách Nam vang 60 cây số.
Nghe tin QLVNCH tràn qua biên giới, cả trăm ngàn kiều bào VN ở Cao Miên, trong đó có vợ chồng tôi, bỏ tất cả tài sản, dắt díu nhau vào các trại tị nạn. Các sân trường trung học, chùa, nhà thờ bỗng trở thành những trại tị nạn khổng lồ. Vợ chồng tôi vào trường Seminaire, nơi tôi đã học năm cuối chương trình Tú tài Pháp hai năm trước.
Trong trại Seminaire, người ta chia ra nhiều nhóm, mỗi nhóm 10 gia đình, trước hết là để lãnh nước uống, sau là thức ăn, lúc đó chỉ có khô cá lóc do Red Cross cung cấp. Tôi làm trưởng nhóm 31.
Đầu tháng 5/1970, ông Nguyễn Cao Kỳ bay lên Nam Vang, nói là thăm xã giao tướng Lon Nol nhưng thật sự là đi thanh tra các trại tị nạn. Tối đêm trước, tôi và các trưởng nhóm được lệnh phải thu tất cả những những gì có thể coi như là vũ khí gồm dao, gậy,… và cùng nhiều người thức gần sáng đêm để dựng cái sân khấu dã chiến.
Khi ông Kỳ vào trại Seminaire, ông đến từng lều, bắt tay và hỏi thăm từng người. Điều làm mọi người chú ý là 2 anh đại-úy cận vệ. Họ cao hơn ông Kỳ 1 cái đầu, mặc đồ bay, mang súng ngắn dưới nách, nhưng không cản trở khi kiều bào đến bắt tay, thậm chí ôm hôn ông Kỳ.
Ông Kỳ lên sấn khấu, nói vài lời thăm hỏi xã giao rồi hứa: “Tôi sẽ đưa tất cả đồng bào về quê hương!”
Ông nhận được những tràng pháo tay như sấm động của mấy ngàn người trong trại Seminaire. Nhiều bà lão bò ra khoảng trống trước sân khấu lạy ông Kỳ như tế sao.
Vài ngày sau, chúng tôi được phát thịt heo lần đầu, dù không ai biết ai cho nhưng mọi người nghĩ là từ chính phủ VNCH. Tuần sau, một đoàn “tàu há mồm” của Hải quân VNCH cặp bến sông Mekong.
Danh sách từng nhóm được gọi để rời trại xuống tàu về nước. Vợ chồng tôi thuộc danh sách thứ 31 nên gần cuối tháng 5/1970 mới được rời trại. Sau 1 ngày lênh đênh trên sông Tiền (hay sông Hậu?) thì về tới trại Đồng Tâm, Mỹ Tho, lúc đó là hậu cứ của Sư-đoàn 7 BB.
Vợ chồng tôi chỉ ở trại Đồng Tâm 5 ngày. Làm giấy tờ nhập cảnh xong thì Ba em lái xe xuống rước về Sàigòn.
Cuộc sống chúng tôi từ ngày về Sàigòn không còn… tà tà như lúc ở Nam Vang. Cũng như tất cả Việt kiều hồi hương lúc đó, tôi được hoãn dịch 18 tháng. Thời gian không nhiều nên tôi làm ngày làm đêm. Em cũng đi làm. Cuối tuần hai đứa đưa nhau đi ăn mì xào dòn, hay ăn nghiêu luộc.
Mỗi tối đi đàn về, tôi chạy thẳng vô Chợ Lớn mua cho em cái bánh bao Ông Cả Cần của Bà Năm Sa-Đéc. Lúc này em không còn thơ thẩn, mà ngược lại… em ăn rất bạo. Dù không nói ra, tôi biết em đang chuẩn bị cái bụng cho đứa con đầu lòng của chúng tôi, dù không biết lúc nào nó sẽ tượng hình.
Nhiều người trong gia tộc hai bên thường trề môi nói “thằng B. con nhà lính tính nhà quan, mới ở Nam Vang về tay trắng mà vợ nó muốn gì được nấy”….
Mấy người này không biết là lúc còn độc thân, tôi đã đọc một câu định nghĩa “người phụ nữ lý tưởng” của một người đàn ông như sau: “Người phụ nữ lý tưởng của một người đàn ông là người bạn, người tình và là người vợ của người đàn ông đó”.
Hồi đọc câu đó, tôi chưa gặp cô Tiên nên tôi đã tự hỏi ngược lại là “tôi có thể vừa là người bạn, vừa là người tình, và là chồng của vợ tôi không”. Ông nào muốn biết cái vụ này nó khó cỡ nào cứ thử cua một cô bạn gái rồi cưới cổ về làm vợ thì sẽ hiểu câu… “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”.
Nhưng khi gặp rồi thương yêu cô Tiên, cái định nghĩa xưa tự nó cho tôi lời giải đáp.
Lúc mới thương nhau, tôi thường kể em nghe chuyện bồ bịch của tôi lúc trước. Em chẳng những không ghen hờn, mà còn góp ý đôi khi rất tiếu lâm, rồi hai đứa cười hí hí. Lúc hai đứa đi chơi, gặp cô nào có “ngực tấn công, mông phòng thủ” là tôi hay quay lại nhìn, em im lặng nắm tay tôi, đợi cô đó đi khỏi tầm mắt mới hỏi “bộ toi hổng thấy cổ đi hai hàng hả?”. Khi vào tiệm bán sách, tôi có cái tật (hổng biết xấu hay tốt) là đứng hơi lâu trước mấy cái đặc san người lớn như PlayBoy. Em im lặng đứng bên tôi, đến khi rời tiệm sách em mới phê bình… “nhỏ này vú đẹp, cô kia mông teo…”. Chỉ khi đến kệ bày mấy cuốn Salut les Copains, em mới thò tay lựa cuốn mới nhất và tự ra quầy trả tiền.
Em chưa bao giờ bắt tôi trả tiền những gì em mua cho riêng em. Em chưa bao giờ lớn tiếng hay dùng lời lẽ không lịch sự với bất cứ ai, dù đôi khi tôi hay ai đó vô tình hoặc cố ý làm em giận.
Ba em nói với em “Ba thấy nó đi nhảy đầm, tay trái một con, tay mặt một con”. Em trả lời “những gì ảnh làm lúc còn độc thân là quyền của ảnh, con không cần biết (thật ra tôi đã kể em nghe hết rồi). Chỉ cần biết hiện giờ hai đứa con thương nhau thật lòng là được rồi”.
Em có cách hôn, chỉ phớt nhẹ, làm tôi hồn phi phách tán. Khi thấy tôi buồn, em cầm tay tôi, xoa nhè nhẹ lên mu bàn tay, khiến tôi quên hết mọi phiền não. Sau này thành vợ thành chồng, em vẫn là người tình tuyệt vời. Em biết cách làm tôi quên những nghiệt ngã mà tôi đã trải qua trong ngày hôm đó.
Em biết tiết kiệm, vén khéo với số tiền mà chúng tôi kiếm được. Em không se sua, dù luôn ăn mặc thanh lịch. Mỗi lần hai đứa ra đường là tôi phải ngó trước nhìn sau, coi có tên nào nhìn lén em không. Khi đứa con đầu lòng của chúng tôi chào đời năm 1972, em tự nguyện bỏ bớt chuyện mua sắm cho riêng mình, để có đủ tiền cho con chúng tôi bú sữa Guigoz 3 năm liên tục.
Cô Tiên đã là một người bạn, một người tình và là người vợ tuyệt vời của tôi.
Được một người vợ như cô Tiên, em muốn gì được nấy không có gì quá đáng.
Bán nhà cho em cũng được, huống chi là ba cái lẻ tẻ.
Tháng 4/1972, tôi hết hạn hoãn dịch, phải đi lính cho tới ngày tan hàng.
Sau 75, có ngày hai đứa phải ăn sáng bằng… cơm nguội, nhưng em luôn dành 1 hoặc 2 đồng cho con chúng tôi có gói xôi nóng hay tô cháo huyết.
Cực nhất là lúc chúng tôi về quê tôi sống từ năm 1976 đến năm 1979. Má tôi cho hai công ruộng và nửa công vườn, đủ cho gia đình chúng tôi sinh sống, không cần phải đi làm mướn, làm thuê. Nhưng không may là hai năm 77-78, lũ lụt tràn vào ngập ruộng trước khi lúa chín. Nông dân vùng Tân châu đói thể thảm. May mà tôi cất nhà sàn, cao khoảng 1.5m, nên nước ngập lé đé sàn nhà.
Nhiều nông gia ở nhà đất, phải kê tủ giường lên cao, có người kê giường tới gần đụng nóc nhà.
Mỗi ngày, cô Tiên ngồi trên sàn nước, miệt mài câu từng con cá chốt, cá sặc, cá lòng tong. Tôi không dám nhìn lâu. Đến bữa ăn chỉ có món cá kho thập cẩm vậy mà thằng con khen “má kho cá ăn ngon”. Tôi mắc nghẹn từng hồi. Rồi cũng qua.
Ở quê, em không cho con đi học, nói mấy ổng dốt mà dạy cái gì! Vợ chồng tôi thay nhau dạy con nói và viết tiếng Việt, tiếng Pháp. Bài học tiếng Việt đầu tiên là bốn câu thơ của ngài Lý Thường Kiệt :
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Tiếng Pháp thì chúng tôi dạy con nói và viết những câu chào hỏi thông thường, không ngờ khi qua Úc nó học tiếng Anh nhanh hơn những bạn tị nạn khác nhờ tiếng Pháp và tiếng Anh có nhiều chữ giống nhau.
Qua năm 79, tôi trúng mùa. Bán mấy chục giạ lúa, thêm chút tiền dành dụm, mua được cái ghe nhỏ, tính chuyện lớn. Khoang ghe chỉ vừa đủ cho hai người lớn và một đứa nhỏ chen vai nhau ngủ. Tôi không biết chèo, tập cả tháng sau mới chèo được hai chèo. Em không biết lội nhưng nhất quyết đòi đi đến những nơi có thể cho chúng tôi thấy được tương lai. Em nói “mình đã sống mấy năm ‘có miệng không nói lại câm, hai hàng nước mắt chan dầm như mưa’. Đủ rồi, phải đi tìm tương lai cho mình và cho con”.
Vậy là đi. Chèo từ Tân châu tới Long xuyên mất hai ngày. Nghỉ xả hơi một ngày rồi chèo tiếp tới Ô Môn, Cần Thơ, Ngã 7, Sóc Trăng, Hộ Phòng, Gành Hào, và sau cùng là ngã 3 cây Tàn. Ở ngã 3 cây Tàn hơn một tháng vì có người mướn tôi đào ao nuôi cá. Đào ao một tháng được hai giạ gạo và một mớ tiền. Chúng tôi trở ra Gành hào vì thấy nơi này là nơi lý tưởng để ra đi. Tôi giấu dưới khoang ghe cái máy đuôi tôm, thường ngày không dám sử dụng, sợ người ta dòm ngó, định khi nào đi mới xài.
Ở Gành Hào đêm trước, thì đêm sau bị bão.
Mưa như trút nước, sấm chớp đầy trời. Chiếc ghe tôi lắc lư như người say rượu, nửa đêm đứt dây buộc sào trôi ra giữa sông. May là lúc đó nước lớn, nước từ ngoài biển đổ vô sông, nếu ngược lại thì có thể bão đã đưa chúng tôi qua Thái Lan hay hổng chừng… vô bụng cá. Tôi cột sợi dây quanh bụng, cố gắng lội vô bờ.
Hình như… lúc không còn cái gì để sợ nữa thì mình mạnh hơn bình thường nên tôi đã kéo chiếc ghe tới dưới dạ cầu chợ Gành hào. Buộc dây ghe lại đàng hoàng là tôi ngã lăn ra thở dốc, lạnh run cầm cập. Em lau mình cho tôi và đưa tôi cái bánh bía, hổng biết em mua lúc nào, đúng là cô Tiên. Ăn cái bánh bía đêm đó, hương vị thơm ngon còn phảng phất tới bây giờ.
Bye bye Gành hào, tôi gắn máy đuôi tôm chạy về Long Xuyên. Chúng tôi ở Long Xuyên gần ba năm. Tôi làm bất cứ chuyện gì, miễn là lương thiện, để có tiền nuôi vợ con. Có lúc đạp xe lôi, có lúc vác lúa gạo ở các nhà máy xay lúa, có lúc làm tạp nhạp.
Đến tháng 2/1982, em tìm được đường dây ra nước ngoài vừa với khả năng của vợ chồng tôi lúc đó. Cái may là chúng tôi chỉ đi một lần là tới Mã Lai. Ở Bidong một tháng rưỡi là được phái đoàn Úc nhận. Qua trại chuyển tiếp Sungei Besi2, ngoại ô Kuala Lumpur để khám bệnh, bổ túc hồ sơ. Ba tháng rưỡi sau là chúng tôi có list đi Úc.
Vài ngày sau khi đặt chân lên đất Úc, lúc đó chúng tôi chỉ biết tiếng Pháp chưa biết tiếng Anh. Em nói với tôi “moi không thích nhờ thông dịch, nhà mình phải có một người giỏi tiếng Anh, toi phải đi học. Moi sẽ đi làm nuôi toi và con”! Nghe ghê chưa?
Mà em cũng không biết tiếng Anh thì đi làm cái gì? Em quên mình từng là một tiểu thơ được cơm bưng nước rót, em quên mình từng đi học có xe đưa rước, em quên mình là… cô tiên của tôi. nên ai mướn gì làm nấy. Quét dọn nhà cửa cho người Úc, chăm sóc con em của đồng hương, làm chả giò bán sĩ (không biết em học ở đâu mà làm chả giò và đổ bánh xèo ngon nhất Darwin).
Tôi cũng đi làm ban ngày, đi học ban đêm. Bảy năm ròng rã, tôi lấy được 2 cái Certificates về kế toán và quản trị địa ốc và xin được cái job “Security Administrator” tại trường đại học Charles Darwin University ở Darwin đầu năm 1985. Tôi làm việc tại CDU liên tục hơn 27 năm, đến khi nghỉ hưu cuối năm 2012.
Em không đi học tiếng Anh một ngày nào nhưng sau này… lại làm thông dịch cho bạn bè, nhiều nhất là mấy cô lấy chồng Úc, mới qua Úc chân ướt chân ráo, tìm đến em nhờ giúp đỡ. Em chở họ đi làm hồ sơ nhập cư, điền đơn xin tiền an sinh xã hội… Bà xã tôi thương đồng hương nên ai nhờ thì giúp, cứ ăn cơm nhà vác ngà voi, không đòi hỏi ai phải trả đồng bạc nào dù biết làm thông dịch cũng được trả tiền. Mấy cô vợ Úc thương em lắm, cuối tuần là ghé nhà tôi xào xào nấu nấu … thật vui.
Hỏi em mới biết, em học tiếng Anh bằng cách theo dõi các chương trình Play School trên TV. Chương trình này dạy con nít Úc nói/viết tiếng Anh để chuẩn bị vô mẫu giáo. Em đọc báo tôi mang về mỗi ngày. Không hiểu chữ nào, đoạn nào thì em hỏi tôi hay tra tự điển.
Tiếu lâm nhất là khi bà hàng xóm nhờ em làm thông dịch. Bà này gốc Ý (Italy), có chồng gốc Tây Ban Nha (Spain). Bà ta đến Úc theo diện vợ chồng năm 1978 và không đi học ngày nào. Khi rảnh rỗi bà ta qua nói chuyện với bà xã tôi. Bà ta nói “broken english” với giọng Ý nên tôi và mọi người không ai hiểu cả. Vậy mà bà xã tôi hiểu nên mỗi lần bà hàng xóm cần đi bác sĩ, hay bất cứ cơ quan công quyền nào ở Darwin là qua năn nỉ nhà tôi theo làm thông dịch.
Một năm sau ngày đến Úc, tôi được bầu làm tổng thư ký Hội Người Việt Tự Do tại Darwin, sau đổi tên thành CĐNVTD Bắc Úc cho tới bây giờ. Tôi dính với các sinh hoạt của CĐ mình cho tới năm 2017 mới rút chân ra được. Suốt thời gian này, bất cứ tôi làm cái gì đều có sự giúp đỡ, yểm trợ khi công khai khi âm thầm của cô Tiên.
Đứa con thứ hai của chúng tôi chào đời năm 1984 tại Darwin. Nhìn em cho con bú, tắm rửa cho con, nâng niu thằng nhỏ như vàng như ngọc, tôi nhớ lại những ngày hai đứa mới thương nhau, mỗi lần bên nhau là bàn chuyện mai này… tôi viết bài thơ tặng em.
Một chiều lãng đãng ánh tà dương
Em kể anh nghe chuyện mộng thường
Đôi mắt em nhìn xao xuyến quá
Như sao lấp lánh một trời thương.
Từ đó đời mình hết lẻ loi
Đan tay qua phố bước chung đôi
Em cười rạng rỡ như tiên nữ
Tiên nữ của anh – cũng được rồi.
Từ đó đời mình ươm ước mơ
Từng đêm anh cắn bút làm thơ
Mỗi dòng ôm ấp ngàn thương nhớ
Thương nhớ lớn theo nổi đợi chờ.
Từ đó mình bàn chuyện lứa đôi
Mai này, mình có hai con thôi
Trưởng nam, phần nó lo hương hỏa
Em nó, cô Ba – có rượu mời.
Từ đó mình bàn chuyện cưới nhau
Anh giành chọn áo cưới cô dâu
Màu vàng, hoàng hậu lòng anh đó
Em nói : – Màu hồng, áo cô dâu!
Từ lúc về làm vợ của anh
Âm thầm mình kết mộng ngày xanh
Trưởng nam bật khóc, cưng như ngọc
Đứa kế trai luôn, quý tựa vàng.
Nhiều đêm nằm gác tay lên trán
Anh cám ơn Trời, cám ơn em
Bảy nổi ba chìm mình chẳng ngán
Vì em có anh, anh có em.
Từ năm 2005 đến năm 2015, chúng tôi tổ chức những bữa ăn cứu trợ Thương Phế Binh còn sống khổ sở nơi quê mình bằng cách… tổ chức BBQ tại nhà tôi. Thức ăn do bà xã tôi và vài người bạn thân cùng chung sức nấu nướng, tôi bỏ tiền túi mua bia và nước giải khát. Ăn uống free. Tôi để 1 cái “Thùng Cứu trợ” trên bàn, ai cho bao nhiêu, tôi gởi về VN giúp anh em thương phế binh bấy nhiêu, theo tiêu chuẩn mỗi người 100 Úc kim.
Vì số người Việt ở Darwin rất khiêm nhường, chỉ có vài trăm người, nên lúc đầu chỉ được vài ngàn. Từ từ, bà con tin tưởng nên khi có dịp đi ngang nhà tôi là họ bỏ tiền vô thùng thơ, không đợi đến Bữa ăn Cứu trợ.
Gõ máy tới đây, bỗng nhiên làm biếng… không muốn gõ máy nữa, vì đang nhớ cô Tiên, nhớ quá xá nhớ.
Cô Tiên của tôi đã về trời sau khi đã cùng sống chung với cha con tôi 43 năm, 3 tháng, 27 ngày hạnh phúc. Em quy tiên sau một cơn bạo bệnh. Từ một người mạnh khỏe bình thường, đúng 5 tuần sau thành người thiên cổ.
Trong những ngày cuối của cuộc sống nơi dương thế, khi thấy hai con đứng nhìn em, nước mắt lưng tròng, em cầm tay con lắc lắc, mỉm cười nói: “Chúa cũng chết, Phật cũng chết, thì Má cũng chết. Má đã trả xong món nợ ân tình với Ba con và các con thì Má đi. Con trai khóc… xấu lắm”. Con tôi quẹt nước mắt… miệng cười méo xẹo.
Trong Hospice Hospital, nơi dành cho những bệnh nhân… “terminally ill”, mỗi ngày có y tá đến đánh răng và lau mình cho em. Có một lần em cám ơn họ “Thanks so much for keeping my body clean. I know it’s shutting down”. Cô y tá người Úc trợn mắt nhìn em, rưng rưng nước mắt. Sau này, cô nói với tôi “Tao chưa thấy ai sắp chết mà còn lịch sự và tỉnh táo như vợ mầy”.
Khi biết mình sắp trả xong cái nghiệp ở dương gian, em nắm tay tôi dặn dò phải tổ chức tang lễ em như thế nào. Thỉnh vị tăng ni nào chủ trì tang lễ, xong phải hỏa thiêu và chỉ giữ tro cốt 100 ngày. Sau đó mang tro cốt em rải trên sông Parramatta, đoạn gần Opéra House ở Sydney, là nơi em thích đi dạo mỗi lần đi thăm con. Em nói nhỏ nhẹ như đang lo tang lễ của ai khác. Tôi chỉ biết im lặng gật đầu, ráng kềm cho nước mắt đừng chảy ra. Tôi đã làm đúng theo lời em dặn.
Từ ngày cô Tiên về trời, cha con tôi đứt ruột đứt gan, tan nát trong lòng. Tôi đã sống những ngày như người chết chưa chôn.
Câu chuyện kể có thật của Buu Nguyen
(st) <3 <3
0 notes
Photo
NHỮNG NĂM THÁNG KHÓ PHAI TRONG KÝ ỨC
Gần bốn mươi năm qua, thế hệ lớn lên trong buổi giao thời vẫn không quên ngày miền Nam thất thủ. Mỗi người có những tâm tư khác nhau, nhưng kỷ niệm về một thời đi học ở Huế khi nào cũng đẹp giống nhau. Chúng tôi xin giới thiệu bài viết trung thực của BS. Nguyễn Văn Vân, khóa 15. Sau khi tốt nghiệp làm việc tại Lâm Đồng, hiện nay đã về hưu.
Thành thật cám ơn tác giả. BBT (ykhoahuehaingoai.com)
Trước đây trên FB tôi đã thán phục bạn Vân với ký sự bên dưới với nội dung ở tầm đỉnh cao: Có kỷ niệm thuở vào ĐH, có tình yêu hồn nhiên ngọt ngào, và trên tất cả, các mốc lịch sử được ghi lại khá đầy đủ kèm ảnh minh họa chân thật. Tôi từng nhủ rằng: Tay Vân nầy sao không làm nghề phóng viên lại đi học BS làm gì...
Nhân ngày 30/4, đã 44 năm trôi qua, ai cùng thời lại không bồi hồi nhớ lại dạo ấy... Trân trọng giới thiệu đến các bạn ký sự khó phai của BS Nguyễn Văn Vân.
Bài viết lấy từ ykhoahuehaingoai.com. Các ảnh minh họ theo thứ tự nguyên bản là:
1- Ga Hàng Không và Đài Kiểm soát Không lưu Phú Bài Huế (trước 1975)
2- Đèo Hải Vân, 1975. Source: vnafmamn.com
3- Huế Đà Nẵng
4- Thuận An, Huế 1975. Source: AP
5- Sân bay Đà Nẵng - 1975
6- Đà Nẵng, 1975
7- Quân đội miền Bắc vào Đà Nẵng, 1975. Source: Vietnam War, twcenter.net
8- Tác giả, BS Nguyễn Văn Vân
Trương Phú
NHỮNG NĂM THÁNG KHÓ PHAI TRONG KÝ ỨC
Chúng tôi thi vào dự bị y khoa tại trường Đại học Khoa Học, đường Trương Định, Huế. Buổi sáng thi Sinh vật và Lý hoá, chiều Anh văn. Tất cả các môn đều thi trắc nghiệm, nhưng riêng môn Vật lý phải thi viết. Thí sinh đánh trúng mỗi câu được cộng 2 điểm, đánh trật trừ 1 điểm, không đánh thì không có điểm, riêng môn Lý, tôi để trắng vì bài toán động lực học quá khó.
Trên đường về, tôi gặp người quen trước đây cùng kiệt Tiến Thành, Đà Nẵng, tên là Ngọc Linh. Linh không đẹp nhưng xinh, nhí nhảnh nhờ đôi mắt có đuôi và hàm răng đều như hạt bắp. Hai ông bố chúng tôi là bạn thân, nhà tại Đà Nẵng ra làm việc ở Huế. Do vậy, chúng tôi có cơ hội gần nhau. Linh đưa tôi qua sở làm của ba mình, là Đài kiểm soát không lưu nằm bên trái của ga Hàng không dân dụng. Chúng tôi phải đi lên nhiều bậc cấp của ngôi nhà 4 tầng mới đến văn phòng làm việc. Đây là một tháp cao, bốn mặt được gắn kiếng màu xanh. Từ trên này, tôi có thể quan sát rất rõ vùng Phú Bài và Phù Lương. Bên trong đài trang bị nhiều màn hình rada, nhân viên mang headphone làm việc chăm chú, điện đàm liên tục với các phi công bằng tiếng Anh.
Chỉ mới mấy ngày tại Huế, chúng tôi đã bắt đầu mến nhau. Đêm đến, tôi trằn trọc khó ngủ hơn trước. Hình ảnh của Linh cứ hiện mãi trong đầu, nhất là đôi mắt của cô nàng. Tôi đã yêu rồi chăng? Cũng phải, tôi đã 18 tuổi rồi cơ mà!
Sau khi thi xong, tôi chuẩn bị vào Sài Gòn để thi vào ĐH Vạn Hạnh nhưng phải chờ có máy bay quân sự. Nếu cuối tuần này không có máy bay, tôi sẽ vào Đà Nẵng đi Air Vietnam, vé 8 ngàn, một số tiền khá lớn lúc bấy giờ.
Anh chị tôi ở Sài Gòn đã mua được căn nhà trên đường Nguyễn đình Chiểu, gần khu Bàn Cờ, quận 3. Căn nhà này có hai mặt tiền, một trệt và một gác gỗ. Phía mặt hông quay sang bên kia là nhà của vợ chồng ca sĩ Họa Mi. Anh Tuyến tôi nay đã lên chức Trưởng phòng Kế hoạch của nhà máy Vikyno Biên Hòa, chị dâu là Huỳnh thị Thương, Y khoa Huế khóa 64-71, nay là Trưởng khoa Sản Bệnh viện Bình Dương.
Hai hôm sau, trưa chủ nhật, 15 tháng 9 năm 1974, tôi nghe tin trên đài phát thanh Sài Gòn, chiếc Boeing mà tôi định đi đã bị không tặc. Tên cướp máy bay cho nổ hai trái lựu đạn và máy bay rơi ở Phan Rang. Tất cả 70 người trên máy bay đều thiệt mạng, trong số đó có BS. Nguyễn văn Chữ, giảng viên trường Đại học Y Khoa Huế.
Ở Sài Gòn hơn nửa tháng thì nhận được điện tín của Ba tôi từ Huế đánh vào “Vaan ddax ddoox vaof y khoa.” Mừng không thể tả được. Ra đến Huế, sinh viên đã vào học hơn cả tuần. Thầy Hải phụ trách môn Sinh học, gạo bài muốn tắt thở vì tên khoa học tiếng Latin khó nhớ. Thầy Thiều dạy Vật lý cho nhiều bài tập trong sách Physics của Mỹ ở thư viện. Tôi thích Anatomy của thầy Trần tiễn Ngạc, danh từ hậu cung mạc nối (bursa omentalis) đến ngày nay vẫn không quên. Tôi thích vào phòng thí nghiệm hóa học với thầy Nhuận và phòng sinh hóa với cô Bội Tiên hơn.
Hằng ngày tôi phải đi từ 6 giờ sáng bằng xe Suzuki và quay về nhà khi trời đã nhá nhem tối. Buổi trưa sau giờ cơm, tôi thường ghé Thư viện đại học nằm trên đường Lê Lợi để học bài, thỉnh thoảng ghé cư xá Cô Giang tán gẫu với Linh, luôn tiện đưa cho cô nàng các bài giải toán Lý.
Ở đây hơn một tháng thì phi trường Phú Bài bị pháo kích. Nghe nói VC đã chiếm được cứ địa La sơn - Mỏ cày nên đã khống chế phi trường bằng súng cối và hỏa tiễn 130 ly. Để trấn áp pháo kích, một phi đội 6 trực thăng UTT của Không quân Đà Nẵng ra chi viện sáng đến chiều về. Tôi đi học bằng xe gắn máy qua cánh đồng Thanh Lam rất sợ bị VC bắn sẻ, nhất là mùa mưa.
Cuối năm 1974, chiến trường bỗng sôi động. Phước Long là điểm án ngữ hành lang vận tải của quân đội Bắc Việt qua Lào và Campuchia vào Đông Nam Bộ, cô lập vùng Lộc Ninh với các vùng Nam Tây Nguyên. Trong hai tuần, quân lực Việt Nam Cộng hòa mất 4 mục tiêu quan trọng tại Quân khu III. Thất thủ Phước Long đã giúp quân đội Bắc Việt mở được hành lang đường mòn Hồ Chí Minh, từ Vĩnh Linh nối liền Lộc Ninh và các miền Đông Nam Bộ.
Những ngày tết năm 1975, tôi đi xem cinema với Linh. Rạp Kinh Đô, Đà Nẵng đang chiếu phim Summertime Killer – (Meurtres au Soleil) rất hay do Chistopher Mitchum và Olivia Hussey đóng. Ngồi trong rạp, thỉnh thoảng hai đứa chạm vai nhau, mái tóc của Linh có lúc bay vướng qua mắt tôi do quạt gió bên hông hành lang, tôi nhẹ nhàng vén tóc trả về và bắt gặp nụ cười rất tình tứ của nàng. Chỉ chừng đó thôi cũng đủ làm tôi sung sướng lắm, chưa dám đi xa hơn…
Ăn tết xong, trở lại trường, không khí có vẻ nặng nề, nét uể oải biểu lộ trên từng khuôn mặt của thầy lẫn trò vì cuộc chiến đang ngày càng ác liệt. Sau khi quân đội Hoa Kỳ rút, Việt Nam Cộng hòa mất đi hỏa lực yểm trợ từ trên không, dưới mặt đất và ngoài biển. Khủng hoảng dầu lửa năm 1973 đã chất thêm gánh nặng về chi phí bảo dưỡng quân sự theo Hiệp định Paris. Tổng số đạn dược các loại được cấp giảm từ 50% đến 65%; một nửa số chiến xa không thể ra khỏi căn cứ và khoảng 200 máy bay không thể cất cánh vì thiếu xăng dầu.
Tôi đi học hơn nửa tháng thì mặt trận Tây Nguyên bắt đầu bùng nổ. Mở đầu là phía bắc tây nguyên. Đến chiều ngày 9 tháng 3, Buôn Ma Thuột đã hoàn toàn bị cô lập trên địa bàn Quân khu II. Ngày 11 tháng 3, thị xã này thất thủ. Ngày 12 tháng 3, Quân đoàn II VNCH điều động các trung đoàn bộ binh 44, 45 (thuộc sư đoàn 23), liên đoàn 21 biệt động quân và bộ phận còn lại của trung đoàn 53 với sự yểm hộ của sư đoàn 6 không quân phản kích nhằm tái chiếm Buôn Ma Thuột. Ngày 17 tháng 3, những cố gắng cuối cùng để tái chiếm Buôn Ma Thuột của VNCH thất bại.
Chiều ngày 8 tháng 2 âm lịch tôi chạy xe Suzuki về Huế xem phim The Longest Day ở rạp Châu Tinh, một phim đen trắng sản xuất từ năm 1962. Nội dung phim kể về D-day, ngày quân Đồng minh đổ bộ vào bờ biển Normandy nước Pháp, không ngờ đây là cuốn phim cuối cùng mình được xem trước khi Huế thất thủ.
Trên đường về Phú Bài tôi thấy xe hơi chạy vào hướng Đà Nẵng nhiều hơn là chạy ra. Ngày hôm sau lên trường học mới biết ông hiệu trưởng Nguyễn văn Hai đã đưa vợ con rời Huế trước ngày lễ, lớp học vắng nhiều và một số thầy đã không đi dạy, nhưng trường không tuyên bố đóng cửa.
Tôi quay về phi trường Phú Bài rồi vào Đà Nẵng bằng xe Suzuki ngay trưa hôm đó. Nhiều công xa lẫn xe tư nhân đủ cỡ chở đầy nhóc người, tài sản lẫn súc vật nối đuôi nhau hướng về Đà Nẵng.
Ngay sáng ngày hôm sau, Ba tôi được lệnh phải lái chiếc xe bồn 8000 lít của công ty Shell vào phi trường Đà Nẵng. Đây là một nỗ lực lớn vì lâu nay ông chỉ lái xe du lịch 4 chỗ mà thôi. Giao xong xe, ghé thăm nhà ít phút, ba tôi lại phải ra lại Huế.
Ngay đêm đó, cầu Thừa Lưu bị đặc công đánh sập. Hàng nghìn xe trên đường từ Huế vào Đà Nẵng phải quay lại, đến lượt phòng tuyến sông Mỹ Chánh bị vỡ. Nhận thấy tình hình ở Huế đã chuyển từ mức "xấu" sang mức "tồi tệ", đêm 22 tháng 3, tư lệnh Ngô Quang Trưởng chấp thuận cho chuẩn tướng Lâm Quang Thi rút quân về Đà Nẵng. Con đường rút duy nhất là ra biển Thuận An và Tư Hiền, từ đó lên các tàu của hải đoàn 106 hoặc men theo bờ biển qua Thừa Lưu, Lăng Cô.
Ngày 25/03/1975, Huế rơi vào tay quân miền Bắc. Hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi (phía Nam) bị tan vỡ nhanh chóng. Đà Nẵng giờ đây trơ trọi như một ốc đảo, chỉ còn liên lạc được với các vùng còn lại bằng đường biển và đường hàng không. Đầu năm 1975, Đà Nẵng là thành phố lớn thứ hai của miền Nam Việt Nam với dân số gần một triệu người. Đây không chỉ là trung tâm kinh tế - chính trị của vùng I, mà còn là căn cứ quân sự liên hợp Hải Lục Không quân lớn nhất miền Nam với 4 cảng lớn trong đó có cảng Sơn Trà là quân cảng nước sâu hiện đại. Sân bay Đà Nẵng cấp quốc tế, ngoài ra còn có căn cứ rada tại Sơn Trà của quân đoàn 3 dã chiến Hoa Kỳ và bàn giao lại cho QLVNCH sau Hiệp định Paris. Ngày 26 tháng 3, trung tướng Ngô Quang Trưởng cố gắng thu gom các đơn vị còn lại với tổng số quân trên dưới 75.000 người về phòng thủ Đà Nẵng.
Gia đình chúng tôi vào phi trường Đà Nẵng trưa ngày 27/3/1975. Buổi chiều, hai chiếc phản lực 727 của Air Vietnam hạ cánh nhưng phi đạo nhốn nháo vì xe Jeep tràn ra nên họ phải cất cánh bay trở về Sài Gòn. Ba tôi quay sang ông bạn Đại tá Khánh, chỉ huy phó Phi trường, ông hứa ngày hôm sau đi C130 của cầu không vận. Chúng tôi quay về sở của ba tôi để ngủ lại qua đêm. Không có thức ăn gì ngoài mấy bao gạo sấy và mấy lon thịt hộp nhưng chúng tôi ăn rất ngon. Đêm đó, quân miền Bắc bắt đầu pháo kích vào thành phố, có 8 chiếc C-130 từ Sài Gòn bay ra để bắt đầu di tản binh sĩ và gia đình, ưu tiên cho gia đình của các chuyên viên kỹ thuật.
Sáng hôm sau, cầu không vận đã bị cắt đứt. Khoảng 7 giờ chiều, các quả đạn hỏa tiễn 130 ly xé gió nổ vang làm sáng cả vùng trời. Trận pháo kích kéo dài hơn một tiếng thì dứt. Vào tình thế này, chúng tôi không thể đi đâu được. Trong đêm, tiếng phi cơ phản lực gầm ré. Bộ chỉ huy không quân đã có lệnh rút đi. Đà Nẵng tự sụp đổ mà không cần địch quân tấn công. Sáng sớm, các anh tôi chạy xuống bến phà mới thấy cảnh hỗn loạn khó tưởng tượng nỗi. Dân chạy loạn thuê mướn ghe nhỏ di chuyển ra sà lan và tàu Hoa Kỳ đang thả neo chờ. Mỗi tàu sẽ về Cam Ranh khi số người lên đến chừng 10 ngàn. Ba chiếc tàu của Hoa Kỳ là The Pioneer Commander, The Pioneer Contender, và chiếc USNS Miller, một chiếc tàu vận tải của HQHK do một thủy thủ đoàn dân sự điều khiển, nhưng không dễ gì lên được tàu này vì cảnh giành nhau, cướp giật, lật xuồng xảy ra trước mắt.
Cũng ngay ngày 29, khoảng 10 giờ sáng, một chiếc phi cơ dân sự Boeing 727 của World Airway bất ngờ đáp xuống phi trường Đà Nẵng, bốc được khoảng 268 người, trong đó có 150 binh sĩ thuộc Đại đội Hắc báo Sư đoàn 1 Bộ binh trước sự ngỡ ngàng của quân miền Bắc. Khi phi cơ cất cánh, súng bắn theo, cửa bánh đáp để mở vì có 4 người nằm bên trong, một người đã chết khi phi cơ đáp tại Biên Hòa. Chiếc 727 thứ nhì đành quay trở về Sài Gòn.
Sáng ngày 29 tháng Ba, từ Chùa Pháp Lâm, đường Ông Ích Khiêm, một tổ chức mệnh danh là “Lực lượng Hòa hợp Hòa giải Thị bộ Đà Nẵng” tổ chức hai đoàn xe do các tu sĩ cắm cờ Phật giáo và cờ Mặt trận Giải phóng đi theo 2 ngã, một về phía Hòa Mỹ hướng ra đèo Hải Vân và một về phía Phước Tường phía Hòa Cầm đi vào Quảng Nam, Tam Kỳ đón quân CSBV. Bộ đội miền Bắc trên những chiếc xe tăng và xe tải Molotova treo cờ Mặt Trận Giải phóng Miền Nam bắt đầu tiến vào thành phố.
Tối 29-3-1975 đài phát thanh BBC Luân Đôn cho biết Đà Nẵng thất thủ, một trăm ngàn quân bị bắt làm tù binh; hung tin ghê gớm đã khiến cho cả nước kinh hoàng. Quân khu 1 nơi tập trung những lực lượng tinh nhuệ và thiện chiến nhất của VNCH gồm bốn sư đoàn chính qui, bốn liên đoàn Biệt Động quân… đã hoàn toàn tan rã sau 9 ngày cầm cự và triệt thoái. Mặc dù Bộ Tổng tham mưu, các vị Tướng lãnh, các giới chức quân sự liên hệ đã bạch hóa diễn tiến của trận chiến bi thảm này, nhưng người ta biết nó vẫn còn nhiều điều bí ẩn và khó hiểu. Chưa bao giờ trong cuộc chiến tranh này một lực lượng to lớn lại có thể thua nhanh đến thế.
BS Nguyễn Văn Vân
1 note
·
View note
Photo
#GeneralNguyenKhanh #NguyenKhanh #VietnamWar #Vietnam #NorthVietnam #SouthVietnam #VietCong #CongSan #HoChiMinh #NgoDinhDiem #RepublicofVietnam #CongHoa #VNCH #QLVNCH #BlackApril #Hanoi #NhaTrang #Hue #DinhDocLap #Saigon #HCMC #VungTau #Nguyen #BienHoa #FallofSaigon #DaLat #NhoVietnam
#saigon#qlvnch#hanoi#southvietnam#congsan#vietnamwar#fallofsaigon#hue#hochiminh#nhatrang#ngodinhdiem#nhovietnam#generalnguyenkhanh#northvietnam#dinhdoclap#nguyen#hcmc#republicofvietnam#blackapril#vietcong#nguyenkhanh#vungtau#dalat#conghoa#vietnam#bienhoa#vnch
0 notes
Photo
Trong bài phát biểu ngày 30-4-16. Thiếu tướng Lê Minh Đảo - Tư Lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh - Người hùng Xuân Lộc xúc động nhớ về trận chiến cuối cùng năm 1975. Từng lời từng chữ là những tâm huyết vô cùng lớn lao còn dang dở mà ông gửi gắm đến thế hệ trẻ: "...Giờ phút này, các cháu hãy suy nghiệm ra, tra cứu ra để mà biết thêm sự thật của cuộc chiến. Tôi khẳng định với các cháu: Đừng nghi ngờ gì về sự oai hùng và sự hy sinh cao cả của QLVNCH, đừng nghi ngờ...Có thể ở ngoài tuyên truyền nói thế này thế nọ, phong trào nói rằng quân lực thế này thế kia, tôi khẳng định đó là quân lực xuất sắc và hy sinh suốt cả cuộc đời của mình cho đất nước, tội nghiệp họ lắm. Bây giờ tôi xin nói cho các cháu và quý vị: Có quân đội nào mà đánh giặc kéo dài hơn 20 năm trường không? Thế giới này không có, nó đánh khoảng 5 năm là nó mệt nó về, nó rã chiến ra. Rồi có cái quân đội nào mà bụng đói mà đánh giặc hay không? Không có. Cái thế hệ của chúng tôi, chúng tôi đã kịp lớn lên trong cái thời có thể nói là ly loạn của đất nước và sẵn sàng hy sinh không có cái điều gì nề hà cả, sẵn sàng thay người khác hy sinh ở chiến trường, chấp nhận chết ở chiến trường để cho những người khác ở hậu phương được sống, đó là cái thế hệ của chúng tôi đó, thế hệ của người lính VNCH đó... Và quân đội đánh giặc thế nào? Quân đội đánh giặc thế này: Cái quân đội của người ta đó thì cả quốc gia và cả hậu phương lo cho mình để mình đánh kẻ thù trước mặt mà thôi! Nhưng QLVNCH của chúng ta phải đánh cả 3 mặt trận, mặt trận thứ nhất là kẻ thù phía Bắc trước mặt đánh chúng ta đó là Cộng sản Bắc Việt (CSBV), chúng ta lại phải đánh với tất cả, chống lại những kẻ mà kêu bằng: "Ăn cơm QG thờ ma CS" ở sau lưng chúng ta, Mặt trận giải phóng miền Nam, Mặt trận hoà bình, Hội liên hiệp,... rồi đủ thứ hết, gây xáo trộn đủ thứ, đầu cơ tích trữ...làm cho người binh sĩ lúng túng, bối rối hết. Và cái mặt trận thứ 3 này mới là nguy hiểm hơn, nó tác động thẳng vào chúng ta từ cây súng, viên đạn, đó là người bạn đồng minh của chúng ta. Nhớ như vậy, loại đồng minh đó nó khổ ở chỗ này: Chính họ đã làm cho quân đội họ cũng đau khổ chớ không phải không đâu, 58 ngàn người lính Mỹ chết tại Việt Nam, đến khi nghe Việt Nam chúng ta đã mất vào tay CS thì những người lính Mỹ đó họ khóc, tôi biết những tướng chẳng hạn như Đại tướng Norman Schwarzkofp và những người khác họ uống rượu cả ngày và họ khóc, bởi vì cái sự hy sinh của họ ở VN trở thành vô nghĩa, đó, những người này họ chết vô nghĩa là bởi vì những thế lực chính trị như ông Tổng thống Ronald Reagan nói, đó là như vậy đó, tội nghiệp họ lắm. Chúng ta luôn luôn nhớ điều này, khẳng định là người dân VN chúng ta không bao giờ quên quân đội Mỹ chiến đấu ở VN mà giúp đỡ cho đất nước VN chúng ta, South Vietnam chúng ta, chúng ta ghi nhớ đời đời. Đó là tôi nói để cho các anh em nhớ như vậy. Còn QLVNCH: Tới giờ phút cuối cùng!...Tới giờ phút cuối cùng, kể như mất hết tất cả rồi! CS nó đã vào tới miền Nam, trận Xuân Lộc đánh để mà cản trở tụi nó 12 ngày để mà nó vào Sài Gòn không kịp, để Sài Gòn có thời gian sắp xếp để cho người ta đi di tản nữa! Di tản càng nhiều càng tốt, anh em họ hy sinh, họ chết ngoài chiến trường, chưa hết, về tới Trảng Bom thì bao nhiêu lính Dù, Địa phương quân, Nghĩa quân ở tại đó, rồi Lực lượng đặc biệt, rồi cả anh em Dân vệ ở dọc con đường Quốc lộ, họ sẵn sàng họ chiến đấu hy sinh đến giờ phút cuối cùng, tới viên đạn cuối cùng họ có, để cho người Sài Gòn đi được nhiều chừng nào càng tốt chừng nấy, mà bây giờ mới có sự hiện diện của các cháu và quý vị ở đây, đó... quân đội đó... còn đòi hỏi gì thêm ở quân đội đó nữa....Không còn có gì đòi hỏi thêm nữa và chúng ta hãy nhớ ơn họ,đời đời nhớ ơn họ..!
3 notes
·
View notes
Text
Việt cộng nằm vùng
(truy cập từ https://danlambaovn.blogspot.com/2020/05/viet-cong-nam-vung.html)
VNCH Ngọc Trương (Danlambao) Theo VOA tiếng Việt, một trong những nguyên nhân đưa đến thất bại của VNCH [Việt Nam Cộng hoà] là do sự lũng đoạn và phá hoại của bọn gọi là "thành phần thứ ba". Vài tháng trước tôi có đọc một số tài liệu, sách, hồi ký của nhiều tác giả khác nhau, trong một đoạn nào đó, các tác giả có đề cập đến thành phần "thứ ba".
Rất tiếc khi ấy không định viết về đề tài này vì vậy không ghi lại đầy đủ chi tiết và xuất xứ, nguồn gốc trích dẫn. Xin bạn đọc thứ lỗi. Đoạn nào nhớ tên tài liệu, chúng tôi sẽ ghi chú để bạn đọc tham khảo thêm.
Trong bài có thông tin thâu lượm qua quen biết trong gia đình, hoặc tiếp xúc tình cờ, tất cả đều là tên thật, người thật không viết tắt, bọn "thứ ba" công khai ra mặt thời VNCH và sau khi VC chiếm cứ miền Nam, không lý do gì phải bao che cho chúng hay phải viết tắt.
Trong số thầy dạy ở trường Huỳnh Khương Ninh có Lê Minh Lương, Nguyễn Văn Hai tự Nguyễn Huy bị cầm tù vì hoạt động cho CS thời đệ I Cộng hòa. Mãn án, cả hai trở lại dạy học, Lê Minh Lương dạy nhạc và công dân giáo dục. Nguyễn Huy dạy công dân giáo dục và quốc văn lớp đệ tam. Lê Minh Lương mệt mỏi và giảm tham gia với CS. Nguyễn Huy vẫn chê bai chính phủ, chỉ trích xã hội, bớt xông xáo hơn trước. Nhưng vẫn thích tiện nghi do VNCH mang lại: "Xe Honđa rất tốt. Con tao còn nhỏ, mỗi tối đã biết bật nút TV cho cả nhà xem chương trình truyền hình".
Nguyễn Văn Hợi là người Bắc di cư, dạy môn vạn vật, CS cực đoan. Sau khi VC chiếm miền Nam, hắn lộ mặt, vào làm ban an ninh nội chính (công an), lần hồi xin chuyển qua sở ngoại vụ, tha hồ nhận hối lộ, bóc lột những ai muốn ra đi hợp pháp.
Nguyễn Văn Bảy hoạt động cho CS mạnh, luôn nhồi sọ học sinh với ngôn ngữ CS: "Kìa chiếc máy bay bỏ bom đồng bào…", CS thưởng công cho làm trưởng phòng giáo dục quận Nhất một lượt với Lương Lê Đồng (sẽ đề cập sau). Nguyễn Văn Bảy bỏ vợ, lấy cô học trò tên Tùng (không nhớ họ) lúc ấy tuổi hắn đã hơn gấp đôi tuổi cô Tùng. Thời CS ai dám phàn nàn "đạo đức" mất dạy của bọn chúng!
Cổ tấn Văn Luông dạy sử địa đệ tứ, đệ nhị, từng giữ chức bí thư chi ủy trường Huỳnh Khương Ninh (trước năm 1975), tuyên truyền cho CS như sau: "Kỹ sư ngoài bắc rất giỏi, biết ghép cây bông vải của Ai Cập vào phần trên của cây bông vải Việt Nam, nhờ thế miền Bắc sản xuất dư thừa bông vải Ai Cập". Nếu đúng như thế, tại sao quân CS Bắc Việt và sau này thường dân Bắc vào Nam vơ vét, mua nhiều vải vóc, kể cả vải nội hóa (do các nhà mày dệt ở Sài Gòn sản xuất) mang về Bắc?
Ông này có người em là sỹ quan thủy quân lục chiến VNCH tử trận, sau thời gian ở với CS, ông nhận ra bị CS lừa, tương tự như Nguyễn Huy, sinh ra bất mãn. Nhưng chỉ dám bày tỏ qua phần "thắc mắc" trong các buổi nhồi sọ chính trị (ngành giáo dục), chứ chẳng dám làm gì hơn. Con trai ông Văn Luông, cho đi vượt biên và định cư tại Úc, gia đình ông Văn Luông qua Úc do bảo lãnh của người con. Xong một đời hoang phí theo đuổi chủ nghĩa CS rồi thất vọng, uất hận.
Nguyễn Văn Đức dạy lý hóa, thích cộng, chống bất cứ chính phủ nào của VNCH, mạnh miệng tuyên truyền: "Ở ngoài Bắc tự do và sung sướng hơn, chỉ có dân Việt với nhau…".
Sau vài tháng nếm mùi đi họp ở địa phương hằng đêm cuối đầu nghe bọn nhóc con CS tuyên truyền "chiến thắng" và sự "nghèo khổ" của miền Nam, hay xếp hàng mua gạo, bánh mì khô, khoai lang lúc nửa đêm, Nguyễn Văn Đức nhìn thấy tận mắt sự nghèo nàn, ngu dốt, hống hách và luôn khủng bố tinh thần dân chúng của bọn cán bộ CS, Đức chỉ biết nói:
"Sao kỳ vậy, không giống như đảng nói trước đây!". Khi hiểu CS đã quá muộn, tròng nô lệ "Liên Xô, Trung quốc vĩ đại" đã siết chặt quanh cổ.
Hiệu trưởng Lương Lê Đồng, người Huế bạn đồng học trường Pellerin Huế với ba tôi, tuy đồng tuổi nhưng ông này học sau ba tôi vài lớp (theo lời ông nói). Ông Lương Lê Đồng vào tù ra khám thời đệ I Cộng hòa và đệ II Cộng hòa do hoạt động chống đối chính phủ. Do đó trường Huỳnh Khương Ninh dung túng nhiều thầy giáo CS hoặc chống đối chính phủ VNCH.
Có lần bị bắt tại nhà riêng đường Nguyễn Phi Khanh, một học trò cũ của ông là đại úy cảnh sát, đến gõ cửa nói: "Thầy ơi, lần này thầy đi 6 tháng", rồi anh thong thả đứng đợi trước cổng trong khi ông Lương Lê Đồng sửa soạn áo quần, từ biệt vợ con.
Người học trò cũ – đại úy cảnh sát, trân trọng mời “thầy” lên xe ngồi phía trước cạnh tài xế, chính anh lên ngồi cạnh “thầy”, không cho còng tay thầy cũ và cũng không cho ngồi băng sau như những tội phạm khác.
Học trò thấm nhuần giáo dục VNCH mới đối xử với kẻ địch và là thầy học cũ như vậy. Với CS, kẻ địch phải giết, phải đánh, phải "mày tao" không lễ nghĩa, lịch sự chi cả.
Tuy vẫn treo cờ VNCH trước cổng, thoả thuận của Lương Lê Đồng, Nguyễn Huy cùng Cổ tấn Văn Luông lẳng lặng không cho học sinh chào cờ VNCH mỗi sáng thứ Hai như ở các trường khác, thay vào đó gọi là chào "hiệu đoàn kỳ trường Huỳnh Khương Ninh" và hát "hiệu đoàn ca Huỳnh Khương Ninh", không hát quốc ca VNCH. Một âm mưu có tính toán sâu xa nhằm đẩy học sinh ra xa VNCH, chen lẫn tuyên truyền trong lúc giảng bài của mấy "thầy" luôn binh vực miền Bắc "xã hội chủ nghĩa", hay thêu dệt hình ảnh một xã hội CS hoàn hảo.
Sau khi VC chiếm miền Nam, Lương Lê Đồng được cho giữ chức chánh sở giáo dục Sài Gòn của chính phủ (bù nhìn) cộng hòa miền Nam Việt Nam (tức là chính phủ của bọn tự xưng là giải phóng miền Nam, cờ nửa đỏ, nửa xanh dương đậm và có ngôi sao vàng ở giữa). Chẳng qua là bước đầu của CS đưa đám "nhân sỹ" thân cộng miền Nam ra, xoa dịu dân miền Nam không muốn CS Bắc Việt xâm chiếm. Không đầy một năm, Lương Lê Đồng mất chức và "được" cho gia nhập mặt trận tổ quốc của VC.
Khoảng năm 1978, gặp lại một thầy khác, ông cho hay Lương Lê Đồng đau bệnh nặng nhiều năm, vắng mặt trong mặt trận tổ quốc VC, sau đó đi chầu Marx.
Mặt trận tổ quốc, công cụ hạng bét của CS Bắc Việt, bao gồm mọi thành phần không thể cho vào tổ chức nòng cốt của đảng CS. Thầy chùa thân cộng, sư cái, sư đực VC, linh mục VC, nhân sỹ, trí thức thân cộng, bám đuôi CS đều cho vào nồi cháo heo, thập cẩm, tả pí lù: mặt trận tổ quốc, dễ kiểm soát, kềm chế và trừng phạt khi cần. Vài thí dụ điển hình: sư cái Huỳnh Liên, linh mục VC: Phan Khắc Từ, Trương Bá Cần, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Huỳnh Công Minh, hay bọn biểu tình phá rối: Ngô Bá Thành, Cao Thị Quế Hương, Huỳnh Tấn Mẫm, Trịnh Đình Ban, Lê Văn Nuôi…
Tại sao bộ giáo dục, bộ nội vụ, cảnh sát quốc gia không làm gì trường Huỳnh Khương Ninh?
Lý do:
- Trường đào tạo nhiều thế hệ học sinh từ đời Pháp thuộc (khi ấy chưa bị CS thao túng), các cựu học sinh nâng đỡ trường như chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, ông Phạm văn Phàng (chánh văn phòng phủ thủ tướng VNCH). Ông Phạm Văn Phàng từng dạy học tại trường lâu về trước, nhưng vẫn cố giúp đỡ trường nơi hai con ông theo học. Uy tín của ông làm bên cảnh sát nhẹ nhàng hơn với trường Huỳnh Khương Ninh.
Người miền Nam nói chung coi trọng tình nghĩa, đó là kẻ hở để CS lợi dụng.
- Các thầy giáo khác chỉ dạy học và làm ngơ không theo CS, rất nhiều thầy cô ở vào loại này, cũng là khuyết điểm của dân miền Nam trước đây, muốn yên thân, không đụng chạm chuyện người khác, tự nhủ "không làm chính trị", hoặc "việc của cảnh sát, của chính phủ, mình chỉ là thường dân!".
- Thầy Khánh Trương, xin được chân dạy toán ngay ổ CS Huỳnh Khương Ninh. Ông rất trẻ, đẹp trai, đi dạy học bằng xe mô-tô loại lớn. Giữa giờ học, một tên VC lạ mặt bước vào lớp, chĩa súng vào ông Khánh Trương, tên này tuyên truyền CS trước cả lớp, sau cùng hắn nói với ông Khánh Trương: "Tụi tôi biết anh là CIA, lần này chỉ cảnh cáo". Xong hắn chạy ra khỏi trường. Câu chuyện lan truyền từ lớp này sang lớp khác, nhốn nháo cả trường vài ngày.
Ai mở cửa trường trong giờ học để VC vào đe dọa thầy giáo? Tên VC lạ mặt chỉ vào ngay lớp của thầy Khánh Trương, tất nhiên phải có chỉ điểm của VC trong trường. Có thật ông Khánh Trương là CIA hay không, hay đó là luận điệu muôn đời của VC. Hoặc ông được cảnh sát quốc gia giao theo dõi hoạt động bọn thầy giáo CS, nên chúng phải loại ông ra.
Hết niên học, thầy Khánh Trương nghỉ luôn.
Gặp thầy Vương Gia Khánh ở hải ngoại, ông nói – bọn CS trường Huỳnh Khương Ninh từng móc nối ông hoạt động cho chúng. Ông Khánh – cựu học sinh của trường, thiếu úy hiện dịch giải ngũ vì bị thương, không còn khả năng chiến đấu. Theo ông, VC cho rằng ông là đối tượng tốt nhất, cựu sỹ quan QLVNCH [quân lực Việt Nam Cộng hoà], thương phế binh, nếu hoạt động cho VC, sẽ ít bị nghi ngờ. Ông Khánh từ chối, chỉ dạy học không tham gia chính trị. Ông mỉa mai gọi ông Lương Lê Đồng là trái chanh VC đã vắt sạch nước, xong ném vào thùng rác. Thân phận chung của bọn nằm vùng ngu ngốc tin theo CS chỉ có thế, chứ không khá hơn.
Nói đến CS nằm vùng không thể bỏ qua Thích Trí Quang, tức Phạm Quang, có khi gọi là Phạm Văn Bòng (hay Bồng), tên trong lúc hoạt động là Đinh Văn Tánh.
Theo lời của chính hắn trong “Trí Quang tự truyện (2011)”, hắn nghiên cứu bản tường trình thành lập Việt minh năm 1941 của tên CS Trường Chinh soạn theo lịnh Hồ Chí Minh, và rất thích ý niệm đó (trang 10/40).
Trước năm 1963, Trí Quang có thương lượng với tổng thống Ngô Đình Diệm – hắn muốn chính phủ cắt phân nửa vườn Tao Đàn giao cho hắn xây chùa làm trụ sở, đồng thời chính phủ phải cung cấp 5 triệu đồng VNCH làm phương tiện hoạt động (khi ấy xe Mercedes mới, nhập cảng của Đức chỉ có 200 ngàn đồng tiền VNCH/chiếc).
Tổng thống Diệm trả lời – cả hai việc đó tổng thống lo không nổi theo đòi hỏi của Trí Quang (Trí Quang tự truyện trang 34/40).
Tìm hiểu thêm gốc gác của Trí Quang, (Thích) Trí Độ là thầy dạy đạo cho Trí Quang, (Thích) Thiện Minh, (Thích) Thiện Siêu…
Năm 1953 Trí Độ được Việt minh cho làm ủy viên ủy ban Việt Nam bảo vệ hòa bình thế giới (sic), sau khi Việt Nam chia đôi đất nước, Trí Độ ra Bắc và cầm đầu Phật giáo miền Bắc cho đến lúc chết năm 1979. Trí Độ giữ chức uỷ viên thường vụ quốc hội và uỷ viên chủ tịch đoàn mặt trận tổ quốc tả pi lù của Bắc Việt. Trí Độ được tưởng thưởng hai huy chương của CS.
Trí Quang và các bạn đồng học chịu ảnh hưởng tuyên truyền của Trí Độ. Sự liên lạc và cấu kết đã có từ lâu giữa Trí Độ và các môn sinh, giật dây điều khiển hoạt động của Trí Quang, Thiện Minh… trong chiến lược phá hoại nội tình VNCH, ẩn núp dưới danh nghĩa "bảo vệ đạo pháp".
Có người không tin Trí Quang là tay chân của CS, sau khi VC chiếm miền Nam, Trí Quang và đồng bọn không hề lên tiếng về sự đàn áp tôn giáo, ngược đãi sỹ quan QLVNCH trong các trại tù từ Nam ra bắc? Không hề bi��u tình, không dọn bàn thờ ra đường phản đối, không “tuyệt thực nhưng vẫn uống sâm”, không tự thiêu, tự đốt, tự chặt tay chặt chân. Cũng không thấy ủy ban "tranh đấu" cho tù nhân được đối xử nhân đạo hay "cải thiện" chế độ lao tù thời CS.
Tất cả chẳng qua là "nhiệm vụ" phá hoại miền Nam đã làm xong, gây chia rẽ chính trị miền Nam đã hoàn tất. Cao Đăng Chiếm, và trùm khủng bố mười Hương tuân lịnh Phạm Hùng phải triệt hạ Trí Quang tức khắc, cô lập và loại bỏ đám lâu la thân cận từ thời trước CS, bọn này đội lốt tu hành (sic), cư sỹ hay "Phật tử" để yểm trợ chiến dịch phá hoại VNCH, mỗi tên bị theo dõi thường xuyên, giam lỏng. Kể cả Tri Quang, không được ra khỏi chùa Già Lam, mọi hành động đều bị theo dõi.
Thêm một trường hợp trái chanh hết nước phải vất thùng rác.
Danh sách bọn CS nằm vùng phá hoại VNCH còn rất dài, lần hồi chúng tôi sẽ trình bày với bạn đọc, có chi tiết bạn đã biết rồi, cũng có chi tiết bạn đọc chưa biết.
Mục tiêu chính yếu là rút ra một bài học từ thất bại của VNCH.
Những người chống cộng ở mọi lứa tuổi, mọi thành phần, có dịp suy gẫm thêm và không để CS lừa bịp lần nữa.
12.05.2020
VNCH Ngọc Trương
(danlambaovn.blogspot.com)
0 notes
Link
Cố thiếu tướng Việt Nam Cộng hoà được vinh danh tại Hạ viện Mỹ Thiếu tướng Lê Minh Đảo, người qua đời vào tháng trước, vừa được vinh danh tại Hạ viện Mỹ là một “anh hùng” vì đã “đấu tranh cho tự do và phục vụ cộng đồng.” Dân biểu Harley Rouda hôm 3/4 gửi thư cho Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi, trong đó ông ghi nhận “cuộc đời anh hùng” của Thiếu tướng Lê Minh Đảo, người qua đời hôm 19/3 tại Connecticut. Lá thư cho biết Thiếu Tướng Lê Minh Đảo Sinh năm 1933 tại Sài Gòn và phục vụ quân lực Việt Nam Cộng hoà trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Dân biểu Rouda viết rằng: “Dù phải chiến đấu trong những điều kiện khó khăn với lực lượng kẻ thù đông hơn nhiều lần, Thiếu Tướng Đảo đã chống trả anh dũng tại trận đánh mang tên Xuân Lộc, trận chiến lớn sau cùng trước ngày Sài Gòn thất thủ hôm 30/4/1975.” Vẫn theo lá thư của Dân biểu Rouda, Thiếu tướng Đảo và binh sỹ thuộc Sư đoàn 18 Bộ binh của QLVNCH “đã đứng vững trước những cuộc tấn công liên tục của lực lượng cộng sản” trong 13 ngày liên tiếp. “Trận chiến này là một minh chứng cho tài chỉ huy quân sự lỗi l���c của Tướng Đảo và sự dũng cảm không thể phủ nhận của ông.” Dân biểu Rouda nói trong bức thư rằng: “Vì sự lãnh đạo đầy đam mê và truyền cảm hứng của mình, Thiếu tướng Đảo sẽ được công nhận vĩnh viễn là một vị anh hùng, trong cả cộng đồng người Việt lẫn tất cả chúng ta, những người đặt lý tưởng tự do và dân chủ lên trên hết.” Vị dân biểu của đảng Dân chủ đại diện Địa hạt 48 của California, nơi có cộng đồng lớn của người Việt sinh sống, “kêu gọi tất cả các thành viên Hạ viện cùng vinh danh cuộc đời lỗi lạc của Thiếu tướng Lê Minh Đảo” người mà ông cho là đã dành trọn 87 năm cuộc đời đấu tranh vì lý tưởng tự do và phục vụ đồng bào. Bà Lê Bích Phượng, con gái Thiếu tướng Đảo, cho biết trên trang Facebook cá nhân rằng bà thấy “hãnh diện có một người cha ‘cọp chết để da, ba chết để tiếng thơm’ cho con cháu” sau khi bố của bà được vinh danh tại Hạ viện Mỹ. Thiếu tướng Lê Minh Đảo được xem là một trong những tướng lĩnh chỉ huy cấp Sư đoàn có khả năng nhất của Việt Nam Cộng hoà. Sau đó, ông trở thành vị tướng Việt Nam Cộng hoà bị cầm tù lâu nhất, với 17 năm tổng cộng từ Bắc vào Nam. Sau khi được trả tự do ngày 5/5/1992, Thiếu tướng Lê Minh Đảo sang Mỹ tháng 4/1993. Tại Mỹ, ngoài việc mưu sinh và lo cho gia đình, ông còn tham gia các sinh hoạt của các cựu chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Tháng 9 năm 2003, ông là một trong những người sáng lập tổ chức "Tập thể Chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa" và giữ chức Chủ tịch Trung tâm Điều hợp Trung ương. (Nếu không vào được VOA, xin hãy dùng đường link vn3000.info hoặc 797879.info để vượt tường lửa) Thiếu tướng Lê Minh Đảo, người qua đời vào tháng trước, vừa được vinh danh tại Hạ viện Mỹ là một “anh hùng” vì đã “đấu tranh cho tự do và phục vụ cộng đồng” #tinmoi
0 notes
Text
Quân báo là gì? Quân báo của Quân đội Nhân dân Việt Nam
1. Quân báo là gì Quân báo, hay gọi theo cách khác chính là tình báo (gián điệp) là người có nhiệm vụ sẽ hoạt động để thu thập về tin tức một cách bí mật, hơn thế nữa, khi làm nhiệm vụ thu thông tin một cách bí mật, và khiến cho người bị thoe dõi sẽ không thể phát hiện ra rằng mình đang bị theo dõi. Quân báo hay nói cách khác là tình báo viên, nhân viên tình báo, điệp viên… đều có nghĩa tương tự như nhau. Đây cũng là những từ ngữ nghề nghiệp dùng để chỉ những ngưởi làm việc cho một hoặc là nhiều các cơ quan tình báo với công việc chính là hoạt động, thu thập thông tin một cách cực kì bí mật. Yếu tố quan trọng nhất của một quân báo đó là phải hoạt động làm sao cho thật bí mật, vì một khi mà người bị thoe dõi đã phát hiện ra thì nó sẽ chuển biến thông tin theo một cách xấu đi. Quân báo là gì 1.1. Mục tiêu cũng như chức năng của quân báo Mục tiêu của công tác tình báo là cung cấp cho các cơ quan và cá nhân có trách nhiệm về chính trị và quân sự những thông tin cần thiết về mọi khía cạnh, đặc biệt là về ý đồ, của phe địch để họ có thể kịp thời đối phó và chiến thắng đối phương. Do đó, chức năng chính yếu của công tác tình báo bao gồm 3 lãnh vực chính sau đây: - Thu thập tin tức về địch - Phân tích / tổng hợp và đánh giá tin tức về địch - Khai thác tin tức: suy đoán ý đồ của địch và tiên đoán hành động của địch Ngoài chức năng chính yếu vừa kể, công tác tình báo cũng bao gồm luôn cả các lãnh vực phản gián sau đây: - Bảo vệ an ninh, đề phòng sự xâm nhập của địch vào trong hệ thống của mình - Ngụy tạo tin tức để che dấu ý đồ và đánh lừa địch Trong lãnh vực thu thập tin tức, có rất nhiều phương thức khác nhau, trực tiếp cũng có mà gián tiếp cũng có, nhưng nói chung, hai phương thức chính là: - Qua con người (thí dụ: các điệp viên), tức là tình báo nhân sự (tiếng Anh gọi là Human Intelligence hay HUMINT) - Qua máy móc, theo dõi các tin tức của địch, tức là tình báo tín hiệu (tiếng Anh gọi là Signal Intelligence hay SIGINT) HUMINT bao gồm công tác thu thập tin tức từ rất nhiều nguồn tin (loại người) khác nhau, nhưng quan trọng nhứt là những tin tức do điệp viên của phe ta cung cấp bằng nhiều cách thức khác nhau, cũng như tin tức thu thập được qua thẩm vấn các tù hàng binh, các cá nhân hoạt động cho địch bị bắt hay các điệp viên của địch đã về hàng. SIGINT bao gồm tất cả các hình thức theo dõi, chặn bắt tín hiệu truyền thông và điện tử giữa người và người, cũng như giữa máy và máy, trong đó có rất nhiều trường hợp phải giải mã vì các thông điệp đã được đối phương ngụy trang bằng mã số trước khi truyền đi. Do đòi hỏi của các công tác chuyên môn phức tạp vừa kể trên, các hệ thống tình báo luôn luôn phải có các trung tâm huấn luyện để đào tạo nhân viên, các trung tâm thẩm vấn để khai thác tin tức từ các người của phe địch, và phải có đầy đủ các trang thiết bị cần thiết để theo dõi và chặn bắt tín hiệu truyền thông và điện tử của phe địch. 1.2. Hệ thống tình báo của quân đội Việt Nam Những thông tin trình bày dưới đây phần lớn tập trung trong khung thời gian của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa, tức là trong thời gian cuộc chiến đã leo thang với sự tham gia của quân đội Mỹ. Trong thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, hệ thống tình báo của VNCH còn rất thô sơ, gần như chỉ là một bộ máy mật vụ với nhiệm vụ chính yếu là bảo vệ chế độ mà thôi. Cho đến cuối năm 1960, VNCH chỉ có 2 cơ quan sau đây: Hệ thống tình báo của quân đội Việt Nam Sở Nghiên Cứu Chính Trị Xã Hội: thành lập năm 1956, trực thuộc Phủ Tổng Thống, do Bác sĩ Trần Kim Tuyến chỉ huy, có nhiệm vụ chính là công tác tình báo và bảo vệ chế độ. Họạt động của Sở bên ngoài lãnh thổ VNCH rất giới hạn, chủ yếu chỉ có tại Cao Miên.1 Sở này bị giải thể năm 1962, sau vụ ném bom Dinh Ðộc Lập của 2 phi công Không Lực VNCH là Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc. Ðoàn Công Tác Ðặc Biệt Miền Trung: thành lập năm 1957, do Dương Văn Hiếu chỉ huy, có nhiệm vụ chính là công tác tình báo, phản gián, nhằm phá vỡ các tổ chức nội tuyến của Bắc Việt tại Miền Nam. Ðoàn này bị giải tán sau vụ đảo chánh ngày 1-11-1963 lật đổ chế độ Ngô Ðình Diệm.2 Hệ thống tình báo của VNCH khá phức tạp, bao gồm một số cơ quan và đơn vị, với chức năng về an ninh và tình báo chồng chéo lên nhau, trong đó quan trọng nhứt là Khối Cảnh Sát Ðặc Biệt (thuộc Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia), Nha An Ninh Quân Ðội, Tổng Nha An Ninh Hành Chánh, Phủ Ðặc Ủy Trung Ương Tình Báo, Phòng 2 và Phòng 7 Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH. 2. Vai trò quan trọng của lực lượng quân báo tại trọng điểm Sài Gòn – Nam Định Trong Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, cùng với quân và dân Khu Sài Gòn - Gia Định, lực lượng quân báo, điệp báo, an ninh T4 đã chiến đấu anh dũng, lập nhiều chiến công xuất sắc, góp phần đánh bại cơ bản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của địch, tạo ra thế và lực mới cho cách mạng miền nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Từ tháng 6-1967, công tác chuẩn bị hết sức khẩn trương, ta tập trung một lực lượng lớn cho Khu Sài Gòn - Gia Định. Quán triệt những chủ trương của Bộ Chính trị, Trung ương Cục, Khu ủy, lực lượng An ninh Khu Sài Gòn - Gia Định đã khẩn trương sắp xếp, bố trí lực lượng, chỉ đạo các bộ phận: điệp báo, bảo vệ chính trị, bảo vệ nội bộ, trinh sát vũ trang, an ninh vũ trang... làm trong sạch địa bàn, bảo vệ khu căn cứ của ta, tăng cường mạng lưới thông tin liên lạc, nắm chắc tình hình các mục tiêu quan trọng. Lực lượng điệp báo, quân báo được điều động vào nội thành rà lại mạng lưới điệp báo, xây dựng cơ sở, xây dựng căn cứ "lõm chính trị", căn cứ "lõm" trong nội thành và chuẩn bị các điều kiện chiến đấu. Kết hợp với Phòng quân báo Miền, sưu tầm các bản đồ thị xã, thị trấn các tỉnh miền Đông Nam Bộ và các quận nội thành Sài Gòn - Gia Định; điều tra những mục tiêu quan trọng trong nội thành Sài Gòn như: Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, sân bay Tân Sơn Nhất, Tổng nha Cảnh sát, Nha cảnh sát Đô thành Sài Gòn, Đặc ủy Trung ương tình báo, Nha an ninh quân đội...; nắm chắc tình hình một số chi khu và mục tiêu quan trọng như Tổng kho Long Bình, sân bay Biên Hòa. Vai trò quan trọng của lực lượng quân báo Ngoài ra, lực lượng điệp báo và quân báo đã đưa đón một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy an ninh, quân sự vào nội thành khảo sát thực địa, bảo đảm bí mật an toàn; chuẩn bị lực lượng trinh sát dẫn đường các mũi tiến công nội thành, các mục tiêu quan trọng, nắm chắc các động thái của địch, phục vụ tốt cho Bộ Chỉ huy tiền phương. Bộ phận điệp báo cũng đã tiến hành xây dựng cơ sở bí mật, các hộp thư để phục vụ cho Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Bộ phận kỹ thuật đã sản xuất nhiều giấy tờ, căn cước, giấy miễn hoãn quân dịch của địch cung cấp cho cán bộ vào nội thành hoạt động, cung cấp "giấy tờ hợp pháp" cho lực lượng biệt động để tiến vào các mục tiêu trước giờ nổ súng. Ta đã nghiên cứu, sản xuất được "thẻ căn cước bọc nhựa" giả. Lực lượng an ninh các phân khu đã tham gia tuyển chọn hàng nghìn tân binh, huy động hàng chục nghìn dân công ở các vùng giải phóng và các ấp chiến lược. Công tác giao liên được tăng cường cho vận chuyển vũ khí, đưa các tổ vào nội thành tạo thế làm ăn hợp pháp, phục vụ kịp thời cho lãnh đạo chỉ huy. Lợi dụng ngày nghỉ Tết, Nô-en năm 1967, ta tranh thủ vượt sông Vàm Cỏ Đông qua quốc lộ 22 (nay là quốc lộ 1) để chuyển vũ khí vào nội thành bằng ghe hai đáy xuôi theo sông Vàm Cỏ, rạch Cây Khô vào rạch Bến Nghé, bố trí cơ sở đón ở đó đưa vũ khí, đạn dược, chất nổ C4, TNT được gói trong bánh tét vận chuyển vào nội thành che giấu. Các trạm giao liên của điệp báo, trinh sát vũ trang dọc theo quốc lộ dùng xe lam chở súng đạn vào nội thành, bên trên chất đầy rau quả để ngụy trang. Chúng ta còn dùng xe Jeep biển số quân đội Sài Gòn, người của ta đóng vai đại úy quân đội Sài Gòn lợi dụng giờ nhá nhem tối qua các trạm gác. Ngày 15-12-1967, tổ bảo vệ giao liên, văn phòng được tổ chức lại gọn nhẹ, gồm 26 đồng chí vào nội thành xây dựng lại các hộp thư, đồng thời theo sát các mũi tiến công của quân chủ lực đánh vào các mục tiêu trọng điểm Tổng nha Cảnh sát Đô thành. Trên toàn chiến trường miền nam, cuộc tổng công kích chiến lược vào các đô thị đã mở ra đêm 30 rạng sáng 31-1-1968, đồng loạt tiến công trên toàn miền nam, đánh thẳng vào các thành phố, thị xã, sân bay, kho tàng, sở chỉ huy. Lực lượng An ninh khu trọng điểm Sài Gòn - Gia Định phối hợp các chiến trường chính đánh 372 trận lớn, nhỏ, tiêu diệt 4.575 tên địch các loại, trong đó có 1.124 lính Mỹ, chín sĩ quan cấp tá, bắt sống 129 tên, có một tên tư lệnh sư đoàn, một tên tỉnh trưởng; bắn cháy và phá hủy 105 xe quân sự các loại, 63 máy bay, bắn chìm một tàu, thu nhiều vũ khí quân trang, quân dụng... Sau Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đợt 1, phần lớn cơ sở điệp báo, an ninh khu vực, lực lượng trinh sát vũ trang bị lộ và bị bắt hàng loạt. Quán triệt chủ trương của Khu ủy Sài Gòn - Gia Định, số cán bộ an ninh hoạt động hợp pháp trong vùng địch kiên trì bám trụ, dựa vào quần chúng vừa đánh địch vừa củng cố, gây dựng lại tổ chức, từng bước tăng cường quân số và trang bị vũ khí, phương tiện công tác và chiến đấu. Nắm vững phương châm "đánh sâu, đánh hiểm, đánh trúng đối tượng", lực lượng trinh sát vũ trang nội đô và lực lượng điệp báo An ninh T4 đẩy mạnh công tác tiến công chính trị bằng cách gửi truyền đơn cho cảnh sát và khóm trưởng làm cho chúng hoang mang lo sợ, trút bỏ cảnh phục. Tháng 5-1968, nhiều đơn vị vũ trang thuộc An ninh T4 phối hợp các phân khu chiến đấu anh dũng tiếp tục tiến công nhiều mục tiêu trên toàn Khu Sài Gòn - Gia Định. Lực lượng an ninh các huyện cũng phối hợp bộ đội địa phương và du kích tổ chức tiến công địch và hỗ trợ quần chúng nổi dậy. Thông qua phong trào quần chúng "bảo mật phòng gian" kết hợp nhiều biện pháp nghiệp vụ, lực lượng An ninh T4 phát hiện hàng trăm vụ nội gián, bắt và trừng trị nhiều tên. Chỉ trong một thời gian ngắn, lực lượng An ninh T4 cùng với quân và dân Khu Sài Gòn - Gia Định đã tiêu diệt và làm tan rã một số lượng lớn sinh lực địch và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng, góp phần vào thắng lợi to lớn của cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa Mậu Thân 1968. Đó là quá trình đánh giá đúng tình hình, có tầm nhìn chiến lược, kiên định mục tiêu cơ bản và lâu dài của dân tộc, của cách mạng, từ đó mới có thể phân tích đúng tình hình, tạo ra thời cơ và nắm bắt thời cơ, tổ chức sử dụng lực lượng vũ trang nhân dân cùng bộ đội chủ lực bí mật bất ngờ tổng công kích, tổng tiến công đồng loạt giành thắng lợi, tạo bước ngoặt quan trọng, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đến thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền nam, thống nhất đất nước vào mùa xuân năm 1975. Qua đây có thể thấy Quân đội Nhân dân Việt Nam ta ngày xưa rất kiên cường, mạnh mẽ. 3. Nghề quân báo và khó khăn, trăn trở Tình báo có huấn luyện hẳn hoi, huấn luyện tinh thần và kỹ thuật. Từ cấp trên đến cấp dưới, phải thi đua nhau nghiên cứu học tập. Không nên giấu dốt, giấu dốt thì không bao giờ thông được ( lý luận tình báo trong quyển Tôn Tử binh pháp tất cả các chú đã nghiên cứu chưa? Chưa thì phải nghiên cứu. Nó là nền tảng của công tác tình báo). Nghề quân báo và khó khăn, trăn trở Tình báo cũng như mọi việc khác phải dựa vào dân. Tai mắt của người tình báo có hạn. Nhân dân có hàng chục triệu tai mắt. Việc gì họ cũng có thể nghe, có thể thấy, có thể biết. Vì vậy, tình báo phải cố gắng làm thế nào cho nhân dân giúp sức, thì sẽ thành công to".Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn đánh giá rằng tuy binh pháp của Tôn Tử (một thiên tài quân sự ở Trung Quốc) ra đời từ cách đây hơn 2000 năm nhưng tại các trường quân sự chính quy ở nhiều nước vẫn dựa vào Binh pháp này để nghiên cứu, phát triển và hoàn thiện thêm lý thuyết quân sự hiện đại. Và Trong 13 chương Binh pháp, Người đã chọn ra chương Trinh thám để sáng tạo và cải tiến nghiệp vụ tình báo, phản gián như sau: Đầu tiên là tầm quan trọng của công tác phản gián là: “Chi phí hàng vạn hàng triệu về việc quân để chống nhau với địch trong một thời gian lâu dài, mong có ngày đựơc thắng lợi, thế mà tiếc một vài trăm để chi về việc gián điệp, đến nỗi không biết rõ tình hình bên địch, đành phải chịu thua. Người làm tướng như thế không đủ tư cách làm tướng, không đủ tài giúp Chính phủ, không đủ trí thắng được quân địch”. Từ bài viết trên của timviec365.vn ta có thể thấy rõ hơn được về Quân báo là gì? Từ đó cho ta thấy được những chiến sĩ, những người làm nghề quân bóa trong quân đội vất vả và khó khăn ra sao. Qua bài viết này, hi vọng các bạn đã có thể định hướng được nghề nghiệp trong tương lai của mình. Ngoài ra, Timviec365.vn còn là website hàng đầu về đăng tin tuyển dụng, giúp tìm việc cho các bạn dễ dàng hơn. Chúc các bạn thành công với timviec365.vn.
Tham khảo bài nguyên mẫu tại đây: Quân báo là gì? Quân báo của Quân đội Nhân dân Việt Nam
#timviec365vn
0 notes
Photo
Ngày 19/06/2020 Kính thưa Đồng Bào! Thưa qúy Tướng Lãnh, quý Đại Biểu, qúy Thành Viên, Đồng Nhiệm! Thưa qúy Niên Trưởng, qúy Huynh Trưởng, qúy Chiến Hữu! và các bạn Thanh Niên, Thiếu Nữ Việt Nam thân mến! Cách đây 55 năm, để ổn định tình hình đất nước, cố Trung Tướng NGUYỄN VĂN THIỆU, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, sau này là Tổng Thống Đệ Nhị VNCH đã ký sắc lệnh số 001/a/CT/LĐQG ngày 19/06/1965 để thành lập nội các. Đó là ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) chính thức đứng ra nhận trách nhiệm với toàn dân để điều hành và quản trị quốc gia. Nhưng 10 năm sau, Cộng quân đã xé nát Hiệp Định Paris do chúng ký kết, để tấn công, cưỡng chiếm Nam Việt Nam ngày 30/04/1975. Hôm nay 19/06/2020, nhân Lễ Kỷ Niệm QLVNCH, tôi là Đào Minh Quân, Tổng Thống Đệ III VNCH, thay mặt cho Đồng Bào và tất cả qúi thành viên, cùng toàn thể Hội Đồng Nội Các, cùng nhau thắp nén tâm hương tưởng kính những Anh Linh Chiến sĩ QLVNCH và Đồng minh đã hy sinh vì lý tưởng tự do. Xin đại diện cho những người Việt bị Cộng Sản cướp nước, chúng tôi trân trọng bày tỏ lòng tri ân đến Chính Phủ và nhân dân Hoa Kỳ, cùng tất cả Đồng Minh của người Việt Nam trên toàn thế giới. Cũng nhân dịp Lễ Từ Phụ của Hoa Kỳ (FATHER’S DAY), CPQGVNLT-Đệ III VNCH trân trọng vinh danh những người Ông, người Cha, người Anh và các Em, các Cháu. Đặc biệt là những Vị Anh Hùng Vô Danh, 58,721 quân nhân Hoa Kỳ, cùng với 316,000 Chiến Sĩ VNCH và Đồng Minh đã hy sinh bảo vệ Tự Do, che chở cho Đồng Bào Việt Nam thoát sự khủng bố, sát hại của Cộng quân. Dù đã nằm xuống, nhưng Chiến Sĩ và Anh Hùng Dân Tộc không bao giờ chết. Lòng hy sinh và sự chiến đấu qủa cảm, kiên cường của họ đã trở thành bất tử, là Hồn Linh - Khí Thiêng của chúng ta, đã biến QLVNCH trở thành niềm hãnh diện, đầy tự hào của biết bao thế hệ Con Rồng, Cháu Tiên. Tinh thần anh dũng, bất khuất của QLVNCH và Đồng Minh sẽ mãi mãi là ánh thái dương để xua tan bóng ma tội ác, triệt hạ hoàn toàn chế độ Cộng Sản tại Việt Nam và trên hoàn vũ. Linh hồn của họ luôn bên cạnh chúng ta, để độ trì, phù trợ cho CPQGVNLT-ĐỆ III VNCH thêm vững mạnh, thành công trong quyết tâm phục hồi chế độ VNCH trên quê hương. Hiện nay giang sơn gấm vóc của chúng ta đang bị Cộng Sản thống trị. Chúng đã lộ nguyên hình là 1 đảng cướp phi nhân, vô đạo, tay sai Tàu Cộng để thực hiện mật ước Thành Đô, với ý đồ muốn biến nước ta thành một quận lỵ của chúng. CSVN đã nhu nhược để Hoàng Sa, Trường Sa và nhiều quần đảo, đất đai của chúng ta lọt vào tay Tàu Cộng. Bọn chúng đang đồng lõa với Tàu Cộng để khủng bố dân lành, đầu độc dân sinh, cầm tù những nhà ái quốc, triệt hạ nhân tài, phá hũy kỷ cương, giềng mối, đạo đức chân chính của người Việt Nam với âm mưu Hán hóa dân ta. Nhà Văn Hà Thúc Sinh có viết: “Ở đây cơm áo co vòi lại Chỉ biết mình thôi, không biết ai”. Và Ngục Sĩ Nguyễn Chí Thiện, người bị CS cầm tù 28 năm cũng từng thở than: “Vì ấu trĩ, vì thờ ơ ngu tối Vì muốn an thân, vì tiếc máu xương Cả nước phải qui về một mối Một mối hận thù, một mối tang thương”. Tổ Quốc đang lâm nguy, dân chúng đang bị CS đàn áp sống lầm than, thống khổ. Những người trai thế hệ, những hậu duệ anh hùng, quả cảm QLVNCH, những anh thư, hào kiệt, trí thức không thể khoanh tay đứng nhìn. Chúng tôi kêu gọi mọi người, mọi giới, mọi thành phần Quốc Gia, Dân Tộc, mọi giai cấp và tất cả các tổ chức, đảng phái chính trị, xã hội trong cộng đồng Việt Nam toàn cầu, cùng tham gia chiến dịch KÝ ĐẠP MẶT HỒ CHÍ MINH, là tên gián điệp Việt gian Tàu Cộng, dứt khoát lập trường KHÔNG CHẤP NHẬN Cộng Sản, mạnh mẽ dấn thân với CPQGVNLT-ĐỆ III VNCH để giúp dân, cứu nước, phục hưng chế độ VNCH hữu thần, nhân đạo, độc lập, tự do và dân chủ thật sự trên quê hương dấu yêu. VIỆT NAM PHẢI THAY ĐỔI, CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN PHẢI BỊ TRIỆT HẠ! Tất cả Đồng Minh, toàn thể nhân loại yêu chuộng công lý và hòa bình sẽ nhập cuộc với chúng ta. Nhất định chúng ta phải quyết tâm đoàn kết, cùng nhau triệt hạ đảng CSVN, giải thể cái gọi là “nhà nước” CHXHCNVN vô thần tay sai giặc Tàu, đang thống trị, kìm kẹp, diệt chủng dân tộc chúng ta. Chắc chắn những người Việt Nam yêu nước, sáng suốt và can đảm sẽ tạo thành đại cuộc TOÀN THẮNG VĨ ĐẠI để thực thi bản Hiến Pháp Đệ III VNCH, hầu mang đến cho toàn dân một đời sống Tự Do, Hạnh Phúc, Ấm No, giúp cho tương lai con cháu Việt Nam được sáng lạn, huy hoàng, hãnh diện sánh vai cùng Năm Châu Bốn Biển. Nguyện xin Đấng Tối Cao Trời Phật, Hồn Thiêng Sông Núi và Anh Linh Tử Sĩ luôn độ trì, ban cho chúng ta được sức khoẻ, bình an và tâm nguyện LẤY LẠI ĐẤT TỔ – KHÔNG LÀM KHỔ DÂN được thành đạt, viên mãn. Trân trọng kính chào Tổng Thống Đào Minh Quân Hiến Pháp Đệ Tam VNCH : https://ift.tt/2AbLr8v Trang Hiến Pháp Đệ Tam VNCH https://ift.tt/3foqqGU Thông báo : đón Tổng Thống Đệ Tam VNCH Đào Minh Quân ở đâu? dontongthong.com. Trưng Cầu Dân Ý, Đăng Ký Làm HDĐTVNCH, Xin nhà, Xin việc làm... : bằng cách quét QRCODE VNCH : https://ift.tt/3hmUPHk TIẾNG NÓI QUỐC NỘI Youtube : https://www.youtube.com/channel/UC5kx8kVRVn3nH-sJApBr8mw/videos?view_as=subscriber Fanpage : https://ift.tt/3fhNsio https://ift.tt/2B1kswF https://ift.tt/37Lzgfc
0 notes
Video
youtube
TT ĐÀO MINH QUÂN ban huấn dụ Ngày QLVNCH 2019-20190909 TT ĐÀO MINH QUÂN ban huấn dụ Ngày QLVNCH 2019-20190909 Huấn từ của Tổng Thống Đào Minh Quân trong ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19.6.2019.
0 notes