Tumgik
#Chuyện về ngọn giáo và chiếc khiên
banmaihong · 11 months
Text
Có một loại trí tuệ, gọi là biết mình biết người
Câu chuyện nửa thùng nước Có một ngôi chùa trên một ngọn núi. Chùa phải lấy nước từ giếng dưới núi để nấu ăn hàng ngày. Vì thế, sư trụ trì thấy vị sư nhà bếp quá bận rộn, nên phái các hòa thượng thay phiên nhau hàng ngày đến hỗ trợ gánh nước. Continue reading Untitled
Tumblr media
View On WordPress
0 notes
xoidua · 5 years
Text
Huyền Thoại Lục Địa MU P1, Chương 3 Kỳ 1
Kỳ 1: Lễ Đính Hôn
     Mấy ngày hôm nay cư dân vùng Kello có vẻ náo nhiệt hẳn lên, nhiều nơi vui chơi trong thị trấn đều trở nên tấp nập, các khu chợ cũng đông người hơn những ngày bình thường. Nhìn ai cũng thấy một vẻ rạng rỡ tươi vui hiện lên trên khuôn mặt, đâu đó nghe lao xao trong những quán xá ven đường tiếng xì xào bàn tán rất sôi nổi, trong đó họ ngồi quây lại rất đông, không khí tranh luận khá căng thẳng nhưng cũng đầy hài hước, nhiều người còn đứng lên mà nói, rồi thì phân tích. Mấy ông Tinh Linh tai xanh ngồi nghe cứ gật gà gật gù, bên ngoài là khá đông các Nhân Mã cũng đang đứng hóng chuyện. Vài cô gái thì đứng dựa vào với nhau mà cười tủm tỉm. Bên ngoài còn rất nhiều người thú nữa, họ đang tập trung về con phố này, dọc con đường lớn thị trấn Frans Bonaparta. Tại sao tất cả đang đổ dồn về đây náo nhiệt đến vậy ? Chắc hẳn không ít người sẽ ngã ngửa ra nên biết được hôm nay chính là ngày đính hôn của tiểu thư nhà Thống Soái Sendor Grimer với "Cậu ấm" Peter Wolf, con trai của Thống Chế vùng Kello - Ngài Hamdie Wolf - Thủ Lĩnh liên minh những Thần thú. Chỉ một lúc nữa thôi, họ sẽ diễu hành qua con đường lớn thị trấn Frans này. những con người đang háo hức bàn tán kia, trong đó không ít kẻ chắc đang mong chờ đoàn diễu hành đi qua đây để được tận mắt chứng kiến điều kì quặc tưởng chừng vô lý nhất. Thế nhưng, thực tế lễ đính hôn này lại được coi là mấu chốt trong việc gắn kết hai thế lực đối chọi nhau vốn có rất nhiều mâu thuẫn từ lâu trong giới quan chức Hoàng Tộc, giúp ổn định lại một phần lớn những bất đồng trong quan điểm giữa hai bên và hướng tới một nền hoà bình lâu dài, vững chắc cho cư dân trên toàn lục địa MU. Hai thế lực lớn đối chọi nhau trước kia chính là Thống Soái Sendor Grimer, người nắm giữ binh quyền tối cao và Ngài Hamdie Wolf - Thống chế vùng Kello giàu có, một Đại Quý Tộc - người có ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế của lục địa MU. Ngoài ra ông còn là một người rất có uy tín trong Liên Minh các Thần Thú và giới Người Thú - đó là những kẻ mang quyền năng hơn người, có ảnh hưởng rất lớn đến nền hoà bình trên lục địa MU - Ông ta dành sự ưu tiên rất lớn cho họ .
  Trong khi Ngài Thống Soái Sendor luôn đề cao nhân nghĩa, đối xử tốt với những người dưới quyền mình, trung thành tuyệt đối với Hoàng Gia và lục địa MU, thì trái lại, Thống Chế Hamdie Wolf nổi tiếng là kẻ tàn ác, máu lạnh, sẵn sàng hi sinh mạng sống của bất cứ ai để đạt được mục đích của mình. Thậm chí có lần ông ta từng đe doạ Hoàng Gia chỉ vì một chút lợi nhuận của Kello. Đối với những người trong Hoàng Gia, Hamdie Wolf là một mối đe doạ rất lớn. Vậy mà thật không ngờ ngày hôm nay lại có thể tác thành lễ đính hôn này, đây quả là một ngạc nhiên đầy bất ngờ, một thành công rất lớn của các Trưởng Lão và Hội Đồng Đại Thần Tinh Linh.
Theo các trưởng lão và các Đại Thần Tinh Linh thì đây là cách giải quyết hợp lý nhất cho những mâu thuẫn gần đây, thực sự thì không phải lúc nào Hamdie Wolf cũng có nhã ý tốt như vậy, vì thế đây quả đúng là một đám cưới được mọi người mong chờ và hi vọng.
Pháp sư Entramus – Pháp sư tối cao lục địa MU - đang cảm thấy có điều gì bất ổn trong lễ đính hôn này, nhưng ông vẫn chưa tìm được nguyên do nào cả, vì thế nên rất khó đưa ra ý kiến chính xác được. Dân chúng có vẻ hân hoan lắm khi chút nữa đám diễu hành sẽ đi qua con đường lớn thị trấn Frans nhỏ bé này. Trong những tiếng bàn tán đó có cả những cái thở dài đầy tiếc nuối. Từ trước đến nay Công Nương Alice vốn nổi tiếng là người xinh đẹp, thông minh và rất hiền hậu, hoà nhã với mọi người, dù là người hầu cho đến Cha mẹ, anh em trong dòng họ. Cô là niềm mong ước của biết bao chàng trai trẻ vùng Kello này.
Thế nhưng ngược lại, Peter Wolf lại không khác gì một bản sao của cha hắn, gian xảo và tàn ác, hắn ta được thể càng hống hách, không coi ai ra gì cả, mà tính tình lại rất “lăng nhăng”. Có thể nói Alice rơi vào tay hắn không khác gì giao trứng cho... quỷ! Nhưng biết làm sao được, đây là cách duy nhất có thể ổn định lại những biến loạn gần đây trên lục địa MU, Alice phải hi sinh số phận của mình, cho dù cô có là một Nữ Thần chăng nữa.
Tiếng hò reo mỗi lúc một lớn hơn, dân chúng bỗng đổ ra đường lớn đông nghẹt, nháo nhác. Giữa đám đông hỗn loạn ấy, có một chàng trai trông rất quen, anh đang vác trên mình đống da thú mới săn được, cố gắng lách qua đám đông đang chắn kín hết cả đường.
Đó chính là KhaIn, một năm đã trôi qua rồi, khuôn mặt anh cũng đã có chút thay đổi, trông già dặn hơn trước và lấm tấm râu. Nhưng đôi mắt đó vẫn sáng như ngày nào, ẩn chứa bên trong một sức mạnh lớn lao và kì bí.
KhaIn có lẽ đang tự hỏi mình hôm nay là ngày quái quỷ gì mà đông đến như vậy? Anh đang toát mồ hôi vì cố gắng lách qua bên kia đường với những tấm da thú trên vai. Đoàn diễu hành đang tiến đến rất gần, tiếng hò reo, tiếng kèn trống mỗi lúc một lớn, hoà vào nhau theo từng nhịp bước. KhaIn chen mãi mới đến được giữa đường, anh lúng túng quay người lại và trước mắt anh là một cảnh tượng cực kì hoành tráng mà lần đầu tiên trong đời anh được thấy.
Trong những làn mưa hoa giấy đang được tung lên từ hai bên đường, hùng dũng đi tới là Binh Đoàn Giáp Bạc gồm hai mươi người đi thành hai hàng. Tất cả đều mặc những bộ giáp láp lánh ánh bạc có viền và hoa văn bằng vàng, trên ngực và vai họ đều có huy hiệu Anh Hùng Lục Địa MU. Tay phải cầm Thiên Kiếm, tay trái cầm khiên bạc nạm ngọc, trên mũ mỗi người đều có chùm lông đuôi của loài chim núi Tenos, được coi là vật hộ mệnh của mỗi chiến binh. Những con ngựa của họ cũng được khoác lên mình những bộ giáp bạc với hoa văn bằng vàng, guốc của chúng là những cái móng bạc quý giá nhất..
Đáng tiếc, nếu ai đó lắng nghe kỹ sẽ nhận ra hoà trong tiếng vó ngựa cồm cộp là những tiếng thở phì phò mệt mỏi, những con ngựa đã lâu không ra trận, giờ phải mang trên mình quá nhiều vàng bạc, có lẽ chỉ có chúng mới hiểu cảm giác ấy.
Đi sau Binh Đoàn Giáp Bạc là Đoàn Quân Kì với hơn ba mươi người đi thành hai hàng, họ mặc giáp đồng, mỗi người đều cầm trên tay ngọn giáo có gắn cờ của Lục Địa MU và cờ của Thống Soái Sendor, họ cưỡi trên những con ngựa mặc giáp đen. Nhìn hàng cờ đỏ chói thẳng tắp tung bay phần phật trong gió hoa từ hai bên đường trông thật đẹp mắt.
Chiếc xe chở Công Nương Alice cuối cùng cũng hiện ra trong tiếng hò reo vang dội của dân chúng. Chiếc xe màu vàng sáng lấp lánh rất dài, gồm có ba khoang với tám bánh xe lớn viền xanh dương, các cánh cửa đều màu hồng được gắn rất nhiều hoa cùng những dải lụa dài. Phía trước xe là hai người đàn ông điều khiển ngựa, họ mặc lễ phục màu đen viền trắng, đeo găng tay cũng màu trắng. Đàn ngựa gồm mười hai con đều mặc giáp bạc, có chùm lông trắng trên đầu.
Đi cuối cùng trong đoàn diễu hành là đoàn quân hộ tống và các nhạc công hơn trăm người, họ mặc giáp đen, cầm khiên và giáo dài, họ đi bộ chứ không được cưỡi ngựa, sau cùng là đám đông dân chúng hiếu kì kéo theo.
Không khí thật ồn ào và nóng nực, đoàn diễu hành như bị vây kín bởi dân chúng, cảnh tượng ngày càng hỗn loạn hơn, sự hoành tráng tạo ra ban đầu của đoàn dần trở thành nhố nhăng, không có trật tự.
KhaIn bị đẩy tới đẩy lui trong dòng người chật như nêm ấy, những tấm da thú trên vai anh đã bị rơi mất từ lúc nào. Đang chen lấn trong dòng người đó, KhaIn bỗng nhìn thấy chiếc xe lớn dát vàng chói lọi đang đi tới. Nhìn qua tấm rèm cửa màu hồng trên xe, KhaIn thoáng thấy một người con gái thật xinh đẹp đang ngồi trong đó, mái tóc vàng thật mềm mượt, bồng bềnh nhẹ nhàng ôm lấy khuôn mặt trắng xinh, thanh thoát. Nhưng đôi mắt cô đượm buồn một một vẻ tiếc nuối xa xăm, một nỗi đau day dứt. Đôi mắt ấy, mái tóc ấy, làn da ấy sao mà quen đến thế? Bỗng KhaIn thấy đau đầu dữ dội, anh vội nắm chặt sợi dây chuyền trước lồng ngực. Trong khoảnh khắc đó, thời gian trở nên ngưng đọng xung quanh KhaIn, tất cả mọi tiếng ồn đều biến mất, những hình ảnh mọi người xung quanh đều đứng yên và mờ nhạt.
Phép thuật đang dần bị phá vỡ, và kí ức đang dần trở lại với KhaIn. Anh đã thấy rồi ! Phần kí ức mà suốt một năm qua anh khó hiểu và đi tìm kiếm, giờ đang hiện lên ngay trước mắt anh, thật đầy đủ và sống động.
Anh đã thấy Alice, đã nhớ ra. Nhìn ở một góc độ khác mà chưa bao giờ anh nhận ra, Alice thật xinh đẹp, và cô ấy.... yêu anh - KhaIn nghĩ vậy, và anh tin vậy, anh tin vào tiếng nói sâu thẳm từ trong trái tim mình.
Nhưng rồi anh nhận ra sự thật cay đắng, anh đã chậm mất rồi!... Nó đưa anh trở về với thực tại, trong ánh sáng nhạt nhòa ấy....
------------------------- Cảm ơn các bạn đã quan tâm. Youtube: https://youtube.com/c/beeline92 Facebook: https://www.facebook.com/xoiduamedia/ Website: http://xoidua.com
0 notes
dulichtoday · 6 years
Text
Kinh nghiệm du lịch Chùa Tam Chúc chốn “bồng lai tiên cảnh” mới ở Việt Nam
Nằm trong quần thể khu du lịch Tam Chúc, chùa Tam Chúc được đánh giá là một điểm đến tâm linh hấp dẫn, kết hợp hoàn hảo giữa vẻ đẹp cổ kính của ngôi chùa nghìn năm tuổi với vẻ đẹp của non nước bao la chắc chắn sẽ không phụ lòng đến chiêm bái của du khách.
1. Chùa Tam Chúc ở đâu?
        Địa chỉ :Thị trấn Ba Sao,Kim Bảng ,Hà Nam.
        Nhận chỉ đường đến (google map)
        Thời gian mở cửa:  từ 7 giờ sáng đến tối
Chùa nằm trong quần thể khu du lịch Tam chúc, có vị trí đặc biệt – là gạch nối giữa Khu du lịch Chùa Hương với khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long, chùa Bái Đính,Tràng An,Tam Cốc tạo thành một quần thể các khu du lịch sinh thái vùng ngập mặn.
Đình Tam Chúc
Đặc biệt hơn, chùa Tam Chúc tọa lạc vị trí đắc địa: Phía sau là núi Thất Tinh, phía trước là hồ Lục Nhạc với 6 hòn đảo đá tương truyền là 6 chiếc chuông của nhà trời đưa xuống, nổi lên từ dưới lòng hồ. Nơi đây là vùng ngập nước núi đá vôi, trong khu vực và lân cận có nhiều di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh như: động Vòng, chùa Bà Đanh, đền Trúc, miếu Trung, chùa Đặng Xá, đền Bạch Mã, miếu Bóng Bà, Động Thủy, động Lim, động Chùa, đền Lê Chân, chùa Ông, chùa Tam Giáo, chùa Kiêu, chùa Vân Mộng.
Để đến chùa Tam Chúc, bạn có thể di chuyển bằng các phương tiện xe
Cách thành phố Phủ Lý khoảng 10 km, du khách đi theo hướng QL21B về phía Tây Nam và đi tiếp chừng 5km sẽ đến khu du lịch Tam Chúc – Ba Sao:
Đi xe khách,ô tô hoặc taxi: Bạn đi theo hướng quốc lộ 1A(cao tốc Pháp Vân) nếu xuất phát từ Hà Nội đến thành phố Phủ Lý sau đó đi theo QL21B thêm khoảng 12km nữa là tới thị trấn Ba Sao. Nếu chọn đi taxi bạn mất khoảng 800k là tới tận chùa nhưng nếu đi xe khách bạn bắt thêm xe ôm đi mất khoảng 20k là tới cổng Tam Quan ngoại của chùa.
Xe bus: Hiện tại cung đường cho xe bus đến thẳng chùa không có.Bạn chỉ có thể bắt xe buýt Hà Nội -Phủ Lý về tới Hà Nam sau đó bắt xe ôm đi hơn 20km tới chùa. Giá vé bus: 30.000 vnđ/lượt.
2. Lịch sử Chùa Tam Chúc
Chùa Tam Chúc cổ được xây dựng từ thời nhà Đinh, gắn với truyền thuyết “Tiền Lục nhạc – hậu Thất Tinh”. Dân gian kể lại có 7 ngọn núi gần làng Tam chúc,xuất hiện một đốm sáng lớn tựa như 7 ngôi sao, sáng suốt đêm ngày. Dân làng gọi đó là núi “Thất Tinh”. Ngôi chùa cổ được xây dựng dưới thời nhà Đinh cũng vì lẽ đó có tên Chùa Thất Tinh. Sau đó, có người đến núi Thất Tinh đục đẽo, hòng lấy đi 7 ngôi sao đặc biệt đó. Họ chất củi thành đống lớn và đốt nhiều ngày khiến cho 4 ngôi sao bị mờ dần đi, cuối cùng chỉ còn lại 3 ngôi sao. Vì thế, chùa “Thất Tinh” sau này được đổi thành chùa “Ba Sao” (chùa Tam Chúc cổ).
Chùa Tam Chúc cổ gắn với truyền thuyết “Tiền Lục nhạc – hậu Thất Tinh”.
Chùa Tam Chúc hiện nay được quy hoạch mới hoàn toàn thuộc dự án đầu tư khu du lịch Tam Chúc do ông Xuân Trường đầu tư trở thành một trong những ngôi chùa có diện tích lớn nhất thế giới. Hiện tại dù công trình chưa được hoàn thành nhưng một số công trình trong chùa đang được đẩy nhanh tiến độ phục vụ du lịch như điện Tam Thế, điện Pháp Chủ, điện Quan âm, cổng Tam Quan.
3. Chùa Tam Chúc có gì nổi bật?
Không phải ngẫu nhiên mà chùa Tam Chúc được đông đảo du khách thập phương lựa chọn là điểm đến mỗi khi muốn hành hương về đất Phật, dưới đây là một số lý do khiến bạn không thể không một lần đặt chân đến ngôi chùa cổ ngàn đời này:
3.1. Ngôi chùa có diện tích lớn nhất thế giới với nhiều hoạt động phục vụ du khách không chỉ lễ bái
Nằm ở phía Tây nhìn ra hồ Tam Trúc, Chùa Tam Chúc mới so với chùa Bái Đính – ngôi chùa có diện tích lớn nhất Việt Nam hiện nay, có diện tích gấp 10 lần. Trong tương lai, chùa Tam Chúc được quy hoạch để trở thành ngôi chùa có diện tích lớn nhất thế giới với tổng diện tích gần 5.000 ha, bao gồm hồ nước: 1.000 ha, núi đá rừng tự nhiên: 3.000 ha, các thung lũng: 1.000 ha
Chùa Tam Chúc nhìn từ trên cao
Hơn thế nữa, nếu theo quy hoạch chùa sẽ trở thành khu du lịch tâm linh lớn nhất khu vực miên Bắc nước ta với nhiều hoạt động bao gồm 6 khu chức năng: khu trung tâm đón tiếp, khu văn hóa tâm linh Tam Chúc, khu bảo tồn tự nhiên Quèn Vồng và hồ Tam Chúc, khu nghỉ dưỡng chăm sóc sức khỏe và du lịch cộng đồng Tam Chúc, khu sân golf Kim Bảng và hồ Ba Hang và trung tâm dịch vụ hậu cần phục vụ hoạt động khu du lịch tại Thị trấn Ba Sao.
3.2 Điểm hội tụ nhiều hiện vật quý nổi tiếng thế giới
Ngoài là ngôi chùa có diện tích lớn nhất thế giới, thì chùa Tam Chúc cũng nổi tiếng là nơi có nhiều hiện vật giá trị thu hút khách du lịch đến tham quan như:
Thiên thạch “Mảnh ghép mặt trăng” (khối thiên thạch lớn nhất thế giới) có trọng lượng 5,5kg (NWA 11789 Lunar Meteorite) trị giá trên 600.000 USD tương đương 14 tỷ đồng được đón về chùa ngày 01/12/2018.
Cây Bồ Đề quý do Chủ tịch Quốc hội Sri Lanka tặng được đặt ở chính điện của Điện Tâm Thế. Đây là cây Bồ Đề tại chùa Tam Chúc này được chiết từ “Cây Bồ Đề Vĩ Đại Cát Tường” (Jaya Sri Maha Bodhi) ở Thánh tích Mahamegha, Cố đô Anuradhapura – Sri Lanka. Cây bồ đề này có tuổi thọ 2.250 tuổi và được coi là báu vật của đất nước Sri Lanka.
Lễ trao tăng cây Bồ Đề tại chùa Tam Chúc
Ngôi chùa cũng sở hữu pho tượng Phật khổng lồ nặng 200 tấn được thờ bên trong điện thờ Pháp Chủ Thích Ca Mâu Ni. Đây được coi là tượng đồng lớn nhất Đông Nam Á.
Pho tượng Phật bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á tại chùa Tam Chúc
3.3. Ngôi chùa được tạo nên từ 12.000 bức tranh đá, 1.000 cột kinh đá
Điểm độc đáo nữa là tường bao quanh chùa được xây dựng lại bằng 12.000 bức tranh đá miêu tả các sự tích của Đức Phật và khu vườn kinh có tới 1000 cột kinh đá được những người Hồi giáo Indonesia tạc bằng đá núi lửa ở Indonesia sau đó đưa sang Việt Nam.
Bức tranh đá miêu tả các sự tích của Đức Phật tại chùa Tam Chúc
Không chỉ đặc biệt ở loại đá mà bức tường được các thợ thủ công mất rất nhiều công sức để tạc, đẽo cho ra một câu chuyện trong kinh Phật bằng hình ảnh để người đời suy ngẫm.
4. Toàn cảnh Chùa Tam Chúc
Hiếm có ngôi chùa nào được bao bọc bởi non nước hữu tình như chùa Tam Chúc. Cùng DulichToday tìm hiểu cảnh quan xung quanh cũng như trong chùa có gì đặc biệt ngay dưới đây:
4.1. Cảnh quan xung quanh chùa
Xung quanh chùa là vùng núi đá vôi ngập nước rất độc đáo, ba mặt Chùa Tam Chúc được bao bọc bởi dãy núi Thất Tinh hình tay ngai, phía trước là hồ Lục Ngạn. Hồ nước này không chỉ giúp điều hòa khí hậu mà điểm đặc biệt của nó nằm ở lòng hồ nơi có 6 quả núi nhỏ nhô lên, xung quanh là những đầm sen thơm ngát tạo nên cảnh sắc phong thủy hữu tình. Cảnh quan thiên nhiên hoang sơ kỳ vỹ, vừa có sông cùng núi khiên chùa Tam Chúc nhìn từ trên cao chẳng khác nào “Vịnh Hạ Long” trên cạn của Hà Nam.
Chùa Tam Chúc được ví như “Vịnh Hạ Long” trên cạn của Hà Nam
4.2 Bên trong Chùa Tam Chúc
Chùa Tam Chúc rộng 44ha gồm: Điện Tam Thế, chùa Ngọc, đình Tam Chúc, đền Mẫu đã hoàn thành, còn lại Điện Pháp Chủ, điện Quán m, cổng Tam Quan đang được gấp rút hoàn thiện trong tháng 3 tới. Khi đi lễ, tham quan tại chùa bạn có thể đi theo thứ tư dưới đây:
Điện Tam Thế (Điện Tam Bảo) là công trình bạn sẽ nhìn thấy đầu tiên ngay sau khi bước chân vào chùa Tam Chúc.Có chiều cao 39m, diện tích sàn 5.400m², giúp cho 5.000 Phật tử có thể hành lễ cùng một lúc. Bên trong điện Tam Bảo có 3 bức tượng Phật bằng đồng, mỗi bức có trọng lượng tới 80 tấn, tượng ngồi trên đài sen nặng 30 tấn, phía sau là cánh sen dát vàng có trọng lượng 15 tấn.
Điện Tam Thế – Chùa Tam Chúc
Ba bức tượng Phật bằng đồng bên trong điện Tam Thế
Chùa Ngọc (Đàn Tế Trời): Chùa Ngọc được xây dựng trên đỉnh núi Thất Tinh. Từ dưới chân núi, bạn phải leo gần 200 bậc thang đá mới lên được đến chùa. 1 công trình độc đáo nằm trong quần thể khu du lịch trọng điểm quốc gia Tam Chúc được làm bằng đá khối nặng 2000 tấn mà không cần xi măng kết dính được các kỹ sư Việt Nam và Ấn Độ triển khai thi công. Sau khi hoàn thiện sẽ có 3 pho tượng bằng đá Granite nguyên khối được nhập từ Ấn Độ và 1 pho tượng bằng Ngọc quý trong lòng chùa.
Chùa Ngọc (Đàn Tế Trời)
  Điện thờ Pháp Chủ Thích Ca Mâu Ni: Là nơi có pho tượng Phật khổng lồ nặng 200 tấn, được công nhận là pho tượng Phật lớn nhất ở Đông Nam Á tính đến thời điểm hiện tại.
Tiếp đến là Vườn kinh: Chùa Tam Chúc đang thiết lập một vườn cột kinh khổng lồ với 1.000 cột đá, mỗi cột cao 12m, nặng 200 tấn  khắc ghi những lời răn dạy của đạo Phật. Hiện tại đang dựng được khoảng 36 cột kinh do các nghệ nhân lành nghề Việt Nam tạc và dựng. Đây sẽ là vườn cột kinh lớn nhất thế giới khi hoàn thành.
Những cột kinh đang được dựng tại chùa Tam Chúc
Đình Tam Chúc: Cả khu đình Tam Chúc được nối liền với chùa Tam Chúc bằng một lối đi bộ hình Zig Zag được dựng trên hồ Tam Chúc. Đình Tam Chúc là nơi thờ Hoàng hậu nhà Đinh Dương Thị Nguyệt.Vào mùa sen nở, cả khu hồ ngập tràn sắc hoa sen khiến du khách có cảm giác mình đang dạo bước trên một vườn sen khổng lồ vậy.
Đình Tam Chúc được nối liền với chùa Tam Chúc bằng một lối đi bộ hình Zig Zag được dựng trên hồ Tam Chúc
Điện Quán Âm: Bên trong điện thờ Quan Âm có 4 bức tường lớn với 8.500 bức tranh đá kể những câu chuyện về các sự tích Quan Thế Âm Bồ Tát và là nơi đặt pho tượng đồng Quan Âm Bồ Tát nguyên khối ở điện Quan Âm có trọng lượng lên đến 100 tấn
Điện Quán Âm
Chùa Tam Chúc được thi công bởi rất nhiều những người thợ thủ công lành nghề của Phật giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo và Thiên Chúa giáo. Với mục đích là thờ Phật, ngôi chùa là chốn tâm linh không chỉ cho du khách thập phương trong nước mà còn cho du khách quốc về lễ bái. Ngoài thứ tự kể trên bạn có thể lựa chọn đi theo chiều từ Điện Tam Thế trước,rồi qua đình Tam Chúc, chùa Ngọc và đền Mẫu để tiết kiệm thời gian hơn.
5. Các hoạt động không thể bỏ qua tại Chùa Tam Chúc
Hiện nay hoạt động chính khi đến chùa vẫn là lễ bái và tham quan ngắm cảnh. Du khách đến khu văn hóa tâm linh Tam Chúc có thể dâng hương tại Điện Tam Thế ,chùa Ngọc và Đình Tam Chúc. Ngoài ra, nếu Phật Tử muốn có cơ duyên gặp Thượng tọa Thích Minh Quang để nghe giảng kinh, giải đáp các vấn đề  sư trụ trì chùa có thể đến chùa hỏi các Tiểu.
Người dân đi lễ tại chùa Tam Chúc
Một hoạt động khác đó là du khách có thể đi vãn cảnh chùa, chụp ảnh ở hồ Tam Chúc, núi Thất Tinh và chiêm ngưỡng pho tượng Phật khổng lồ, các bức tranh Phật trong chùa. Sắp tới, khu du lịch tâm linh Tam Chúc có đưa xe điện để phục vụ cho việc đi lại thuận tiện hơn.
Chùa Tam Chúc hiện nay dù mới chỉ là công trình hoàn thiện giai đoạn đầu nhưng đã trở thành một địa điểm hấp dẫn để du khách hành hương về trong năm nay. Đặc biệt chùa vào dịp đầu năm tại chùa còn diễn ra sự kiện đặc biêt: Lễ Khai hội Xuân Kỷ Hơi dành riêng cho các quý Quật Tử về cầu an đầu năm diễn ra vào ngày  16/02/2019..
Thông tin về lễ Khai hội Xuân Kỷ Hợi tại chùa Tam Chúc
Bạn có thể tham khảo thêm thông tin về sự kiện qua link dưới đây:
Tham khảo thêm thông tin sự kiện lễ khai hội chùa Tam Chúc ngay!
Ngoài ra chùa Tam Chúc được chọn là nơi tổ chức Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc lần thứ XVI từ ngày 12 – 14/05/2019. Với chủ đề là “Cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo toàn cầu và trách nhiệm cùng chia sẻ vì xã hội bền vững”. Sự kiện dự kiến sẽ tiếp đón khoảng hơn 10.000 phật tử, 1.500 lãnh đạo chức sắc tôn giáo từ hơn 100 quốc gia.
Chùa Tam Chúc được chọn là nơi tổ chức Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc lần thứ XVI từ ngày 12 – 14/05/2019
Nếu có dịp tham gia sự kiện này đây chắc chắn sẽ là một cơ hội lớn giúp bạn hiểu hơn về Phật giáo không chỉ trong nước mà còn trên toàn thế giới!
Thông tin sự kiện Đại lễ Vesak tại chùa Tam Chúc!
6. Tour du lịch chùa Tam Chúc
Bạn có thể tham khảo một số đơn vị cung cập tour uy tín dưới đây do DulichToday tổng hợp:
Đơn vị cung cấp Tour Mức giá tham khảo Đặc điểm Tam Sinh group
Liên hệ: 0985216455
Thời gian:1 ngày
Điểm nổi bật trong lịch trình:
Tham quan động Hương Tích,chùa Tiên Sơn, Chùa Giải Oan, Suối Giải Oan, đền Cửa Võng rồi vào tới động Hương Tích
Tham quan Quần thể chùa Tam Chúc với điện Tam Thế, điện Tháp Chủ, điện Quán Thế Âm và thăm quan chùa Ngọc
Liên hệ đặt tour ngay!
Cat Tour 490.000 vnđ/khách
Thời gian: 1 ngày
Điểm nổi bật trong lịch trình: đi chùa Hương.,suối yến,chùa Thiên Trù,động Hương Tích,chùa Tam Chúc.
Liên hệ đặt tour ngay!
Sao Vàng Travel 450.000 vnđ/khách
Thời gian: 1 ngày
Điểm nổi bật trong lịch trình: Tour du lịch Hà Nam- thăm quan chùa Bà Đanh- Ngũ Động Sơn- Chùa Tam Chúc
Liên hệ đặt tour ngay!
7. Một số lưu ý khi du lịch chùa Tam Chúc
Vì chùa đang được thi công song song với các công trình khác của khu du lịch nên không tránh khỏi ồn ào và bụi. Dù đã được hoàn thành bước đầu nhưng điện Quán Âm, điện Pháp Chủ,cổng Tam Quan vẫn còn một số chi tiết chưa được hoàn thiện, khi tham quan ở những địa điểm này bạn nên chú ý an toàn đặc biệt là các gia đình có con nhỏ.
Chùa Tam Chúc đang ở giai đoạn thi công bạn nên lưu khi khi tham quan tại đây.
Dự kiến xuân năm nay chùa sẽ đón một lượng khách trong và ngoài nước rất đông đến để hội thảo cho Đại Lễ Vesak nên chùa có mở cửa cả ngày đến 9h tối. Cũng như các ngôi chùa khác khi đến chùa Tam Chúc bạn nên ăn mặc lịch sự, không thắp quá nhiều hương và xả rác bừa bãi trong khuôn viên chùa. 
Chùa Tam Chúc Ba Sao không chỉ mang về cho tỉnh Hà Nam niểm tự hào là một chốn tâm linh vào bậc nhất nhì cả nước với những giá trị văn hóa tín ngưỡng đặc sắc hiếm có. Cùng đến và cảm nhận chốn bồng lai tiên cảnh này và chia sẻ với DulichToday những trải nghiệm của bạn ngay dưới phần bình luận của bài viết.
The post Kinh nghiệm du lịch Chùa Tam Chúc chốn “bồng lai tiên cảnh” mới ở Việt Nam appeared first on DulichToday.
from WordPress http://bit.ly/2N46ZGp via IFTTT
0 notes
pseudo-ks · 6 years
Text
Thức cho xong bài thơ
1.Năm 1993
  Tôi đã được nghe Trường Sa hành, Chiều trên phá Tam Giang, Thi sĩ…trước khi gặp Tô Thùy Yên. Vì vậy, có phần bất ngờ khi đối diện với tôi, con người từng mộng du trên trái đất tròn, từng chạy cắm đầu trên sợi kinh hoàng/giăng qua đôi bờ vực lạnh hư vô, con người từng hỏi han hiu quạnh lớn, từng bay trên phá Tam Giang với những suy nghĩ ở một tầng cao đáng kinh ngạc về cuộc chiến tàn khốc đang diễn ra, lại là một người đàn ông tầm thước, lịch duyệt, từ tốn. Bất ngờ khác, ông gần như không có sự ngại ngần khi trò chuyện với tôi- một nhà thơ từ Hà Nội vào. Có lần, ngồi ở quán nước vỉa hè cùng nhà văn Nguyễn Đình Toàn, sau khi nghe tôi kể một giai thoại chính trị, ông cười: tôi hiểu vì sao tôi chơi được với cô rồi. Nhưng có lẽ, không chỉ do những giai thoại.
              Ông thường ghé qua nơi tôi làm việc- Chi nhánh Nhà xuất bản Hội nhà văn tại thành phố Hồ Chí Minh, nơi ông có thể gặp những nhà văn miền Nam còn ở Sài Gòn như Huỳnh Phan Anh, Bùi Giáng, Nguyễn Đình Toàn, Thế Phong…và những nhà thơ trẻ như Nguyễn Quốc Chánh, Bùi Hoằng Vỵ,Thảo Phương, Phạm Thị Ngọc Liên…Hồi đó, hẻm 361 Hai Bà Trưng (nơi có trụ sở Nhà xuất nản) còn vắng vẻ. Phía trước mặt trụ sở có một khoảnh đất trống.  Gia đình nọ đã dựng tạm gian quán lợp giấy dầu bán cà-phê nước ngọt, kiểu một cái quán cóc. Chúng tôi thường “tụ tập” ở đó. Nhiều khi chúng tôi là những người khách duy nhất. Sáng nọ, trong gian quán quạnh quẽ, Tô Thùy Yên đã đọc cho chúng tôi nghe bài thơ Quán vắng vẻ của ông: Quán vắng vẻ/ không ai người đến gặp/ ngọn đèn như nỗi đợi thiên thu…Giọng ông nhẹ nhàng, cách đọc chậm rãi khiến người nghe dễ dàng nhập vào tâm trạng của tác giả: Việc đời lầm lẫn vậy/ Hối mấy chẳng hơn gì/ Thôi thì hãy cố nán/ Cho đáng một lần đi… Nghe đâu, trong tù, ông còn hát vang lên một ca khúc của Trịnh Công Sơn, để báo với bạn tù sự có mặt của mình, để thiên hạ biết mình vẫn có thể hát. Hỏi, ông cười, tôi hát cũng được lắm đó cô.
              Đôi lần, sáng ra ông đã ghé lại. Ông bảo, dắt xe ra khỏi nhà, chẳng biết đi đâu, lại tạt vô đây. Đôi lần, ông xuống nhà tôi ở quận 6, không gặp tôi, ông trò chuyện với nhà tôi và các con tôi. Khi nghe vợ chồng tôi có ý định xây nhà trên mảnh đất ở Gò Vấp, ông đã đưa chúng tôi đến Biên Hòa gặp kiến trúc sư Đinh Thiên Tứ- bạn ông- nhờ thiết kế. Từ khi ra tù, Đinh Thiên Tứ bỏ nghề, không nhận bất cứ công việc chuyên môn nào. Nếu không có Tô Thùy Yên, chắc chắn chúng tôi không thể có được ngôi nhà trang nhã, thanh thoát, chan hòa nắng gió này.
            Ông nói với tôi, ông mong có dịp ra Hà Nội, nơi ông từng qua giữa đêm khuya trong chiếc xe chở tù bít bùng, chật chội. Ông một mình chạy xe đến hồ Trị An “đi giữa trảng tranh/ràn rạt gió lùa/hư rỗng tuênh toang/ bốn phía rừng xa mịt mịt”…
            Những quấn quýt bạn bè, những lo toan giúp đỡ, những tỏ bày, những chuyến đi…phần nào nói lên tâm trạng của Tô Thùy Yên lúc này. Ông vừa ra khỏi tù lần thứ 3 chưa bao lâu và đang chuẩn bị cho việc rời bỏ quê cha đất tổ. Có thể nói, đó là quãng thời gian rất đặc biệt trong cuộc sống của ông: chưa dứt khỏi ký ức nặng nề, bàng hoàng giữa những ngày đang sống(Lang thang rã rời ngoài phố đông người/ không gặp một ai quen…Bất chợt nghe như đời đã muộn/ Muộn đến chán chường rũ thõng đôi tay/Tưởng không cái vội nào còn bắt kịp…) và, đứng trước một chuyến ra đi không dễ dàng, thậm chí, là một chuyến đi đau đớn, đầy ưu uất:  Anh ra đi/Bứt ruột mà đi/ Như đã một lần cũng bứt ruột/Đi những mười năm tưởng chẳng còn vế…Anh lên đường/ Giả tảng không nhìn nỗi sỉ nhục…Anh ngậm nghẹn lời từ biệt/ Liên tưởng việc xe chôn kẻ tội đồ…Anh ra đi/ Cầu sao cho thoát được/ Con mắt miên man/ Trừng nộ từ tối tăm tàn lụi/ Quét rạt chỉ điểm người xổng chạy vô phương…Anh ra đi, cầu sao cho thoát được/ Bộ da đó của mình/ Đánh lạc hướng truy tầm của định mệnh…Phần anh ra đi/ Gắng gượng chút hơi tàn/ Hân hoan ròn rã/ Như người ngửa mặt trong trời mưa/ Mong trôi khỏa nhẹ nhàng những nếp rạn…
              Cuối năm, trước khi cùng gia đình rời Việt Nam, ông đem cho tôi một số bài thơ chép tay, như món quà dành cho người bạn vong niên: Ngoài cõi võ vàng, Giấc hoành môn, Những mẩu giấy rời, Những thành phố mà ta không ghé lại, Bài thơ chia tay dành cho người duy nhất đọc, một bài không có tựa đề và bản in bài Ta về (Có lẽ trên 1 tạp chí ở Hải ngoại) với các ghi chú: Nhớ đừng phổ biến hay: Bà đọc qua cho biết thôi. Xin đừng phổ biến. Đa tạ. Trong số này, không hiểu sao có tới 4 bài được viết bằng bút chì, trên những tờ giấy mỏng, ngả vàng. Chữ Tô Thùy Yên rất đẹp. Các bài thơ đều được viết trong năm 1993. Sau này, trong Thơ tuyển, Bài Thơ chia tay…được lấy tựa Giã biệt và không thấy có Những mẩu giấy rời, Ngoài cõi võ vàng, bài thơ không tựa đề. Có thể Tô Thùy Yên không chọn. Mà cũng có thể ông không còn lưu giữ chúng. Tô Thùy Yên dường như không có thói quen lưu giữ các bài thơ của mình, dưới bất cứ hình thức nào. Làm thơ từ cuối những năm năm mươi mà đến năm 1995 ông mới cho xuất bản tập thơ đầu tiên. Được biết, khi làm sách, ông đã phải nhờ cậy bạn bè và những người yêu thơ còn lưu giữ thơ ông.
            Một trường hợp hy hữu.
            Năm 1993, tôi đã gặp Tô Thùy Yên.
  2. Thơ của gã du hành muôn năm muôn nơi2
         Nhưng một cuộc gặp khác, cuộc gặp Thơ Tô Thùy Yên thì phải chờ  đến mấy năm sau. Có thể nói, đây là một cuộc gặp gây chấn động với tôi. Mười mấy năm trôi qua, kể từ khi có Thơ tuyển3 và Thắp tạ3, tôi luôn có ý định viết về thơ Tô Thùy Yên nhưng lại luôn ngần ngại, lo mình không đủ sự thấu hiểu, không đủ sự đồng cảm 4. Chỉ khi nhận được thư điện tử của ông vào cuối năm 2015 5, tôi mới khởi sự. (Chợt nhớ câu thơ:” Chúng ta khởi sự lại mối sầu”/Hải phận). 
                      Như mọi nhà thơ lớn, khi bắt đầu, Tô Thùy Yên đã định vị chỗ đứng của mình. Thi sĩ 18 tuổi lựa chọn sự đối đầu. Với Thượng đế;” Đầu tôi cứng và trơn/ Thượngđế làm sao ngự”, với Hư vô:” Có đọc thuộc thánh thư/Linh hồn tôi vẫn vậy/Tôi vẫn không thể lạy/Dù đứng trước hư vô”, với cuộc đời:”Với thứ linh hồn quốc cấm/ Tôi tù tội chung thân”, với Thơ:”Tôi giựt dành đổ máu với tôi/ từng chữ một” . Và, thi sĩ chấp nhận nỗi cô đơn: ” Tôi thấy đã mất mát/ Tất cả trừ cô đơn”, chấp nhận “cuộc tuần du bất tận…về nơi hẹn nào không định trước”, chấp nhận những đau đớn, những oan khiên, những trượt lỡ của cuộc đời. Đó là một lựa chọn có ý thức. Và vì vậy, đã được nhà thơ giữ trọn suốt một đời thơ dài hơn sáu mươi năm.
           Có thể nói, Thơ Tô Thùy Yên là câu chuyện của “gã du hành muôn năm muôn nơi”5 . Cách khác, chính xác hơn, đó là cuộc độc thoại của con người đầy ý thức về cõi thế, về cõi người, về lẽ mất, còn, về dựng xây và hủy diệt, về hy vọng và tuyệt vọng…Cách khác nữa, là lời tự vấn, là những câu hỏi, nhiều khi không lời đáp, sau những gì đã đi qua, đã trải qua, sau những hạnh ngộ và chia lìa, sau những hân hoan hiếm hoi và những khổ lụy lâu dài của kiếp người. Dù là cách nào đi nữa, cuối cùng, thơ Tô Thùy Yên cũng đem lại cho ta  những suy nghĩ lớn lao, những rung cảm mãnh liệt, những dày vò khôn nguôi, và, vẫn còn đó, những câu hỏi mà ta cũng không tìm ra lời đáp hay chỉ là “Câu hỏi vạn niên/ Lời đáp nhất thời”.
               Đó là câu chuyện của bậc thượng thừa, bậc tiên tri. Chẳng phải thế sao. Ngoài hành giả này, đã có ai từng ao ước :” Giá ta được lên cao, lên cao/ Để ngắm nhìn một lần thấu suốt định mệnh ta/ Trước ngày từ biệt nó”. Ngoài hành giả này, đã có ai từng hỏi han “Hiu quạnh lớn”, ai từng nhìn thấy:” Trên dốc thời gian hòn đá tuột/ lăn dài kinh động cả hư vô“,  “ mặt tinh cầu xếp nếp/ Như lằn nhăn tuổi tác hư không”, ai từng nghe thấy “Những âm thanh chuyển động buồn rầu/ Của nhân thế trên nẻo mòn vĩnh cửu”. Ai, ngoài ông, có thể có được tiên cảm kinh hoàng về những tai ương, những tang tóc mà nhân loại hôm nay đang hứng chịu:
            Một ngày, ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới
          Ngoài biển khơi, trên lục địa
          Sò hến, côn trùng cũng chẳng yên thân
            Ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới
          Quật ngã những bức tượng, xô sập những đền đài
          Tiếng hú chạy dài suốt lịch sử
            Ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới
          Xé rách một kỷ nguyên, phân tán các dân tộc
          Để mọi người câm lặng ăn năn…
            Ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới
          Sườn núi rát đỏ, đồng ruộng khô ran
          Rồi mặt đất cũng vô danh như mặt biển…
              Trong thơ Tô Thùy Yên, Ta E‘gan với  Thượng đế, với Thiên thu, với Trời đất, Nhân loại, với Biển lớn, với Non cao, với Hạnh phúc, với Khổ lụy…Đầu tiên ta kể về im lặng/ Dưới vòm trời, dưới mái tóc ta… Ta hỏi han, hề, Hiu quạnh lớn…Làm sao ta biết được/Niềm vô lượng không gian cuốn hút/ Cõi trăm năm tiếp tiếp miệt mài…Chiều, chiều của đời ta, chiều của thiên nhiên…Ta nghe thấy cả những âm thanh lịch sử thịnh nộ/ rây lọc mơ hồ qua màn lưới yên bình…Ta cảm ơn người đời. Cảm ơn trời đất…Nhiều khi ta ngước lên ngơ ngẩn/Nghe tiếng chim quen bay lướt qua…Ta khóc lẻ loi, cười một mình…Ta nghe cánh cửa lâu đời sập/ Những xích xiềng han rỉ đứt tung...Ta suy ngẫm đau thương về hạnh phúc/ Hạnh phúc thực hư như hoa đốm nắng hè/Như cơn gió không thể nào lưu trữ/ Như lượn sóng xô lên rồi tan hoang…Ta suy gẫm đau thương về tình yêu/ Tình yêu giả trang mối sầu phiêu bạt của nhân thế trăm năm trong bát ngát thời gian…Ta bất chấp hạnh phúc và ta hạnh phúc/Hạnh phúc không chờ trông, không tiếc thương…Tự do, ta thết mừng điên đảo/ Cuộc tiệc trăm năm nhục thánh thần…Ta mò đoán nghĩa dòng hư tự/ Mòn nét trong thiên địa ngập ngừng… Ta bằng lòng phận que diêm tắt/ Chỉ giận sao mồi lửa cháy suông…Ta ra đi/ Đường mở tự lòng ta…Ta về-một bóng trên đường lớn…Ta khóc tạ ơn đời máu chảy /Ruột mềm như đá dưới chân ta…Ta về khai giải bùa thiêng yểm…Đi như đi lạc trong trời đất/ Thủy tận sơn cùng xí xóa ta…Để khi mở mắt ta nhìn thấy/ Cả cuộc đời ta chẳng đáng chi…Có ai trong cõi vô cùng tận/ Bắt gặp lòng ta bay đảo điên…
                      Chỉ có sự ngang bằng ấy, nhà thơ mới có thể làm “cuộc phiêu lưu tinh thần bi liệt” của mình.
            Có lúc, “Ra đi như một bình minh lạ/ Trên kỷ nguyên chưa kịp hiện hình…Ra đi như một âm thanh sáng/ Xuyên suốt tâm linh, dội cảm sầu”, có khi khao khát mãnh liệt :” Chúng ta sẽ gia giáo hóa thiên nhiên/ Chúng ta sẽ đồng loạt hóa định mệnh/ Chúng ta sẽ nhật tu đời sống miên man trong từng phạm vi chi tiết nhất…Cầu cho ta khôi phục con người ta, vết lóe của thiên nhiên” nhưng thường khi là nỗi buồn, thường khi là nỗi lo âu, thậm chí, tuyệt vọng. Liệu có hành giả nào tự cổ chí kim không buồn khổ, lo âu, tuyệt vọng.
  Vinh quang cho ai đang ở trên đường nhưng Một bước đã muôn trùng...  Vinh quang cho người chọn được mệnh mình nhưng Làm sao ta biết được/ niềm vô lượng không gian cuốn hút/ Cõi trăm năm tiếp tiếp miệt mài, làm sao ta biết được/ Dâu biển ngoài kia chung cuộc chưa…Trời đất kia còn bao thiên thu?
Đi. Đi qua. Đi qua nữa. Đi qua nữa nữa nhưng chỉ nhìn thấy Trùng trùng những lớp cửa liên hồi mở, đóng, mở…Từng ngày, từng ảo tưởng phai buông…
Ta đi tới, mong còn đi tới nữa/ nhìn thế giới diệu kỳ nhưng chỉ trong khoảng sáng buồn rầu/ Chừng của một que diêm…
Nhưng Vũ trụ tạo hủy dở dang mãi
Nhưng Con đường đi mỏi mà không tận
Nhưng Thiên thu lóe tắt vệt phù du
Nhưng Việc đời thường khi bất xứng ý
Nhưng Đến ngả ba đành theo một lối/ Tiếc ngẩn không cùng theo lối kia
Nhưng Hoài công không định nổi chân hư
Nhưng Cánh cửa lớn lao nào/ Mở ra và đóng lại/ Kín như bưng/ Tưởng chừng không có cửa
Nhưng Mặt trời chiếu rã rưng rưng biển/ Vầng khói chim đen thảng thốt
quần; Mòn gót chân sương nắng tháng năm/ Thấy, thấy sóng tan tành lũ lượt; Cụm mây trôi rã trong trời lớn/ Như giấc chiêm bao thấy nửa chừng; Tàu chuối xác xơ reo ngất ngất/ Nỗi đời bi thiết xé lưa tưa; Trời đất thì buồn như trái rỗng/ Ta thì như gió tuyệt bơ vơ; Có đi ngàn dặm cũng là quẩn/ Càng nhìn trời đất càng hoang mang…
              Đây không phải là câu chuyện của một người, của một khoảnh khắc, của một miền đất mà là câu chuyện của muôn năm muôn nơi, câu chuyện của  hành giả mang tên Tô Thùy Yên, kể cho Hư không. (Ta chỉ là người trộm nghe. Bởi vậy, đâu dám chắc đã thấu hiểu thâm ý.)
Đặng Tiến tinh tế khi cho rằng thơ Tô Thùy Yên là “ những bài thơ ngoài thời gian và vô quốc tịch”(Ngựa phi, ngựa phi đường xa)
  3. Câu thơ soi mệnh viết mà khóc
            Vào năm 1972, trong bài thơ Bất tận nỗi đời hung hãn đó, Nhà thơ từng cầu ước được một lần thấu suốt Định mệnh của mình, được một lần  nhìn thấy toàn cảnh những con đường mình sẽ đi. Nhưng, vẻ như, ông đã không được toại ước, không thể biết rằng, chỉ vài ba năm sau đó, đã phải đặt chân lên đoạn đường tàn khốc của đời mình:” Đất ta, ta giẫm mà ghê chân"
Đó là thời của những Mùa hạn: mùa hạn của trời đất, mùa hạn của thể xác, của tâm tưởng:
  Ở đây địa ngục chín tầng sâu  
Cả giống nòi câm lặng gục đầu
Cắn chết hàm răng, ứa máu mắt
Chung xiềng nhưng chẳng dám nhìn nhau
  …Nước khe, cơm độn, thân tàn rạc
Sống chẳng khôn, cầu được thác thiêng
  …Sông hồ nẻ đáy, giếng vô vọng
Muôn thú điên lầm lũi bỏ đàn
  …Như tên phù thủy già điên loạn
Lịch sử lên cơn giận bất thường
  …Gõ lấy đầu mình như gõ cửa
Liên hồi kêu cứu giữa đêm khuya
Đầu ta như chiếc đầu lâu cổ
Tiếng rỗng không khô khốc não nề…
  Đó là thời của những chuyến Tàu đêm lao vào cõi mịt mù tựa như một mũi khoan xoáy vào tâm trí đớn đau của người tù:
            Toa đêm lúc nhúc hồn oan khốc
          Đèn bão mờ soi chẳng rõ ai
          Ta gọi rụng rời ta thất lạc
          Ta còn chẳng đủ nửa ta đây
            …Ngồi đây giữa những phân cùng bụi
          Trong chuyển dời xung xát bạo tàn
          Ta trở thành than, thành súc vật
          Tiếng người e cũng đã quên ngang
            …Đem thân làm gã tù lưu xứ
          Xí xóa đời ta với đất trời
          Ngàn dặm lìa tan tình cố cựu
          Bàng hoàng thân thế cụm mây trôi
            …Dường như ta chợt khóc đau đớn
          Lệ nóng cường toan cháy ruột gan
          Lệ chảy không ra ngoài khóe mắt
          Nghẹn ngào đến cả tiếng than van
            …Tàu đi như một cơn điên đảo
          Sắt thép kinh hoàng va đập nhau
          Ta tưởng chừng nghe thời đại động
          Xô đi ầm ĩ một cơn đau…
          Đó là thời của Tiếng kêu cứng nghẽn cổ u tình, của Tháng tháng năm năm/ Lòng như núi nặng/ Ta đứng lên/ đi tới đi lui/ Trăm lượt nghìn lần/ Như một hồn ma cổ đại/ Trong hầm mộ muôn đời…Ta cố nhớ giấc mơ/ Nhưng rồi không nhớ được/ Ta nằm xuống/ Dỗ mình hãy cố ngủ/ Tập quen dần với giấc thiên thu…thời của Tập lịch lâu ngày không gỡ tới/ Thờ ơ giữ đủ cả âu sầu…của những đêm tối lền xòe tay cũng chẳng thấy…Thời của tang thương, cay đắng, u uất. Thời của “ những ngày câm nín”, theo cách nói của Chân Phương.6
            Có thể vị Hành giả đã không thể hiểu hết những dòng lược sử của mình (Thoáng nhớ có lần ta đọc trộm/ Lược sử ta trong bí lục nào/ Văn nghĩa mơ hồ không hiểu trọn/ Thiên thu lóe tắt vệt phù du) để biết được rằng: Định mệnh buộc người phải trải qua những khổ nạn này, như một thử thách. Một lò luyện.
             Nhưng, ông đã đi qua, tự giác đi qua. Với con người ấy, những oan khiên, những mất mát, những khổ lụy của cá nhân không làm lụi tắt tình yêu thương bất tận với đồng loại, không làm lụi tắt nỗi lo âu nhân thế. Chính trong cái Mùa hạn kinh hoàng ấy, trong cảnh tù đày khốn khổ ấy, những câu thơ vẫn bật lên ánh sáng nhân ái kỳ diệu nhất mà con người có thể có được:
  Xứ khổ, thêm chi mùa thảm khốc
Than ôi, trời đã bỏ rơi dân
  Người mẹ trẻ buồn đôi mắt trũng
Thân gầy nhom, tóc cháy, da cằn
Địu con, một nhúm thịt nhăn nhúm
Ra ruộng khê tìm mót cái ăn
  …Làng mạc giờ đây đã trống trơn
Con dê, con chó cũng không còn
Người đi bỏ xác nơi bờ bụi
Miếu sạt, thần hoàng rũ héo hon
  …Ta thương vô kể mầm cây lụi
Con suối trinh nguyên chết cạn lòng
            …Ta gom từng hạt cây luân lạc
          Mong mỏi gầy lên một địa đàng
  …Tất cả rồi đây sẽ đổi thay
Đổi thay từ quặng mỏ, mầm cây
Đổi thay cả mặt người tăm tối
Những bớt chàm xưa được xóa trôi
  …Đi nào, chú bé của ta ơi
Đem tấm lòng trang trải với đời
Yêu cả con sâu cùng cái kiến
Thả hồn vào cỏ lá bung phơi
  …Những ai hôm trước từng gây tội
Hãy lắng tâm tha lấy lỗi mình
Tự tại, thời gian chôn chính nó
Đời lên lại mãi tự bình minh…
  Chính trên chuyến tàu đêm mịt mùng, vô vọng ấy, những câu thơ lại như những lời kêu gọi vang vọng, những khắc ghi sâu đậm trên ngày tháng:
      Thức dậy, những ai còn sống đó
    Nhìn ra nhớ lấy phút giây này
     Tàu đi như một cơn giông lửa
Cuồn cuộn sao từ ống khói bay
  …Nghe cả hồn ta bị cán nghiến
Trên đường lịch sử sắt tuôn mau
  …Lịch sử dường như rất vội vã
Tàu không đỗ lại các ga qua
  …Thời đại đang đi từng mảng lớn
Rào rào những cụm khói miên man
  … Có nghe lịch sử mài thê thiết
Cho sáng lên đời đã rỉ han
  …Tàu ơi, hãy kéo còi liên tục
Cho tiếng rền vang dội địa cầu
Lay động những tầng mê sảng tối
Loài người hãy thức, thức cùng nhau.
  Thật khó hình dung đó là tiếng nói của một người tù nhưng thật dễ hiểu, khi biết, người tù đó là nhà thơ Tô Thùy Yên- người từng chọn cho mình một cách giã từ đẹp đẽ nhất, sang cả nhất:
            Rồi đến một hôm nào
          Ta mắc lại
          Trên cành cây bất chợt gặp bên đường
         Tấm áo sinh thời nặng trĩu bụi
         Như một lời từ biệt nghe rồi quên.
   Đó là những vần thơ Lấy mình soi mệnh mình.
  4. Lòng ta vô sự, ta vui vẻ.
           Câu thơ này nằm trong bài thơ Hề, ta trở lại gian nhà cỏ, một bài thơ hiếm hoi dường như chứa chất nỗi vui, sự thanh thản của tâm hồn. Dù vậy, ngay lần đầu đọc câu thơ, tôi đã ngờ ngợ có điều chi đó bất ổn. Có thể vì tôi đã đọc quá nhiều những câu thơ đau đớn, dằn vặt, thảng thốt về nỗi đời của Tô Thùy Yên. Chúng phủ trùm lên tâm trí người đọc, không nhường chỗ cho bất cứ điều gì khác. Mà cũng có thể, chính âm hưởng của câu thơ đã phủ định ý nghĩa của từ ngữ. Nếu quả ta vui vẻ, ta vô sự, hẳn ta chẳng cần “tuyên bố” như vậy. Trong lời tuyên bố này hàm chứa một điều gì giống như sự gắng gượng. Gắng tỏ ra vô sự, gắng tỏ ra vui vẻ. Gắng buông mình. Gắng quên những lo âu, phiền lụy:
            Ta rảo quanh làng hóng chuyện phiếm
          Đời người cũng chuyện phiếm mà thôi…
            Trận lốc cười tròn trên quá vãng
          Ta làm lại cả tâm hồn ta…
            Thôi vướng mắc dài duyên với nợ
          Ân oán đời, phong kiếm rửa tay…
            …Nên ta phó mặc cho trời đất
          Trời đất vô ngôn lại bất nhân…
            Ví dù ta ngủ không còn dậy
         Ắt hẳn lòng ta cũng dửng dưng…
  Vẻ như, cuộc gắng gượng không thành. Xem ra, lòng chẳng hề vô sự. Xem ra, cuộc “làm lại tâm hồn” cũng chỉ là một dự tính bất thành.
             Hạnh phúc, tình yêu, niềm vui…trong thơ Tô Thùy Yên thường ở trạng thái của một mơ ước, thường ở thế khả năng, thế của một dự tưởng, một hồi tưởng. Bản trạch yêu thương kia chỉ về trong tưởng tượng. Vườn hạ trong xanh dịu dàng kia chỉ là việc của “mai kia mốt nọ”, những cảnh thanh bình yên ả chỉ là nỗi nhớ tiếc:
            Còn ở đâu miền xanh bóng cây
          Để ta đến đó ngồi trưa nay
          Dường như hơi mát trong vòm lá
          Có chất men làm ta thoảng say…
            Còn ở đâu làn nước giếng khơi
          Để ta đến uống một hơi dài…
            Ở đâu còn trận gió thênh thang
          Thổi mới trần gian mùa rộn ràng…
            Bao giờ, cho đến bao giờ nữa
          Em gánh vui về họp chợ đông…
  Và, tình yêu. Và niềm vui chỉ là một khát vọng khôn cùng, một mong mỏi khiêm nhường:
            Anh yêu em, yêu nuối tuổi đôi mươi
          Thấy trong lòng đời nở thật lẻ loi
          Một nhành mai nhị độ…
            Anh muốn viết một bài thơ mới cho em
          Trên trang giấy đã ố vàng quên lãng
          Anh muốn ngắt một cành hoa lạ cho em
          Trên cuộc đất đã phơi trần hạn hán…
            Cũng có lần anh muốn nhìn em
          Thành cây nước phun nở
            Hân hoan và rã tan
         Cùng kiệt tình yêu chất giấu một đời
          Một đời hiển hiện và lãng quên
          Như quyển sách mở trên bàn mặc tình cho gió lật…
            Những thành phố mà ta không ghé lại
          Biết đâu chẳng có một con người
          Mà ta yêu suốt đời ta thắm thiết mãi…
            Vui đi em
          Vui được chút nào vui…
            Thôi, chẳng tiếc túi vàng đã phung phá
          Mà mừng mẩu nến chợt tìm ra…
            Hãy hạnh phúc nhất thời
          Như dấu lặng
          Hãy hạnh phúc nhất thời
          Như tiếng mưa rào, như lời cỏ hát
          Như ánh chớp đùa, như hạt sương gieo
          Như giọt nước lan reo mà tự hủy…
  Liệu con người này có lúc nào vô sự, có lúc nào vui vẻ, thảnh thơi  như câu thơ ông từng viết?
  5.     Ta về, khai giải bùa thiêng yểm
  Cuộc “khai giải” này dường đã được bắt đầu từ rất lâu, trước tai ương, trước 10 năm tù lưu xứ, trong căn cốt, trong tri cảm của Thi sĩ/ Hành giả.
       Ví như, từ một lần đi đến ngôi quán vắng vẻ kia: Lỗi tự mình, lỗi tự mình thôi/ Đã chẳng nhớ ra ngày tháng hẹn…Tội cho người, tội bấy cho người/ Cũng đến đây chờ chẳng gặp ai…Việc đời lầm lẫn vậy/ Hối mấy chẳng hơn gì.
       Ví như, từ một lần đến Trường Sa: Ta hỏi han, hề, Hiu quạnh lớn/ Mà Hiu quạnh lớn vẫn làm ngơ…Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt/ Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi/ Đám cây bật gốc chờ tan xác/ Có hối ra đời chẳng chọn nơi…
       Ví như, từ bao nhiêu chiêm nghiệm về lẽ đời: Đừng loạn tâm, đừng loạn tâm/ Cuối chặng hành trình quay đảo nhất/ Cả thảy sẽ an nhiên/ Trong trật tự hằng hằng của vũ trụ…
       Và, cuộc “ khai giải” sâu đậm nhất đã diễn ra trong một lần gặp mặt tưởng tượng với người lính bên kia chiến tuyến:
                 Ví dù ngươi bắn rụng ta
               Như tiếng hét
               Xé hư không bặt im
               Chuyện cũng thành vô ích
               Ví dầu ngươi gục
               Vì bom đạn bất dung
               Thi thể chẳng ai thâu
               Nào có chi đáng kể
               Nghĩ cho cùng, nghĩ cho cùng
               Ví dầu các việc ngươi làm, các việc ta làm
               Có cùng gom góp lại
               Mặt đất này đổi khác được bao nhiêu?
               Ngươi há chẳng thấy sao
  Phá Tam Giang, phá Tam Giang ngày rày đâu đã cạn?...
  Ta thương ta yếu hèn
Ta thương ngươi khờ khạo
Nên cả hai cùng cam phận quay cuồng
Nên cả hai cùng mắc đường Lịch sử…
                         (Chiều trên phá Tam Giang)
           Chắc chắn, nếu không có cuộc “khai giải” trong tâm tưởng ấy, không có cuộc khai giải tự lòng mình ấy, không thể có hình ảnh người tù: Ta về một bóng trên đường lớn; không thể có cảnh tượng: Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa/ Làng ta, ngựa đá đã qua sông/ Người đi như cá theo con nước/ Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng; không thể có nỗi hàm ơn: Ta về cúi mái đầu sương điểm/ Nghe nặng từ tâm lượng đất trời/ Cám ơn hoa đã vì ta nở/ Thế giới vui từ mỗi lẻ loi; không thể có sự bình tâm: Em hãy yêu lấy thành phố của anh/ Như tất cả những gì anh gửi lại/ Trong buổi chiều dịu lãng đời em/ Thành phố của anh/ Bây giờ đã thuộc về em/ Như lời nói thuộc về nhà thơ phe thắng trận; không thể có cuộc lễ tạ đơn độc mà kỳ vĩ: Ta về như lá rơi về cội/ Bếp lửa nhân quần ấm tối nay/ Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống/ Giải oan cho cuộc biển dâu này…
             Cuộc khai giải huy hoàng và đau đớn này, chỉ có thể được làm nên bởi chính tri cảm của một người lớn, một nhà thơ lớn.
             Mà,
             Bài thơ ông muốn viết vẫn chưa xong.7
                                                      ***
           Các nhà Phê bình văn học danh tiếng như Đặng Tiến, Thụy Khuê, Nguyễn Hưng Quốc, Bùi Vĩnh Phúc…đều đã thử bút với thơ Tô Thùy Yên.  Và, dường như chưa ai trong số họ cho rằng họ đã nói lời sau cùng về ông. Chắc chắn, những nhà phê bình tiếp sau họ, những độc giả của tương lai, sẽ đọc Tô Thùy Yên với một định chuẩn thẩm mỹ mới, bởi vì Thơ Tô Thùy Yên là kho báu của thơ Việt, bởi vì Tô Thùy Yênlà” một trong những tiếng thơ lớn, của 20 năm văn chương miền Nam” (Du Tử Lê ). Chính xác hơn, Tô Thùy Yên là nhà thơ lớn của nền thơ Việt Nam hiện đại.
                                                                       Sài Gòn 3/2016
                                                                           Ý Nhi.
  1.Thơ Tô Thùy Yên: Thức cho xong bài thơ/Mai sớm ra đi/ cài hờ lên cửa tặng. (Tặng phẩm)
2.Thơ Tô Thùy Yên: Có một gã du hành muôn năm muôn nơi trở về kể chuyện/ ý chừng kể để Hư không nghe (Chim bay biển Bắc).
3.Tên 2 tập thơ của Tô Thùy Yên.
4.Đặng Tiến:Tác giả kén chọn người đọc và cách đọc, có lẽ vì thế mà 40 năm sau khi có thơ thường xuyên đăng trên báo, anh mới cho xuất bản một tập thơ tuyển, viết về anh có phần khó, không phải ở khâu bình giải khen chê, mà ở mức độ đồng cảm (Ngựa phi, ngựa phi đường xa)
5. Trích thư Tô Thùy Yên trả lời về việc xin đăng thơ ông trên Văn Việt:…Riêng tôi sức khỏe ngày càng lôi thôi, khó lòng đến thăm cô ở ngôi nhà Gò Vấp của cô…hay đi ăn bánh xèo Đinh Công Tráng…Về những bài thơ, xin cô cứ tùy nghi. Tôi thiết nghĩ, dù xa mặt, bao giờ cô cũng chẳng nỡ làm gì có thể hại thanh danh và khí tiết của tôi…
6. Tên một tập thơ của Chân Phương: Chú thích cho những ngày câm nín.
7.Trời rạng/Chuyến đi không hoãn được/ Bài thơ tâm phát dẫu chưa xong/ Xin vẫn cài hờ lên cửa tạ. (Thơ tạ).
8. Tất cả các câu thơ in nghiêng trong bài viết là thơ Tô Thùy Yên.
0 notes