#Lemongdom
Explore tagged Tumblr posts
lemongdom · 2 years ago
Text
Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media
Hoi An
6 notes · View notes
lemongdom · 2 years ago
Text
Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media
2 notes · View notes
lemongdom · 2 years ago
Text
Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media
0 notes
lemongdom · 2 years ago
Text
Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media
Hội An, Quang Nam
0 notes
lemongdom · 2 years ago
Text
Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media
Huế
0 notes
lemongdom · 2 years ago
Text
Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media
Huế
0 notes
lemongdom · 2 years ago
Text
Tumblr media
Hue old citadel
0 notes
lemongdom · 2 years ago
Text
Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media
0 notes
lemongdom · 2 years ago
Text
Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media
Hue
0 notes
lemongdom · 2 years ago
Text
Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media
Huế
0 notes
lemongdom · 2 years ago
Text
Thầy Doãn Quốc Sỹ – “Khu Rừng Lau” đã trăm tuổi
Nguyễn Công Khanh
18 tháng 12, 2022
image.png
Thầy Doãn Quốc Sỹ (ảnh: Uyên Nguyên)
Thầy Doãn Quốc Sỹ (ảnh: Uyên Nguyên)
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ là thầy dạy tôi. Thầy sinh năm 1923, năm nay tròn 100, còn tôi sanh năm 1936, thầy hơn tôi 13 tuổi, năm nay tôi cũng đã 87. Tính ra năm thầy dậy tôi cách đây đã đến 70 năm rồi. Ở cái thời mà ai cũng gọi người dậy học là “Thầy”, dù là từ lớp vỡ lòng cho đến hết lớp trung học chứ không gọi là “Giáo sư” như những năm sau này. Mà người đi học thì gọi là “Học trò” chứ ít ai gọi là “Học sinh”.
Thầy dậy tại trường Chu Văn An năm nào thì tôi được học thầy năm đó. Tôi không còn nhớ mấy năm, nhưng tiểu sử của thầy trên mạng Wikipedia cho biết thầy chỉ dậy ở trường Chu Văn An có một năm 1952-1953, sau khi thầy dậy ở Nam Định một năm 1951-1952. Trang mạng này, có ghi thầy di cư vào Nam năm 1954, đoạn sau lại ghi thầy dậy trường Trần Lục tại Sài Gòn năm 1953-1960. Tôi không nghĩ rằng hai trường Công Giáo Trần Lục và Hồ Ngọc Cẩn dọn vào Sài Gòn trước năm 1954. Không hiểu niên học 1953-1954, trước khi di cư thầy dậy ở đâu. Chắc phải kiểm chứng lại mạng này, và đó là một câu hỏi tôi cần tìm hiểu.
Trường Chu Văn An là hậu thân của trường Bưởi. Trường Bưởi ở khu Hồ Tây, bên cạnh đường tầu điện từ bờ Hồ Hoàn Kiếm qua Thụy Khuê đến trạm cuối là chợ làng Bưởi. Tôi chưa được vào xem trường này, chỉ ngồi nhìn từ trên xe điện. Nhất là sau này trường bị chiếm và là hậu cứ của lính nhẩy dù Pháp.
Trường Bưởi không còn nữa, và để thay thế, trường Chu Văn An được thành lập sau khi thành phố Hà Nội được vãn hồi an ninh. Trong đời, tôi chưa thấy một trường trung học nào như thế. Bây giờ muốn kể lại chuyện mà đầu óc ngày càng rỗng, thiếu chữ nghĩa để nói về ngôi trường đó, về cơ sở, về tổ chức, về những vị thầy cũng như cung cách về nền giáo dục và bọn học trò như chúng tôi.
Trường tọa lạc tại đường Đỗ Hữu Vị, trước cổng thành Thăng Long, Cửa Bắc mà tôi đã có vài lần đến xoa tay vào mấy vết đại bác do quân Pháp bắn vào chân tường thành trong thế kỷ trước mà hai vị tướng trấn thủ Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu đã phải tuẫn tiết theo thành.
Nhà tôi ở khu Hàng Bún, ngôi nhà hai tầng ở góc đường Yên Ninh và Phạm Hồng Thái, phía bên kia là khu Nhà Đèn, tức là nhà máy điện lớn của thành phố. Nhiều hôm, nhà máy nhả khói. Bụi than bay khắp vùng, phủ đen dưới đáy các chậu nước. Lần về thăm căn nhà cũ năm 1994, thấy cảnh nhà máy này bị bom san bằng, chính xác đến nỗi mà các khu phố xung quanh không bị xuy chuyển. Hồi đi học, tôi thường đi bộ ngang qua phố hàng Bún, ngang qua đường Quan Thánh, tới đường Đỗ Hữu Vị quẹo trái là tới ngay trường.
Trường là một cơ sở đồ sộ đã được xây từ lâu thời Pháp thuộc, nghe nói trước là trường Bách Nghệ, huấn luyện các thợ chuyên nghiệp. Qua cổng chính của trường là một nhà “gác gian”. Sân trường rộng mênh mông, có cả sân bóng đá, sân bóng rổ, sân bóng truyền và các lối đi rộng rãi, hai bên trồng hai hàng cây lim, cây sấu cổ thụ.
Mùa hè, ve kêu inh ỏi. Đi vào phía bên trái, là khu “nhà chơi”, mà chúng tôi thường gọi tên tiếng Pháp là “Préau”. Nhà chơi đặt nhiều bàn pingpong, và có một vài hàng bán quà ăn vặt. Mùa mưa, giờ ra chơi, chúng tôi thường tụ tập ở đó. Nhớ nhất là những buổi sáng mùa Đông lạnh cóng, tôi thường mua bánh mì nóng hổi với nhân chả bò rắc thêm muối tiêu, ngon đến nhớ đời.
Tòa nhà lớn ba tầng chạy dài, phải dùng đến ba cầu thang. Cầu thang chính ở giữa tòa nhà và hai cầu thang ở hai đầu, mà cầu thang nào cũng bằng gỗ trắc, bóng nhẵn như ở các dinh thự. Hành lang trên các tầng rộng rãi, nhìn xuống sân. Các phòng học thì khỏi nói. Trường lại có một phòng thí nghệm trang bị những chai lọ hóa chất, ống nghiệm và một phòng hội họa mà mỗi học trò đều có một giá vẽ như một họa sĩ thứ thiệt. Nhưng phải nói đến cái cung cách của học đường ngày đó, cái cung cách được phối hợp của nền giáo dục Đông Phương và Âu Tây của người Pháp mang đến. Không có cái tình trạng bát nháo như ngày nay.
Giáo Sư/Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ trong Lễ Mừng Thọ 100 tuổi được tổ chức tại Westminster, California ngày 10 Tháng Mười Hai 2022 (ảnh: Trịnh Thanh Thủy)
image.pngimage.pngimage.pngimage.pngimage.png
Cụ Doãn Quốc Sỹ cùng GS Trần Huy Bích
image.png
Cựu học sinh Nguyễn Khuyến, Nam Định lên chúc mừng sinh nhật cụ Doãn Quốc Sỹ
image.png
Hội ái hữu Viện đại học Vạn Hạnh chúc mừng sinh nhật cụ Doãn Quốc Sỹ
Tôi còn nhớ rõ, ngày thầy Sỹ xuất hiện tại trường, thầy khác hẳn với các thầy khác. Thầy Xán hiệu trưởng, thầy Thận giám học, thầy Phụng tổng giám thị, các thầy dậy khác, suốt niên học đều mặc đồ bộ, complet cà-vạt, giầy bóng , đi đứng nghiêm trang. Học trò hầu hết đều ngoan ngoãn chăm chỉ học hành, nhưng vẫn có những bọn quỷ quái.
Đặc điểm của mỗi thầy làm tôi còn nhớ mãi từng thầy. Thầy Hải dậy Cổ văn, tóc đen trải brillantine bóng nhẫy, học trò thường bảo nhau ruồi mà lỡ đậu xuống cũng phải té nhào. Thầy Sửu, ở Anh mới về, thầy trông giống hệt Mr. Pickwick trong sách, bụng thầy hơi mập và đeo giây lưng choàng qua vai, nói giọng đặc “Ăng Lê”.
Thầy Loan dậy Pháp văn, trông rất dữ, thầy thấp người, lông mày dài quặp xuống, trông như tướng cọp. Mùa Đông lạnh, thầy mặc hai quần, nhiều khi quần trong thò ra khỏi quần ngoài, không có một đứa học trò nào dám hó hé, buồn cười mà không dám nhúc nhích, ngồi im thin thít. Tội nghiệp cho mấy trò nhỏ ngồi bàn trên, có đứa sợ ướt cả ra quần. Cụ Cử Tiếp, cụ mặc áo dài the đen, đội khăn xếp, hình ảnh của thời tàn Nho.
Cụ dậy Hán Văn là môn phụ lại khó học, khó nhớ từng nét chữ, mỗi lần cụ gọi đứa nào lên bảng trả bài bằng cách viết trên bảng những chữ cụ dậy, hầu hết cứ đứng ngớ ra, phải chờ bọn ở dưới viết chữ đằng sau cái cặp da, khi cụ ngoảnh đi thì giơ lên để nó chép vội lên bảng. Có vài đứa khờ chép mãi không nổi, khiến bọn ở dưới cứ phải giơ cặp lên, kéo cặp xuống nhiều lần như một trò chơi “Đi dấu đi tìm” với cụ mà cụ không biết.
Thầy Tấn dậy bài “Nhật thực Nguyệt thực”, mà ra đề thi đúng bài này, mấy đứa vẽ họa đồ không được, bèn tìm cách trả thù thầy. Mùa Đông thầy mặc quần dạ đen, có thằng quỷ quái, cạo phấn trắng rắc trên ghế trước giờ học, thầy không để ý, phấn dính vào quần thầy, thầy thản nhiên đi từ lớp này đến lớp khác. Thằng quỷ đi rêu rao, quần thầy dính cứt cò… Nhiều lúc thấy chúng chơi ác, tôi thấy thật tức định gây sự, nhưng bọn chúng có mấy đứa, nên tôi phải nhịn.
Ai cũng biết, học trò quỷ quái thường sinh ra trong những năm rỗi rãi không lo việc thi cử, nhất là trong các trường công lập. Đệ Thất thì còn non, đó là hai năm Đệ Lục và Ngũ, tôi ở trong các lớp đó, xin các thầy tha tội cho chúng nó. Thầy Hùng Lân dậy Nhạc, cũng là môn phụ, nhưng không một học trò nào dám rỡn với thầy.
Thầy rất nghiêm, đứa nào lờn mặt là thầy bắt ngửa tay lấy thước đánh như học trò tiểu học, thầy gọi là cho mấy hèo và còn phạt giam “consigne” ngày cuối tuần. Nhưng thầy là một người dậy nhạc rất giỏi, thầy soạn ra mấy quyển sách giáo khoa về nhạc rất sư phạm cho bậc trung học. Tôi còn nhớ một số bài, thầy chỉ cần ba note chính mà thành một bản nhạc đầy đủ, tình tự, như bài sau đây dùng ba note cung trầm đồ, mi sol:
“Chiều tà sương lam lắng xuống thôn
Tiếng sáo xa đưa hiu hiu buồn
Trăng lên dần nhấp nhô đầu núi
Trên đê mờ đàn trâu bước dồn.”
Tôi học thầy hai năm, tuy ít giờ, nhưng tôi có được căn bản nhạc lý khá vững. Tôi được thầy chọn vào ca đoàn của trường, có lần thầy dậy chúng tôi hát bè bài “Hè Về, Hè Về” và đã được lên trình diễn tại nhà Hát Lớn Hà Nội. Thầy là một nhạc sĩ nổi tiếng từ hồi 1945, với hai bài tôi thường hát hàng ngày với toán nhi đồng cứu quốc trong phố là “Việt Nam Minh Châu Trời Đông”, và bài “Khỏe Vì Nước”.
Bài Việt Nam Minh Châu Trời Đông là một trong ba bài, bài “Này Công Dân Ơi”, bài “Chào Mừng Việt Nam”, không phải bài “Việt Nam, Việt Nam” như mọi người thường hát, được đưa ra để chọn làm Quốc ca khi miền Nam mới được thành lập chế độ Cộng Hòa năm 1956. Tiếc rằng ban tuyển lựa đã không có lập trường quốc gia vững chắc và dứt khoát với quá khứ nên đã giữ bản quốc ca cũ. Bản Việt Nam Minh Châu Trời Đông của thầy lời uy nghiêm, thấy cả một đất nước lừng lẫy bên biển Thái Bình… Tôi cho đó là một điều đáng trách.
Thầy Doãn Quốc Sỹ thì khác hẳn, ngày đầu đứng trên bục gỗ dáng cao và gầy, tóc hơi quăn tự nhiên, nét mặt xương xương, người hãy còn đượm nhiều nét phong sương của những năm dài theo kháng chiến. Thầy giản dị, thường mặc y phục mầu nhạt, nếp không thẳng và hình như ít thấy thầy mặc complet cà-vạt như các thầy khác.
Thầy dậy Việt Văn, và thêm môn Công Dân Giáo Dục. Cách thầy dậy môn này khá hấp dẫn, khác hẳn với các lời giảng khuôn mẫu cổ điển của luân lý mà các thầy khác dậy trong những năm học trước. Tôi còn nhớ, khi thầy giảng về Tình Nhân Loại, thầy lấy một thí dụ trích từ một truyện của ngoại quốc:
Trong một trận chiến khốc liệt, hai bên cùng tràn lên, lẫn lộn đánh cận chiến, bỗng hai người lính của hai bên cùng nhẩy xuống chung một cái hố để tránh đạn. Khi cả hai cùng bừng tỉnh, họ mới nhận ra là kẻ thù của nhau, đáng lẽ họ phải tìm cách giết nhau, không hiểu sao họ lại cùng ngồi yên và sau này thành bạn của nhau. Cái nguyên cớ đó từ đâu, có phải đó là tình nhân loại đã bật dậy trong lúc đó không?
Những năm thầy Sỹ đi theo kháng chíến thì tôi cũng bị cuốn đi như thầy. Tôi mất bốn năm theo cha tôi, cha tôi theo bên nội, tất cả bên nội tôi đi theo Việt Minh. Tôi làm liên lạc viên cho một cơ quan Kinh Tài của Liên Khu 3, còn cha tôi vì biết tiếng Pháp nên làm cho cơ quan Địch Vận thường phải ở sát vùng tề, vùng địch.
Họ ngoại tôi thì theo Quốc Gia, về thành, tức là về Hà Nội rất sớm. Người em út của mẹ tôi, cậu tôi Ngô Kim Cương, đỗ “diplome” tại trường Bưởi, xin vào làm thông phán Phủ Toàn Quyền đã lâu hồi còn Pháp đô hộ, theo Quốc Dân Đảng bị bắt ngay sau ngày Việt Minh cướp chính quyền. Sau đó được giải cứu và lên chiến khu Yên Bái, chỉ sau một tháng, Việt Minh đem quân bao vây san bằng chiến khu. Cậu tôi biệt tin từ đó.
Cha tôi là cán bộ xa nhà, không nuôi nổi gia đình. Mẹ tôi qua những năm vất vả tại hậu phương, lại phải một mình lặn lội tìm đường về Hà Nội trước, sau đó mới ra đón cha con tôi về. Nhờ thế tôi đã bỏ được “Bác”, nếu không thì sẽ trở thành một tên thất học, và rồi chắc cũng khó tránh được cảnh “Sinh Bắc Tử Nam”.
Tôi thuộc loại học trò lớn tuổi trong lớp vì hồi cư trễ, lại phải trải qua những năm loạn lạc vừa qua. Tôi lớn hơn 3, 4 tuổi so với các trò khác và thường phải ngồi ở bàn cuối lớp. Tôi học dễ dàng, và cũng chưa bao giờ chuyên chú thật sự vào việc học, nhất là cũng chẳng bao giờ muốn đứng đầu nhất nhì lớp. Tôi lại có nhiều bạn. Các bạn cùng lớp còn lại sau này, có Nguyễn Thượng Hiệp, Hiệp tài hoa, có một thời làm báo tại Cali và đã mất.
Đỗ Hữu Tước thành bác sĩ, ở cùng thành phố với tôi và thỉnh thoảng vẫn gặp nhau tại chùa. Nguyễn Ngọc Giao, học khá giỏi, thường đứng đầu lớp. Tôi nhớ hồi đó hay cùng Giao, Hiệp và Ngô Quang Vỹ thường họp nhau tại Vườn Bách Thảo để làm bích báo cho lớp. Vào Sài Gòn, Giao được học bổng du học Pháp năm 1958, thân Cộng rồi theo Cộng làm tờ Diễn Đàn ở Paris.
Sau khi khối Liên Xô tan rã và Hà Nội không cho Giao về nước, bạn tôi Hà Dương Dực nhân dịp sang Pháp có mang một câu hỏi của người anh Giao, một sĩ quan cao cấp Hải Quân muốn hỏi Giao là “Hỏi nó còn theo Cộng Sản không?”. Trong một bài viết, Giao có thuật lại chuyện này và trả lời thẳng thắn là vẫn theo chủ nghĩa Cộng Sản, bài này tôi đọc được trên báo Diễn Đàn của Giao. Khi Dực mất, tôi có viết một bài về Dực và cũng nhắc lại chuyện đó.
Bài này có đăng trên Diễn Đàn Thế Kỷ và tôi cũng gửi cho Giao, Giao không đăng trên Diễn Đàn nhưng lại trả lời tôi bằng email thông thường như những người bạn cũ được tin nhau. Đó là lần đầu và cũng là lần cuối chúng tôi liên lạc với nhau. Thấy thật ghê sợ, cái chất độc, độc hơn ma túy, tiêm vào một số người khiến không tỉnh được, và đã làm cho đất nước ngày càng có nhiều chuyện quái đản. Nhưng những tháng vừa qua, tôi theo dõi tờ Diễn Đàn, thấy trang mạng của Giao đã đổi chiều với nhiều góc độ lớn.
Một người bạn khác là Nguyễn Đắc Điều cùng thời, anh không học cùng lớp với tôi, anh học B3, tôi B4, nhưng khi vào trường Hành Chánh và Đồng Đế, anh cùng khóa với tôi trong một thời gian dài. Anh có một trí nhớ rất tốt, tôi thường gọi nói chuyện với anh, những chuyện bạn bè ngày nay, ngày xưa, mỗi lần hỏi anh đều trả lời cặn kẽ, ít khi sai. Hiện nay vợ chồng anh ở San Diego.
Hồi đó, nhờ thầy Hùng Lân tôi rất thích âm nhạc, bao nhiêu bài nhạc xuất bản hồi đó, tôi đi mượn nắn nót chép lại thành 5, 6 quyển sách dầy cộm. Tôi chơi đàn mandoline, manjo và Hạ Uy Di, những thứ đàn có thể tự học lấy, ngày nay còn rất ít người chơi. Tiếng đàn của tôi văng vẳng trong khu phố với những bài như Dư Âm, Trăng Mờ Bên Suối, Nụ Cười Sơn Cước... cùng những bản của hồi đầu kháng chiến như Bên Cầu Biên Giới, Tình Kỹ Nữ… trữ tình ướt át làm một cô học trò hàng xóm xấp xỉ tuổi tôi, để ý đến tôi. Cô thường đi qua và dừng lại chỗ cửa sổ nghe tôi đánh đàn. Chắc cô mê tiếng đàn của tôi. Nhưng tôi đã không trở thành nhạc sĩ nên duyên nợ chẳng đi đến đâu. Tôi nghĩ vậy.
Về Việt văn, thầy Sỹ dậy chúng tôi về văn mới, những ý tưởng mới, khác hẳn với cổ văn như “Nhị Thập Tứ Hiếu”, “Lục Súc Tranh Công”… Thầy trích những đoạn văn hay, tiêu biểu của các nhà văn thời Tiền Chiến, khiến tôi rất thích và tìm đọc tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn, của nhóm Hàn Thuyên và các nhà văn khác như Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh, Trần Tiêu… và sau này là Đỗ Tốn. Tôi ghiền đến nỗi, đọc không còn một quyển nào của tiệm cho thuê sách ở góc chợ Đồng Xuân. Khác với các bạn tôi thường hí hoáy chép các vần thơ của các thi sĩ nổi tiếng, tôi lại tìm chép những đoạn văn hay thành một quyển như tôi đã từng chép những bài nhạc.
Tôi không được sống trong thời kỳ văn thơ lãng mạn tiền chiến, nhưng nhớ lại những năm Hà Nội đó, dù là trong chinh chiến văng vẳng ở núi rừng xa, vẫn là một thành phố yên bình với những bài nhạc tôi đã chép, những tiểu thuyết xưa tôi đã đọc, những hình ảnh của các thành quách, phố cổ rêu phong… trở thành những tình tự lãng mạn của một thời tiền chiến còn sót lại khó quên…
Những bài luận văn thầy Sỹ đưa ra trong những năm đó hình như đều là văn tả cảnh, chứ không tả tình. Thí dụ như thầy ra một đầu đề là “Tả một đêm trăng sáng tại đồng quê”, đó là cái “tủ” của tôi rồi. Tôi không đến nỗi láu cá đưa vào bài những câu mình đã chép lại, thế nào thầy cũng biết. Tôi viết bằng một giọng văn mới lớn và nhớ lại những ngày loạn lạc ở vùng quê. Hồi đó tôi nghĩ thầy chưa vào nghiệp văn, nhưng chắc thầy thấy lạ, nên bài của tôi thường được thầy bảo một trò khác đọc cho cả lớp nghe.
Nhiều năm sau, năm đậu xong Tú tài I, tự nhiên cảm thấy chán học, tôi nộp đơn xin vào Không Quân, Hải Quân đều bị người nhà ngăn chặn. Nhân dịp Việt Tấn Xã tuyển phóng viên, tôi nghĩ mình cũng có chút tài viết lách, lại thích lang thang như mấy ông làm báo, khi vào phỏng vấn, ông chủ sự thấy tôi ở năm cuối Trung Học, ông khuyên tôi trở về học nốt. Nghiệp viết văn chớm nở của tôi đã tiêu tan.
Trong những năm đầu ở Sài Gòn, tôi hay tìm đọc các tạp chí văn học thì thấy tên của thầy Doãn Quốc Sỹ đã thành một nhà văn chính thống được nhiều người biết tiếng. Thầy cho xuất bản nhiều tác phẩm, tôi đọc gần hết nhưng không hiểu sao tôi lại thích truyện “U Hoài” và nhân vật “Miên” trong trường thiên “Khu Rừng Lau” của thầy. Mấy năm sau, tôi thi được vào trường Hành Chánh, một cái nghề “Sáng vác ô đi, tối vác về”, khác hắn với bản tính của tôi, chắc có lẽ là học bổng của trường quá hậu đãi.
Sau khi tốt nghiệp, tưởng được kéo cái đời ký cóp ở Sài Gòn, không ngờ Tổng thống Diệm đổi chính sách khiến một nửa khóa được đưa vào Trung Ương Tình Báo, còn một nửa khóa trong đó có tôi phải ra Đồng Đế để huấn luyện thành Chuẩn Úy, sau đó, tôi lại được chuyển ra làm phó đảo Phú Quốc. Lúc đó đảo còn hoang vu và bất an, tôi ở đó ba năm không xin đổi. Tôi đã mất cả một thời gian dài quên đọc truyện, mất cả một thời tuổi trẻ lãng mạn nghe nhạc của Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An, Từ Công Phụng… Mãi sau ra hải ngoại mới bắt kịp lại thì đã nửa đời rồi.
Bao nhiêu thầy dậy tôi trong thời mới lên trung học đó, hầu hết tôi không còn được tin tức về thầy nào, tôi thấy thương tất cả các thầy. Chỉ có nghe tin thầy Sỹ bị Cộng Sản bắt giam đến hai lần, mà lần nào cũng dài đằng đẵng. Cuối cùng thầy cũng đến được Mỹ và ở Houston, nay rời đến Cali. Mấy năm trước dịch Covid, tôi bay xuống Cali, được người bạn thân Trần Huy Bích dẫn đến tham dự một buổi trình diễn văn nghệ tại Hội Việt Học.
Tình cờ tôi gặp lại thầy Sỹ, thầy ngồi ở hàng ghế trên, tôi lên chào thầy, tôi thấy thầy không thay đổi mấy so với thời mà thầy dậy tôi, trông vẫn an nhiên chỉ có già thêm thôi. Trong cái ồn ào của phòng hội, tôi chắc thầy không nghe được tôi nói gì và cũng khó nhận ra biết tôi là ai. Tôi bèn nói với cô con gái đi theo thầy, tôi là học trò cũ của thầy từ Hà Nội, thầy thường cho đọc những bài luận văn tôi viết cho cả lớp nghe.
Tháng vừa rồi, tôi xuống thăm Cali, lại được bạn Trần Huy Bích cho biết đã đi họp để tổ chức sinh nhật thứ 100 của thầy: “Khu Rừng Lau” đã trăm tuổi. Tôi càng nhớ thầy, nhớ đến những năm học xưa, nhớ đến những lần thầy cho đọc bài của tôi, được thầy khuyến khích như thế mà tôi đã lơ là bỏ mất nghiệp văn, nếu không tôi đã trở thành một “nhà văn nhớn”.
Tôi ở Seattle, không tham dự được buổi lễ chúc mừng thầy. Xin kính chúc thầy được luôn luôn vui mạnh.
0 notes
lemongdom · 2 years ago
Text
PHAN TẤN UẨN
QUÁN VỀ KHUYA

truyện ngắn
 
 
       Trên chuyến xe ba giờ sáng lên phi trường Jacksonville, tôi đọc những trang đầu tiên trong một fiction book nói về giấc mơ kỳ lạ của một lão phù thủy…
          Máy bay hạ cánh . Đặt chân xuống phi trường, chẳng biết  ai đã dẫn lão  đi. Đi đâu, lão hét lên. Lão bay trên đất liền gặp vô số chuyện ma quỹ. Bay trên đồi núi gặp những huyền thoại . Bay trên đại dương nhìn thấy thành phố cổ chìm dưới đáy sâu hơn sáu chục cây số. Bay trên hoang mạc cũng thấy thành phố cổ bị chôn vùi dưới lũng sâu.Bên tai, lão nghe hàng tá sự kiện bí ẩn chưa giải thích được, nào là từ thời cổ đại đến nay, các câu hỏi vẫn chưa được trả lời, có nhiều tội ác không bao giờ được giải quyết, những sinh vật lạ ẩn nấp trong rừng và hồ, có người mất tích và không bao giờ được tìm thấy, văn bản lịch sử bị nghi ngờ. Một số bí ẩn chắc chắn khó thể được giải đáp. Có lời nhắc nhở các thế hệ mới dùng những công nghệ tiên tiến để tìm ra câu trả lời...
Tại sao những người sung sướng hạnh phúc từ bỏ quê hương của họ? Người đàn ông bướm đêm là gì ? Tại sao một lãnh tụ độc tài phải tự sát hay bị sát hại ? Có phải người La Mã khám phá nước Mỹ ? Điều gì làm cho tam giác Nevada và Alaska trở thành bí ẩn ? Liệu vùng đất cũ của lão trước đây vẫn sẽ tồn tại trong tương lai ? Truyền thuyết về Dudleytown, Connecticut là gì? Người dân thuộc địa Roanoke đã đi đâu? Những điều này và nhiều bí ẩn khác lôi kéo lão bay vút qua không trung. Lão nghe người ta nói rằng ma quỹ và bọn phù thủy như lão thường bị đổ lỗi cho những sự kiện không giải thích được. Nền văn hóa nào cũng có những thần thoại lịch sử tiếp tục duy trì từ sự thiếu hiểu biết. Lão ngấp nghé sau cánh cửa, nhìn vào một phòng xử án, hai tên tội phạm trốn thoát thành công ngay trước mặt ngài chánh án. Lão không hiểu nổi. Từ cánh cửa tòa án, lão bay đến một trung tâm thành phố. Một tên giết người đã bắt cóc và giết chết ba đứa trẻ . Hắn tẩy sạch vệt máu trên quần áo trẻ em, sắp xếp thi thể ba nạn nhân rồi cho phóng lên màn hình kích thước lớn trên đường phố. Đến nay vẫn chưa tìm ra tung tích tên loạn trí. Lão bay đến một tam giác tập trung quanh ngọn núi lửa đã từng bị dân bản xứ nguyền rủa với những truyền thuyết . Tại đó xuất hiện vết của một bàn chân khổng lồ với âm thanh và ánh sáng kỳ lạ. Đây cũng là địa điểm có chín người biến mất trong thời khoảng từ 1945 đến 1950, kỳ bí hơn nữa, đây là điểm nóng  về sự xuất hiện của những vật bay không xác định (UFO). Từ một mãnh lực vô hình thôi thúc lão tìm đến con tàu ma trên một bãi cạn phía Bắc Carolina. Cuộc đời ngắn ngủi của cô gái xinh đẹp trên con tàu nầy bị bỏ rơi hoàn toàn là một bí ẩn của câu chuyện con tàu ma nổi tiếng nhất trong lịch sử hàng hải thế giới. Lão tiếp tục bay đến sông Connectcut xem tên giết người hàng loạt . Hắn đã đâm chết  tám người đàn bà dọc biên giới của hai tiểu bang. Sau  khi vuột mất nạn nhân thứ chín, hắn dừng tay trốn thoát ,không bao giờ bị bắt...
 
          Mấy tháng trước đây chúng tôi đã gặp một cặp chồng Mỹ vợ Việt tại nhà thờ Saint Patrick trong buổi lễ tang của một bà đồng hương già trên 95 tuổi. Bà Th. trước 75 làm sở Mỹ có chồng lính Mỹ là người sớm nhất đến thành phố chúng tôi đang ở. Những người Việt đến sau như tôi thường đến tá túc một vài tháng đầu tiên tại nhà bà. Lễ tang của bà tập họp gần như đầy đủ người Việt đã từng quen biết bà trong đó có cặp chồng Mỹ vợ Việt nầy đến từ một thành phố khác. Bà vợ Việt gặp đồng hương ,được dịp nói chuyện cởi mở. Qua chuyện trò tôi biết ,trước 75 bà làm việc trong cơ quan DAO (*), ông chồng trước khi gặp bà làm trong MACV(**) sau nầy cũng làm trong DAO và gặp bà. Trước khi ra về, ông bà Mike không quên ghi địa chỉ để chúng tôi có dịp gặp lại. Ông Mike , người chồng, đã tặng tôi cuốn truyện viễn tưởng (fiction book) nói về một lão phù thủy …
          Điều đặc biệt tôi phải hỏi rỏ họ, tại sao lại cho chúng tôi địa chỉ là một ngôi quán và giờ gặp, là một sáng sớm 5 giờ. Bà vợ cười xởi lỡi, nói rằng ban ngày ông bà sống bất định, già về hưu , vui đâu chúc đó không có chỗ dừng nhất định. Nhưng ông Mike lại có một thói quen không bỏ được là cứ năm giờ sáng mỗi ngày, ông đều có mặt tại quán cà phê trong dãy phố cổ. Họ nói, nếu có dịp nào thuận tiện gặp lại, điện thoại báo cho ông bà biết ... 
          Ba giờ khuya. Xe lặng lẻ chạy trong đêm tối, bên dãi phân cách phản quang sáng lên giữa mặt đường trải nhựa lúc chiếc xe phóng chùm sáng lên mặt đường tối.Một vài xe phía sau phóng nhanh ,vượt qua ,trong thoáng chốc chỉ còn một chấm sáng nhỏ di động phía trước. Chúng tôi  đưa tiển con gái về tiểu bang khác. .. Tựa lưng vào ghế, tôi lật xem tiếp cuốn sách viễn tưởng do ông Mike trao tặng. Chỉ mấy trang đầu cuốn sách cũng đủ   kích thích trí óc tôi. Tôi bị cuốn hút ,đọc rất nhanh quên hẳn đất trời im lặng bên ngoài...Cuốn sách kể về một lão phù thủy bay qua những hiện tượng bí ẩn có thật xẩy ra mà khoa học chưa giải thích được…
 
          Khi lão cảm thấy không còn đủ sức bay tiếp,một nguồn năng lượng mạnh từ đâu đột nhiên xâm nhập vào cơ thể. Lão nhìn thấy hàng trăm hiện tượng bí ẩn xuất hiện cùng một lúc. Một người đàn ông không rỏ danh tính đánh cướp chiếc máy bay Boeing , tống tiền hành khách ba trăm ngàn dollar - tiền chuộc mạng - rồi nhảy dù xuống một hốc núi mất dạng. Một tên giết người không bao giờ bị bắt. Tên nầy đã sát hại một nữ diển viên nổi tiếng giữa đường phố mà không ai biết .Thi thể người phụ nữ trẻ , bị cắt làm đôi ngang thắt lưng, bị rút hết máu. Nạn nhân còn bị tên nầy tạo dáng như một người nộm. Cuộc săn lùng quy mô lớn vẫn không thể bắt được tội phạm... Vị thuyền trưởng bị bắn chết lúc thám hiểm trên một đường mòn. Cái chết bí ẩn đến nổi hai trăm năm sau người ta vẫn còn tranh luận về vết thương kỳ dị của nhà thám hiểm. Người lãnh đạo một liên đoàn lao động bị tố cáo tham nhũng, sau bốn năm ngồi tù, tự nhiên biến mất tại một nhà hàng không để lại dấu vết... Một quan tòa vừa mới được bổ nhiệm, bị tố cáo xâm hại tình dục trẻ em, liền gọi ngay taxi chạy biến như một bóng ma. Kỳ lạ hơn , một anh nông dân lương thiện chưa hề phạm tội, khi đi ngang khu vực gần nhà ở của mình tự nhiên biến mất, người ta nêu lý do bầu không khí rất loãng lúc đó. Miệng núi lửa Joseph bỗng nhiên mất dấu . Đài phun nước trên sa mạc phía Nam New Mexico cũng không còn dấu vết, một bí ẩn đến nay khoa học vẫn còn bối rối không tìm ra nguyên nhân trong hơn một thế kỷ. Thi thể tám phụ nữ được tìm thấy trong một đầm lầy không tìm ra manh mối vụ án... Tên điên giết người hàng loạt khét tiếng nhất trong lịch sử với mười bốn nạn nhân của hắn bị cắt đầu, mất chân được tìm thấy trong một lạch nước.Ngay cả cái chết của một cây đại thụ trong văn học thế giới thế kỷ 19, cũng không tìm ra nguyên nhân.Một nhà báo ,nhà văn biên tập viên theo chân đoàn quân nổi dậy trong một cuộc cách mạng bỗng dưng mất tích. Người đàn ông chết vì bị đánh vào hộp sọ một thế kỷ sau vẫn không tìm ra danh tính...
Bầu trời phía tây lóe lên một tia chớp màu đỏ. Cùng lúc, xuất hiện những luồng ánh sáng bí ẩn tại nhiều nơi khác nhau. Có những ngọn đèn ma quái chập chờn không giải thích được.Có một vùng diện tích chừng ba trăm dặm vuông trở thành quê hương của những truyền thuyết và lời nguyền trong nhiều thế kỷ với nhiều hiện tượng và sinh vật kỳ lạ ẩn núp. Quả cầu lửa phát ánh sáng màu cam thay đổi kích thước từ một quả banh quần vợt đến một quả bóng rổ, nhảy tung tăng giữa đường phố với tốc độ cao, vọt thẳng đứng rồi bay lở lửng trên ngọn cây trước khi rút lui và mất dạng... Một tảng đá nặng hơn  năm mươi tấn ban đầu nằm dưới lòng sông, không rỏ bằng cách nào lại nhảy lên bờ, lão thấy những bức tranh chạm khắc tinh vi  trên đá có nguồn gốc thời thái cổ, bên cạnh đó là một bản chữ cái nguyên thủy...Kinh dị hơn, một thành phố ẩn giấu trong thung lũng chết với hang động ngầm , xác ướp, người khổng lồ minh chứng một tộc người đã bị diệt chủng. Ngọn núi cổ Shastra được gọi tên là địa điểm của năng lượng vũ trụ, chứa đầy những bí ẩn : UFO , hang động pha lê, các quốc gia tự phát tự diệt, căn cứ quân sự dưới lòng đất, thậm chí được đồn đại là nhà của một tộc người tối cổ hậu duệ của một siêu nhân hơn mười ngàn năm trước...     
          Tin truyền tiếp tục vang lên trong tâm lão. Hãy tiếp tục bay  thêm nữa, bay cho biết hết những bí ẩn mà công lý dù hết sức thực thi cũng không thể trừng phạt...
          Mặt trời còn ngái ngủ phía ��ông. Buổi sáng còn mờ hơi sương. Lão vừa trải qua một cơn mộng kỳ lạ. Tiếng nói từ một cỏi thiên thu vẫn còn làm váng vất đầu óc lão. Đây không phải là cỏi ... ,không phải là... , không phải là... Không phải là ảo cũng không phải là thật...
           
          Xe quặt vào khu Cracker Barret giữa bóng đêm.Một hàng quán đã mở cửa đón khách.Ngọn đèn vàng chiếu ánh sáng tù mù lên nền bãi đậu xe trước quán. Một hàng ghế gỗ, loại ghế thư giản, đặt trước hiên quán hướng ra sân. Không gian tĩnh mịch vào khuya, thời gian như chìm xuống, trôi chậm lại. Khác với phố chợ ban ngày khó tìm được nơi yên tĩnh như tại đây. 
          Bước vào , quanh chúng tôi là hàng quán kiến trúc toàn gỗ đủ loại, trông rất lạ mắt. Bức tường cắt ngang chia hàng quán làm hai, một bên quán ăn, cửa hàng thực phẩm ở phía bên kia. Tôi phải lách khỏi mấy quầy hàng để bước qua quán ăn . Những bộ bàn ghế màu vàng nhạt dưới ánh sáng trắng khiến căn phòng vui hẳn. Hai bàn đã có khách ngồi. Bàn giữa , hai ông râu rậm đang trò chuyện lớn tiếng .Ông bà Mike trên bàn thứ hai. Ông Mike đang đọc sách , trên bàn còn có vài cuốn khác. Bắt thấy cây đèn dầu trên một bàn ăn, tôi nhìn quanh nhận ra trên mỗi bàn ăn đều đặt sẳn một cây đèn tương tự. Ngạc nhiên và vô cùng thích thú. Nhìn cái chụp thủy tinh úp lên cây đèn, tôi nhớ ngay cái chụp đèn xưa từng xuất hiện trong nhà tôi ở làng quê cách đây hơn sáu chục năm. Ngọn đèn dầu thắp giữa đêm đông trong căn nhà đầu làng, bên ngoài mưa như trút nước, gió tạt mạnh lên những tàu lá va đập phát ra những tràng âm thanh như réo gọi kêu cứu. Ngọn đèn mờ thắp lên bữa ăn tối đạm bạc . Làm sao trong cái quán khuya nầy lại có những ngọn đèn dầu kia. Lúc nào thì chúng được thắp lên ? Hình ảnh chúng đã  đánh thức cả một đoạn đời của tôi. Tôi nhớ những đêm tối chập chờn trong ngôi làng cũ, nơi mẹ tôi và  anh em chúng tôi trải qua mười lăm năm thầm lặng chờ đợi những ngày nắng ấm.
Thấy tôi , bà vợ cho biết , ông Mike thường đến đây một mình lúc năm giờ sáng, ra ngồi trước quán và thắp lên ngọn đèn dầu. Ông có thói quen hẹn gặp người khác vào giờ nầy...
  Tôi kéo ghế ngồi cạnh ông Mike. Ông nói rành tiếng Việt không kém gì chúng tôi. Ông kể lại cái thú ngồi cà-phê đèn mờ do những người bạn Việt Nam rủ rê trước kia. Nhưng tôi lại  nói với ông ta , bên trong quán nầy thấp thoáng hình ảnh một quán nhỏ nằm heo hút giữa vùng quê cát trắng dưới chân núi đá . Tôi nói, nếu có một cô gái đứng sau quầy rượu ở đây, tôi tưởng tượng một tiếng động nhẹ vang xa từ cánh cửa bí mật,cô gái ngước nhìn về phía tiếng động, và một chàng cao bồi mang súng ngắn lủng lẳng bước vào. Như một thói quen ,cô gái tự động mang rượu rót vào ly , nhẹ nhàng đẫy nhẹ về phía khách. Chàng cao bồi với chiếc mũ rộng vành gác một cánh tay lên quầy , tay kia cầm ly rượu hớp nhanh một ngụm, đặt mạnh chiếc ly trống lên quầy, mắt nhìn đắm đuối cô ta . Nghe tôi nói thế, ông Mike cười to sãng khoái và bảo tôi rành phim cao bồi Mỹ. Tôi hứng chí nói thêm hoạt cảnh tiếp theo : hoặc chàng trai lẳng lặng bước ra cửa leo lên lưng ngựa lao nhanh về một phương trời vô định giữa  đêm đen, hoặc cùng đồng bọn ra tay trong một trận đánh đấm vật lộn điên cuồng. Ông Mike lại cười lớn hơn, lần nầy còn vỗ vai tôi thích thú. Tôi hỏi ông ta có khi nào đọc truyện Thủy Hử của Tàu ? Ông lắc đầu, tôi kể lại câu chuyện một quán trạm trong Thủy Hữ. Tôi nói, đây là một quán trạm trung chuyển, đưa đón những tay phiêu bạt giang hồ trong Thủy Hử của một trăm lẻ tám anh hùng hảo hán Lương Sơn Bạc. Quán trạm nằm dưới chân núi , đưa đón thảo khấu lên xuống núi.Một lần,có người khách lỡ độ đường vào quán trọ ngủ qua đêm, giật mình nghe cuộc đối đáp thì thầm trao đổi phía sau quán muốn “làm thịt” tên khách mập đang ngủ trước quán. "Thịt thằng mập ngon lắm". Ngang đây, tôi nhìn ông ta, và hạ giọng : thưở ấy, người ăn thịt người…Ông Mike  lè lưỡi, bây giờ ông mới biết lịch sử Trung Hoa có chuyện người ăn thịt người;    “ Ông bạn, tôi có đọc cuốn sách bạn tặng.” Tôi đề cập đến cuốn sách. “Bạn nghĩ thế nào về những bí ẩn trong sách ?”   “ Đó là những chuyện có thật, nhưng khoa học chưa giải thích được.” Ông Mike trả lời. “Tôi nghĩ rằng những bí ẩn hôm nay chúng ta gọi là biến mất, mất dấu , tự sinh tự diệt sẽ được trí tuệ nhân tạo (AI : Artificial Intelligence ) giải thích... Chuyện nầy dài dòng lắm. Tôi sẽ gởi đến bạn những suy nghĩ của tôi về trí tuệ nhân tạo giải quyết những bế tắt của nhân loại trong lãnh vực tâm linh... Về phần bạn, bạn quan tâm đến câu chuyện nào nhiều nhất trong những câu chuyện bí ẩn của lão phù thủy ?...”
          “ Chuyện của lão bắt tôi nghĩ đến những cái chết do những bóng đen khủng bố chuyên ám sát, gây hận thù man rợ trên quê hương tôi…”
          “ Cảnh man rợ đó không xuất phát từ đất nước bạn.”
          “ Bạn muốn nhắc đến hiểm họa da vàng mà nhiều học giả phương Tây từng tiên đoán từ thế kỷ 19 ? “
          “ Đó là vấn đề lịch sử. Phương Tây cũng đã từng tiêu diệt bọn khủng bố nhân danh đạo Hồi ngay từ trứng nước. Sở dĩ như vậy vì chúng nó dám xâm nhập lảnh thổ phương Tây, cướp bóc tài sản ,thò tay trực tiếp vào quyền lợi của người khác...”
          “ Nhưng tại sao bọn khủng bố nầy ban đầu chỉ là một nhúm nhỏ sống tại một khu hoang mạc đói nghèo lại trở thành một đội quân khát máu băng qua đại dương để biến một quốc gia Phật giáo hiền lành của Nam Dương (Indonesia) trở thành quốc gia đạo Hồi lớn nhất thế giới..”
          “ Có lẻ do chúng cuồng tín, hiếu chiến , và nghèo đói...”
 
          Một bà tiếp khách tuổi trung niên đến bên bàn ăn. Ông Mike giới thiệu chúng tôi với bà waitress. Bà gật đầu chào ra vẻ thân thiện. Bửa ăn khuya với bánh mì, trứng ,xúc xích , thịt , bột yến mạch... Chúng tôi cắt ngang câu chuyện về huyền thoại Con Cá Gỗ và trao đổi những câu chuyện linh tinh. Tôi nói với họ phải chờ đến hôm nay mới có dịp đi chuyến xe khuya ba giờ sáng và hỏi, hình như quán ăn nầy nằm trong khu phố cổ ? Đúng rồi ,bà Mike nói. Bà tỏ ra có kiến thức về nhiều lãnh vực, xác nhận lời nhận xét của tôi. Bà nói,chúng tôi là những người Jacksonian của thành phố Jacksonville, city đặt tên theo Tổng Thống Andrew Jackson. Với nụ cười khuyến khích của ông Mike, bà vợ được dịp nói về lịch sử thành phố Jacksonville. Tôi thật sự chăm chú lắng nghe,có ý tìm hiểu. Tôi nói, tôi cũng muốn cô cho chúng tôi biết nhiều chuyện liên quan đến nước Mỹ, chẳng hạn về lịch sử , văn hóa, xã hội, vì chúng tôi đến Florida chưa lâu. Nghe vậy, bà Mike càng phấn khích.Những kiến thức tích tụ trong nhiều năm bà tự học hoặc nhận từ các Đại học khi qua Mỹ sau tháng tư bảy lăm, được dịp tuôn ra. Bà quay qua nhà tôi, chỉ tay vào mấy món ăn giữa bàn và giải thích , bữa ăn sáng truyền thống của những người nói tiếng Anh chủ yếu là bột yến mạch, trứng và xúc xích.Nhưng khi chế biến, người ta chuẩn bị rất nhiều nguyên liệu như yến mạch, lúa mì, lúa mạch, bắp, sắn, tinh bột, thịt và các thực phẩm khác. Chị biết không, bà nói , chuyện nầy tôi đã biết lờ mờ trước bảy lăm lúc làm việc trong cơ quan DAO . Khi qua Mỹ đến sinh sống tại thành phố Jacksonville, việc đầu tiên cần học hỏi là tìm hiểu lịch sử thành phố nầy. Ồ, nhà tôi cắt ngang lời bà Mike, và nói rằng chỉ cần học tài liệu Sở Di Trú cung cấp để vượt qua buổi vấn đáp nhập tịch là đủ. Nghe vậy, tôi bảo  bà Mike cứ nói tiếp để tôi theo dỏi...
          Tôi nhìn quanh phòng ăn .Bức tường với những mảng gỗ nhỏ, màu nâu đậm nhạt đan xen nhau công phu mỹ thuật khiến tôi nghĩ đến vẻ cổ kính mới được phục hồi trong ngôi quán. Những cây đèn dầu trên những bàn ăn lại cuốn hút tôi.
          Phòng ăn đã có nhiều khách ra vào.Họ vào thẳng quầy nhận hộp thức ăn hoặc ly cà phê rồi thoăng thoắt bước ra, vội vả lái xe đến nơi làm việc.Không thấy bọn trẻ con xinh đẹp nắm tay các bà mẹ đài các đứng chờ như hoạt cảnh trước quầy hàng các siêu thị hoặc phòng bán vé đâu đó.
          Câu chuyện trao đổi giữa bà Mike và chúng tôi  xoay quanh cách sống và thái độ của người nhập cư phải thế nào để người bản xứ không xem thường. Bà ta thường có những câu hỏi rất dễ làm người khác khó chịu, nhưng chúng tôi làm như không để ý đến. Chuyện trò mới biết rỏ ,thời chiến tranh Việt Nam, ông Mike vừa xong Đại học ,phải động viên vào quân đội rồi được điều động qua SaiGon làm việc trong cơ quan MACV , về Mỹ một thời gian, sau đó trở lại SaiGon làm trong cơ quan DAO  từ 1973 đến 1975. DAO là cơ quan thay thế MACV sau hiệp định 1973 Mỹ rút quân khỏi Miền Nam. Làm việc trong DAO, ông gặp bà vợ Việt. Qua lời ông , bà Mike  thuộc hạng có học mà ông rất khâm phục kiến thức nhiều mặt,và gắn bó gần hết đời ông.
          “ Jacksonville là thành phố đông dân nhất  của tiểu bang Florida ,bà Mike nói. Nhờ hợp nhất quận Duval vào thành phố năm 1968 nên qui mô rộng lớn của Jacksonville cho phép phần lớn dân chúng sống ở nội đô.Năm 2018 dân số khu vực đô thị của Jacksonville trên một triệu rưỡi, là khu vực đô thị lớn thứ tư của Florida.”
          Tiếp lời bà vợ, ông Mike lại  nhắc đến tính tình cởi mở của người SaiGon, những món ăn đã quyến rủ ông, một đất nước luôn luôn sẳn sàng chiến đấu để sống còn, để độc lập. Những gì ông biết về Việt Nam không làm tôi ngạc nhiên, vì nhu cầu công việc ông phải tìm hiểu chuyên môn. Rồi yêu thích nó. Tôi hỏi ông về dự tính tương lai, ông bảo đang nghiên cứu về AI .Ông cũng thích đọc các loại fiction books.
          “ Có khi nào bạn nghe nói về những người bị cấy sinh tử phù ?” Tôi trở lại câu chuyện bỏ dỡ…
          “ Sinh tử phù ?” Ông Mike nghĩ ngợi.. . “  Hình như nó xuất phát từ Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung. Đây là một bí thuật do nhà văn kiếm hiệp tưởng tượng ra, nó không có thật. Nhưng AI sẽ làm được như tưởng tượng của Kim Dung…”
          “ Bằng cách nào ?” Tôi hỏi.
          “ Bằng kỹ thuật của trí tuệ nhận tạo.” Ông Mike trả lời.”  AI sẽ  kích thích và điều chỉnh các thành phần hoạt động trên bộ não. Để vận hành kỹ thuật nầy, người điều khiển có thể ngồi cách bệnh nhân hàng mấy chục ngàn cây số và ấn những nút bấm. Như tôi đã nói, tất cả phải chờ AI giải quyết...”
           Một thoáng im lặng chờ đợi. Không gian như ngưng đọng. Tôi nhớ trước đó ông Mike có hứa sẽ gởi tài liệu về AI  để tôi tìm hiểu.
          Tôi đứng dậy, nhìn những cây đèn dầu trong hàng quán Cracker Barret và nhớ về quê làng xưa...Rời quán khuya, trời vẫn còn mờ tối. Người con quay xe vọt ra xa lộ . Cuộc gặp đã đánh mạnh vào tâm tưởng tôi…
*
*     *
          Gần đây tôi bất ngờ nhận thư ông Mike gởi . Mùa dịch corona đã giữ ông ta tại nhà. Ông đã bị tước mất thói quen đến quán khuya vào lúc 5 giờ sáng. Thì giờ nhàn rổi đã giúp ông viết lại những suy nghĩ về thực trạng xẩy ra trước mắt. Lá thư giống như một bản tường trình …
          Bạn thân mến ! Tôi viết gần xong về những vấn đề cần đến trí tuệ nhân tạo giải quyết. Lúc nầy,chung quanh chúng ta gần như mọi việc đều bị xáo trộn, đảo ngược cả. Cuộc sống khó khăn bắt đầu.Một bạn già của tôi đã chết trong Viện Dưỡng Lão của thành phố Denver, bang Colorado. Tôi lại nghĩ về chiến tranh sinh học vì khoa học có thể chế tạo virus…
           Bức thư rất dài, tôi đọc lướt qua những phần mình không quan tâm. Nhưng đến đoạn “ How AI Can Help Fight  the Coronavirus  Pandemic: Top Applications “ nói về trí tuệ nhân tạo giúp giải quyết đại dịch corona, tôi dừng lại và đọc chậm rãi...
 
          Một cách ấn tượng, AI là một công cụ hiệu quả trong cuộc chiến chống lại virus corona . Bạn có thể hỏi làm thế nào công nghệ tiên tiến này giúp các chuyên gia chăm sóc sức khỏe ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh.Đã có câu trả lời cho câu hỏi của bạn!
          Chúng ta đã nghe rất nhiều về  triệu chứng , tiến triển và ảnh hưởng của COVID-19  đối với nền kinh tế toàn cầu , nhưng chúng ta cũng nghe thế giới  tập trung vào các phương tiện có thể giúp chống lại virus bao gồm các công nghệ tiên tiến như AI.Vì vậy, với tư cách là một công cụ phi truyền thống, AI giúp chống lại đại dịch. Nhưng vì công nghệ này hoàn toàn mới, chúng ta cần thời gian để kiểm chứng hiệu quả của nó. Bây giờ, hãy xem AI giúp chống lại virus như thế nào.
          Trước hết,người ta trang bị AI cho máy ảnh. Camera an ninh được trang bị phần mềm dựa trên AI cho phép giám sát và phát hiện những người không đeo khẩu trang và những người có nhiệt độ cao hơn 99 ° F (máy ảnh nhiệt giúp sàng lọc nhiệt độ của mọi người – cao hơn 99 độ F là người bị nhiễm coronavirus).
          Sau đó,bộ thử nghiệm virus được trang bị AI làm cho quá trình phân phối dụng cụ nầy dễ dàng hơn và giúp các mẫu phức tạp được thu thập bởi bộ dụng cụ nhanh hơn.AI hỗ trợ thiết kế các bộ thử nghiệm này.Bên cạnh đó, một phần mềm dựa trên AI có tên Axial chỉ cần 10 giây có thể  giải mã dữ liệu thu được từ bộ thử nghiệm. Phần mềm AI được kết nối với quét CT (chụp cắt lớp vi tính), cho phép chỉnh sửa các hình ảnh quét được lưu trữ và so sánh chúng với những hình ảnh mới. Mục đích của AI này là để phát hiện xem bạn có vi rút trong cơ thể của mình hay không.
          Máy chụp X quang được trang bị AI giúp giải quyết tình trạng thiếu nhân viên và lượng bệnh nhân quá tải.  Phần mềm hỗ trợ AI có khả năng diễn giải hình ảnh và chẩn đoán bệnh gần như chính xác .Chỉ cần mở ứng dụng CheXNet  khi chụp ảnh X-quang, trong vòng vài giây, ứng dụng sẽ xuất ra tất cả các bệnh mà bạn có thể mắc phải. Quan trọng là, chúng được sắp xếp theo th�� tự từ khả năng xảy ra cao nhất đến ít có khả năng xảy ra nhất. Một hệ thống chụp X-quang khác được gọi là qXR phân biệt giữa các mẫu X-quang COVID và không COVID với độ chính xác ấn tượng là 95%.
          AI còn giúp thiết kế vaccin để có kết quả chích ngừa virus corona như của nhiều hảng bào chế vaccine đang hoạt động, đặc biệt an toàn và hiệu quả đến 95%. Chẳng hạn,Moderna, một công ty khởi nghiệp có trụ sở tại Mỹ, với sự hỗ trợ của AI đã hoàn thành vắc-xin với thời gian phát triển nhanh đến khó ngờ. Cách tiếp cận này liên quan đến việc triển khai công nghệ AI dùng phân tích khối lượng lớn dữ liệu và phân biệt các mẫu cụ thể của các phân đoạn coronavirus để tìm ra loại vắc xin hiệu quả…
 
          Tôi đọc tiếp thư ông Mike. Đoạn cuối, ông bàn trở lại các hiện tượng bí ẩn mà tôi đã hỏi ông lúc ngồi trong quán. Tôi đặc biệt chú ý khi ông nói về một loại trí tuệ khác là spiritual intelligence ( S-intelligence : trí tuệ tâm linh). Trí tuệ tâm linh có thể được sử dụng để giải quyết các vấn đề về trí tuệ nhân tạo (AI). Vì mục đích này, người ta đề xuất một định nghĩa mới về giải quyết vấn đề phù hợp với yêu cầu, điều kiện và năng lực của S-Intelligence. Ở đây tôi không nhắc đến những giải thích dài dòng trong thư ông Mike bàn về trí tuệ tâm linh, các vấn đề của S-Intelligence,hoặc phương pháp giải quyết vấn đề. Mà suy nghĩ về những hiện tượng bí ẩn trong sách ông Mike tặng. Ông ta dùng S-Intelligence được AI hỗ trợ để  giải thích như sau : bộ não của con người có một vùng hoạt động đặc biệt dành cho lãnh vực tâm linh, vùng nầy có tính chất đặc thù của từng cá nhân.Do một tác động nội tại bất thường, vùng nầy tự kích hoạt gây ra các hiện tượng bí ẩn như trong sách… Nhưng với sự phát triễn thần kỳ của AI, các vùng  não tâm linh của mỗi cá nhân sẽ được kích hoạt theo điều khiển của ta. Từ đó chúng ta có thể tạo ra những hiện tượng bí ẩn…
          Cuối cùng, ông Mike cho biết, hiện thời có một số dữ liệu về ánh xạ giữa một số khu vực của não và các bộ phận của cơ thể mà chúng kiểm soát để từ đó não nhận được các thông  tin cảm quan. Tuy nhiên người ta không hiểu đầy đủ về cách các lĩnh vực khác có thể thực hiện qua các chức năng khi một khu vực bị hư hỏng. Hầu như không có lý thuyết nào về cách một bộ nhớ riêng lẻ được lưu trữ…
          Thư của ông dự đoán về một tương lai mà tôi không muốn nghĩ đến. …
 
---------------------------
GHI CHÚ :
 (*)Phòng Tùy viên Quốc phòng Hoa Kỳ tại Sài Gòn (Defense Attaché Office Saigon, thường được gọi tắt là DAO Saigon)
(**) Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (tiếng Anh: The US Military Assistance Command, Vietnam), viết tắt là MACV, là cơ quan chỉ huy quân sự thống nhất đối với các đơn vị quân sự của Mỹ tại miền Nam Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam.
 
 
Phan Tấn Uẩn
2021
0 notes
lemongdom · 3 years ago
Text
Mỗi bản án chính trị là điểm nối tan vỡ của chế độ
15/12/2021 ~ TUẤN KHANH
(RFA) Bản án 9 năm của nhà báo Phạm Đoan Trang không khác gì những tiếng chuông cuối, báo sự rã rời của chế độ về sự mâu thuẫn khôn cùng: sự khao khát chính danh trên trường quốc tế và cách kiểm soát quốc gia theo kiểu bàn tay sắt của thời Xô-viết cũ
Suốt trong nhiều năm nay, Hà Nội đã làm mọi cách để chứng minh tính chính danh của mình, đặc biệt sau 1995, khi người Mỹ bỏ cấm vận. Chính danh để xoá mờ ý nghĩa khác của sự kiện thống nhất Việt Nam sau năm 1975 – mà Hà Nội gọi là “giải phóng”, còn dư luận thế giới thì gọi là “cưỡng chiếm”.
Để được tính chính danh, ung dung đối diện với thế giới, và kể cả cựu thù là nước Mỹ, nhà nước Việt Nam đã âm thầm nỗ lực rất nhiều thứ, kể cả việc nhận trả luôn 140 triệu USD phần nợ của chế độ VNCH đã mượn chính phủ Hoa Kỳ để xây dựng các hệ thống hạ tầng quốc gia. Xin tham gia vào WTO, Hà Nội đã phải bước qua các tranh cãi về tính lý thuyết của chủ nghĩa cộng sản, chấp nhận mở lại các không gian tự do tôn giáo, thả bớt tù chính trị…
Hiểu rõ chủ nghĩa cộng sản chỉ còn là tấm bình phong mong manh trước thời đại mới, và không thể cứ là phần nối dài của anh cả Trung Quốc, nhiều năm nay Việt Nam cố gắng ra mặt trong các vai trò của khối Asean, tổ chức hội nghị quốc tế, xuất hiện nhiều trong các chương trình của Liên Hiệp Quốc. Đỉnh điểm mới, là việc ứng cử vào Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc.
Nhưng với những điều luật mơ hồ và ngớ ngẩn như điều 117, 331… và vô số các chi tiết khác để kềm hãm con người và đất nước Việt Nam trong sự kiểm soát bằng công an, quân đội và hệ thống toà án giả hình, chính Hà Nội đang tự huỷ diệt tính chính danh của mình từng ngày, hay nói đúng hơn là qua các phiên toà như sân khấu hiện nay. Việc tổ chức làm khó, ngăn cản người bào chữa với thân chủ, hành hạ người bị giam giữ… và cuối cùng là tổ chức những phiên xử như phường tuồng với những mức án nặng, mỗi ngày càng làm nhơ nhuốc bộ mặt của chế độ trước quốc tế.
Hà Nội hiểu điều đó không? Chắc chắn là có, vì trong các cuộc đánh nhau ở tầng lãnh đạo cấp cao, tháng 3-2007, bức hình linh mục Nguyễn Văn Lý bị mật vụ thường phục bịt miệng trước toà đột ngột xuất hiện trước thế giới – điều mà không có báo nào của nhà nước Việt Nam dám đăng – từ chỗ mà không có một thường dân nào có thể giơ máy lên chụp như vậy, cho thấy chỉ có trò cố ý làm bẽ mặt nhau vào lúc chủ tịch nhà nước Việt Nam Nguyễn Minh Triết đi công du Hoa Kỳ và đến Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc. Khi báo chí quốc tế nhân dịp đó, cụ thể là đài CNN, đã phỏng vấn ông Triểt về bức hình này. Sau đó, ông Triết đã tự giải thích rằng “cho rằng trong lúc xét xử ông Lý có những lời lẽ thô bạo, chửi bới chính tòa nên đã xảy ra chuyện bịt miệng nhưng hành động này là không tốt, không đúng, là sai sót của một nhân viên bình thường không phải là chủ trương của nhà nước và việc này sẽ bị xử lý”. Trong ngôn luận, có thể thấy ông Triết đang làm mọi cách để bảo vệ cho tính chính danh của Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đang lao ra thế giới phương Tây để tìm một chỗ đứng.
Nên nhớ, sau khi cuộc chiến kết thúc năm 1975, Hà Nội không cần thể hiện tính chính danh với phương Tây. Dựa lưng vào khối chủ nghĩa xã hội, những người cộng sản cầm súng có ngôn luận riêng của mình. Trong cuộc họp báo ở Paris cuối tháng 4 năm 1977, Khi được báo chí phỏng vấn chuyện lùa hàng trăm ngàn người của chế độ VNCH ra “học tập ngắn ngày” rồi đưa đi giam giữ không án, Thủ tướng lúc ấy là ông Phạm Văn Đồng quả quyết những trại cải tạo là “sự thể hiện cực kỳ nghiêm túc quan niệm nhân quyền” của Việt Nam và có mục đích giúp những người “phạm tội ác tày trời” trở về với cuộc sống bình thường. Chỉ tay vào giới phóng viên quốc tế, ông Phạm Văn Đồng trợn mắt, kết luận rằng “các người còn muốn gì nữa?”.
Nhưng sau 1990, mọi thứ đã khác. Tính chính danh là sự phấn đấu miệt mài của chính quyền Việt Nam, bao gồm luôn cả các quan chức cộng sản cũng tìm cách thể hiện sự gần gũi của mình với thế giới bằng cách thỉnh thoảng cho thấy việc nói đôi chút tiếng Anh, chứ không hề giới thiệu mình sành sõi tiếng Nga hoặc tiếng Trung.
Nhưng chỉ ít thời gian sau, cái gọi là “không phải chủ trương của nhà nước” của chủ tịch Nguyễn Minh Triết đã không còn ở tư thế bào chữa cho bộ mặt một chế độ. Căn tính độc tài cùng sự chiếm lĩnh quyền lực quốc gia của Bộ công an, được hậu thuẫn phe lý thuyết cộng sản bảo thủ, đã biến những điều như trò bịt miệng bằng luật. Mọi thứ đã tiến dần từ chuyện bảo vệ an ninh quốc gia đến bảo vệ danh tính của các nhà lãnh đạo cao, thấp.
Nhà báo Phạm Đoan Trang đã phạm những tội quốc gia lớn đến mức nào, mà phải bị biệt giam điều tra cả năm trời, không cho gặp luật sư hay người thân? Hay đó là cách luật hoá chuyện tra tấn tinh thần, cô lập và hành hạ để dẫn dắt người bị khởi tố vào chỗ dễ dàng thoả hiệp hay nhận tội? Trò biệt giam rồi bỏ mặc các tình trạng khó khăn thể chất, liệu có là một loại “luật” của nhà nước Việt Nam?
Dù có luật định là phụ nữ có con dưới 36 tháng tuổi sẽ được hoãn thi hành án hoặc không bị giam giữ điều tra, nhưng Việt Nam đã từng có cô Đoàn Thị Hồng, có con nhỏ vẫn bị biệt giam – không thông báo gì cho gia đình – cho đến ngày ra án. Mới đây, cô Huỳnh Thục Vy cũng bị ép thi hành án, dù còn đến nửa năm nữa tại ngoại theo đúng luật của chính nhà nước Việt Nam ban hành.
Nhà tranh đấu Trần Huỳnh Duy Thức tuyệt thực, chỉ đòi được trả lời việc thi hành luật đúng như đã ghi trong sách, nhưng cả một hệ thống chọn im lặng vì không đủ khả năng trả lời bằng luật. Trại giam thì tìm cách giữ lại thư gửi cho các cơ quan, như kiểu bịt miệng linh mục Nguyễn Văn Lý.
Chẳng phải những bản án quyết tuyên, và gần đây là Phạm Đoan Trang, Trịnh Bá Phương, Nguyễn Thị Tâm, Lê Trọng Hùng, Đỗ Nam Trung… là những điểm tan vỡ rất rõ của bộ mặt chính danh, mà chế độ đã và đang cố gắng nỗ lực sao? Tất cả những lời cam kết với quốc tế, tất cả những khát vọng đưa Việt Nam vào thế giới văn minh của nhiều thế hệ quan chức thầm lặng của Hà Nội đã bị phản bội không ít khi mọi thứ hôm nay hỗn loạn hơn, rừng rú hơn. Và đặc biệt khi tráo trở hơn với thế giới: lớp son phấn chính danh của một chế độ có phải đang trôi tuột?
Nói với điều tra viên, Phạm Đoan Trang nhấn mạnh từng chữ “Bắt giam một người viết đã là một tội ác. Bắt giam một người viết tàn tật là một trọng tội”. Nhân dân như vậy đó, vẫn đứng cao hơn một bậc, vẫn cao quý hơn một chế độ, họ vẫn nói để cảnh báo về những tội ác của nhà cầm quyền, và sẵn sàng đi tù để dành thời gian chứng nghiệm sự rơi rụng của phần trang điểm chính danh và bước ra, sống mãi trong lòng dân tộc.
Dĩ nhiên, với cái cách liên tục và điên cuồng tự huỷ diệt mình như hiện nay, với các phiên toà vô nghĩa, viện kiểm sát, bộ công an toa rập với nhau, ngày tính chính danh của chế ��ộ không còn, chắc cũng không còn xa nữa.
0 notes
lemongdom · 3 years ago
Text
0 notes