Tumgik
#Thửgiải
khaimocom · 5 years
Text
Thử giải “Tây Du Ký” (6)
Tumblr media
Phần 5 IV. Ngụ ý và ý nghĩa của “Tây Du Ký” Kết cấu và bố cục của “Tây Du Ký” đồ sộ mà lại nghiêm ngặt. Mở đầu là Bàn Cổ khai thiên lập địa, Tam Hoàng Ngũ Đế trị thế. Được phân làm hai phần: phần đầu là bảy chương tiết đầu lấy Tôn Ngộ Không làm chủ thể; phần hai là lấy thỉnh kinh làm chủ thể. Cuối cùng là năm thầy trò mỗi người đều đắc quả vị, được sự kính trọng và ca tụng của chư Phật và Bồ Tát. Trong “Tây Du Ký” một số từ ngữ có ẩn ý tương đối sâu xa, nhưng chỉ cần đứng tại góc độ người tu luyện mà xét, thì có thể thấy được đầu mối, chỉ là có những điều ẩn giấu quá sâu mà thôi. Ví dụ: Bồ Đề Tổ Sư dạy Ngộ Không phép biến hóa tránh tam tai, trong đó nhắc tới ba lần 500 năm, cũng chính là 1.500 năm, nếu nhân với 72 phép biến hóa của Tôn Ngộ Không, thì chính là 10.800, đó chính là quãng đường mười vạn tám nghìn dặm mà Đường Tăng đi thỉnh kinh. Nếu nhân với số dương lớn nhất là 9, bởi vì vật cực tắc phản, cho nên 9 là con số lớn nhất, thì được 13.500, vừa khớp với trọng lượng Kim cô bổng của Tôn Ngộ Không. Mà con số này lại ngầm hợp với điều nói trong “Hoàng Đế bát thập nhất nạn kinh” là “nhân trú dạ hô hấp nhất vạn tam thiên ngũ bách tức” (trong một ngày đêm người ta hô hấp 13.500 lần). Đường Tăng thỉnh kinh trải qua 80 nạn, đến được Linh Sơn rồi, bởi vì còn thiếu một nạn nữa, nên phải bổ sung thêm. Tổng cộng trải qua 14 năm, theo lịch cũ thì một năm có 360 ngày mà tính, tổng cộng mất 5.040 ngày. Nhưng còn thiếu 8 ngày nữa so với ẩn số, lại vừa khớp với một nạn bổ sung 8 ngày, hợp thành con số 5.048 bí ẩn, con số bí ẩn này lại là con số giống với trọng lượng binh khí của Bát Giới và Sa Tăng. Nói về một nạn bổ sung thêm cho Đường Tăng, trong truyện tác giả đã sớm để lại “phục bút” rồi. Bề ngoài là lão rùa trắng Bạch Ngoan hỏi Đường Tăng là khi nào lão mới thoát xác để đắc được thân người, thực chất biểu hiện ra là Đường Tăng đã thoát khỏi thân người đắc được Phật thể rồi. Ngoài ra, nạn này chính là khi Đường Tăng đã trải qua hơn một nửa con đường mười vạn tám nghìn dặm, cũng chính là tại vị trí huyệt bách hội của con người, mà nơi đây lại chính là nơi sở tại của Nê Hoàn Cung, trong giới tu luyện Nê Hoàn Cung cũng được coi là nơi trú ngụ của chủ nguyên thần. Tại nơi đây họ đã cứu được Trần Quan Bảo và Nhất Xứng Kim. Thực ra ngụ ý trong đó chúng ta cũng dễ dàng có thể thấy được: người trong thôn có cùng họ Trần với Đường Tăng, có thể coi là phản bổn quy chân; năm đó bởi vì đi được nửa đoạn đường, sá nữ và anh nhi đại biểu cho âm dương lúc hòa hợp. Trần Quan Bảo 7 tuổi và Nhất Kim Bình 8 tuổi cộng lại là 15, chính là một nửa của ba mươi cân. Cái tên “Quan Bảo” được đóng lại và được bảo vệ ở bên trong Nê Hoàn. Ai là người bảo vệ đây? Đương nhiên chính là Nhất Xứng Kim. Trong Phật giáo coi ‘Trượng lục kim thân’ là một trong ba thân thể của Phật, là thân thể nhỏ trong thân thể biến hóa của Phật. Trong tu luyện Toàn Chân Đạo có khẩu quyết kim đan như thế này: “Nội hữu kim đan thập lục lưỡng, Tống tại tây nam khôn địa thượng. Thùy tri thử vật thị hoàn đan, Chỉ tại Nê Hoàn Cung lý dưỡng.” Lưỡng và xích ở đây nếu tính là ngang nhau, thì kim đan chính là chỉ kim thân. Nhất Xứng Kim ở đây chính là chỉ kim thân của Đường Tăng sau khi ông tu thành. Lúc trước khi Đường Tăng thỉnh kinh đến sông Thông Thiên, bị yêu ma đóng băng sông Thông Thiên, sau đó Đường Tăng bị bắt đi. Bát Giới nói Đường Tăng, “Đừng gọi là Tam Tạng nữa, mà nên đổi thành Trần Đáo Để” (lối chơi chữ, nghĩa là “Trầm Đáo Để”, chìm đến đáy). Đường Tăng rốt cuộc chìm đến nơi nào? Trong truyện nói là chìm đến “Thủy ngoan chi đệ” (phủ đệ của lão rùa), thực ra đây là Nê Hoàn của con người. Từ huyệt bách hội hướng xuống vào trong đại não, là vị trí sở tại của Nê Hoàn, Nê Hoàn cũng được gọi là ‘Tổ khiếu’, cũng là thể tùng quả mà y học hiện đại nhận thức được. Nó cũng là nơi trú ngụ của chủ nguyên thần của con người. Mà lần này, Bạch Ngoan (lão rùa trắng) muốn hất Đường Tăng xuống nước, thân thể của Đường Tăng đã là thân thể đắc Đạo, cho nên có thể ở trong chân không được và ở dưới nước được. Ngoài ra, từ thọ mệnh của Bạch Ngoan cũng có thể thấy được mối quan hệ giữa Bạch Ngoan và Đường Tăng. Bạch Ngoan nhờ Đường Tăng hỏi Phật Như Lai xem khi nào ông mới thoát xác, ông nói rằng bản thân ông “đã tu hành hơn một ngàn ba trăm năm”. Hơn một ngàn ba trăm năm này, nếu tính theo thời gian trước khi Đường Tăng đi thỉnh kinh, thì chính là thời đại mà Phật Thích Ca Mâu Ni truyền Pháp, đương nhiên cũng là thời đại Tu Bồ Đề hay Kim Thiền Tử còn tại thế. Vậy thì Lão Ngoan này là ai? Đó chẳng qua chỉ là một bộ phận của nhục thân, là vật chất cấu thành từ ngũ hành mà thôi, có thể nói là một tải thể của Kim Thiền Tử tại nhân gian. Trong truyện dùng Lão Ngoan thực chất là nói về bản lai diện mục của Đường Tăng, cũng tức là ý nói “hoàn nguyên” (“ngoan” với “nguyên” là đồng âm), đây cũng chính là câu thơ trong truyện: “Bất nhị môn trung Pháp áo huyền, Chư ma chiến thoái thức nhân Thiên. Bản lai diện mục kim phương kiến, Nhất thể nguyên nhân thủy đắc toàn. Bỉnh chứng tam thừa tùy xuất nhập, Đan thành cửu chuyển nhậm chu toàn. Khiêu bao phi trượng thông hưu giảng, Hạnh hỉ hoàn nguyên ngộ Lão Ngoan.” “Ma ha bàn nhược ba la mật đa tâm kinh” gọi tắt là “Tâm kinh”, là kinh sách kinh điển trong Phật giáo. Năm xưa khi Ô Sào Thiền Sư truyền thụ cho Đường Tăng, lại nói là “Đa tâm kinh”, về sau khi Đường Tăng gặp ma nạn hay có chấp trước trong tâm của bản thân, mặc dù nói là niệm “Tâm kinh”, nhưng tác giả lại viết thành “Đa tâm kinh”. Ví dụ trong hồi thứ 20 “Hoàng Phong lĩnh Đường Tăng hữu nạn, Bán sơn trung Bát Giới tranh tiên”, khi Bát Giới và Ngộ Không đại chiến với hổ quái, trong truyện có viết: “Tam Tạng ngồi xuống, sợ đến rét run lập cập, miệng niệm‘Đa tâm kinh’ mà không lên tiếng.” Trong tâm nếu sợ hãi như thế này, đương nhiên là tâm sợ hãi rồi, Đương Tăng niệm cũng chỉ có thể là “Đa tâm kinh” thôi. Mãi đến lúc sau khi đến nước Thiên Trúc, tâm chấp trước của Đường Tăng về cơ bản đã trừ sạch rồi, lúc này tác giả mới viết rằng Đường Tăng niệm chính là “Tâm kinh” . Từ đây có thể thấy, khi sáng tác “Tây Du Ký” là tương đối khắt khe, tuyệt không phải là nghĩ lung tung từ không thành có mà viết ra. Trong việc bố trí tình tiết và dùng từ dùng câu, miêu tả hình tượng nhân vật cũng là như vậy. Hình tượng thầy trò Đường Tăng ai ai cũng thích, và đã đi sâu vào lòng người. Thực ra tác giả đã viết ra tính chất chung của của con người, cũng chính là tâm lý và tính tình thuần khiết của con người; từ hình tượng Tôn Ngộ Không, người ta có thể nhìn thấy được sự thông minh, hoạt bát, cơ trí, tinh nghịch, tâm lý không bị gò bó cho đến sự hướng về của chính mình. Từ hình tượng Trư Bát Giới người ta có thể nhìn ra mặt lười biếng, đố kỵ, tham lam, vụng về mà lại đáng yêu của bản thân; từ hình tượng của Sa Hòa Thượng có thể nhìn thấy mặt nội tâm an định, không oán hận, nhẫn nhượng, sạch sẽ của bản thân; từ hình tượng của Đường Tăng, chúng ta nhìn thấy được sự kiên định vì đi tìm chân lý mà không bao giờ bỏ cuộc của bản thân. Là một bộ trường thiên tiểu thuyết, tuy tác giả miêu tả nhân vật chính không nhiều, nhưng điều viết ra lại là tính chất chung của con người, đạt được sự đồng cảm về tâm lý của mọi người. Đương nhiên, tác giả miêu tả về đặc trưng của các vị thần tiên, cho đến việc miêu tả hình thể dung mạo khác thường của yêu ma quỷ quái cũng đều có những nét độc đáo; miêu tả về sự mỹ hảo, thù thắng tráng lệ của Thiên Cung, cho đến địa phủ và động phủ của yêu ma làm cho độc giả cảm thấy chân thực đáng tin. Những điều này rất khó để miêu tả được, nó mở ra cho con người sự tưởng tượng vô hạn về không gian và cảm thụ, làm cho người ta có sự tưởng tượng thiết thực mà có thể cảm nhận được về không gian và trải nghiệm bản thân đối với thế giới thiên quốc. Đương nhiên, đây cũng là tác giả viết về những thể hiện chân thực tại không gian khác, thì mới có tác dụng như thế. Mỗi một hình tượng trong “Tây Du Ký” đều được đưa vào đó nội hàm tu luyện, cho dù là một tiểu yêu, cũng là thể hiện suy nghĩ của người tu luyện. Khi người ta xem “Tây Du Ký”, bao gồm tác phẩm điện ảnh, phim truyền hình, kịch, sách bình luận văn học, các cố sự, đều không tránh được việc hòa những nhân tố tu luyện vào nơi sâu thẳm trong tư tưởng của bản thân. Cho nên, đối với người Trung Quốc mà nói, nhắc tới tu luyện, Thần Phật, thần thông, Pháp thân, Pháp khí, thiên quốc, long cung, địa phủ, yêu ma, v.v. trong đầu họ đều có những nội hàm tương ứng, mà những điều này đều là chính diện. Không giống như câu chuyện về Pháp Hải hòa thượng trấn áp Bạch Xà, vốn là truyền thuyết mang theo nội hàm tu luyện chính diện, nhưng lại bị người ta diễn dịch thành câu chuyện tình đúng-sai lẫn lộn. Người đời khi hứng thú và chú tâm xem, hoặc nghe, hoặc kể về “Tây Du Ký”, thì nhân tố tu luyện đã dần dần đi vào và thay đổi một cách vô tri vô giác tư tưởng cùng nhận thức của họ. Do đó từ góc độ nhận thức, về phương diện phổ cập văn hóa tu luyện thì “Tây Du Ký” có tác dụng không gì sánh bằng! Vậy điều này có chỗ tốt nào? Người tu luyện chân chính đều biết rằng, con người đến thế gian, không phải vì để làm người, mà là vì để phản bổn quy chân. Đây là điều các tôn giáo trên thế giới đều giảng. Đặc biệt là trong văn hóa truyền thống của Trung Quốc, nhân tố tu luyện có thể nói là không nơi nào không có. Ngôi nhà thật sự của con người không phải là nơi thế gian, mà là ở các thiên quốc khác nhau. Con người đến thế gian này là vì để đắc được Chính Pháp để tu luyện quay trở về, từ đó thoát khỏi sự đau khổ trong luân hồi sinh tử. Về điểm này, trong “Tây Du Ký” cũng có thể hiện. Ví dụ như hồi thứ 64 “Kinh Cức lĩnh Ngộ Năng nỗ lực, Mộc Tiên am Tam Tạng đàm thơ” Đường Tăng nói: “Phu nhân thân nan đắc, Trung Thổ nan sinh, chính Pháp nan ngộ; toàn thử tam giả, hạnh mạc đại yên” (Thân người khó được, Trung Thổ khó sinh, chính Pháp khó gặp; nếu được cả ba điều, thì may mắn lắm thay!)Hồi thứ 91 “Kim Bình phủ nguyên dạ quan đăng, Huyền Anh động Đường Tăng cung trạng”, một vị hòa thượng nghe thấy Đường Tăng đến từ Trung Hoa, liền cúi người xuống bái, chắp tay mà nói: “Tôi đây là người hướng thiện, đọc kinh niệm Phật, cũng chỉ mong tu luyện để được thác sinh đến đất Trung Hoa của ngài.” Trong truyền thuyết lịch sử xa xưa, Đông Thổ là nơi mà thế nhân hướng về, không chỉ là văn minh Trung Hoa cổ xưa thu hút con người trên khắp thế giới, mà có dự ngôn thế này: “Nhân loại thời kỳ mạt kiếp sẽ có Chuyển Luân Thánh Vương lấy hình tượng Phật Di Lặc tại Đông Thổ truyền chính Pháp mà cứu độ thế nhân”. Trong “Tây Du Ký” cũng có ẩn dụ về điều này. Trong truyện, Phật Di Lặc được gọi là “Đông Lai Phật Tổ” (Phật Tổ đến từ phương Đông). Mà khi Phật Di Lặc thu phục Hoàng Mi quái đã nói với Tôn Ngộ Không, bảo bối ‘đáp bao’ (túi đắp) mà yêu tinh sử dụng chính là “nhân chủng đại” (túi đựng giống người). Điểm này ở bài viết trước đã nói rồi. Vậy thì túi “nhân chủng đại” này nói lên điều gì? Bởi vì Phật Di Lặc cần đến nhân gian để độ nhân, nên phải có mối quan hệ thế nào đó với nhân loại. Trong Phật gia mối quan hệ này được gọi là “duyên phận”. Nếu không có duyên phận, đến thời kỳ mạt pháp mạt kiếp thì những người không có duyên sẽ không thể được cứu độ. Người trong giới tu luyện giảng, trong lịch sử Phật Di Lặc tại thế gian, từ mấy lần lịch sử văn minh nhân loại xa xôi lần trước rồi Ngài đã đến rồi. Thời kỳ mới bắt đầu nền văn minh nhân loại lần này, Ngài đã từng đến nhân gian rồi. Sau đó Ngài dùng các phân thân khác nhau chuyển sinh đến các nơi khác nhau tại các thời kỳ khác nhau, cùng người thế gian tạo nên các loại duyên phận. Mục đích chính là đợi đến khi chính Pháp khai truyền, người có duyên phận sẽ đắc được chính Pháp. Ở Trung Quốc, Phật Di Lặc được gọi là “Vị lai Phật” (vị Phật tương lai), chính là vị Phật Tổ trong tương lai sẽ cứu độ nhân loại. Thậm chí trên tượng Phật Di Lặc người ta còn khắc lên đó 18 tiểu hài tử (gọi là “Di Lặc thập bát tử”), dùng để ẩn dụ rằng tương lai Phật Di Lặc đến nhân gian truyền Pháp sẽ lấy họ là họ “Lý” (“thập bát tử” ghép lại thành chữ “Lý” ). Thực ra rất nhiều người trong các tôn giáo cũng như nhiều người trong giới tu luyện đều biết rằng xã hội nhân loại hiện nay chính là đang trong thời kỳ mạt pháp mạt kiếp. Đạo đức nhân loại hiện nay đã bại hoại đến mức độ xưa nay chưa từng có, nhân tâm đã hoàn toàn bại hoại rồi, hơn nữa ở Trung Quốc lại là đang trong thời kỳ một đảng chính trị theo thuyết vô thần cai trị. Cái đảng này tàn hại thế nhân, bức hại người tu luyện đến mức cực kỳ nghiêm trọng. Cho nên sau khi chính Pháp được truyền xuất, cũng gặp phải sự bức hại của ác đảng này. Đương nhiên, đây đều là sự an bài của lịch sử. Nếu ai đắc được chính Pháp trong thời kỳ lịch sử này, hơn nữa lại bước qua được giai đoạn này, thì người đó thật vô cùng may mắn. Mặc dù điều này không được tiết lộ trong “Tây Du Ký”, nhưng trong ý nghĩa hàm ẩn của nó lại có điều này. Kỳ thực, trong “Tây Du Ký” vẫn còn ẩn chứa một thiên cơ nữa chưa được người ta tiết lộ ra. Khi Tôn Ngộ Không học Đạo, Bồ Đề Tổ Sư vừa giảng về Đạo lại vừa giảng về Thiền, Phật và Đạo này vốn không thể trộn lẫn mà cùng tu luyện. Chính là nói một người, nếu người đó tu Phật thì là tu Phật, tu Đạo thì chính là tu Đạo, tuyệt đối không thể trộn lẫn vào mà tu. Bởi vì tu luyện Phật gia và Đạo gia thì công trên thân thể đều có hình thức tu luyện diễn hóa của bản thân, mà điều này lại đều là do sư phụ giúp đỡ diễn hóa cho. Ví dụ, Đạo gia tu luyện giảng tiểu chu thiên đại chu thiên, là chỉ việc đả thông hai mạch nhâm đốc, ba mạch âm ba mạch dương nơi tay, ba mạch âm ba mạch dương nơi chân. Nhưng mạch trong Phật gia lại chạy theo cách khác. Lấy mạch trong Mật tông mà nói, trong Đạo gia cơ bản không có cách nói này, cũng không tìm được căn cứ về phương diện này, vậy họ luyện như thế nào? Hơn nữa Phật Thích Ca Mâu Ni cơ bản không hề giảng về bộ phận công, mà bảo người tu luyện ngay cả thân thể cũng đều vứt bỏ. Trong lịch sử Trung Quốc quả thực có một số người muốn kết hợp tu luyện Nho giáo, Thích giáo, Đạo giáo; có một số người còn làm cái gì là đội mũ của Đạo sỹ, mặc áo cà sa của Phật giáo, chân đi giầy của Nho sinh, nhưng không đạt được thành tựu gì, cũng không hình thành nổi, càng không cần nói đến có những người như thế này có thể tu thành Phật hoặc thành Đạo. Đây chỉ là biểu hiện của tâm công danh lợi lộc mà thôi. Văn hóa của Nho gia, Phật gia, Đạo gia trong lịch sử phát triển không thể tránh khỏi có một số điều bị dung hợp, nhưng người tu luyện chân chính lại không thể trộn lẫn vào để cùng tu luyện. Vậy làm sao trong “Tây Du Ký” lại có thể dung hợp cả ba nhà lại, đặc biệt là dung hợp Phật và Đạo lại để sáng tác? Đây không chỉ là yêu cầu suy xét đến tình tiết để sắp xếp kết cấu theo trình tự, mà là dự ngôn ở mức độ tương đối lớn, về việc Đại Pháp của vũ trụ truyền ra trong tương lai bao hàm cả Phật gia và Đạo gia. Sau khi tôi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, mới nhận thức được một cách chân chính rằng những câu chuyện tu luyện được kể đến trong “Tây Du Ký” là vì để trải thảm sẵn cho Pháp Luân Đại Pháp. Trong phần đầu của loạt bài viết này chúng ta đã nói về Tu Bồ Đề, Tôn Ngộ Không, Đường Tăng; đó chỉ là cách nói về cùng một người. Bây giờ chúng ta thảo luận về nội dung được ẩn giấu trong truyện, khi Tôn Ngộ Không ‘minh tâm kiến tính’, Tu Bồ Đề (Bồ Đề Tổ Sư) dạy Tôn Ngộ Không là nội dung tu luyện của Đạo gia. Điều này thuyết minh rằng, sau khi Tu Bồ Đề tu luyện Phật Pháp nhưng rốt cuộc lại không vứt bỏ được những thứ của Đạo gia, cho nên mới có sự ngạo mạn khi Phật Thích Ca Mâu Ni giảng Pháp, cũng từ đó mà bị đọa xuống hạ giới, tu luyện lại từ đầu. Vì sao Tu Bồ Đề không cho Ngộ Không nhắc đến ông? Bởi bản thân ông là đệ tử của Phật, nhưng trong tâm lại không vứt bỏ được những thứ của Đạo gia, do đó ông cố hết sức giấu kín việc này. Ở đây lại có một vấn đề đưa ra là, Phật Thích Ca Mâu Ni quản chính là đệ tử chân tu trong Pháp môn của Ngài, người tu Đạo về cơ bản là không thể quản được. Vậy tại sao trong “Tây Du Ký” thầy trò Đường Tăng lại tu thành? Đạo gia giảng âm dương ngũ hành; coi kim, mộc, thủy, hỏa, thổ là yếu tố cơ bản cấu thành nên vạn sự vạn vật trong vụ trụ; Phật giáo giảng tứ đại: đất, nước, lửa, gió cấu thành nên vạn sự vạn vật. Lý luận tu luyện về cơ bản là khác nhau. Điều này chỉ có thể nói rõ một vấn đề, việc an bài quá trình tu luyện của thầy trò Đường Tăng là do một vị Phật cao hơn Phật Thích Ca Mâu Ni an bài tất cả. Chỉ là trong lịch sử Ngài không tạo ra ảnh hưởng gì, nói ra thì tư tưởng của người ta cũng không tiếp thu được, cho nên mới mượn danh nghĩa là Phật Thích Ca Mâu Ni an bài cho thầy trò Đường Tăng tu luyện. Do đó từ góc độ này mà nói, Bồ Đề Tổ Sư che giấu thân phận tu Đạo của bản thân mình không chỉ là vấn đề ông kiêng kỵ. Ông đang chờ đợi, chờ đợi khi Đại Pháp chân chính của vũ trụ khai truyền sẽ có thể làm cho người ta hiểu được nỗi khổ tâm của ông. Ông biết rằng, Đại Pháp chân chính của vũ trụ sẽ bao hàm cả Phật gia và Đạo gia mà tu luyện. Con đường tu luyện nơi trần thế của ông là để làm bằng chứng cho việc đắc chính Pháp trong tương lai. Đó chính là, tu Đạo cũng vậy mà tu Phật cũng vậy, nếu tu luyện trong Đại Pháp của vũ trụ thì đều có thể giữ lại những thứ vốn có của chính mình, từ đó tiến tới tu luyện trở về bản chất tiên thiên của sinh mệnh bản thân, và có thể đạt được đến tầng thứ cao hơn. Một nạn được bổ sung thêm cho Đường Tăng, có thể nói là Đường Tăng “hạnh hỉ hoàn nguyên ngộ Lão Ngoan” (may mắn trở lại gặp lão rùa), ý nghĩa trong đó là nói Đường Tăng trải qua tu luyện thì vẫn là trở về bản nguyên của chính mình, nhưng “nguyên” trong hoàn nguyên lại là cùng tuổi với Lão Ngoan, chỉ là mới có lịch sử hơn 1.200 năm, cũng chính là bản nguyên của Kim Thiền Tử hạ xuống phàm gian. Bởi vì Đường Tăng đã trở về trạng thái bản tính lúc mới đến nhân gian, đương nhiên cũng là tu luyện viên mãn rồi, cũng là điều mà Phật giáo giảng “kiến tính thành Phật”. Sư phụ Lý Hồng Chí trong “Giảng Pháp tại Pháp hội New York 2007” đã giảng:“Miễn là chư vị đến nơi người đây, ai cũng không lên được thiên thượng; đó là tuyệt đối, chưa có ai từng có thể lên thiên thượng.” “Nói cách khác, ai tiến nhập vào tam giới, ai đã đến người nơi đây rồi, thì là đã rớt xuống rồi, chính là không thể lại quay trở về trên nữa, vì nhân loại quá khứ không có chân Pháp có thể khiến con người quay về thiên thượng.” Vậy thì những sinh mênh tầng thứ cao như vậy vì sao lại đến nhân gian? Là họ đang chờ đợi, chờ đợi đến khi Đại Pháp của vũ trụ khai truyền, thì họ sẽ lại đến nhân gian để tu luyện theo Đại Pháp của vũ trụ. Chỉ có như thế này thì họ mới có thể thật sự vượt khỏi tam giới để trở về nơi thế giới của chính mình. Điều này cũng phù hợp với điều Đường Tăng nói: “Thân người khó được, Trung Thổ khó sinh, chính Pháp khó gặp; nếu được cả ba điều, thì may mắn lắm thay!” Đường Tăng đắc được thân người, lại là người Trung Thổ, vậy tại sao ông còn đi Tây Thiên thỉnh kinh? Hiển nhiên là vì chính Pháp của vũ trụ vẫn chưa được truyền xuất. Thế thì thầy trò Đường Tăng giờ ở nơi đâu. Có vị tu luyện có thiên mục khai mở ở tầng thứ rất cao nói rằng, họ hiện giờ đều đang tu luyện Pháp Luân Đại Pháp. Người ta nhất thời không thể nào tiếp thu được cách nói này. Thực ra chỉ cần chúng ta thay đổi góc nhìn thì sẽ minh bạch ngay thôi, Phật Thích Ca Mâu Ni giảng, tu luyện có tám vạn bốn nghìn pháp môn. Ở Trung Quốc có rất nhiều pháp lớn của Phật gia lưu truyền trong dân gian, đơn truyền qua các thời đại khác nhau, Phật cao hơn Phật Thích Ca Mâu Ni đương nhiên cũng đếm không xuể. Đây là điều ẩn chứa trong “Tây Du Ký” nhưng lại có thể tiết lộ một bí mật khác. “Tây Du Ký” có kết cấu vô cùng đồ sộ, mở đầu là nói về nguồn gốc của trời, đất, con người. Nói “Số của trời đất, là 12 vạn 9 nghìn 6 trăm tuổi làm một nguyên” (một nguyên là 129.600 năm). Sự hình thành và xuất hiện của trời, đất, con người cũng chỉ là theo chu kỳ mấy vạn năm lịch sử. Nhưng trong truyện nói rằng Ngọc Hoàng Đại Đế đã trải qua 1.750 kiếp, mỗi kiếp là 129.600 năm. Hiển nhiên là Ngọc Hoàng Đại Đế tồn tại trước cả trời đất. Trong “Tây Du Ký” nói rằng Bồ Đề Tổ Sư cũng là “Lịch kiếp minh tâm Đại Pháp Sư”. Nhưng không nói ông đã trải qua bao nhiêu kiếp, cũng là trải qua bao lần thành-trụ-hoại-diệt của trời đất và con người, cũng giống như Bồ Đề Tổ Sư đã tồn tại trước cả trời đất. Thực ra nhiều chính giáo trên thế giới đều giảng về lịch sử của Thần Sáng Thế, con người là do Thần tạo ra. Mục đích tạo ra con người là để Thần nơi thượng giới xuống đến phàm gian mà hoàn trả tội nghiệp của họ, đồng thời chờ đợi Đại Pháp của vũ trụ khai truyền ở tầng thấp nhất trong vũ trụ – nhân gian, để có cơ duyên đồng hóa với Chính Pháp, từ đó làm cho chúng sinh nơi thiên thể mà họ đại biểu có thể được đắc cứu trong Chính Pháp của vũ trụ. Con người sinh ra là nhờ cha mẹ, cũng chỉ là một phương thức tồn tại và sinh sôi mà Thần thiết đặt ra cho con người mà thôi. Thần đến thế gian thì cũng chỉ có thể lấy phương thức sinh tồn thế này mà thôi. Tôn Ngộ Không lấy hình thức con khỉ sinh ra từ tảng đá là muốn nói với thế nhân rằng, con người có tiên thiên, có thông linh, bản tính tiên thiên của con người cùng với vũ trụ không có sự khác biệt. Thế còn tiên thiên của con người là gì? Có miêu tả thế nào cũng không thể miêu tả được rõ ràng. Lấy Tu Bồ Đề mà nói, ông là vị Đại Pháp Sư trải qua bao nhiêu kiếp, trước khi đến nhân gian ông đã tồn tại rồi. Nhưng một sinh mệnh cao cấp thế này, khi đến nhân gian cũng phải lấy hình tượng của con người để xuất hiện. Mà khi sáng tác “Tây Du Ký” yêu cầu bản tính tiên thiên của con người phải có hình thức sinh mệnh tồn tại để con người có thể tiếp thu được, lại lấy hình thức sinh ra đến thế gian này mà con người có thể tiếp thu thì mới được, đây chính là nguyên do Tôn Ngộ Không sinh ra từ tảng đá. Nói về con người trên thế giới ngày nay, rất nhiều người họ không biết được rằng đã luân hồi chuyển sinh tại thế gian bao nhiêu lần rồi. Có lẽ nguồn gốc sinh mệnh của người đó đến từ tầng thứ rất cao, ban đầu chỉ có một mục đích duy nhất khi xu��ng nhân gian này, đó chính là để đắc được Đại Pháp của vũ trụ. Nhưng trải qua sự luân hồi dài đằng đẵng, họ đã bị mê mờ nơi nhân gian rồi. Không để cho nhân loại bị mê mờ đi chính là mục đích mà “Tây Du Ký” được truyền ra cho thế nhân, đó là vì để lưu lại cho con người thế gian một cơ hội khai mở bản tính khi Đại Pháp vũ trụ khai truyền, vì sự hồng truyền của Đại Pháp vụ trụ nơi thế gian mà đặt định nền móng. Trong “Chuyển Pháp Luân” bài giảng thứ chín có giảng: “Người ta nói: ‘Ta đến xã hội người thường, giống như đến khách sạn, tá túc vài ngày, rồi vội rời đi’. Một số người cứ lưu luyến nơi này mãi, quên cả nhà của bản thân mình.” Miêu tả về Bồ Đề Tổ Sư trong “Tây Du Ký” thực ra chính là sự tái hiện bản tính của con người: “Không tịch tự nhiên tùy biến hóa, chân như bản tính nhậm vi chi; Dữ thiên đồng thọ trang nghiêm thể, lịch kiếp minh tâm Đại Pháp Sư.”  Người đắc đạo chân chính thì bản tính và thân thể hoàn toàn hợp nhất. Nói đến đây, còn có một vấn đề nữa đã vô cùng rõ ràng, đó chính là mối quan hệ giữa Ngọc Hoàng Đại Đế cùng Tôn Ngộ Không, Bồ Đề Tổ Sư, và Đường Tăng. Từ góc độ tự thân tu luyện mà nói, họ là cùng một thân thể, bởi vì Ngọc Hoàng Đại Đế là chủ tể của thân thể, thì có chỗ nào khác với Đường Tăng? Như vậy thì số kiếp mà Bồ Đề Tổ Sư trải qua cũng chính là 1.750 kiếp mà Ngọc Hoàng Đại Đế trải qua. Đây là chúng ta đứng từ góc độ tu luyện cá nhân mà nói. Đứng ở góc độ toàn nhân loại mà nói, tam giới là có tồn tại, Thiên Cung cũng là có tồn tại, Ngọc Đế tồn tại trong tam giới và Ngọc Đế trong tu luyện của Tôn Ngộ Không là không thể xem như tương đồng. Sự tu luyện cá nhân của Ngọc Đế nói là thật cũng được mà nói là hư cấu cũng được, rất nhiều là hình tượng hóa một cách ví von, trong “Tây Du Ký” có cách xử lý thế này, đó là từ góc độ truyền tải một tư tưởng đạo lý nhất định và sự giáo hóa của tác phẩm nghệ thuật mà suy xét cân nhắc. Tuy nhiên Thiên Cung và Ngọc Hoàng cùng chư Thần trong tam giới nữa, họ lại tồn tại thật sự, trong “Tây Du Ký” là mượn dùng từ góc độ tu luyện cá nhân để miêu tả. Cho nên nếu không nhìn từ góc độ tu luyện cá nhân, thì thắng cảnh nơi thiên quốc, chư Thần, Phật, Bồ Tát, cũng là độc lập không liên quan. Văn hóa Trung Quốc là văn hóa Thần truyền, dường như những an bài trong lịch sử có biết bao ‘Thiên ý’ ở trong đó! Trung Quốc thuộc Nam Thiệm Bộ Châu, mà hướng Nam đối ứng trong ngũ hành thuộc về hỏa. Theo quan hệ tương sinh tương khắc trong ngũ hành, mộc sinh hỏa, gọi là ‘mộc chi tử’, mộc (木) và tử (子) hợp lại chính là một chữ Lý (李), điều này cùng với điều tiết lộ ở phần đầu bài về danh tính của Phật Di Lặc đến thế thế gian truyền chính Pháp vào thời mạt pháp mạt kiếp là hoàn toàn giống nhau. Vào thời Đường, kinh mà Đường Tăng thỉnh là cho người dân triều Đường, danh tính của Đường Thái Tông là Lý Thế Dân đã bao hàm yếu tố này rồi. Con người thế gian tiếp thu “Tây Du Ký” mà không có trở ngại nào. Điều này làm cho tôi nghĩ đến những người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, bề ngoài thì người ở tất cả các tầng lớp đều có, từ những giáo sư đại học, quan viên chính phủ, người giàu có, cho đến công nhân, nông dân, trẻ nhỏ, rồi có những người lớn tuổi không biết chữ, đều có thể tiếp thu những Pháp lý mà Sư phụ Lý Hồng Chí giảng mà không có chút trở ngại nào. Trong Pháp Luân Đại Pháp xác thực là có những điều của Đạo gia như kinh mạch, âm dương, ngũ hành. Pháp Luân Đại Pháp là công pháp lấy Phật gia là chủ đạo, nhưng bề ngoài cơ bản không có liên quan đến ‘tứ đại’ giảng trong Phật giáo, điều này là nhất trí với “Tây Du Ký”. Đoàn Nghệ thuật Thần Vận (Shen Yun Performing Arts) do những người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp thành lập, được mệnh danh là “chương trình đệ nhất thế giới”, liên tiếp mấy năm liền đều lấy những nội dung trong “Tây Du Ký” để diễn. Trong vở múa “Kim Hầu xuất thế” năm 2012, hình tượng vị Phật nắm Tôn Ngộ Không trong lòng bàn tay chính là hình tượng người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp – Ngài Lý Hồng Chí. Hàm ý trong đó làm cho người ta phải nghĩ sâu xa hơn. Mở màn chương trình dạ hội Thần Vận năm 2014 càng làm chấn động người ta hơn, tiết lộ một cách sâu xa hơn về bản tính của sinh mệnh. Nơi thiên quốc, Sáng Thế Chủ mở lời ở trên đỉnh của đại khung vũ trụ: “Ai nguyện theo ta hạ thế Chính Pháp?” Mà trải khắp khung thể vũ trụ từ nơi cao nhất cho đến nơi thấp nhất lại là từng tầng từng tầng thiên thê (thang lên trời), tầng tiếp cận gần với thế gian nhất là bốn chữ vàng: ‘địa, thủy, hỏa, phong’. Điều này thuyết minh rằng, Sáng Thế Chủ khi đến nhân gian đã sớm đặt định cơ sở để con người trong tương lai có thể đắc Pháp, tất cả lịch sử đều là vì Sáng Thế Chủ xuống nhân gian và sự trở về của nhân loại tương lai mà làm những chuẩn bị. ‘Đất, nước, lửa, gió’ là những vật chất cơ bản cấu tạo nên thế giới được giảng trong Phật giáo. Phật giáo truyền vào Trung Quốc trong những năm đầu thời Đông Hán. Trên vũ đài của Thần Vận, Thần Phật hạ xuống thế gian chuyển sinh thành người, người ta vừa hát vừa nhảy múa, trên các ngọn cờ tung bay trong gió có một chữ “Hán”, điều này nói rõ chính là triều Hán. Sau khi bài hát “Giá thị chân âm” (Đây là lời chân thật) kết thúc, tiếp theo là vở múa “Hán phong khởi lệ” (Cảnh sắc tươi đẹp triều Hán). Đối chiếu với việc chúng ta giải “Tây Du Ký”, kết hợp với lịch sử Phật giáo truyền nhập vào Trung Quốc, thì có thể nhìn ra, trong mười đời chuyển sinh của Kim Thiền Tử, lần chuyển sinh đầu tiên cũng chính là thời kỳ Phật giáo bắt đầu truyền nhập vào Trung Quốc. Nét đẹp của “Tây Du Ký” không thể diễn tả bằng lời. Chúng sinh của biết bao thế giới thiên quốc đã vì sự hồng truyền của Đại Pháp ngày hôm nay mà đặt định cơ sở từ rất lâu rồi! Chúng ta cùng xem lại ca từ của bài hát “Đây là lời chân thật”: “Tôi không biết bạn là ai, cho dù bạn ở nơi góc phố nào, tôi biết rằng con người thế gian phần lớn là đến từ Thiên thượng, vì để chờ đợi Sáng Thế Chủ, Ngài giúp bạn trừ bỏ tội nghiệp thì bạn mới có thể trở về nơi Thiên Đường. Thần Phật đến thế gian ma quỷ tất sẽ trở nên điên cuồng, chớ có tin những lời dối trá của con ma đỏ, vì nó không cho bạn nối lại Thánh duyên, mau tìm đệ tử Đại Pháp để hiểu rõ sự thật, đó là điều mà bạn chờ đợi hàng nghìn vạn năm, đó là hy vọng cuối cùng của bạn.” Những lời ca của bài hát này chính là đang khai mở Phật tính bị chôn giấu sâu thẳm trong tâm hồn con người. Cuối cùng, tôi tin rằng đoạn Pháp sau đây trong cuốn “Chuyển Pháp Luân” của Sư phụ Lý Hồng Chí có thể giúp bạn phá mê: “Bởi vì công của chúng ta luyện được rất lớn; luyện được tương đương với cả vũ trụ. Như vậy mọi người thử nghĩ xem, trong vũ trụ này có hai ‘gia’ lớn là Phật gia và Đạo gia, loại trừ đi bất kỳ ‘gia’ nào cũng không cấu thành nên vũ trụ hoàn chỉnh được, không thể nói là vũ trụ hoàn chỉnh được; do đó chúng ta ở đây cũng có những điều trong Đạo gia.” (Hết) chanhkien.org / zhengjian.org Read the full article
0 notes
khaimocom · 5 years
Text
Thử giải “Tây Du Ký” (4)
Tumblr media
Phần 3 7. Sự an bài các ma nạn và nguyên do Thầy trò Đường Tăng trải qua 81 nạn mới đến được Tây Thiên. Sự an bài những ma nạn này nhìn bề ngoài là đi qua những nơi nào đó, gặp phải những ma nạn như thế nào đó, nhưng các an bài này lại đều không phải là không có căn cứ, mà là căn cứ vào sự tu luyện của con người và việc tu luyện tâm tính mà an bài. Những nơi đi qua và các ma nạn gặp phải đều có liên quan đến tâm tính của bản thân và nội tạng hoặc huyệt vị của thân thể. Lấy một vài ví dụ từ khi Tôn Ngộ Không quy thuận Đường Tăng trở về sau thì có thể thấy được rất rõ ràng. Ngộ Không thuộc tâm, một khi tâm quy chính, tự nhiên sẽ cần phải thanh trừ lục căn, cho nên mới gọi là “lục căn thanh tịnh”. Lục căn trong Phật giáo là chỉ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Trong truyện lần lượt dùng tên của sáu tên cướp (lục tặc) để hình dung lục căn, đó là: Nhãn Khán Hỷ (Mắt thấy mừng), Nhĩ Thính Nộ (Tai nghe giận), Tỵ Khứu Ái (Mũi ngửi thích), Thiệt Thường Tư (Lưỡi nếm nghĩ), Thân Bổn Ưu (Thân vốn lo), Ý Kiến Dục (Ý thấy muốn). Ngộ Không đánh chết sáu tên cướp này, thực ra là miêu tả hình tượng hóa về cách làm cho lục căn được thanh tịnh. Ngộ Không làm “tâm viên” đương nhiên phải chịu sự quản thúc của chủ nguyên thần là Đường Tăng, cho nên Đường Tăng mới được Bồ Tát truyền thụ cho “Khẩn cô nhi chú” (thần chú xiết chặt), “Khẩn cô nhi chú” này cũng được gọi là “Định tâm chân ngôn”, hiển nhiên là nhắm vào Tôn Ngộ Không. Khóa chắc được tâm viên rồi, tiếp theo là thu phục Bạch Long Mã. Đề mục của hồi này có câu “Ý mã thu cương”. Khóa chắc được tâm thì cũng là nắm được ý rồi, chính là “tỏa tâm viên thuyên ý mã” (khóa tâm vượn, buộc ý ngựa). Ý chịu sự quản thúc của tâm, Tôn Ngộ Không trước kia xuất thân là chức quản mã (Bật Mã Ôn), tâm ý tương hợp, tự nhiên như một. Sau khi tâm ý tương hợp, cả Tôn Ngộ Không và Bạch Long Mã cùng chủ nhân (Đường Tăng) đi Tây Thiên thỉnh kinh, cũng là bắt đầu chân chính tu luyện. Vậy thì lúc này điều phải làm được là cấm dục, đây cũng là dụng ý của việc đeo “Cấm cô chú” (thần chú vòng cấm) cho Hắc Hùng Tinh. Cấm được dục rồi, đương nhiên phải thu phục việc tham luyến mỹ sắc của Trư Bát Giới. Người ta khi chiểu theo giới luật mà tu luyện, thì tâm tính tự nhiên sẽ được nâng cao, khi này Đường Tăng cũng đã đến lúc chiểu theo điều cốt lõi trong kinh điển Phật giáo, tức “Tâm Kinh” mà tu trì bản thân rồi. Phần trước đã nói, tu luyện trên đường đi thỉnh kinh, rất nhiều đều là dựa vào lý luận tu luyện của Đạo gia. Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới đại biểu cho sự hòa hợp của âm dương trong cơ thể, là không rời khỏi tác dụng của tì tạng, Sa Hòa Thượng chính là khởi tác dụng của tì tạng. Bởi vì tì (lá lách) trong ngũ hành thuộc về thổ, màu sắc là màu vàng, thêm nữa Sa Hòa Thượng về thuộc tính lại là nhân hậu và hài hòa, ông còn được gọi là ‘hoàng bà’, tức có ý là ‘người mai mối’. Trước khi thu phục Sa Hòa Thượng, Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới hợp tác cùng đại chiến với Hoàng Phong quái, bởi vì ‘kim công’ và ‘mộc mẫu’ thiếu mất sự điều hòa của ‘hoàng bà’, nên mới có trận đại chiến với Hoàng Phong quái. Yêu quái Hoàng Phong bị thu phục rồi, cũng là đến lúc thu phục Sa Hòa Thượng. Thầy trò Đường Tăng và Bạch Long Mã, năm vị tập hợp đầy đủ rồi, thì bắt đầu quan khảo nghiệm đầu tiên của việc chân chính tu luyện, cũng là khảo nghiệm về tâm sắc dục, đây chính là nguồn gốc của “Tứ thánh thí thiện tâm” (thử thiện tâm của bốn vị thánh tăng). Quan ải này qua rồi, ngũ tạng của thân thể cũng tự nhiên an định yên ổn; đối với người tu luyện mà nói, tại tầng thứ này đã bắt đầu xuất nguyên anh. “Ngũ Trang” trong “Ngũ Trang quán” thực chất là chỉ ngũ tạng trong thân thể người. Quả nhân sâm có hình dáng giống như đứa trẻ, chính là nói về nguyên anh. Bởi vì nguyên anh được sinh ra ở bộ vị đan điền khi người ta tu luyện đến một tầng thứ nhất định, là thứ thuộc về tiên thiên, cho nên nói rằng thuộc tính của nguyên anh và ngũ hành là thuộc tính tương úy (thuật ngữ trong Trung y, chỉ độc tố hoặc tác dụng phụ của một vị thuốc có thể hạ thấp hoặc loại bỏ bởi một vị thuốc khác). Trong Phật gia nguyên anh được gọi là Phật thể, cũng được gọi là thân kim cương bất hoại. Sau khi nguyên anh được sinh ra, tự nhiên cần phải thanh trừ thây ma trên người, đó chính là chương tiết nói về ba lần đánh chết Bạch Cốt Tinh. Ở trên nói về những lý luận trong tu luyện của Phật gia, những lý luận của Đạo gia còn có nhiều hơn. Đạo gia tu luyện giảng về thông chu thiên, chu thiên của Đạo gia cũng được gọi là “hà xa chu thiên” (chạy xe vòng quanh sông), trong “Tây Du Ký” cũng có thể hiện (chẳng hạn đoạn nói về đấu phép tại Xa Trì quốc). Khi Ngộ Không đến Nam Hải mời Bồ Tát đi hàng phục Hồng Hài Nhi, Ô Quy hành lễ với Bồ Tát, Bồ Tát nói không cho Thiện Tài Long Nữ và Ngộ Không cầm bình tịnh thủy đi cùng nhau, bởi vì Long Nữ tướng mạo xinh đẹp, Bồ Tát sợ Ngộ Không khởi tà niệm, Ngộ Không nói: “Từ trước đến nay không làm việc như vậy”. Sau đó Bồ Tát cho Ngộ Không đi trước, Ngộ Không nói: “Đệ tử không dám trổ tài trước mặt Bồ Tát. Nếu lộn cân đầu vân, lộ ra thân thể, sợ Bồ Tát mắng con bất kính.” Những lời này làm cho người đọc không nhịn được cười, nhưng lại ẩn chứa thời gian thông chu thiên, hiện tượng dương khởi khi chân khí đi qua âm bộ. Đồng thời cũng thuyết minh rằng, chỗ Bồ Tát ở chỉ có Thiện Tài Long Nữ, để lại “phục bút” cho việc thu Hồng Hài Nhi làm Thiện Tài Đồng Tử sau này. Tiếp theo là bắt Đà Long tại sông Hắc Thủy, chính là nói về quá trình nguyên khí đi qua mệnh môn. Bởi vì màu sắc đối ứng với thận tạng trong ngũ hành là màu đen, mệnh môn ở giữa hai thận, thầy trò Đường Tăng đi qua sông Hắc Thủy cũng chính là đi qua huyệt mệnh môn. Do mạch đốc thuộc dương, khí hậu được miêu tả trong truyện cũng là “tam dương chuyển vận, mãn thiên minh mị khai đồ họa”(ba mạch dương vận chuyển, khắp trời mở ra đẹp đẽ như tranh vẽ). Tiếp theo là qua quan giáp tích. Vị trí của giáp tích là ở phía lưng hai bên cột sống, từ mỏm gai đốt sống cổ thứ nhất đến mỏm gai đốt sống lưng thứ năm, mỗi mỏm gai đều sang hai bên khoảng một đốt ngón tay. Trong truyện dùng ‘tiểu lộ’ (con đường nhỏ) để ví về huyệt giáp tích, nói rằng tiểu lộ nằm ở giữa hai cửa ải lớn, đường ở dưới ải đều là dốc thẳng đứng, 500 vị hòa thượng không kéo được chiếc xe chở đầy ngói qua. Tôn Ngộ Không dùng thần thông, kéo chiếc xe qua hai cửa ải, xuyên qua huyệt giáp tích. Khi qua quan này, ba con yêu quái Hổ Lực Đại Vương, Lộc Lực Đại Vương và Dương Lực Đại Vương đấu phép thuật cùng Tôn Ngô Không và bị diệt trừ, điều này nói lên ý nghĩa thực sự, đó là: khi chu thiên vận hành qua huyệt giáp tích, không thể dùng ngoại lực, dùng ý quá nhanh, quá mạnh, quá yếu đều không được, mà chỉ căn cứ một niệm của bản tính, tự nhiên sẽ qua. Nếu không sẽ nhập sang bàng môn. Qua được huyệt giáp tích, theo đường đi của chu thiên thì sẽ tiếp tục đi lên, trong truyện miêu tả là đến sông Thông Thiên. Sông Thông Thiên ý nói là huyệt bách hội trên đỉnh đầu, tả về sông Thông Thiên trong truyện có câu thơ “Trường lưu quán bách xuyên” (dòng chảy dài thông suốt trăm con sông), mà huyệt bách hội trên thân thể chính là nơi kinh mạch giao hội, huyệt vị này lại nằm ở ngay trên đỉnh đầu, có thể nói đây là nơi tương thông với trời. Nê Hoàn Cung lại là nơi đối ứng với huyêt bách hội trong đại não, cũng chính là nơi chủ nguyên thần trú ngụ, tên của yêu quái kia là “Linh Cảm Đại Vương” cũng đã nói rõ hơn về điểm này. Đến sông Thông Thiên, thì con đường thỉnh kinh đi được một nửa rồi, tức là đã đi được năm vạn bốn nghìn dặm. Nơi này lại chính là đỉnh đầu của con người, cũng chính là điểm giao hội của hai mạch nhâm và đốc. Bên bờ sông Thông Thiên có Trần Gia trang, có anh em Trần Trừng và Trần Thanh; Trần Trừng có một cô con gái tám tuổi tên Nhất Xứng Kim; Trần Thanh có một cậu con trai bảy tuổi tên là Trần Quan Bảo. Thầy trò Đường Tăng cứu được cũng chính là đôi trai gái này. Đương nhiên, đây cũng là một cách ví von, một nam một nữ này chính là chỉ “anh nhi sá nữ phối âm dương”. Trương Tam Phong từng có câu: “Hoàng bà dẫn khứ anh nhi, thượng nê hoàn, thấu huyền quan, anh nhi sá nữ lưỡng đoàn viên”. Còn có người nói: “Huyệt giáp tích trên thân người, ví như sông Ngân trên trời. Sông Ngân ngăn cách nhưng lại có Linh Thước làm cầu, còn có cách nói là bắc cầu Hỉ Thước. Lưỡi của người cũng gọi là cầu Hỉ Thước. Phàm khi tạo đan, thì lấy hoàng bà dẫn nguyên anh lên nê hoàn, cùng sá nữ giao hội, nên cũng nói là lên cầu Hỉ Thước.” Khi qua quan này, có chương tiết nói về Linh Cảm Đại Vương dùng thần thông làm tuyết rơi đông cứng sông Thông Thiên. Trong “Cửu chuyển kim đan tu luyện pháp”, khi tu luyện đến bước xuất nguyên anh này, trong định sẽ phát hiện vùng nê hoàn cho đến bách hội giống như là khoảng trống hư không, nhưng lại có cảnh tượng nhiều hoa tuyết bay. Trong “Tây Du Ký” nhiều lần nhắc đến tu luyện “Cửu chuyển kim đan thuật”, ví dụ, sau khi Tôn Ngộ Không lấy trộm kim đan của Thái Thượng Lão Quân, Lão Quân nói với Ngọc Đế: “Trong Đạo cung của Thần, luyện được một ít ‘cửu chuyển kim đan’, để Bệ Hạ làm ‘Đan nguyên đại hội’, không ngờ bị kẻ trộm lấy mất.” Ngay cả Trư Bát Giới tự kể lại với Tôn Ngộ Không về kiếp trước của mình cũng nói: “Đắc truyền cửu chuyển đại hoàn đan, Công phu trú dạ vô thời khuyết”; Tôn Ngộ Không còn nói khoác về Kim Cô bổng của mình: “Bổng thị cửu chuyển tấn thiết luyện, Lão Quân thân thủ lư trung đoàn” (gậy sắt là thép tinh luyện qua chín lần, do đích thân Lão Quân luyện trong lò). Cuối cùng một nạn bổ sung thêm cho Đường Tăng cũng là tại sông Thông Thiên, có câu thơ như sau: “Bỉnh chứng tam thừa túy xuất nhập, Đan thành cửu chuyển nhâm chu toàn”. Qua được sông Thông Thiên rồi, Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng vì tâm trộm cắp nên mới dẫn đến tai họa. Yêu quái là con trâu xanh của Lão Quân đã trộm Kim Cương trác của ông rồi xuống nhân gian tác quái. Kim Cương trác này cũng là vật Thiên Linh Cái năm xưa Lão Quân dùng để đánh Ngộ Không; vật này xuất hiện ở đây, chính là ý nói chu thiên cần phải thông qua đỉnh đầu rồi. Độc giả khi đọc đến đoạn Tôn Ngộ Không đại náo Thiên Cung đều biết, Thần tướng khắp trời nhưng không làm gì được Ngộ Không, đó là biểu hiện hình tượng hóa một người khi tu luyện đến bộ phận đầu, tại vị trí này cần thông khiếu quá quan (thông huyệt vị). Ví dụ “Minh Thiên cổ” (đánh trống trời) trong tu luyện truyền thống, chính là dùng hai tay bịt kín hai tai lại, ngón tay đặt tại huyệt ngọc chẩm gõ nhẹ; mà Lôi phủ trong Thiên Cung chính là chỉ mũi người. Nơi ở “cung Đâu Suất” của Thái Thượng Lão Quân là ở bên trên ba mươi ba tầng trời. Khi xưa Tôn Ngộ Không tại nơi đây đã bị đẩy vào lò Bát Quái, về bản chất là chỉ đỉnh đầu của con người. Tê Giác Đại Vương cản trở thầy trò Đường Tăng là do con Thanh Ngưu (trâu xanh) của Thái Thượng Lão Quân biến hóa thành, nơi ở của nó là động Kim Đâu thuộc núi Kim Đâu, có thể coi là tên gọi khác của cung Đâu Suất. Tôn Ngộ Không mời Thiên Vương, Lôi Công, Hỏa Đức, Thủy Bá, gặp Phật Như Lai, mời thập bát La Hán, giống như năm xưa Ngộ Không đại náo Thiên Cung, thực chất là miêu tả hình tượng hóa khi chu thiên vận hành quá quan thông khiếu. Cuối cùng Lão Quân dùng Kim Cương trác xỏ mũi trâu xanh và chế phục được nó, việc này được ví von như khi chu thiên vận hành đến mũi vậy. Trên đường thỉnh kinh đi qua Tây Lương nữ quốc, bởi vì Đường Tăng và Bát Giới đã uống nước sông Tử Mẫu mà có thai khí, đây là chỉ trong tu luyện đã nhập bàng môn. Đường Tăng và Bát Giới trong ngũ hành đều thuộc tính thủy, thuật ngữ trong tu luyện gọi là ‘hống’ (thủy ngân), Tôn Ngộ Không là “kim công”, thuật ngữ trong tu luyện cũng gọi là ‘diên’ (chì). “Chân diên hợp chân hống” (chì tinh khiết kết hợp với thủy ngân tinh khiết), tự nhiên sẽ sinh ra tiên đan. Nhưng Đường Tăng và Bát Giới lại uống nước, cho nên mới có tà thai. Có tà thai rồi thì làm thế nào? Chính là dùng nước suối Lạc Thai ở động Phá Nhi núi Giải Dương để phá giải. Nước suối này chính là chỉ nước bọt của người, thuật ngữ trong tu luyện gọi là ‘kim tân ngọc dịch’. Động Phá Nhi bị Như Ý chân tiên đổi tên thành Tụ Tiên am. Am là nơi cư trú của ni cô, Như Ý chân tiên là thân nam, cớ sao lại đổi tên như vậy? Bởi vì thủy trong Bát Quái có quẻ tượng đối ứng là Khảm (☵) với một hào dương ở giữa hai hào âm, chính là ý nói trong am có một thân thể nam cư trú. Tôn Ngộ Không vì sao không dùng phân thân để chống lại Như Ý chân tiên, để chân thân đi lấy nước? Bởi vì ‘chân diên chân hống’ bắt buộc phải qua sự điều hòa của thổ mẫu, do đó ắt phải là Sa Hòa Thượng đi lấy nước mới giải được tà thai. Trong “Tây Du Ký” có câu thơ viết: “Chân diên nhược luyện tu chân thủy, Chân thủy điều hòa chân hống can. Chân hống chân diên vô mẫu khí, Linh sa linh dược thị tiên đan. Anh nhi uổng kết thành thai tượng, Thổ mẫu thi công bất phí nan. Thôi đảo bàng môn tông chính giáo, Tâm quân đắc ý tiếu dung hoàn.” Hai nạn theo sau của thầy trò Đường Tăng ở Nữ Nhi quốc xem ra có liên quan đến việc vượt qua quan sắc, đương nhiên đây cũng chỉ là một phương diện, thực chất lại là sự miêu tả hình tượng hóa khi chu thiên vận hành đến bộ vị tâm tạng. Tình tiết câu chuyện Tôn Ngộ Không ba lần mượn quạt Ba Tiêu rất hấp dẫn người đọc, nếu đặt trong kết cấu chỉnh thể của “Tây Du Ký” và sự sự an bài việc tu luyện thân thể người, thì đó chẳng qua chỉ là thông qua điều tức để đạt được sự điều ch��nh của các tạng trong thân thể. Uy lực của quạt Ba Tiêu lớn như thế, miêu tả như vậy kỳ thực cũng là chỉ bộ phận lưỡi của người. Trong tu luyện truyền thống, có một cách hô hấp nạp thải khí gọi là “lục tự ca quyết”, sáu chữ này lần lượt là “hư, ha, hô, xi, suy, hi”, ứng với tạng phủ kinh lạc lần lượt là ‘can, tâm, tì, phế, thận, tam tiêu’. Khi tu luyện yêu cầu mũi hít vào mồm thở ra. Sáu chữ này dường như hoàn toàn tương đồng với khẩu quyết của bà La Sát dùng để biến lớn quạt Ba Tiêu là “xi, hư, a, hấp, hi, suy, hô”. Trong tu luyện đều cần phải “đáp Thước Kiều” (nối cầu Hỉ Thước), chính là lưỡi đặt hàm trên. Lúc thổ nạp hô hấp, khi hít khí vào lưỡi chạm hàm trên, khi thở khí ra bởi vì phải làm khẩu hình tương ứng với âm thanh phát ra, nên đầu lưỡi tự nhiên cũng rời khỏi vị trí hàm trên. Đây cũng là nguyên do dẫn đến việc Tôn Ngộ Không ba lần mượn quạt Ba Tiêu. Mà lưỡi lại là ‘tâm chi miêu’ (gốc của tâm), trong ngũ hành thuộc tâm, thuộc tính hỏa, do đó nói dùng quạt Ba Tiêu quạt tắt ngọn lửa Hỏa Diệm Sơn chính là mượn điều tức để đạt đến ‘bình tức tâm hỏa’ (khiến lửa giận lắng lại). Ngộ Không nói “Ngưu Vương bản thị tâm viên biến” (Ngưu Ma Vương vốn do tâm viên biến thành); con trai Ngưu Ma Vương là Hồng Hài Nhi cũng tượng trưng cho tâm hỏa; vợ của Ngưu Ma Vương là La Sát phu nhân giữ Hỏa Diệm Sơn cũng là chỉ về tâm hỏa. Có thể thấy gia đình nhà Ngưu Ma Vương đều có liên qua đến tâm. Dùng quạt Ba Tiêu để quạt nước mưa dập tắt lửa Hỏa Diêm Sơn, điều này lại vừa phù hợp với câu nói trong tu luyện của Đạo gia là “thủy hỏa ký tế” (nước lửa đã xong). Cho nên khi câu chuyện này kết thúc, trong “Tây Du Ký” có viết rằng: “Bốn thầy trò Đường Tam Tạng đi riêng một con đường, nước lửa đã cứu xong, tiết trời trở nên mát lạnh, mượn được quạt quý thuần âm, quạt hơi lửa nóng để qua núi.” Câu chuyện này còn có ngụ ý khác nữa, đó chính là chu thiên trong khi vận hành đi qua “tam tiêu”. Tam tiêu phân chia thành thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu, dường như bao gồm tất cả lục phủ ngũ tạng của thân thể người. Tam tiêu là một phủ đặc thù, nó là con đường thủy cốc trong thân thể, có đường nước khai thông, có tác dụng vận hành thủy dịch. Tam tiêu trong ngũ hành thuộc về hỏa. Nhưng đối ứng với mật quyết điều tức của bà La Sát cũng không chỉ để chỉ tâm. Trong truyện cũng nhiều lần nhắc đến, nói rằng chỉ có dùng quạt Ba Tiêu quạt tắt ngọn lửa, quạt đến khi có mưa, mới có thể trồng trọt có thu hoạch, từ đó mới có được ngũ cốc để dưỡng sinh. Tác giả rất chú ý đến việc sắp xếp tình tiết câu chuyện, phần trước có nói đến người tu luyện tu đến tầng thứ nhất định sẽ xuất nguyên anh, sau đó mấy phần tiếp đều viết về những gì có liên quan tới nguyên anh hoặc liên quan đến tâm, cho đến khi viết về thông chu thiên. Tiếp về sau, phần cuối lại viết về thất tình. Bởi vì không thỏa mãn được tình, liền sinh ra hận. Rồi lại viết về lục dục. Những điều này đều là có quy luật tuần hoàn. Khi chu thiên vận hành, lúc thầy trò Đường Tăng lần đầu tiên vượt quan về tâm, chính là dùng Hồng Hài Nhi; lần thứ hai là mẹ của Hồng Hài Nhi – Thiết Phiến công chúa; từ đó về sau, khi vượt qua mỗi quan thì trong tiêu đề đều dùng “sá nữ cầu dương”. Từ nam đến nữ, từ già đến trẻ, trong tu luyện thì càng ngày càng trở nên thuần tịnh. Có thể thấy sự sắp xếp tình tiết trong “Tây Du Ký” là vô cùng độc đáo, không chỉ là chu thiên vận hành, mà một số bộ phận đặc thù của thân thể cũng cần phải luyện, ngay cả thân thể cũng cần phải thanh lý. Ví dụ hồi 65 và hồi 66 viết về Hoàng Mi quái, chính là chỉ hệ sinh sản của con người. ‘Đoản nhuyễn lang nha bổng’ (gậy răng sói mềm ngắn) mà Hoàng Mi quái sử dụng chính là chỉ dương vật của nam giới, bảo bối ‘đáp bao’ (túi đắp) mà hắn sử dụng rõ ràng chính là âm nang người. Phật Di Lặc nói đây là “Hậu thiên đại tử, tục danh hoán tố nhân chủng đại” (cái túi của sau này, tục danh gọi là túi đựng giống người). Phật Di Lặc bảo Tôn Ngộ Không dụ Hoàng Mi quái ra, “Ngài viết lên lòng bàn tay của Hành Giả một chữ ‘cấm’, bảo Hành Giả nắm tay lại, nhìn thấy yêu tinh hãy giơ tay trước mặt nó, nó liền đi theo.” Ý nghĩa của chữ ‘cấm’ này, với chữ ‘cấm’ ở phần trước nói về việc đeo ‘Cấm cô chú’ cho Hắc Hùng Tinh là giống nhau. Hồi thứ 67, trong truyện viết về hẻm Hi Thị (con đường nhỏ có nhiều hồng rụng bị thối nát) ở Đà La trang (thôn Đà La), thực ra chính là chỉ ruột người, gọi là ‘Hi Thị’ chẳng qua là đồng âm với ‘hi thỉ’ (phân lỏng). Trong hẻm Hi Thị có Hồng Lân Đại Mãng (con mãng xà lớn có vảy màu đỏ), chính là nói về hồi trùng (giun sán trong ruột người). Đương nhiên cần phải giết chết nó. Qua quan này may là nhờ Bát Giới biến thành cái đầu lợn lớn đi trước ủi để mở đường mới qua được. Đến cuối cùng, tới được Linh Sơn rồi, còn phải qua bến đò Lăng Vân. Khi Ngộ Không đẩy Đường Tăng lên thuyền không đáy, thân thể nơi trần thế (nhục thân) của đường Tăng liền tự nhiên thoát rơi ra, chính là ứng với ý “Kim Thiền thoát xác”. 8. Những câu thơ, hồi mục và ẩn dụ hình tượng hóa tiết lộ nội hàm tu luyện Nhiều người đọc “Tây Du Ký” chỉ chú trọng tình tiết, gặp thơ từ liền bỏ qua, gặp tiêu đề mỗi hồi cũng bỏ qua không chú ý. Thực ra trong đó thật sự tiết lộ mối liên hệ giữa câu chuyện và đạo lý tu luyện. Hồi thứ 14 “Tâm viên quy chính, Lục tặc vô tung” (Lòng vượn theo đường chính, Sáu giặc mất tăm hơi), chỉ Tôn Ngộ Không là tâm đã quay trở về trong tâm của chủ nhân, “lục tặc” là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đã bị đoạn đứt gốc rễ. Hồi thứ 72 “Bàn Tơ động thất tình mê bản, Trạc Cấu tuyền Bát Giới vong hình” (Động Bàn Tơ bảy tình mê gốc, Suối Trạc Cấu Bát Giới mất hình). Trong hồi này viết về bảy con nhện tinh, tác giả dùng bảy con nhện tinh (thất tinh) để ví thất tình của của con người. Câu kết hồi thứ 40 “Vị luyện anh nhi tà hỏa thắng, Tâm viên mộc mẫu cộng phù trì”, ở đây dùng ‘tâm viên’ mà lại không dùng ‘kim công’ để đối ứng với ‘mộc mẫu’, bởi vì mộc khắc kim, Hồng Hài Nhi đại biểu cho tâm hỏa (lửa giận, tâm oán hận), tâm hỏa đang vượng, cho nên không dùng ‘kim công’ mà dùng ‘tâm viên’ để chỉ Tôn Ngộ Không. Câu “cộng phù trì” nói rất hay, nhưng không phải là trừ dứt Hồng Hài Nhi không cần nữa, mà là cần phải giúp đỡ Hồng Hài Nhi quy chính, bởi vì Hồng Hài Nhi cũng là một phần tâm của người tu luyện. Hồi thứ 55 viết về một con bọ cạp độc trêu đùa dâm dục Đường Tăng, bị Tôn Ngộ Không mời Mão Nhật Tinh Quân đến tiêu diệt. Tiếp theo, hồi thứ 56 có bài thơ mở đầu, “Linh Đài vô vật vị chi thanh, Tịch mịch toàn vô nhất niệm sinh. Viên mã lao thu viên phóng đ��ng, Tinh thần cẩn thận mạc tranh vinh. Trừ lục tặc, ngộ tam thừa, Vạn duyên đô bãi tự phân minh. Sắc tà vĩnh diệt siêu chân giới, Tọa hưởng Tây phương Cực Lạc thành.” Sau khi thầy trò nhận sắc phong của Phật Như Lai có câu thơ thế này: “Nhất thể chân như chuyển lạc trần, Hợp hòa tứ tướng phục tu thân. Ngũ hành luận sắc không hoàn tịch, Bách quái hư danh tổng mạc luận. Chính quả chiên đàn quy Đại Giác, Hoàn thành phẩm chức thoát trầm luân. Kinh truyền thiên hạ ân quang khoát, Ngũ thánh cao cư bất nhị môn.” Tôn Ngộ Không đánh chết mấy tên cướp, Đường Tăng liền đuổi Ngộ Không đi. Dẫn đến cuộc tranh đấu giữa Lục Nhĩ Mi Hầu và Tôn Ngộ Không, thực chất là cuộc tranh đấu giữa chân ngã và giả ngã. Sau khi Lục Nhĩ Mi Hầu bị đánh chết, có câu thơ như thế này: “Trung đạo phân ly loạn ngũ hành, Hàng yêu tụ hội hợp nguyên minh. Thần quy tâm xá thiền phương định, Lục thức khư hàng đan tự thành”. Lời mở đầu hồi tiếp theo là một bài tụng, viết rằng: “Tam Tạng vâng lệnh Bồ Tát, thu nhận Hành Giả, cùng Bát Giới Sa Tăng cắt đứt ‘nhị tâm’, khóa chặt viên mã, đồng tâm hiệp lực, nhanh bước đến Tây Thiên.” Chỗ này người đọc có thể hiểu được, hơn nữa cách nói ‘nhị tâm’ trong câu đề mục ở hồi này “Nhị tâm giảo loạn đại càn khôn, Nhất thể nan tu chân tịch diệt” đã nói rất rõ ràng ‘nhị tâm’ là thế nào. Những điều được ví von trong “Tây Du Ký” có rất nhiều, từ đầu truyện đến cuối truyện đều có. Viết về yêu quái, có rất nhiều là dùng để ví tâm chấp trước của con người, chẳng hạn dùng sợi tơ nhện để ví về sợi tơ tình của con người, dùng Lục Nhĩ Mi Hầu để ví về các quan niệm hậu thiên hình thành nên nhân tâm của con người. Ngay cả nơi ở của yêu tinh phần lớn cũng được dùng để ví von, ví như động Bàn Tơ, thôn Đà La, động Ba Tiêu ở Hỏa Diệm Sơn, động Không Đáy ở núi Hãm Không, động Ba Nguyệt ở núi Uyển Tử, v.v. (còn tiếp…) chanhkien.org / zhengjian.org Read the full article
0 notes
khaimocom · 5 years
Text
Thử giải “Tây Du Ký” (2)
Tumblr media
Phần 1 II. Thỉnh kinh và tu luyện “Tây Du Ký” là truyện kể về thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh, đúng hơn thì đây là một câu chuyện về tu luyện. Khó khăn và sự ma luyện trên đường đi thỉnh kinh, chính là những ma nạn mà một người trong quá trình tu luyện ắt phải trải qua. Tại sao lại nói là ma nạn ắt phải gặp? Ví như thất tình lục dục của một người, đó là điều mà ai ai cũng có, như trong “Tây Du Ký” dùng bảy con nhện tinh (thất tinh) để hình dung về thất tình. Những ma nạn này, bề mặt thì thấy là những nhân tố bên ngoài, nhưng rốt cuộc đều có liên quan đến tự thân, cũng chính là ma nạn của bản thân mỗi người. Trong giới tu luyện gọi việc trừ bỏ ma tính của bản thân là “luyện ma”. Tiêu trừ ma tính, chính là dựa vào Phật tính của chính mình, đây cũng là một trong những nguyên nhân ở bảy hồi đầu lại chú trong về miêu tả Tôn Ngộ Không, Tôn Ngộ Không chính là tượng trưng cho Phật tính của Đường Tăng. 1. Ngũ vị nhất thể, trong đó ẩn chứa nhân tố tu luyện Năm vị, gồm thầy trò Đường Tăng cùng với Bạch Long Mã, có thể coi như là một người, trong truyện cũng nhiều lần ám chỉ về điều này. Đoạn cuối cùng của tác phẩm khi viết đến “Ngũ Thánh thành chân” có một bài thơ nói rõ hơn về vấn đề này, trong đó bốn câu mở đầu là: “Nhất thể chân như chuyển lạc trần, Hợp hòa tứ tướng phục tu thân. Ngũ hành luận sắc không hoàn tịch, Bách quái hư danh tổng mạc luận.” “Nhất thể chân như” chính là chỉ một người; “hợp hòa tứ tướng”, là thuật ngữ trong tu luyện. Trong tu luyện của Đạo gia cổ xưa, thường lấy huyền vũ, chu tước, thanh long, bạch hổ để lần lượt chỉ thận, tim, gan, phổi. Trong ngũ hành chúng lần lượt thuộc thủy, hỏa, mộc, kim. Tương sinh trong ngũ hành, đó là mộc sinh hỏa, kim sinh thủy; trong “Tính Mệnh Khuê Chỉ” nói rằng, long mộc sinh hỏa, thuộc về tâm. Hổ kim sinh thủy, cùng một hệ với thân thể. Tâm không động, thì nguyên khí tụ lại; thân không động, thì tinh khí tụ lại. Tinh ngưng khí tụ, tức là chỉ kim mộc thủy hỏa trộn lẫn với nhau trong thổ (đất). “Hợp hòa tứ tướng” tức là chỉ về điều này. Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng, Bạch Long Mã đối ứng với thuộc tính của ngũ hành lần lượt là thủy, kim, mộc, thổ, hỏa. Trong truyện thường dùng “kim công” để chỉ Tôn Ngộ Không, “mộc mẫu” để chỉ Trư Bát Giới. Đối ứng với “mẫu” và “công” cũng chính là âm và dương. Còn có một hàm ý nữa, bởi vì hỏa sinh kim, nên gọi là “kim chi công”, do đó “kim công” cũng là chỉ về hỏa; bởi vì thủy sinh mộc, nên gọi là “mộc chi mẫu”, cho nên “mộc mẫu” cũng hàm chứa thủy trong đó. Từ thuộc tính âm dương mà nói, mộc và thủy cùng thuộc âm, kim và hỏa lại đều thuộc về dương, âm dương hợp lại tất do thổ tương trợ, thổ tức chỉ Sa Hòa Thượng, còn được gọi là “hoàng bà”. Cho nên quá trình đi thỉnh kinh trong “Tây Du Ký”, đều là do ba vị – Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng – trảm yêu trừ ma. Quá trình trảm yêu trừ ma cũng chính là quá trình tu luyện. Sự đối ứng từ trong nội tạng cho đến thân thể của thầy trò Đường Tăng cũng không chỉ là máy móc như trên. Đường Tăng thuộc thủy, ứng với thận tạng. Nhưng Đường Tăng là chủ nguyên thần của người, nơi trú ngụ của chủ nguyên thần chính là trong Nê Hoàn Cung của con người. Trư Bát Giới làm mộc mẫu, cũng là chỉ về thủy, ở vị trí thận tạng. Trong “Tây Du Ký” có mượn lời của Trư Bát Giới để thuyết minh, nói Trư Bát Giới được “Noãn Nhị Thư” kén làm rể. Vị Noãn Nhị Thư này chính là ví như hai quả thận của người ta vậy. Bộ phận tì tạng (lá lách) chính là đối ứng của Sa Hòa Thượng. Bởi vì tác dụng của tì tạng là vận hóa thủy cốc (chuyển hóa thức ăn), vận chuyển phân bố và vận hành thủy dịch. Do đó nơi ở Lưu Sa Hà của Sa Hòa Thượng mới là “Nga mao phiêu bất khởi, Hồ hoa định để trầm”. Tôn Ngộ Không ở bộ vị tâm tạng thì không cần nói nữa, Bạch Long Mã cũng ứng với chỗ này (tâm), bởi vì mã thuộc về hỏa, đối ứng với nội tạng là tâm tạng, lại nói rằng tâm và ý là cùng một thể. Trong “Tây Du Ký”, Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới luôn tranh đấu, đố kỵ, châm chọc không dứt, đó chính là âm dương giao phối trong quá trình tu luyện. Trong đó Sa Hòa Thượng đóng vai trò điều hòa. Mãi đến cuối cùng, ba vị này mới đạt đến trạng thái điều hòa một cách hài hòa nhất trí. Trong truyện còn có câu thơ như sau: “Ngũ hành tứ phối hợp thiên chân, Nhận đắc tòng tiền cựu chủ nhân. Luyện kỉ lập cơ vi diệu dụng, Biện minh tà chính kiến nguyên nhân. Kim lai quy tính hoàn đồng loại, Bản khứ cầu tình cộng phục luân. Nhị thổ toàn công thành tịch mịch, Điều hòa thủy hỏa một tiêm trần.” Năm trăm năm trước Tôn Ngộ Không đã tu luyện thành Tiên, Đường Tăng cũng là người tu hành mười kiếp, vậy còn Bát Giới và Sa Tăng? Bát Giới từng kể với Ngộ Không về quà trình tu hành đời trước: “Đắc truyền cửu chuyển đại hoàn đan, Công phu trú dạ vô thời xuyết. Thượng chí đỉnh môn Nê Hoàn Cung, Hạ chí cước bản dũng tuyền huyệt. Chu lưu thận thủy nhập hóa trì, Đan điền bổ đắc ôn ôn nhiệt. Anh nhi sá nữ phối âm dương, Duyên hống tương đầu phân nhật nguyệt. Ly long khảm hổ dụng điều hòa, Linh quy hấp tận kim ô huyết. Tam hoa tụ đỉnh đắc quy căn, Ngũ khí chiêu nguyên thông thấu triệt.” Sa Tăng cũng đã từng bộc bạch rằng: “Nhân thử tài đắc ngẫu Chân Nhân, Dẫn khai đạo kim quang lượng. Tiên tương anh nhi sá nữ thụ, Minh đường thận thủy nhập hoa trì. Trọng lâu can hỏa đầu tâm trạng, Tam thiên công mãn bái thiên nham, Chí tâm chiêu lễ minh hòa hướng.” Còn một vấn đề nữa cần phải nói rõ, đó chính là tại sao năm vị này lại bị đọa xuống hạ giới? Đường Tăng, Ngộ Không đều là vì ngạo mạn; Trư Bát Giới vì trêu ghẹo Hằng Nga; Sa Hòa Thượng vì lỡ tay làm vỡ chén lưu ly; Tiểu Bạch Long vì phóng hỏa đốt viên minh châu. Những tội này tại góc độ con người thế gian mà xét, xem ra cũng chưa là gì, nhưng ở một cảnh giới cao hơn mà xét, đó là vì những sinh mệnh này đã trở nên bất thuần. Từ góc độ tu luyện mà xét thì con người cần phải tu luyện đến vô lậu mới có thể viên mãn. Thế nào là vô lậu? Đó chính là không còn có bất kỳ tâm chấp trước nào, từng suy nghĩ đều là thuần chính, thì mới có thể đắc đạo thành Tiên thành Phật được. Tương ứng như vậy, những vị Tiên gia tu luyện thành tựu tại các quả vị khác nhau, tư tưởng cảnh giới của họ cũng đều là thuần chính cả. Chỉ cần có một chút sai sót thì cũng không thể ở tại tầng thứ đó nữa. Tội của Sa Hoà Thượng xem thì giống như một chút tội nhỏ, nhưng mà một chút tội nhỏ này lại là điều căn bản mà tại cảnh giới đó không được xảy ra. Tại sao lại lỡ tay được đây? Đó chẳng phải là thất thần rồi hay sao? Chẳng phải là trong tâm có tạp niệm hay sao? Từ góc độ này mà nhìn về tu luyện, thấy là việc vô cùng nghiêm túc. Quan hệ nội tại của sư đồ Đường Tăng trong truyện cũng có ám chỉ: Đường Tăng là người tu hành mười kiếp; Tôn Ngộ Không là đồ đệ đời thứ mười của Bồ Đề Tổ Sư; ngay cả vòng đeo ở cổ của Sa Tăng cũng là chín cái đầu lâu của người đi thỉnh kinh. Từ khía canh khác mà nói, bốn thầy trò Đường Tăng lần lượt nói rõ chi tiết về những phương diện của người tu luyện. Đường Tăng bề ngoài nhìn thì không có chút năng lực gì, yếu đuối lại còn nhát gan, nhưng có một niềm tin đi thỉnh kinh vững như bàn thạch; Tôn Ngộ Không là tâm viên, hoạt bát, thông minh lanh lợi, không bị bó buộc, có thể phân biệt rõ thật giả, lại có khả năng trảm yêu trừ ma; Bát Giới thì rất giống lợn, hay ăn không hay làm, lại còn háo sắc, thích an nhàn, muốn chiếm phần hơn, đố kỵ với người giỏi hơn mình; Sa Hòa Thượng biểu hiện cần cù, chăm chỉ, biết thân biết phận, làm tròn bổn phận, thanh tịnh mà lại nhân hậu; Bạch Long Mã tuy không miêu tả nhiều, nhưng cũng lại là một hình tượng âm thầm lặng lẽ, chỉ tiến về phía trước, không ngại gian khổ nguy hiểm. 2. Ngũ Hành Sơn, Lưỡng Giới Sơn và sự hạn chế thần thông của Tôn Ngộ Không Tôn Ngộ Không bị Phật Như Lai đè dưới núi Ngũ Hành Sơn còn có một ẩn ý, Tôn Ngộ Không tượng trưng cho sự tu luyện Đại Đạo cũng đã hoàn thành quá trình tu luyện của mình (cùng Bồ Đề Tổ Sư) rồi. Theo Phật gia giảng, thì Tôn Ngộ Không đã “minh tâm kiến tính rồi” (tâm đã sáng tỏ, đã thấy được bản tính thật sự của mình); đương nhiên, sau khi “minh tâm kiến tính” chính là “kiến tính thành Phật” (thấy rõ được bản tính của mình thì thành Phật), nhưng đây lại không chỉ đơn giản giống như hai câu nói này. Sau khi Tôn Ngộ Không ngộ Đạo, trở về Hoa Quả Sơn tại sao cần phải thanh trừ Hỗn thế ma vương? Tại sao lại phải đại náo Thiên Cung? Ở trong lò Bát Quái tại sao lại còn phải tu luyện thêm nữa? Cho nên mới nói, mặc dù quá trình tu Đạo của Tôn Ngộ Không đã hoàn thành, nhưng vẫn cần phải tiếp tục tu luyện, để ma tính của bản thân (ví như tâm tự kiêu) phải hoàn toàn ma luyện cho mất đi, thì mới có thể chính thức tu luyện thành công được. Tôn Ngộ Không bị đè dưới núi Ngũ Hành Sơn chính là để cho anh ta trải qua ma nạn. Ngũ hành trong Ngũ Hành Sơn ý nói là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Cũng là nói, trước đây Tôn Ngộ Không tượng trưng cho người tu luyện Đại Đạo, hoàn toàn là là từ góc độ của “tâm viên” mà biểu hiện ra quá trình tu luyện của một người. Mà khi cuồng ngạo rồi bị đè dưới Ngũ Hành Sơn rồi, Tôn Ngộ Không cũng giống như bị chôn vùi nơi trần thế. Đường Tăng cứu Tôn Ngộ Không ra khỏi Ngũ Hành Sơn, nhưng không không phải là Tôn Ngộ Không đã thoát khỏi được nơi trần thế, mà là nói chủ thân thể đã bắt đầu tu luyện, tượng trưng cho cái tâm của Tôn Ngộ Không tự nhiên cũng hợp nhất với chủ nhân mà bắt đầu tu luyện. Trong đó vẫn còn một vấn đề nữa. Rất nhiều người tu Đạo đều hiểu rằng, trước khi một người tu luyện, nói không chừng đời trước của vị ấy, thậm chí đời đời kiếp kiếp vẫn còn đang trong tu luyện, đương nhiên người tu luyện kia, cũng giống với Tôn Ngộ Không ở bảy hồi trước đó, có thể có được những thần thông to lớn. Nhưng một khi người đó chuyển thế, thì ở đoạn thời gian không tu Đạo trước đó, người này giống như đang ngủ, hoàn toàn mê mờ trong người thường. Nếu như bắt đầu tu luyện, phía mặt bản tính của anh ta tỉnh ngộ, thì mới cố thể chân chính tu Đạo. Từ đó quay trở về, có người phải trải qua nhiều lần mới có thể tu luyện viên mãn được. Đường Tăng chính là người tu hành mười đời. Đương nhiên, khi giới thiệu thế này, đã tiết lộ một vấn đề khác, đó là thần thông của Tôn Ngộ Không; tại sao trước khi đi thỉnh kinh cùng Đường Tăng, Thần tướng đầy khắp trời không làm được gì Tôn Ngộ Không, nhưng khi vừa đi cùng Đường Tăng, vì sao lại có nhiều việc không như ý. Đó chính là vì trước khi đi cùng Đường Tăng, biểu hiện của Tôn Ngộ Không hoàn toàn là tâm tính của một người tu luyện, do đó mới để cái tâm tu luyện biểu hiện ra hết, vậy đương nhiên có thể không có bất kỳ sự hạn chế nào trên trời dưới biển. Nhưng khi đi cùng Đường Tăng, cũng bằng như nhiều hơn một nhục thân, do đó thần thông của Tôn Ngộ Không cũng chịu sự hạn chế. Còn một vấn đề nữa, ma nạn trên đường đi thỉnh kinh, bề ngoài thì trông giống như nhắm vào Đường Tăng, nhưng trong tình huống tâm chấp trước của Đường Tăng chưa vứt bỏ, bản sự của Tôn Ngộ Không có lớn đến mấy cũng không thể thi triển ra được. Giống như trận chiến giữa Tôn Ngộ Không và Hồng Hài Nhi, Hồng Hài Nhi là tượng trưng cho tâm hỏa quá vượng của Đường Tăng, cũng có thuộc tính của tâm, thậm chí có thể nói là một bộ phận của tâm. Bởi vì Tôn Ngộ Không tượng trưng cho tâm nên làm sao một gậy có thể đánh chết được Hồng Hài Nhi? Bởi vậy phải đợi mời Bồ Tát đến, sau khi trừ bỏ tâm hỏa, thì tâm mới có thể quy chính được. Ngũ Hành Sơn vì sao lại đổi thành Lưỡng Giới Sơn? Biểu hiện là giới tuyến quốc gia, nhưng thực chất là giới tuyến trước và sau của một người tu luyện. 3. Tám mươi mốt nạn từ đâu đến Lúc đầu Đường Tăng đi thỉnh kinh, trên đường qua chùa Pháp Môn có nói: “Tâm sinh, chủng chủng ma sinh; tâm diệt, chủng chủng ma diệt.” Điều thấy được là tất cả ma nạn đều từ tâm của Đường Tăng mà sinh ra. Cách nói này rất đúng. Chỉ cần có nhân tâm, liền sinh ra ma nạn tương ứng. Ví dụ khi Đường Thái Tông ban cho Đường Tăng hai tùy tùng và ngựa, Đường Tăng rất vui mừng. Điều này lộ rõ một loại tâm ỷ lại, do đó, mãi vẫn loay hoay không ra được biên giới quốc gia, hai người tùy tùng kia liền bị bò tinh, gấu tinh, và hổ tinh ăn thịt. Cần biết rằng, khi qua chùa Pháp Môn ông có nói, “Tâm sinh, chủng chủng ma sinh; tâm diệt, chủng chủng ma diệt”, khi ấy hai người tùy tùng liền cùng đi cùng Đường Tăng. Cũng chính là nói, một người nếu tu luyện sẽ có rất nhiều tâm về căn bản không ý thức được. Tu luyện vốn là việc cá nhân, chỉ có thể hướng nội mà tu cái tâm của bản thân, làm sao có thể ỷ lại vào người khác đây? Bởi vì Đường Tăng bắt đầu tu luyện từ người thường, ông không giống với những đồ đệ của mình, dù cho Ngộ Không có nói với ông là ma đang cản trở, ông cũng không tin. Ma tính của người ta ẩn giấu rất sâu, có một số ma tính khi sinh ra đã có rồi; cũng chính là nói, chỉ cần làm người, trước khi tu luyện đắc Đạo, thì đều có các loại ma tính. Ví dụ, khi Tôn Ngộ Không giết Bạch Cốt Tinh, Bạch Cốt Tinh lần lượt biến thành mỹ nữ, bà lão, ông lão, Đường Tăng làm sao biết được? Tuy nhiên Bạch Cốt Tinh này thì trong mỗi người đều có, gọi là “thây ma”. Đạo gia cho rằng, mỗi người đều có ba cái thây ma, cho nên mới có việc Tôn Ngộ Không ba lần đánh Bạch Cốt Tinh. Trong hồi thứ 50, Tôn Ngộ Không đi xin đồ ăn chay, người ta không cho, Tôn Ngộ Không liền múc trộm một bát cơm. Mà ở bên này, Bát Giới, Sa Tăng trong một nơi người ta bỏ hoang nhìn thấy áo lót bằng bông, hai người lấy mỗi người một cái, kết quả dẫn đến ma nạn, con yêu ma này lại lấy trộm cái Kim Cương Trác của Thái Thượng Lão Quân xuống nhân gian tác quái. Ví dụ tiếp là Ngưu Ma Vương, có vợ có con, có bạn có bè, những yêu ma này từ đâu mà đến? Tôn Ngộ Không nói rất rõ ràng: “Tự đáo Tây phương vô đối đầu, Ngưu Vương bản thị tâm viên biến. Kim phiên chính hảo hội nguyên lưu, Đoạn yếu tương trì tá ngọc phiến.” Ngưu Ma Vương sao lại là do tâm của Ngộ Không biến hóa? Điều này không thể lý giải ở bề mặt được, ý nghĩa là Đường Tăng có tâm chấp trước, trong tâm tự nhiên liền sinh ra một con yêu ma như vậy. Vậy thì, Thiết Phiến công chúa, Hồng Hài Nhi, Như Ý chân tiên chẳng phải là do sự biến hóa của tâm viên sao? Có tâm chấp trước nào thì chiêu mời ma nạn đúng như thế. Đường Tăng làm sư phụ, đây là một cái tâm. Tại nước Ô Kê, Sư Tử lông xanh bị dồn ép đến nỗi rất lo lắng, cũng biến thành một Đường Tăng. Ở huyện Ngọc Hoa nước Thiên Trúc, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng mỗi người nhận một hoàng tử để truyền thụ võ nghệ, kết quả cái tâm thích làm sư phụ của người khác lại dẫn họ đến một hang của Sư Tử. Có những tâm chấp trước ẩn giấu rất sâu, người tu luyện thật không dễ mà phát giác được. Ví dụ, thầy trò Đường Tăng đi đến nước Thiên Trúc, Đường Tăng nghe nói công chúa nước Thiên Trúc đang ném tú cầu kén phò mã, liền nói với Ngộ Không: “Ta nghĩ người mẹ tục gia của ta cũng là nhờ ném tú cầu kén chồng mà gặp được duyên cũ, kết thành vợ chồng.” Điều này giống như một câu nói vô tình nhưng cũng là một chấp trước, kết quả đã chiêu mời ma nạn đến. Đương nhiên những nạn này là tất nhiên phải xảy ra, cũng có thể nói là định sẵn rồi. Phần cuối “Tây Du Ký” viết về ba con tê giác tinh sau khi bắt Đường Tăng đi, Tôn Ngộ Không từng nói với vị hòa thượng, “sư phụ ta phải có những nạn này”. Hồi thứ 97, bốn thầy trò bị hiểu lầm nhốt vào trong ngục, Tôn Ngộ Không nghĩ: “Sư phụ phải có nạn một đêm trong tù này, cho nên lão Tôn không mở miệng tranh biện, không dùng pháp lực, bịt tai này lại không nghe nữa. Nay đã qua hết canh tư, tai nạn sắp hết, ta phải đi chuẩn bị, trời sáng còn ra khỏi nhà lao nữa.” Đường đi Tây Thiên ma nạn trùng trùng, cớ sao thầy trò Đường Tăng không chọn đi con đường khác? Khi gặp Hỏa Diệm Sơn cản đường đi của Đường Tăng, Bát Giới từng oán trách nói muốn quay trở về nhà vợ cho rồi. Nhưng Thổ Địa lại nói: “Dù có chuyển hướng đi, thì cũng phải vào cửa bên cạnh.” Lại nói, “Sư phụ ngài ngồi ngay ở đường chính, nóng lòng mong chờ các ngài thành công trở lại!” Bao gồm cả nạn bổ sung thứ 81, trở về đi qua sông Thông Thiên, lão rùa hỏi Đường Tăng về việc ông nhờ Đường Tăng hỏi Phật Như Lai đến khi nào ông mới đắc được thân người, Đường Tăng “không biết nói thế nào, lại không dám lừa dối, trầm ngâm một hồi không đáp lời”, kết quả bị lão rùa hất rơi xuống nước. Trong nạn này, biểu hiện của Đường Tăng chính là cái tâm hư danh đang nổi lên. Việc này cùng với lời nói của Đường Tăng khi qua sông Thông Thiên năm xưa, “Việc thế gian duy có danh lợi là coi trong nhất. Tựa như một người vì lợi, quên cả sống chết, đệ tử của tôi phụng chỉ toàn trung, cũng chỉ là vì danh, thì có khác gì với người kia chứ!” lại hoàn toàn khớp. Tại sao lại có biết bao nhiêu yêu ma muốn ăn thịt Đường Tăng? Từ đây chúng ta có thể nhìn ra, bản thân sự tồn tại của yêu ma, khi một người không tu luyện, nó nằm ở trong thân thể người đó, sau khi người đó chết đi, nó liền rời khỏi thi thể người đó. Những ma này chính là khởi tác dụng này. Cho nên, “bệnh” cũng là ma, “chết” cũng là ma, ma tính của chính bản thân chính là ma. Tuy nhiên khi người ta muốn tu luyện một cách chân chính, thì cần phải trừ bỏ những ma chướng này, đương nhiên ma sẽ không chịu để nó bị tiêu trừ. Nó cũng biết, con người nếu tu luyện thành Thần Phật, thì thân thể người đó sẽ vĩnh viễn là thân thể bất hoại. Trong quá trình nhục thân của người thường chuyển hóa thành thân thể của Thần Phật thì bản thân ma tính cũng không chịu để yên, cho nên nó liều mạng ngăn cản người ta tu luyện. Khi thân thể con người chuyển hóa như vậy, những yêu ma kia lại không thật sự nghĩ để cho thân thể người chuyển hóa thành thân thể của Thần rồi mới ăn hay sao? Chúng ăn không được, bởi vì sau khi chuyển hóa xong thì đã là thân thể kim cương bất hoại rồi, yêu ma không thể động tới được, đây cũng là nguyên nhân Đường Tăng không bị ăn thịt. Thân thể trước lúc tu luyện chỉ là thân thể người thường, đó cũng là nơi mà yêu ma sống nhờ; thân thể sau khi tu luyện tốt đã được phong kín lại rồi. Đây là hiểu biết thông thường trong giới tu luyện. (còn tiếp…) chanhkien.org / zhengjian.org Read the full article
0 notes
khaimocom · 5 years
Text
Thử giải “Tây Du Ký” (3)
Tumblr media
Phần 2 4. Luân hồi và nhân quả Đường Tăng tu hành mười kiếp, đương nhiên là trong luân hồi chuyển sinh thành người mười lần để tu hành. Đường Thái Tông sau khi từ địa phủ trở về, ông thấy được con người đều có sinh tử luân hồi. Đường Thái Tông khi ở địa phủ còn đến nơi gọi là “Lục đạo luân hồi”, trong truyện nói về lục đạo luân hồi như sau: “Người hành thiện được thăng hoa lên Tiên đạo, người tận trung siêu sinh vào Quý đạo, người có hiếu tái sinh vào Phúc đạo, người công bằng vẫn được sinh vào Nhân đạo, người tích đức chuyển sinh vào Phú đạo, kẻ ác độc phải vào Quỷ đạo”. Nói về luân hồi, ắt phải bàn về nhân quả, các ví dụ về phương diện này trong truyện có rất nhiều. Đường Tăng vì khinh mạn Phật Pháp, nên phải trải qua tu hành mười kiếp. Trong hồi thứ 81 “Trấn Hải tự tâm viên tri quái, Hắc Tùng lâm tam chúng tầm sư” có nói rằng, bởi vì Đường Tăng không nghe Phật giảng Pháp mà lại ngủ gật, nên lỡ chân dẫm phải một hạt gạo, do đó mới bị ốm ba ngày. Tôn Ngộ Không năm xưa nhảy từ lò Bát Quái ra, đạp đổ lò luyện đan, những mảnh vỡ vẫn còn dư hỏa rơi xuống hạ giới biến thành Hỏa Diệm Sơn. Thầy trò Đường Tăng gặp trở ngại ở nước Ô Kê, vua nước Ô Kê nhờ làm việc thiện bố thí đồ ăn chay cho tăng nhân nên Phật tổ Như Lai phái Văn Thù Bồ Tát độ ông về Tây. Bồ Tát liền biến thành một tăng nhân, nói vài câu để khảo nghiêm ông, nhưng lại bị ông trói lại, bị ngâm ba ngày ba đêm trong sông Ngự Thủy. Cho nên mới có nạn quốc vương nước Ô Kê ở dưới nước ba năm. Quận Phượng Tiên nước Thiên Trúc, ba năm không có mưa, người dân phải bán cả con cái đi, cuộc sống cùng cực không biết nói sao. Nguyên nhân là do quận hầu của quận Phượng Tiên đem đồ chay cúng Trời đổ cho chó ăn, bị Ngọc Đế nhìn thấy, Ngài lập ra một ngọn núi gạo cao 10 trượng, để cho một con gà mổ từng hạt; một núi bột cao 20 trượng, để cho một con chó nhỏ liếm từng chút một; treo một cái khóa vàng, dùng một ngọn lửa đốt cái chốt khóa. Đợi đến khi gà nhặt hết gạo, chó liếm hết bột, đèn đốt đứt chốt khóa, mới cho phép có mưa. Sau này, Thiên Sư nói với Ngộ Không cách thiện giải, vị quận hầu kia một mặt quy y Phật môn; một mặt mời các thầy tu bản xứ lập đàn làm chay đốt hương kính Phật, tạ ơn trời đất, tự mình chịu trách nhiệm vì đã gây ra tội; mặt khác lại bảo người dân đốt hương niệm phật. Chỉ một niệm như thế, mà làm cho núi gạo núi bột đều biến mất và chốt khóa cũng đứt, và quận Phượng Tiên đã có mưa lớn. 5. Tu luyện và bệnh tật Tôn giáo hiện đại đã sớm loạn từ lâu rồi, dùng nhận thức của bản thân mà giải thích loạn kinh Phật. Có những người sống ở thế gian nhất tâm hướng Đạo, từ lâu cũng không biết không cảm thấy rằng đã tự trộn lẫn bản thân mình vào trong người thường rồi. Ví như nói về cứu độ chúng sinh, vốn là để cho người ta tu luyện, từ đó mà đạt được sự giải thoát của sinh mệnh. Nhưng có nhiều người lại coi việc trị bệnh cho người khác là cứu độ chúng sinh. Một ví dụ nữa đó là thái độ đối với bệnh tật, người thường có bệnh đương nhiên cần phải uống thuốc, nhưng là một người tu luyện, chính là người vượt khỏi người thường rồi. Về việc người tu luyện đối đãi như thế nào với bệnh tật, trong “Tây Du Ký” đã nói rất rõ ràng. Hồi thứ 21 “Hộ Pháp thiết trang lưu Đại Thánh, Tu Di linh cát định phong ma”, Tôn Ngộ Không bị chuột lông vàng Hoàng Phong thổi gió làm cho đau mắt, nước mắt cứ chảy ra; khi nhìn thấy người do Già Lam hộ Pháp hóa thành, lúc xin thuốc trị mắt Ngộ Không còn nói: “Không giấu chi ngài, thầy tôi bảo rằng, người xuất gia chúng ta trước giờ không có bệnh, không biết sao lại đau mắt.” Hồi thứ 55 “Sắc tà dâm hí Đường Tam Tạng, Tính chính tu trì bất hoại thân”, Bát Giới bị con bọ cạp chích độc, Tôn Ngộ Không mời Mão Nhật Tinh Quân đến hàng yêu. Trư Bát Giới nói với Tinh Quân: “Thứ lỗi thứ lỗi! Thân tôi mắc bệnh, không thể hành lễ.” Tinh Quân nói: “Ngài là người tu hành, mắc bệnh gì chứ?” Hồi thứ 81 “Trấn Hải tự tâm viên tri quái, Hắc Tùng lâm tam chúng tầm sư”, Đường Tăng cảm thấy “hoa mắt đầu choáng váng, xương cốt toàn thân đau nhức”. Ngộ Không hỏi Đường Tăng bị sao, ông nói: “Lúc nửa đêm, ta dậy đi tiểu quên không đội mũ, chắc là bị trúng gió.” Trong ba ngày đó, Đường Tăng cảm thấy bệnh tình càng ngày càng nặng, muốn viết “di thư” cho vua Đường. Tôn Ngộ Không nói ra căn nguyên của bệnh: “Chỉ vì sư phụ khinh mạn Phật Pháp, nên mới có đại nạn này.” Ba ngày sau, Đường Tăng không còn chứng bệnh gì nữa. Ba ví dụ kể trên đã nói rõ một vấn đề, đó chính là người chân chính tu luyện thì không có bệnh. Dẫu có xuất hiện những cái gọi là “chứng bệnh” gì đi nữa, đối với người tu luyện mà nói, thì hoặc là để hoàn trả tội nghiệp, hoặc là do sư phụ an bài để khảo nghiệm sự kiên định đối với tu luyện. Nhưng một số người thường không tu luyện lại không hiểu được việc người tu luyện có biểu hiện của bệnh mà không uống thuốc. Thực ra đây chẳng phải cũng là một khảo nghiệm hay sao? Người cổ đại có một kiểu nhận thức tương đối chính diện đối với việc tu luyện, nhưng ngày nay trong môi trường như thế này, người ta không cách nào lý giải được người tu luyện không uống thuốc. Thậm chí một số phương tiện truyền thông bị chính phủ thao túng lại càng tuyên truyền vu cáo một cách không có trách nhiệm. Cho nên với con người ngày nay, đặc biệt là người tu luyện trong thế tục, những khảo nghiệm gặp phải lại càng nhiều càng khó. 6. Thiện ác nhất niệm, Phật ở trong tâm Khi Tôn Ngộ Không nhảy ra từ lò Bát Quái và xảy ra cuộc đại chiến với chúng thần, trong “Tây Du Ký” miêu tả Ngộ Không như thế này: “Có thể thiện, cũng có thể ác, thiện ác trước mắt do mình gây ra. Khi thiện thành Phật thành Tiên, chỗ ác không lông cũng cắm sừng”. Khi Ngộ Không hướng thiện, tiêu dao tự tại ở Thiên Cung, được các thần xưng huynh gọi đệ, chính là một tản tiên; khi làm việc ác, thú tính bộc lộ ra hết, rất ngông cuồng ngạo mạn, chính là một con khỉ hung ác. Trước khi Quan Âm Bồ Tát phụng pháp chỉ của Phật Như Lai tìm người đi thỉnh kinh, Phật Như Lai đưa cho Bồ Tát ba cái vòng và nói: “Bảo vật này gọi là “Khẩn cô nhi” (vòng dùng lúc khẩn cấp), mặc dù là ba cái giống nhau, nhưng cách dùng khác nhau. Ta có ba bài chú ngữ của “Kim, khẩn, cấm”. Nếu như trên đường gặp phải yêu ma thần thông quảng đại, con phải khuyên nó học hỏi điều tốt, làm đệ tử người đi thỉnh kinh. Nếu nó không nghe, có thể đeo cái vòng này lên đầu nó. Vòng này tự sẽ bám chặt vào đầu. Kẻ bị niệm chú ngữ, mắt sưng, đầu đau như muốn nứt ra. Để quản giáo nó bước vào Phật môn.” Trong ba chiếc vòng này thì một cái ở trên đầu Tôn Ngộ Không, nhìn thấy rất rõ, chính là để Tôn Ngộ Không nghe lời Đường Tăng. Bởi vì Ngộ Không tượng trưng cho tâm của Đường Tăng, nên phải quản chắc cái tâm của mình mới được, do đó Ngộ Không đeo một cái “Khẩn cô nhi”. Khi Bồ Tát thu phục Hắc Hùng Tinh (gấu tinh màu đen), Ngài đeo lên đầu nó lại là một cái “Cấm cô nhi”. Câu chuyện thu phục gấu tinh được ví như người tu luyện cần phải giữ gìn ‘chân tinh nguyên khí’ của chính mình. Trong ngũ hành, màu sắc mà thận tạng đối ứng là màu đen, tinh dịch tồn tại ở thận của con người, dùng Hắc Hùng Tinh để chỉ tinh dịch của người tu luyện, cho nên cần phải “cấm”. Trước khi thu phục Hắc Hùng Tinh, Bồ Tát đã biến thành một yêu quái, Ngộ Không nhìn thấy liền nói: “Tuyệt quá! Tuyệt quá! Là yêu tinh Bồ Tát hay Bồ Tát yêu tinh đây?” Bồ Tát cười nói: “Ngộ Không, Bồ Tát hay yêu tinh, âu chỉ là một niệm. Nếu luận về nguồn gốc, thì đều thuộc về không có.” Bồ Tát nói rõ rằng, Bồ Tát và yêu tinh chỉ sai biệt ở một niệm. Đối với người tu luyện mà nói, chính là khiến những tà niệm vọng niệm bất chính, bất hảo từ bản chất mà biến thành thiện niệm, chính là tu bỏ từng niệm từng niệm, thì người tu luyện tự nhiên sẽ tu thành chính quả. Như vậy, từ khía cạnh này mà nói, Bồ Tát cũng chính là thể hiện của tiên thiên chính giác khi Ngộ Không hướng tâm tu. Do đó, Hắc Hùng Tinh bị Bồ Tát thu phục mang đi, đó chỉ là thủ pháp nghệ thuật tượng trưng của tác giả, thực ra là chỉ rằng Đường Tăng đã đạt đến cảnh giới “cấm dục”. Khi Bồ Tát thu phục Hồng Hài Nhi, chiếc vòng cuối cùng Ngài dùng là “Kim cô nhi”. Hồng Hài Nhi được ví von là hình tượng hóa cho tâm hỏa quá vượng của Tôn Ngộ Không. Thầy trò Đường Tăng muốn qua được quan này, đương nhiên cần phải dập tắt tâm hỏa. Trong truyện khi nói về Tôn Ngộ Không có dùng từ “kim công”, cũng là dùng để chỉ cái tâm, bởi vì tâm thuộc tính hỏa, hỏa khắc kim, Hồng Hài Nhi cũng nhiều lần dùng lửa thiêu Tôn Ngộ Không. Từ góc độ khác mà nói, Hồng Hài Nhi cũng lại là thể hiện của “xích tử chi tâm”, tu luyện Đạo gia giảng rằng tu luyện “phục quy vu anh nhi” (quay trở về hình hài trẻ sơ sinh), một khi anh nhi bị thu phục, cũng chính là chỉ tâm hư hỏa (lửa giả) đã tu bỏ đi rồi, mà một bộ phần tâm tu thành cũng đã là “kim thân bất hoại” rồi, cho nên “Kim cô nhi” mới được đeo trên đầu của Hồng Hài Nhi. Rõ ràng Hắc Hùng Tinh, Hồng Hài Nhi đều đi theo Bồ Tát, thực ra đều ở trên thân của Đường Tăng. Hắc Hùng Tinh ở sau núi Lạc Già, chỗ này là chỉ mặt lưng thận tạng của thân thể người, Hồng Hài Nhi theo gót Bồ Tát, chính là chỉ trong tâm của Đường Tăng. Chương nói về Đường Tăng cứu Tôn Ngộ Không ra khỏi núi Ngũ Hành Sơn, phần mở đầu viết rằng “Phật tức tâm hề tâm tức Phật”; trong hồi thứ 85 “Tâm viên đố mộc mẫu, Ma chủ kế thôn thiền”, Ngộ Không nói với Đường Tăng: “Phật tại Linh Sơn mạc viễn cầu, Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu. Nhân nhân hữu cá Linh Sơn tháp, Hảo hướng Linh Sơn tháp hạ tu.” (Phật tại Linh Sơn không cầu đâu xa, Linh Sơn chính ở trong tâm của thầy. Mỗi người đều có một tháp Linh Sơn, Hướng vào tháp Linh Sơn ấy mà tu). Đường Tăng nói: “Đệ tử, sao ta không biết? Nếu dựa vào bốn câu này, thiên kinh vạn điển, cũng chỉ là tu tâm.” Cho nên từ góc độ này mà nói, Linh Sơn và Linh Đài Phương Thốn sơn có gì khác biệt? Phật Như Lai ở Linh Sơn xa xôi, lại nằm ngay tại trong tâm của chính bản thân mình. Đường Tăng trải qua mười vạn tám ngàn dặm, một cân đẩu vân của Ngộ Không cũng là mười vạn tám ngàn dặm. Với Tôn Ngộ Không mà nói việc đến Linh Sơn cũng chỉ là một niệm. Trong truyện cũng có câu: “Nếu có thể một niệm hợp với chân tu, diệt tận biết bao tội nghiệp dơ bẩn; còn có một niệm thiện từ, làm chấn động trời cao; trở về trời chỉ giống như một niệm.” Là một tác phẩm văn học mà nói, chỉ có viết dài dòng như thế này thì mới có thể triển hiện ra quá trình cùng sự tuyệt vời sinh động của tu luyện. Tôn Ngộ Không tranh đấu với Lục Nhĩ Mi Hầu (khỉ sáu tai), thực ra chính là chân ngã và giả ngã đấu tranh với nhau. Bản tính tiên thiên đó là tự kỷ thuần chính, nhưng con người nơi trần thế hình thành các loại quan niệm và cảm thụ, nó cấu thành tự kỷ, nhưng được gọi là tự kỷ hậu thiên. Đối với một việc tốt và xấu, người ta thường c��n nhắc đắn đo, đây cũng là quá trình tự kỷ tiên thiên và tự kỷ hậu thiên đang thuyết phục nhau. Với người mà quan niệm hậu thiên quá mạnh, người đó đã hoàn toàn bị quan niệm hậu thiên che đậy rồi, cũng chính là đã đánh mất tự kỷ hậu thiên rồi, loại người này về cơ bản không tin vào tu luyện. Người ta trong quá trình tu luyện chính là phải trừ bỏ tất cả những quan niêm hậu thiên hình thành. Nhưng có khi quan niêm hậu thiên lại ngoan cố chiếm cứ tư tưởng của người đó. Chỉ khi nào bản thân hoàn toàn tĩnh lặng lại, bản tính tiên thiên mới có thể trừ bỏ quan niệm hậu thiên. Cho nên Lục Nhĩ Mi Hầu và Tôn Ngộ Không đại chiến tới mức không phân được thật giả, chỉ có thể dưới sự giám chiếu của bản tính đại giác mới có thể phân biệt ra được. Lúc này Phật Như Lai xuất hiện, cũng có thể coi là sự thể hiện chân thực Phật tính của Tôn Ngộ Không. (còn tiếp…) chanhkien.org / zhengjian.org Read the full article
0 notes