#Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Explore tagged Tumblr posts
Text
Tu khẩu đức sẽ tránh được tai họa!
Phúc từ miệng mà tích, họa từ miệng mà ra, người xưa rất coi trọng việc tu khẩu đức để tránh tạo nghiệp và tai họa cho bản thân.
Tu khẩu đức, không nói đúng sai của người khác
Cái miệng có thể không lớn nhưng nó lại đóng một vai trò rất lớn. Một số người có thể nói ra lời hay ý đẹp để xoa dịu lòng người; nhưng cũng có những người lại nói những điều vô nghĩa, buôn chuyện thị phi, làm hại người khác và chính bản thân họ.
Thời nhà Minh, Văn Trưng Minh (1470-1559) là một trong “Tứ tài tử Ngô Trung”. Ông có tài trong lĩnh vực thư pháp và văn học. Lúc bấy giờ, ông đã có uy tín cao và nổi tiếng khắp vùng Giang Nam, được nhiều học trò nhận làm thầy.
Trong cuộc sống, ông không thích nghe mọi người bàn luận về lỗi lầm của người khác. Nếu ai đó muốn nói về thị phi đúng sai của người khác, ông sẽ luôn khéo léo dùng chủ đề khác để chuyển hướng cuộc trò chuyện, từ đó khiến người muốn nói không thể tiếp tục. Ông đã duy trì thói quen này trong suốt cuộc đời và rất chú trọng đến việc tu khẩu đức.
Khi đó, Ninh Vương Thần Hào muốn mời Văn Trưng Minh đảm nhiệm chức quan, bèn phái người mang theo công văn và tiền vàng đến Văn Gia. Văn Trưng Minh lấy cớ bệnh nặng nằm liệt giường không dậy nổi, từ chối nhận tiền vàng và thư bổ nhiệm, cũng không viết thư trả lời cho Ninh Vương.
Sau khi sứ thần rời đi, bạn của ông đã khuyên ông: “Bây giờ, Ninh Vương là người mà tất cả mọi người trên khắp thiên hạ đều cùng hướng tới. Ông ấy đã để trống chỗ trong Vương phủ và mời ông làm quan. Tại sao ông không thể bắt chước Mai Thừa, Tư Mã Tương Như mà ở Vương phủ hưởng phúc?”
Văn Trưng Minh nghe xong chỉ cười mà không nói gì. Ông rất sáng suốt, có lẽ ông đã biết trước tính cách của Ninh Vương, nhưng lại không bàn luận đúng sai thị phi của Ninh Vương. Vào năm Chính Đức thứ 12 thời Minh Vũ Tông (năm 1519), Ninh Vương Thần Hào nổi loạn ở Nam Xương, nhưng cuối cùng bị Vương Dương Minh bình định. Ninh Vương bởi vì mưu phản, mà dẫn đến thân bại danh liệt.
Văn Trưng Minh kiên quyết không nói đến thị phi đúng sai của người khác, thái độ cao thượng trong đối nhân xử thế của ông khiến mọi người tôn trọng.
Thi không đậu bởi không coi trọng tu khẩu đức.
Có một người đàn ông tên là Phan Thư Thăng ở Nghi Hưng. Vào mùa thu năm 1684 thời Khang Hi Đế, Phan Thư Thăng nằm mơ và thấy đi đến Quan Đế Điện, đúng lúc gặp được một người chấm bài thi. Viên quan gọi người hạng nhất, người thứ nhất vừa bước vào liền bị đuổi ra ngoài; gọi người thứ 2 thì chính là anh, gọi người thứ 3, thứ 5 đều không có ai bước vào. Anh còn nhìn thấy một tấm danh sách màu vàng treo trên tường, đầu danh sách có tên “Vi Tiếp”, nhưng không có họ. Một lúc sau, một người đàn ông mặt đỏ bừng đến đội mũ sắt lên đầu anh.
Phan Thư Thăng rất ngạc nhiên khi tỉnh dậy. Sau khi công bố kết quả thi, anh phát hiện mình quả thực đã được xếp hạng nhất. Anh nhớ đến từ “Vi Tiếp” xuất hiện trong giấc mơ, nên đã tìm kiếm người này khắp nơi. Sau này anh mới biết người đàn ông đó là Phó Lộc Dã người huyện Lâu.
Phó Lộc Dã là người khá tài hoa và nổi tiếng ở địa phương. Viên quan chủ khảo ban đầu xếp bài thi của Phó Lộc Dã là bài đứng đầu, đồng thời bài viết của anh cũng được đánh giá cao trong hai bài thi đầu tiên. Nhưng vì bài thi thứ 3 anh làm mất tờ giấy nên anh không được chọn.
Có thông tin cho rằng Phó Lộc Dã rất có tài hùng biện. Tuy nhiên, trong suốt cuộc đời của mình, anh thích bàn luận về chuyện thị phi đúng sai của người khác và chỉ trích người khác. Có người từng phân tích rằng sở dĩ Phó Lộc Dã bị đánh trượt, công danh bị tước bỏ là do không tích khẩu đức tạo thành.
Sau khi kết quả được công bố, giám khảo đặc biệt gặp Phó Lộc Dã vì rất yêu quý tài năng của anh. Nhưng sau đó, Phó Lộc Dã giận dữ phàn nàn, không lâu sau, do bụng chướng anh đột ngột qua đời chỉ trong một đêm, khiến mọi người rất đau buồn.
Nói những lời dơ bẩn bị biến thành côn trùng khổng lồ.
Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, có một cái ao gần thành Vương Xá, nước trong đó khá bẩn, đầy phân và rác rưởi. Người dân thành phố đổ toàn bộ rác thải trong nhà xuống ao.
Có một con côn trùng lớn trong ao, nó trông giống như một con rắn, nhưng có 4 chân, quanh năm suốt tháng nó sống trong ao. Một lần, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dẫn các tăng nhân đến ao và hỏi mọi người có biết số phận của con côn trùng lớn không? Mọi người đều trả lời: “không biết”.
Đức Phật nói rằng, trước đây rất lâu, có 500 người thương nhân ra biển làm ăn và thu được nhiều báu vật. Họ cúng dường những bảo vật quý giá nhất của mình cho các tăng nhân, làm thực phẩm, tài sản còn lại để tăng nhân tùy ý sử dụng. Vào thời điểm đó, có 10 vạn nhà sư đang tu hành trong núi, nhận sự quyên góp từ các thương nhân, tất cả báu vật và tiền tài đều được giao cho tăng nhân Ma Ma Đế bảo quản.
Khi nguồn cung cấp thực phẩm sắp cạn kiệt, chúng tăng đã hỏi Ma Ma Đế về những bảo vật mà ông đã cất giữ. Không ngờ Ma Ma Đế lại phủ nhận, lấy hết bảo vật về làm của riêng, tức giận trách mắng mọi người: “Mọi người đi ăn phân đi. Tất cả bảo vật đều thuộc về ta, các ông dựa vào đâu mà đòi lấy?” Chúng tăng thấy ông giận dữ, thân tâm bị ác niệm quấn quanh, liền rời đi.
Vì Ma Ma Đế có lòng tham không đáy, chiếm đoạt tiền bạc châu báu công hữu, lại lăng mạ chúng tăng một cách ác độc. Sau khi chết, ông đã bị đọa vào địa ngục và bị ngâm trong vạc phân và nước tiểu sôi. Sau khi trải qua 92 kiếp mới có thể rời khỏi địa ngục. Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, Ma Ma Đế vẫn chưa có được thân người.
Nguồn: nguyenuoc
3 notes
·
View notes
Text
PHÓNG DẬT LÀ GÌ?
Phóng dật là sự buông lung, phóng tâm lao theo dính mắc và chìm đắm vào trần cảnh đây chính là nguyên nhân khiến cho chúng sanh tạo ra vô số lầm lỗi, suy đồi đạo đức, sút giảm phước báu, chịu nhiều đau khổ.
Nghiệp của chúng sanh là phóng tâm lao theo và cố níu giữ những điều mình ưa thích. Dĩ nhiên ai cũng muốn đủ đầy năm dục: tiền bạc, ăn uống, ngủ nghỉ và thỏa mãn nhu cầu của các giác quan.
Năm trần: Cảnh đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái. Nhưng ít ai biết tiết chế điều độ cân bằng để được an yên, để cho thân khỏe tâm an, muốn ít và biết đủ. Buông lung trong ăn uống sẽ tạo ra bệnh tật. Chìm đắm trong hưởng thụ sẽ rơi vào lối sống vị kỷ, vun vén cho cá nhân để phục vụ cho lợi ích riêng mình. Không ít người đã chọn con đường dối gian, bất chánh và gánh chịu ngay các hậu quả nhãn tiền.
Thế nên thiểu dục tri túc, muốn ít và biết đủ, hưởng thụ có chừng mực, không buông lung, phóng dật sẽ giúp chúng ta tránh được những sai lầm đáng tiếc. Để thành tựu hạnh không phóng dật, chúng ta cần tu tập chánh niệm tỉnh giác và làm chủ các căn, tức các giác quan. Luôn an trú vào đề mục hay an trú vào hiện tại tỉnh giác để rõ biết các trạng thái tâm của mình. Thấy có dính mắc và nguy hiểm liền xả buông.
Không phóng dật là căn bản của mọi sự thiện lành.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
#buddhism#buddha#phật pháp#phật pháp vi diệu#thiện lành#chánh pháp#trí tuệ#tỉnh giác#chánh niệm#phóng dật#chuyển hóa
3 notes
·
View notes
Text
THÀNH KÍNH TƯỞNG NIỆM ĐỨC THẾ TÔN NHẬP NIẾT-BÀN 15-2 ÂL
NAM MÔ SALA SONG THỤ THỊ HIỆN NIẾT BÀN BẢN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.
“..Ðã đến giờ Như Lai diệt độ
Mong các thầy suốt thông tuệ tu!!''
Ba lần cất giọng từ bi
Chúng Tăng im lặng tựa như tham thiền
- Vào phút cuối Ngài khuyên đệ tử
Phải liễu tri đại sự tử sinh
Ngày đêm tu niệm tinh cần
Hữu vi tự tính xưa nay vô thường
Song Long Thụ tàn lay hương ngát
Phật nằm nghiêng đầu hướng bắc phương
Uy nghi tư thế Sư vương
Liên thiền xuất nhập Thế Tôn Niết Bàn
Theo thể thức Chuyển Luân Ðại Ðế
Lễ trà tỳ di thể Như Lai
Hư không từng đợt thiên hoa
Vang ngân kinh nguyện lệ nhòa tiếc thương!!!
Đức Phật dạy: “Này Ananda, những ai sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chính pháp làm ngọn đèn, dùng chính pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác, những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi”.
NAM MÔ SALA SONG THỤ THỊ HIỆN NIẾT BÀN BẢN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.
2 notes
·
View notes
Text
Lạ nhỉ app báo hôm nay bé Cam của mẹ được 5 tháng rùi đó mẹ cứ tưởng bé Cam chỉ gần 4 tháng thuiii!
Người mẹ thì gầy mà Cam thì cứ đang lớn đang lớn dần đáng yêu lắm, bụng mẹ đang to thấy rõ. Bố mẹ cứ tự hỏi sao Cam to quá nhì hiuhiu
Những chuyện gần đây cũng làm mẹ phải suy nghĩ một chút. Ông ngoại của mẹ đi bệnh viện, mãi không ngừng sốt rồi ho, điều trị ở Xanh Pôn được vài tuần không có tiến triển, người ta đưa ông của mẹ ra Bạch Mai. Ông nằm ở khoa Truyền máu và huyết học, mỗi ngày đều rút bao nhiêu ống máu, ít nữa sẽ phải xạ trị theo phác đồ của y bác sĩ.
Đến đây thì mẹ tự hiểu là bệnh gì.
Mẹ cũng suy nghĩ tích cực, con người ai mà phải có cái nạn của riêng mình. Nạn đau ốm, bệnh tật, và cái chết. Kể cả như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng không thoát khỏi sinh lão bệnh tử để về cõi trời. Thánh cũng thế, người ta phải thiêu đốt ông trên giàn còn lại tro cốt. Hay như Bác Hồ - vĩ nhân của Việt Nam đã ra đi vì già yếu năm 1969.
Ông ngoại của mẹ, người đã từng tham gia kháng chiến chống Mỹ, may mắn hơn là sống sót trở về, để sinh ra mẹ của mẹ lành lặn, thông minh, là đã hơn vô vàn chiến sỹ hy sinh bỏ mạng ngoài chiến trường, nhiều hoàn cảnh còn không thấy xác, xác tan vào trong bùn đất hàng trăm mảnh, đau thương như thế.
Ông ngoại được về với gia đình, sinh con đẻ cái, hoàn thành nghĩa vụ của một đời người, như vậy đủ mãn nguyện rồi. Tuy rất thương xót cho ông, ung thư máu, nó như tiếng sét đánh ngang tai vậy. Vì mới gần đây, ông vẫn còn rất khoẻ mạnh, đi lại cười nói.
À không con ạ! Nhưng người mắc căn bệnh này, quan trọng là bên trong họ ntn. Họ đau đớn nhưng vẻ bề ngoài trông có vẻ là ổn, không tiếng kêu đau vì hết thuốc tê, không bị cắt xẻ từng thớ thịt trên người, không phải hôn mẻ ngất lịm đi.
Có lần qua bệnh viện K - bệnh viện chuyên điều trị ung thư. Mẹ qua thăm người bạn bị ung thư tuyến giáp giai đoạn đầu, may mắn vẫn còn mổ được và cứu chữa. Âm thanh của bệnh viện rất nhẹ nhàng, không ồn ào nhộn nhịp như Bạch Mai, nhưng bệnh nhân đi lại bình thường, không tiếng khóc, không tiếng dao kéo mổ xe hay cấp cứu nhiều. Nhữg âm thanh đau đớn từ bên trong họ đã chịu đựng đủ cả rồi.
Những lúc chúng ta cảm thấy tuyệt vọng, hãy đến các bệnh viện, viện K, Ung bướu, bạch mai,... để thấy rằng sự tồn tại của mình ở cuộc đời này là đáng quý biết nhường nào. Có những người rất trẻ họ bạo bệnh, họ còn vợ con và mẹ già ở nhà, họ là người chịu gồng gánh kinh tế, mà tự nhiên chỉ nằm một chỗ trên chiếc giường nhỏ xíu cả 2 bệnh nhân nằm. Sinh lão bệnh tử không chừa một ai, dù già hay trẻ, cho nên hãy biết trân trọng thân thể và cả mạng sống của mình.
Mẹ có Cam là mẹ cũng thấy cuộc đời này kỳ diệu lắm, mẹ cho Cam một cuộc đời, bố mẹ cho Cam một hình hài, sau này Cam lớn lên sẽ hiểu nhân sinh cuộc đời ra sao.
Dạo này mẹ hay đọc truyện về Đức phật, khiến mẹ cảm thấy thế giới của mẹ thật nhỏ bé, có quá nhiều chuyện xảy ra với mỗi chúng ta, và mẹ mong Cam sẽ dũng cảm vượt qua hết. Mẹ nghe kinh địa tạng để mong Cam được mạnh khoẻ, là một cô gái trẻ đẹp thông mình và luôn biết hướng đến thiện lành.
Mẹ cũng mong Cam của mẹ sau này học giỏi, thật chăm chỉ. Mẹ thích Cam trở thành một bác sĩ, có thể chứng kiến nhiều nhân sinh ở đời, chữa bệnh cứu người nhé...
Nhưng quan trọng mẹ vẫn mong Cam được bình an khoẻ mạnh nhất.
Bố mẹ yêu bé Cam nhiều lắm!!!
8 notes
·
View notes
Text
Lại nói đến “cõi Cực Lạc kia công đức vô lượng, đầy đủ trang nghiêm”. Câu nói này hiển nhiên là tán thán thế giới Tây Phương Cực Lạc. Vì sao vậy? Mười phương bao gồm tất cả cõi nước, những chúng sanh trong đó niệm Phật vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, mỗi người đều là tâm thanh tịnh, mỗi người đều là nhớ Phật, niệm Phật. Thế giới Tây Phương Cực Lạc là một đạo tràng lớn, chúng ta liền có thể nghĩ đến vì sao tất cả Chư Phật đều tán thán? Ở trên kinh này, Thích Ca Mâu Ni Phật tán thán A Di Đà Phật là “Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương”. Thích Ca Mâu Ni Phật một mình tán thán là đại biểu hết thảy tất cả chư Phật đều tán thán như vậy. Không có một vị Phật nào mà không tán thán A Di Đà Phật là “Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương”.
2 notes
·
View notes
Video
youtube
8 Câu Nói Mới Nhất Của Sư Thích Minh Tuệ | Tâm Nguyện Của Thầy Khi Về Gia Lai
Trong video này, chúng ta sẽ cùng lắng nghe cuộc phỏng vấn sâu sắc giữa Thầy Phước Nghiêm và Sư Minh Tuệ, nơi Sư Minh Tuệ chia sẻ về hành trình tu hành và những niềm tin vững chắc vào Phật pháp.
Cuộc trò chuyện bắt đầu với việc Sư Minh Tuệ giải thích lý do về Gia Lai để tu hành, nhấn mạnh sự chân thành và cam kết hoàn thành lời hứa với cộng đồng phật tử. Sư Minh Tuệ làm rõ rằng mình không chống phá đạo Phật mà chỉ thực hành theo giới luật và pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, xem đó là niềm tin và hộ mệnh.
Tiếp theo, Sư Minh Tuệ nói về vai trò trong công ty Phát Tâm Thiên Định Tuệ, khẳng định rằng mục tiêu của mình là tu tập và khất thực trong môi trường yên tĩnh, không tìm kiếm lợi nhuận hay xây dựng tổ chức. Một phần quan trọng khác là về hạnh đầu đà, nơi Sư Minh Tuệ xác nhận rằng những hạnh này xuất phát từ giáo lý của Đức Phật và không phải sáng tạo cá nhân.
Sư Minh Tuệ cũng chia sẻ về niềm tin vào đạo nhân quả và pháp môn Niệm Phật Cầu Vãn Sinh, giải thích cách thức thực hành đúng giáo pháp giúp đạt được giải thoát và hạnh phúc. Ngoài ra, Sư Minh Tuệ mở lòng về những khó khăn và sự kỳ thị mà mình phải đối mặt, nhưng nhấn mạnh rằng sự nhẫn nhục và kiên định với niềm tin vào Phật pháp đã giúp vượt qua mọi cản trở.
Cuối cùng, Sư Minh Tuệ giải thích về chiếc áo hạnh phấn tảo y, thể hiện sự giản dị và cam kết với con đường tu hành không bám víu vào vật chất.
#sống_nhẹ #ThichMinhTue #thíchminhtuệ #sưminhtuệ #thầyminhtuệ #thích_minh_tuệ #phước_nghiêm
0 notes
Text
Tịnh khẩu theo lời Phật dạy
Hiện nay, sinh hoạt thuyết pháp phát triển sôi nổi ở nhiều nơi trong nước và hải ngoại. Người thuyết pháp không những là các Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni mà còn có cả hàng cư sĩ.
Bên cạnh đó, nhờ vào phương tiện truyền thông hiện đại, những buổi giảng pháp của các pháp sư được ghi âm, thu hình và phát hành khắp nơi, mang lại nhiều lợi ích cho người học đạo tại gia cũng như xuất gia. Tuy nhiên, để hằng thuận chúng sinh một cách hiệu quả, thì việc thuyết pháp phù hợp với văn hóa địa phương, ngôn ngữ và hoàn cảnh cụ thể của đối tượng nghe pháp không phải đơn giản. Thuyết pháp cho người khác đòi hỏi vị pháp sư phải có đầy đủ năm đức tính mà đức Thích Tôn xác quyết trong Tăng Chi Bộ II như sau:
Một thời, Thế Tôn trú ở Kosambì, tại vườn Ghosita. Lúc bấy giờ, Tôn giả Udàyi đang ngồi thuyết pháp với hội chúng đông đảo vây quanh. Tôn giả Ànanda thấy vậy bạch Thế Tôn:
Bạch Thế Tôn, Tôn giả Udàyi đang ngồi thuyết pháp với hội chúng đông đảo vây quanh.
Này Ànanda, thật không dễ gì thuyết pháp cho người khác. Để thuyết pháp cho người khác, này Ànanda, sau khi nội tâm an trú được năm pháp, mới nên thuyết pháp cho người khác. Thế nào là năm?
Ta sẽ thuyết pháp theo tuần tự; ta sẽ thuyết pháp với mắt nhìn vào pháp môn; ta sẽ thuyết pháp với lòng từ mẫn; ta sẽ thuyết pháp, không phải vì tài vật; ta sẽ thuyết pháp, không làm thương tổn cho mình và người. Này Ànanda, khi thuyết pháp cho người khác cần phải suy nghĩ như vậy.
(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ II, chương 5, phẩm Diệu pháp, phần Tôn giả Udàyi, VNCPHVN ấn hành, 1996, tr.611) [1].
Pháp sư đầy đủ năm đức này mới có khả năng thuyết pháp. Bài kết tập này nhấn mạnh ba đức tính sau cùng: Thuyết pháp vì lòng từ mẫn, thuyết pháp không phải vì tài vật và thuyết pháp không làm tổn thương mình và cho người khác.
Thuyết pháp vì lòng từ mẫn với mong muốn người nghe được thông hiểu giáo pháp, có thể ứng dụng lời Phật dạy trong việc tu tập để chuyển hóa khổ đau, và mang lại niềm vui, hướng đến giải thoát là mục đích quan trọng của thuyết pháp. Tất cả vì lợi ích chúng sinh, người thuyết pháp khôn khéo trong việc sử dụng ngôn từ sao cho tránh làm tổn hại hoặc gây hoang mang cho người nghe và tổn hại cho chính pháp sư. Thật ra nếu vì lợi ích chúng sanh mà thuyết pháp, vị pháp sư sẽ cố gắng hết sức mình tìm phương tiện thuyết pháp để đạt được mục đích tối thượng của việc thuyết pháp. Chính vì thế, vị pháp sư sẽ lập ra giáo án thuyết pháp và cách dùng ngôn từ thích hợp cho thính giả tùy theo phong tục, trình độ và căn cơ.
Tự nhiên một pháp tương túc với bốn pháp còn lại là nhờ quên mình vì người mà thuyết pháp. Làm như vậy chính là xả bỏ tự ngã để thuyết pháp.
Trong các kinh điển Đại thừa, xả bỏ tự ngã thuyết pháp là điều mà Thế Tôn ân cần nhắc nhở cho những pháp sư nhất là trong thời mạt pháp phước mỏng nghiệp dày nhằm tránh tăng thượng mạn khi thuyết pháp. Pháp hội Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ trong Đại Bảo Tích Kinh là một ví dụ điển hình.
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ tiến lên bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Vừa rồi con tuyên nói bí yếu của đức Như Lai phải chăng không sai trái hủy báng đức Như Lai. Bí yếu của đức Như Lai là huyền diệu, rộng lớn không ngằn mé, thế gian khó tin được. Dầu nói bí yếu của đức Như Lai mà tâm con tự nhớ là trí huệ của đức Như Lai nhập trong thân con, chớ chẳng phải sức của con.’
Đức Phật phán: “Đúng như vậy. Như lời của Mật Tích đã nói. Đạo huệ của đức Như Lai nhập vào chỗ nào thì không ai là chẳng được an ổn. Hàng đệ tử Phật ban tuyên kinh điển, đều nương nhờ oai thần của đức Như Lai” [2, trtr.380 -381].
Ngay cả Bồ tát Nhất Sanh Bổ Xứ như Ngài Kim Cang Lực Sĩ còn xả bỏ tự ngã và nương nhờ đạo huệ và oai thần của đức Như Lai thuyết pháp huống là hạng phàm phu chúng ta. Tương tự như vậy trong nhiều kinh điển đại thừa như Kinh Niệm Phật Ba-la-mật, Bố tát Phổ Hiền cũng nương vào oai thần của Phật Thích Ca mà tuyên bố công đức danh hiệu Phật như đoạn kinh sau:
“Này Phật tử! nay tôi nương thần lực và lòng đại bi vô hạng của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, mà tuyên thuyết Công Đức Bất Khả Xưng Tán của sự chấp trì danh hiệu Phật” [3, tr.50].
Nếu vì lòng thương và lợi ích chúng sanh mà thuyết pháp và không sanh niệm tham đắm hợp với đạo lý của chư Phật thì sẽ được các ngài âm thầm gia hộ để cho người thuyết pháp thuận lợi trong việc lập giáo án, tìm hiểu đối tượng thuyết pháp, cách sử dụng ngôn từ thích hợp vv… nhằm mang đến lợi ích thiết thực cho đối tượng nghe pháp.
Nguyện đem công đức này
Hồi hương chúng sanh khắp pháp giới
Đồng sinh cõi Cực Lạc.
1 note
·
View note
Text
Mâu Ni Câu - kỳ quan thiên nhiên gắn liền với phật giáo Tây Tạng
Thung lũng Mâu Ni Câu cách Thành Đô (Tứ Xuyên) khoảng 336km về phía Tây. Đây là một phần quan trọng của Khu thắng cảnh quốc gia Hoàng Long, nơi được hưởng ba danh hiệu quốc tế là "Di sản thiên nhiên thế giới", "Khu dự trữ sinh quyển và con người thế giới" và "Công viên địa chất quốc gia".
1.Giới thiệu về thung lũng Mâu Ni Câu
Thung lũng Muni nằm cách huyện Songpan 36 km về phía tây và cách thủ phủ Thành Đô của tỉnh 336 km. Nó có tổng diện tích là 356 km2. Độ cao cao nhất của Khu thắng cảnh Munigou là 4.070 mét và độ cao thấp nhất là 2.899 mét. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 7°C, có cảnh quan thiên nhiên độc đáo và phong tục tập quán dân tộc phong phú.
Mâu Ni Câu được chia thành hai danh lam thắng cảnh: Thác Zhaga và Erdaohai.
Mâu Ni Câu nổi tiếng là “biển hoa mộng mơ, thác cao ngất trời”. Theo truyền thuyết, người sáng lập Phật giáo là Đức Thích Ca Mâu Ni, từng tận tâm tu hành tại đây, cuối cùng khi rời đi, ông thực sự không thể buông bỏ tình bạn ở đây. Từ "Mâu Ni" trong tên của ông được đặt cho nơi này và có tên Mâu Ni Câu từ đó.
Phong cảnh thiên nhiên và phong tục dân tộc của Thung lũng Mâu Ni Câu không hề thua kém Cửu Trại Câu và Hoàng Long. Mâu Ni Câu, một địa điểm bí mật ở phía tây Tứ Xuyên, là một nơi tuyệt đẹp và bí ẩn. Những dòng thác bị vôi hóa và những khu rừng nguyên sinh giống như một mê cung thiên nhiên hấp dẫn vô tận, khiến người ta quên mất việc rời đi. Nó nằm trên tuyến du lịch chính từ Thành Đô đến Cửu Trại và Hoàng Long. Mâu Ni Câu có các thác nước bị vôi hóa, thác hình vòng, hồ sụt lún cao nguyên, và hang động thạch nhũ, tàn tích bị vôi hóa, rừng nguyên sinh, đồng cỏ núi cao, suối nước nóng lưu huỳnh, động vật và thực vật quý hiếm, đền thờ Phật giáo Tây Tạng và phong tục làng quê độc đáo của người Tây Tạng.
Thung lũng Mâu Ni Câu không chỉ có cảnh quan thiên nhiên tráng lệ mà còn có bầu không khí tôn giáo và văn hóa đậm nét Phật giáo Tây Tạng được hòa quyện với vẻ đẹp thiên nhiên nơi đây tạo thành một nét quyến rũ vô cùng độc đáo. Phật giáo Tây Tạng chính ở Thung lũng Mâu Ni là giáo phái Gelug, còn được gọi là "Giáo phái Vàng". Các ngôi chùa chính là chùa Xiaobao và chùa Munihou, là những ngôi chùa có ảnh hưởng lớn hơn trong Khu thắng cảnh Hoàng Long. Các lễ hội lớn bao gồm Lễ hội Zhuojin được tổ chức vào ngày 15 tháng 5 âm lịch hàng năm.
Vé thắng cảnh: Mùa cao điểm (từ ngày 1 tháng 4 đến ngày 15 tháng 11) 70NDT,
Mùa thấp điểm: 60NDT
2. Thời tiết tại Mâu Ni Câu:
Bốn mùa, Mâu Ni Câu đều mang đến cho bạn những trải nghiệm, những nét đẹp quyến rũ riêng khiến bạn chìm đắm, say mê mẩn bởi khung cảnh nơi đây
Mùa xuân Mâu Ni Câu (tháng 3 – tháng 5): thời tiết ấm áp cùng khung cảnh trăm hoa đua sắc vô cùng sống động. Nhiệt độ lúc này rơi vào khoảng 9-18°C nên khá dễ chịu. Tuy nhiên, tuyết vẫn chưa tan hoàn toàn nên ban đêm không khí vẫn rất lạnh. Do đó, du khách nên chủ động chuẩn bị trang phục ấm để có thể tận hưởng trọn vẹn chuyến đi.
Nếu đến Mâu Ni Câu vào mùa hè (tháng 6 – tháng 8): với khung cảnh bao trùm một dải màu xanh. Đó là màu xanh mướt của núi rừng, xanh biếc của mây trời và màu xanh trong veo của thác nước. Nhiệt độ mùa hè tại Mâu Ni Câu có phần ấm áp hơn so với mùa xuân, vào khoảng 19-22°C. Bạn có thể chuẩn bị quần áo chất liệu thoáng mát hơn, nhưng cũng đừng quên mang theo vài chiếc áo khoác mỏng hoặc áo len vào sáng sớm hoặc tối muộn.
Thời điểm thu hút nhiều du khách đến nhất là Mùa thu ở Mâu Ni Câu (tháng 9 – tháng 10): Nhiệt độ lúc này rơi vào khoảng 7-18°C khiến tiết trời trở nên mát dịu, vô cùng thích hợp để khám phá cảnh sắc thiên nhiên. Đến với nơi đây vào mùa thu, bạn sẽ bị cuốn hút với vẻ đẹp vô cùng độc đáo của những thảm thực vật rực rỡ sắc màu, cùng những mặt hồ trong veo phản chiếu bóng cây xanh rờn. Mùa thu cũng là thời điểm lý tưởng cho du khách khám phá các hoạt động văn hóa, ẩm thực địa phương, trải nghiệm những nét văn hóa độc đáo, thú vị.
Mùa đông ở Mâu Ni Câu (tháng 11 – tháng 2), bạn sẽ được chiêm ngưỡng khung cảnh Mâu Ni Câu thanh bình, phủ đầy tuyết trắng. Nhiệt độ lúc này dao động xấp xỉ 0°C nên du khách cần ưu tiên quần áo dày, có thể giữ ấm như áo khoác lông vũ, áo len, áo nỉ,… Đừng quên mũ, bảo vệ tai, găng tay ấm và giày ấm, chống nước để bảo vệ cơ thể khỏi cái lạnh rét buốt mùa đông.
Vào thời tiết này, du khách có thể chậm rãi thưởng thức một tách trà nóng, ngắm nhìn khung cảnh hùng vĩ với băng tuyết phủ kín mọi nơi. Bạn cũng có thể trải nghiệm một số trò chơi nhẹ nhàng với tuyết như đắp tuyết, tạo hình lâu đài.
3. Các điểm tham quan đặc sắc khi đến Mâu Ni Câu:
Đến với Mâu Ni Câu, ngoài tận hưởng bầu không khí trong lành, ngắm nhìn những khung cảnh thơ mộng, du khách không thể bỏ qua những trải nghiệm thú vị, đặc sắc. Thung lũng Mâu Ni Câu có 2 danh lam thắng cảnh chính: Thác Erdaohai và Thác Zhaga. Hai danh lam thắng cảnh là 2 điểm riêng biệt, cách nhau khoảng 15km
Thác Zhaga:
Khu thắng cảnh này dài 2 km. Nó chủ yếu bao gồm các thác nước với hình dạng, kích thước (chiều cao và chiều rộng) khác nhau. Mỗi thác nước chảy xuyên qua khu rừng và trong rừng liễu một cách ngoạn mục.
Thác nước lớn nhất là thác Zhaga, có chiều cao 104 mét và chiều rộng 35-40 mét. “Zhaga” có nghĩa là thác ghềnh trên đá trắng trong tiếng Tạng. Thác Zhaga là thác nước bị vôi hóa cao nhất và lớn nhất ở Trung Quốc. Thác nước đổ xuống nhanh chóng từ bệ đá travertine khổng lồ, với động lượng hùng vĩ và âm thanh có thể nghe thấy từ cách xa mười dặm. Theo nhận định của các nhà địa chất, thác vừa là thác lỏng vừa là thác rắn, có nghĩa là toàn bộ bề mặt thác là một khối đá travertine. Travertine này giống như một chất lỏng nhiều màu sắc chảy xuống, nhưng nước trên thân travertine trong và sáng, thành đá có màu nâu vàng. Thượng nguồn thác là hồ, hạ lưu là lòng sông bậc thang.
Bên cạnh thác chính, còn có vô số thác nước nhỏ nằm rải rác giữa những cây linh sam và cây tuyết tùng, tạo thành một khung cảnh tuyệt vời, nơi nước chảy giữa những hàng cây và cây cối mọc trong nước.
Vé tham quan: với giá 100 NDT vào mùa cao điểm và 60 NDT mùa thấp điểm
Khám phá Erdaohai
Cái tên Erdaohai có lịch sử lâu đời và được cho là bắt nguồn từ hai hồ chính là Xiaohaizi và Dahaizi.
Erdaohai nằm ở cuối Thung lũng Muni, cách thác Zhaga chỉ bằng một ngọn núi.
Được ví như Cửu Trại Câu thứ hai của Tứ Xuyên, Các cảnh quan chính của Erdaohai bao gồm rừng, hồ, biển hoa, suối nước nóng, nhũ đá và hang động. Trong mương có những cây thông cổ thụ cao chót vót, cỏ xanh, hoa nở, suối nước nóng dễ chịu, cảnh nước đẹp như tranh vẽ, hàng trăm loài chim trú ngụ, âm thanh trong trẻo giữa thung lũng trống trải và tràn đầy sức sống.
Erdaohai là một hồ ngập nước điển hình. Vì xung quanh hồ có nhiều hang động ngầm nên mặt hồ thông với các hồ khác qua các hang động, mặt nước tưởng chừng như phẳng lặng nhưng lại có dòng nước ngầm dâng lên dưới mặt nước, rất kỳ bí. Vào mùa hè, thỉnh thoảng nước biển gầm lên, tạo thành những xoáy nước khổng lồ nếu đặt một cây dài trên mặt nước sẽ bị hút vào và biến mất. Erdaohai rất trong và nông, có nhiều cá bơi lội. Nước hồ thay đổi màu sắc theo mùa, tương phản với những khối đá travertine đầy màu sắc bên bờ hồ.
Đền Xiaobao
Đền Xiaobao cách Thung lũng Mâu Ni Câu 3,7 km và có lịch sử hơn 449 năm. Có một "Phật Thạch" trong chùa với hình ảnh Phật giáo xuất hiện tự nhiên trên đó, do đó có tên là chùa Xiaobao ("Xiao" có nghĩa là "Phật Đá" và "Bảo" có nghĩa là hình ảnh Phật Đá). Bởi vì chùa Xiaobao nằm trong khu vực không thể bỏ qua khi du lịch Thung lũng Mâu Ni Câu, địa hình thoáng đãng có cả cảnh quan đồng cỏ và hẻm núi nên thu hút nhiều khách du lịch.
Đền Munihou
Đền Munihou nằm ở Thung lũng Zhaga, ở độ cao 3.045 mét, phía sau chùa là khu rừng nguyên sinh rậm rạp, phía trước là Thung lũng Longgang, bên trái là thác Zhaga hùng vĩ. Được thành lập vào năm 1663, ngôi chùa chứa một số lượng lớn các di tích văn hóa Phật giáo Tây Tạng quý giá. Chùa Munihou tổ chức các hoạt động tôn giáo quy mô lớn vào ngày 15 tháng giêng và 15 tháng 7 âm lịch hàng năm.
4. Những lưu ý khi tới tham quan thung lũng Mâu Ni Câu
- Du lịch Mâu Ni Câu bạn nên chuẩn bị sim du lịch có mạng 5G để việc kết nối Internet được tốt hơn, do kết nối wifi ở đây khá yếu. Đồng thời, ứng dụng dịch ngôn ngữ và từ điển Trung – Việt cũng khá cần thiết nhằm hỗ trợ việc giao tiếp với người dân hoặc cần sự trợ giúp. Do người dân bản địa Mâu Ni Câu không chuộng sử dụng tiếng Anh.
- Ở đây, người dân hầu như không sử dụng thẻ tín dụng, ATM và ngân hàng cũng rất hiếm nên khá khó khăn trong việc đổi ngoại tệ. Địa điểm đổi tiền vẫn có nhưng rất ít, tỷ giá lại cao, mất nhiều thời gian, rườm rà thủ tục. Chính vì thế, du khách nên chuẩn bị sẵn tiền mặt để chuyến đi thoải mái và chủ động nhất.
- Du khách có thể chủ động chuẩn bị một số thức ăn nh��, lương khô trong hành lý. Đặc trưng ẩm thực Mâu Ni Câu gắn liền với đồ ăn cay nóng, nhiều dầu mỡ nên có thể không hợp khẩu vị người Việt. Du khách có thể tham khảo một số món dễ ăn như: súp/mì dưa cải, thịt bò Yak, bánh khoai tây viên, bánh bao sữa,…
- Để tận hưởng trọn vẹn chuyến đi, du khách nên chuẩn bị sức khỏe thật tốt vì Mâu Ni Câu thuộc địa hình núi cao, với đặc trưng thời tiết chênh lệch rõ rệt giữa ngày và đêm. Đến với nơi đây vào mùa đông hoặc mùa xuân, du khách nên chuẩn bị giày thể thao chống trượt sẽ đảm bảo an toàn hơn.
- Bạn có thể mua trực tiếp quà tặng cho người thân, bạn bè tại sân bay, nhà của người dân hoặc tham khảo ý kiến từ các hướng dẫn viên. Điều này sẽ giúp hạn chế tối đa việc mua nhầm hàng giả, hàng nhái.
LỜI KẾT
Hy vọng qua bài viết này, bạn đã có thêm những thông tin bổ ích, thú vị về khu danh lam thắng cảnh Mâu Ni Câu. Từ đó, bạn có thể tự tin lựa chọn cho mình điểm đến phù hợp, thoải mái tận hưởng chuyến du lịch Trung Quốc cùng những trải nghiệm đáng nhớ tại nơi đây
Tham khảo thêm các điểm đặc sắc khác du lịch tại Cửu Trại Câu:
Top 12 hồ nước tuyệt sắc tại Cửu Trại Câu
Kinh nghiệm du lịch Cửu Trại Câu 2024
Thác trân châu - thác nước tuyệt mỹ trong phim Tây Du Ký 1986
Lạc Sơn Đại Phật - tượng phật trên vách núi lớn nhất Trung Quốc
Thắng cảnh Nga Mi Sơn - tuyệt tác Tứ Đại Phật Giáo Sơn Trung Quốc
THÁI AN TRAVEL- chuyên cung cấp những tour du lịch đa dạng, uy tín và chất lượng. Với sứ mệnh mang đến trải nghiệm du lịch tuyệt vời cho khách hàng, Thái An Travel đã khẳng định vị thế của mình trong ngành công nghiệp du lịch.
Với sự đa dạng của các tour du lịch, Thái An Travel đáp ứng mọi nhu cầu và sở thích của khách hàng. Từ những chuyến du lịch thám hiểm đầy hấp dẫn đến những tour thư giãn nghỉ ngơi trên bãi biển oặc thiên nhiên hoang dã, Thái An Travel luôn tìm cách mang đến những trải nghiệm đáng nhớ!
Tham khảo các tour du lịch Trung Quốc được thiết kế theo lịch trình tốt nhất với nhiều ưu đãi:
Tour Trùng Khánh
Tour Quý Châu
Tour Vân Nam (Côn Minh, Đại Lý, Lệ Giang, Shangrila)
Tour Châu Hồng Hà (Bình Biên, Kiến Thủy, Mông Tự, Di Lặc)
Tour Bắc Kinh - Thượng Hải
Tour Cửu Trại Câu
Tour Tân Cương
Tour Đông Hưng
0 notes
Video
youtube
Khám Phá Sự Thật Về Phật Giáo: Tôn Giáo, Triết Học Hay Điều Gì Khác? | L... Phật giáo không chỉ là tôn giáo hay triết học, mà nó vượt lên trên cả hai khái niệm này. Điều này đặt ra câu hỏi: Tại sao Phật giáo không phải là tôn giáo? Đặc trưng của tôn giáo thường liên quan đến giáo chủ, giáo nghĩa, giáo đoàn, và đức Phật Thích-ca Mâu-ni không nói về chúa tể. Thay vào đó, Phật giáo tập trung vào duyên sinh và nghiệp lực, những yếu tố dẫn dắt chúng sinh đến các sinh mạng và hình thái khác nhau. Hiểu rõ duyên khởi giúp con người đạt được cuộc sống an lạc, giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Phật giáo là sự nhận thức sâu sắc về cuộc đời, giúp con người vượt qua đau khổ và phiền não, đạt đến trạng thái hạnh phúc chân thật. Phật giáo và cuộc đời, Duyên sinh và nghiệp lực, Hiểu rõ duyên khởi, Sinh tử luân hồi, Chân tướng cuộc đời. Tóm lại, Phật giáo chỉ có lợi ích trong cuộc sống đối với những ai chuyên tâm nghiên cứu học hỏi và hành trì những lời Phật dạy vào trong cuộc sống thường ngày của chính mình để thanh lọc, chuyển hóa tâm, như Nguyễn Du nói: “… Đã mang lấy nghiệp vào thân
0 notes
Text
ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN KINH
Tập 3
Chủ giảng: Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Địa điểm: Tịnh Tông Học Hội Singapore
Xin mời mở kinh văn, trang số một:
Như thị ngã văn, nhất thời Phật tại Đao Lợi thiên, vị mẫu thuyết pháp.
Trong đoạn này chúng ta giảng đến “nhất thời”, ý nghĩa của nhất thời cần phải bổ sung thêm một chút. Trong Phật pháp, thời gian có hai cách nói: Một là “sát-na-tế”, Phật nói sát-na-tế đây là “thật thời”, chính là chân thật, cũng chính là nói chân tướng của thời gian. Ngoài ra còn có một danh từ gọi là tam-ma-da, ý nghĩa của tam-ma-da là “trường thời”, ngày nay chúng ta gọi là “tướng tiếp nối”. Trong kinh Kim Cang có nói: “Như lộ diệc như điện”, “như lộ”, lộ là hạt sương, chúng ta biết thời gian tồn tại của hạt sương rất ngắn, buổi sáng có sương rơi, sau khi mặt trời mọc thì sương tan. Lấy việc này để ví cho trường thời, ví cho tướng tương tục; dùng ánh chớp ví cho thời gian chân thật. Thời gian chân thật, trong kinh Hoa Nghiêm phẩm Thập Định gọi là sát-na-tế[1] đó mới là thật. Nhưng mà cảm nhận về sát-na-tế thì chúng ta rất khó thể hội. Hiện nay khoa học tiến bộ, có thể sử dụng máy móc khoa học để quan sát
chúng ta mới cảm nhận được một chút. Nhưng thật ra sát-na-tế chính là như trong kinh thường nói: “Sanh diệt đồng thời”, vì thời gian sanh diệt của nó quá ngắn ngủi, khẳng định lục căn chúng ta không thể cảm nhận đến được. Những gì lục căn của chúng ta có thể cảm nhận, nói cách khác, cần thời gian tương đối dài. Vừa mới kích thích lập tức phản ứng ngay, tuy là nói lập tức nhưng cũng phải trải qua thời gian rất dài. Nếu nói là “sát-na-tế sanh diệt” thì chúng ta hoàn toàn không cảm nhận được. Không những phàm phu lục đạo chúng ta, người cõi trời thông minh hơn con người, cảm ứng linh mẫn hơn nhiều nhưng cũng không cảm nhận tới, thậm chí Thanh văn, Duyên giác, Quyền giáo Bồ Tát [cũng cảm nhận không được]. Trong kinh Phật nói với chúng ta Bát Địa Bồ Tát mới có thể nhìn thấy a-lại-da, a-lại-da chính là sát-na-tế, phải có công phu định lực sâu như Bát Địa Bồ Tát mới có thể cảm nhận đến “sát-na sanh diệt”. Sát-na sanh diệt, trong kinh Phật thường dùng “không sanh không diệt” để hình dung. Nếu như không có sanh diệt thì nói “không sanh không diệt” là lời thừa, vậy có ý nghĩa gì; thật ra không sanh không diệt nghĩa là đích thật có sanh có diệt, nhưng nó vừa sanh liền diệt mất rồi, hầu như sanh diệt đồng thời, cho nên mới gọi là “không sanh không diệt”; nói như vậy mới có ý nghĩa, sanh diệt đồng thời, thời gian hết sức ngắn ngủi. Cái thời gian ngắn này nói thật ra khoa học kỹ thuật hiện nay không thể đo lường được, thời gian mà máy móc có thể đo lường được đã rất dài rồi. Đây là Phật ở trong kinh nói nhất thời, chữ này hoàn toàn là lời chân thật, chúng ta cần phải lắng lòng thể hội. Nếu bạn hiểu được nhất thời thì bạn sẽ hiểu được “hết thảy pháp không sanh không diệt”, vậy thì chẳng còn lo sợ sanh tử nữa, bạn hiểu được “phàm những gì có tướng đều là hư vọng”. Tướng hư vọng là không sanh không diệt, đấy mới là chân tướng, nhưng chúng ta chẳng thấy được, Bát Địa Bồ Tát trở lên mới nhìn thấy. Nhất thời ở đây nếu như mà nói đầy đủ trên sự tướng thì chính là lúc cơ duyên đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng kinh thành thục, đây gọi là nhất thời. Cách nói này cũng vô cùng viên mãn, hết thảy kinh đều dùng chữ này, nhân duyên Phật giảng bộ kinh này đã thành thục rồi.
Nhân duyên lần này vô cùng đặc biệt thù thắng, chỗ giảng kinh cũng rất hy hữu, Phật ở tại cung trời Đao Lợi chứ không phải ở chỗ khác. Ở trời Đao Lợi, “Phật” là chủ thành tựu, người chủ giảng trong pháp hội này, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Chữ “tại” này hay vô cùng, đặc biệt là nói từ trên sự tướng. Nói tại, đây cũng đều là lời chân thật! Người thế gian chúng ta có rất nhiều sự hiểu lầm, [nhiều khi có] một quan niệm sai lầm cả đời chính mình cũng không thấy ra được. Chúng ta đưa ra vài thí dụ đơn giản để giải thích, buổi sáng thức dậy rửa mặt, mặt cần phải rửa sao? Các bạn nói mặt cần phải rửa hay không? Nói rửa mặt là sai rồi, rửa đi những vết dơ trên mặt chứ chẳng phải rửa mặt. [Cũng như nói] giặt quần áo, quần áo cần giặt không? Cũng chỉ giặt những bụi bẩn trên quần áo. Các bạn nghĩ kĩ thử xem chúng ta có bao nhiêu quan niệm sai lầm. Lau bảng đen trong phòng học, bảng đen cần phải lau sau? Lau là lau bụi phấn trên bảng đen chứ đâu phải là lau bảng đen, bảng đen chỉ cần lau một cái thì sơn đen tróc mất, đâu còn gọi là bảng đen nữa. Thế mới biết trong đời sống hằng ngày chư vị nghĩ xem có bao nhiêu quan niệm sai lầm, sai quá chừng, ai cũng sai nhưng cứ tưởng rằng là đúng. Đến khi đức Phật nói sự thật cho chúng ta, nghe xong đều cảm thấy kỳ lạ.
Chữ “tại” này là lời nói chân thật, nếu nói bạn trụ là không đúng, bạn làm sao trụ? Hôm nay dọn lại đây, ngày mai dọn tới chỗ kia, đâu có trụ, chỉ nói thân thể lúc bấy giờ ở tại đâu, nói như vậy mới đúng. Thế nên mới nói “Phật tại”. Thật ra chúng ta cũng tại, hôm nay tại Singapore, hiện nay tại Tịnh Tông Học Hội, tối nay tại Cư Sĩ Lâm, đều là tại. Trụ là ở đó chẳng động thì gọi là trụ, thường di động thì gọi là tại. Chữ “trụ” trong Phật pháp là gì? Là tâm an trụ. Bạn trụ trong cung điện lầu các, Phật ở nơi đây gọi cung điện lầu các là từ bi, tâm an trụ trong từ bi, tâm an trụ trong chánh giác, đó gọi là trụ, vĩnh viễn không rời khỏi thì gọi là trụ. Thân luôn luôn di động thì gọi là tại, cho nên từ trên sự tướng thì gọi là tại.
Lần này Phật ở đâu? Tại Đao Lợi thiên, tầng trời thứ hai trong Dục giới. Người thế gian biết có trời, biết có thiên thần, đối với thiên thần cũng rất cung kính, xưng Ngài là Thượng Đế, người Trung Quốc xưng Ngài là Ngọc Hoàng Đại Đế, đại khái đều là Đao Lợi thiên chủ. Họ không biết bên ngoài cõi trời còn có cõi trời khác, họ không biết được. Phật nói với chúng ta Thế giới Ta-bà có hai mươi tám tầng trời, số lượng trong mỗi tầng cũng vô lượng vô biên, từ dưới lên trên có hai mươi tám tầng, hai mươi tám tầng chia thành tam giới: Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới. Gọi là Dục giới bởi vì vẫn còn tham muốn ăn uống, nam nữ, vẫn chưa đoạn dứt thứ này nhưng càng lên cao thì nó càng mỏng dần. Đến Sắc giới thì dục vọng này không còn nữa, chúng ta thường nói “tiền tài, sắc đẹp, tiếng tăm, ăn uống, ngủ nghỉ”, người trời Sắc giới hết thảy đều không còn nữa. Người trời Sắc giới không cần phải ăn uống, cũng không cần phải ngủ nghỉ, vĩnh viễn là tỉnh thức; không cần phải ăn uống, dùng thiền duyệt làm thức ăn; họ không cần ăn uống nhưng họ vẫn còn sắc thân, có sắc tướng. Đến Vô Sắc giới là cõi phàm phu cao cấp nhất trong lục đạo, ngay cả thân thể này họ cũng không cần nữa. Trước khi Phật pháp chưa truyền đến Trung Quốc, Trung Quốc cổ đại xuất hiện một người có đại trí tuệ, là Lão Tử. Lão Tử nói: “Tôi có niềm ưu tư to lớn vì tôi có cái thân này” Tôi có âu lo lớn lao, đó là gì? Vì có thân này, thân thể là sự phiền lụy, là sự phiền phức. Ngài có sự giác ngộ như vậy, có thể Lão Tử đã sanh lên trời Vô Sắc giới, bởi vì Ngài chán ghét cái thân thể này, chán ghét những sắc tướng này. Ở Vô Sắc giới thì sắc tướng không còn nữa. Một số người chúng ta thường nói đến “linh giới” có lẽ là nói về trời Vô Sắc giới; trong cõi ấy là tự tại nhất, ngay cả sắc tướng cũng không có. Đây là cách phân chia thành tam giới, hai mươi tám tầng trời, đây là một phạm vi trong sự giáo hóa của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, rộng lớn như vậy.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có sanh tử hay không? Nói cho chư vị biết, không có. Ngài ứng hóa, xuất hiện ở thế gian này là dùng ứng thân xuất hiện. Chúng ta nhìn thấy Ngài có sanh, có diệt, thật sự Ngài diệt xong là đến tinh cầu khác, đến chỗ khác lại xuất hiện giáo hóa chúng sanh, đây là đại tự tại, hiển thị sự đại tự tại. Đức Phật bảo cho chúng ta biết, có rất nhiều cách nói về “thân”, trong kinh Hoa Nghiêm nói có mười loại thân, thông thường thì chúng ta nói ba loại thân; ba loại thân, nói kỹ ra là mười loại mười loại quy nạp lại thì thành ba. Loại thứ nhất là “pháp thân”, pháp thân là chân thân, hết thảy thân đều sanh từ thân này. Do đó pháp thân là thân căn bản nhất, có thể sanh hết thảy vạn pháp, có thể hiện thân tướng của chúng ta, có thể hiện tướng cõi nước, sơn hà đại địa, tất cả thân tướng đều từ pháp thân biến hiện thành. Thứ hai là “trí thân”, Chúng ta cũng gọi là báo thân, báo thân là thân trí tuệ, cũng chính là nói trí tuệ của Ngài đã khai mở, trí tuệ đã hiện tiền, đối với hết thảy vạn sự vạn vật trong vũ trụ nhân sanh không gì không biết, không gì không thể. Thứ ba gọi là “ứng hóa thân”, thực ra ứng hóa thân có hai ý nghĩa. Ứng thân là tùy loại hiện thân, nên dùng thân gì để được độ thì Ngài liền hiện thân ấy. Thế nên Phật đến nhân gian, đến một cõi nào, Ngài chẳng gặp chướng ngại, vô cùng tự tại, muốn đến thì đến, muốn đi thì đi, đến đi tự do.
Không giống như phàm phu chúng ta, phàm phu chúng ta mang thân nghiệp báo, một chút cũng không tự do, hoàn toàn chịu sự khống chế của nghiệp lực. Nói chịu sự khống chế của nghiệp lực thì mọi người không dễ hiểu lắm, chúng ta nói cách khác, chịu sự khống chế của vận mạng, chịu sự chi phối của vận mạng thì mọi người dễ hiểu, thế nên mới nói: “Mọi thứ đều do mạng, một chút chẳng do người”, bạn nói như vậy khổ biết bao! Mạng là gì? Mạng chính là nghiệp, nghiệp báo. Trước kia tạo thiện nghiệp, đời này chúng ta được thiện báo, quá khứ tạo ác nghiệp, đời này chúng ta chịu quả báo bất thiện, thế nên mọi thọ dụng cả đời này, ngạn ngữ có câu: “Một miếng ăn, một hớp nước, không gì không định trước” chính là đạo lý này, đúng là một chút cũng chẳng do người.
Nhưng Phật, Bồ Tát đến thế gian này, các Ngài cũng đến đầu thai và cũng thị hiện chết đi, các Ngài sanh tử tự tại, không phải do nghiệp lực mà là do nguyện lực. Ở thế gian này muốn sống cuộc đời như thế nào thì sống như thế ấy, muốn ở bao nhiêu năm thì ở bấy nhiêu năm, các Ngài sanh tử tự tại. Lúc nào muốn đi, muốn đến nơi đâu các Ngài rất rõ ràng, rất sáng tỏ, đến đi tự do, đây gọi là nguyện lực thọ thân, là nguyện lực chứ không phải nghiệp lực. Chúng ta phải hiểu những đạo lý này rồi sau đó mới biết nên học Phật như thế nào? làm thế nào đem nghiệp lực của chúng ta chuyển thành nguyện lực, bản lĩnh của chư Phật, Bồ Tát chính là ở chỗ này. Các Ngài có thể chuyển, chúng ta cũng có thể chuyển, bắt đầu chuyển từ đâu? Phải bắt đầu chuyển từ tâm, sau khi tâm chuyển rồi, thì thân sẽ chuyển; nếu như nói chuyển từ thân, tâm không chuyển, thì không tác dụng, chuyển thế nào cũng chuyển không giống, nhất định phải chuyển từ tâm. Tâm thì phải nói là trụ chứ không phải tại. Trong kinh Hoa Nghiêm, Bồ Tát có Thập trụ, đó là nói về trụ, là “tâm trụ” chứ không phải “thân trụ”. Bồ Tát trụ chỗ Phật trụ, như vậy mới đúng. Trong kinh Phật nói với chúng ta có bốn chỗ trụ, bốn chỗ này đều chính xác. Hai điều đầu vẫn còn ở trong lục đạo, chưa ra khỏi lục đạo. Gọi là “thiên trụ”, thiên trụ chính là đời sau của bạn nhất định có thể sanh đến trời Dục giới. Trời Dục giới có sáu tầng, sau này chúng tôi sẽ giới thiệu đơn giản cho chư vị biết. Thiên trụ chính là tâm an trụ tại thập thiện nghiệp đạo, bố thí, trì giới, tu thập thiện nghiệp đạo thì đời sau bạn nhất định sẽ sanh lên trời, phước báo lớn hơn nhân gian chúng ta rất nhiều, hưởng phước trời. Thứ hai là “phạm trụ”, phạm trụ là tu thiền định, tu tâm thanh tịnh, hết thảy dục niệm đều phai nhạt, đối với ngũ dục lục trần xem thấy rất lợt lạt, trong tâm tràn đầy từ, bi, hỷ, xả. Từ là vui với người, mang vui vẻ cho người, giúp người vui vẻ; bi là làm cho người bớt khổ, chúng sanh có khổ, giúp họ giải quyết khổ nạn; hỷ là nhìn thấy người khác được phước, được chuyện tốt, nhất định chẳng có tâm đố kỵ, chỉ sanh tâm hoan hỷ; xả là có thể buông xuống vạn duyên. Tâm thường an trú tại từ, bi, hỷ, xả, sanh đến trời Sắc giới, cái trụ này ở trong Tam giới kể ra còn chính đáng. Nhưng mà con người chúng ta hiện nay không như vậy, tâm người hiện nay an trụ ở đâu? An trụ ở tham, sân, si, mạn, như vậy thì không xong rồi! An trụ tại tham, sân, si, mạn; an trụ tại sát, đạo, dâm, vọng thì quả báo sẽ ở ba đường ác. Thế nên họ không phải “thiên trụ”, không phải “phạm trụ”, mà là “quỷ trụ, địa ngục trụ, súc sanh trụ”, họ làm những thứ này. Chúng ta phải rất rõ ràng, sáng tỏ đối với những lý và sự này, phải biết tâm an trụ ở đâu, sau này sẽ sanh ra hậu quả gì, vô cùng đáng sợ.
Thứ ba là “thánh trụ”, thánh trụ chính là trụ ở tâm Bồ-đề. Thánh giả có Tiểu thừa, Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát. Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát tuy là không đồng nhưng họ có điểm chung, chính là tâm nhất định trụ tại “tam tam muội” đây là điểm chung Thứ tư là “Phật trụ”, trụ ở chỗ Phật trụ, quả nhiên nhập vào cảnh giới này thì bạn chính là quả vị Thập trụ Bồ Tát. Chân chánh học Phật nhất định phải an ở chỗ Phật trụ, Phật trụ ở đâu? “Đại tam không tam muội”: Không, vô tướng, vô nguyện; vô nguyện cũng gọi là vô tác. Nếu như thực hiện trong Tịnh tông thì an trụ ở niệm Phật tam muội, chúng ta đối với những cảnh giới khác sâu rộng vô cùng, rất khó cảm nhận, không bằng y theo lời dạy của Phật, chúng ta để tâm an trụ tại niệm Phật tam muội, chuyện này tương đối dễ học tập. “Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”, việc này thật sự là hiếm có, thù thắng khôn sánh. Đây là nói về ý nghĩa của hai chữ “tại” và “trụ”.
Hôm nay “Phật tại Đao Lợi thiên”, tại Đao Lợi thiên làm gì? “Vị mẫu thuyết pháp”. Phải y theo cách nói trong Tăng Nhất A Hàm, pháp hội kỳ này là do Đế Thích thiên vương, tức là Đao Lợi thiên chủ khải thỉnh. Đao Lợi thiên chủ rất thông minh, rất có trí tuệ, Ngài nói hết thảy chư Phật trong quá khứ đều đã đến trời Đao Lợi vì mẹ thuyết pháp, báo ân sanh dưỡng của mẹ, Thế Tôn thành Phật rồi, đương nhiên cũng không thể ngoại lệ. Thế Tôn đã nhận lời mời của Đao Lợi thiên chủ, đến trời Đao Lợi mở ra pháp hội này. Nhân duyên này rất sâu, câu chuyện cũng rất dài, kể chuyện thì sẽ ngưng trệ việc giảng kinh, cho nên chúng ta lược bớt câu chuyện này, nhưng cũng không thể không biết.
Mẫu thân của Phật là Ma Gia phu nhân, nói thật ra cũng là đại quyền thị hiện, đều là Phật, Bồ Tát tái lai. Mỗi người ở trên nhân địa phát nguyện không giống nhau, Ngài phát nguyện đời đời kiếp kiếp làm người nữ, làm mẹ của Phật, Ngài phát nguyện này. Thế nên con của Ngài là Phật, phước báo của mẹ rất lớn, đây là biểu diễn cho chúng ta xem. Phước báo dù cho lớn nhất, hoàn toàn dựa vào phước thì chỉ có thể sanh đến trời Đao Lợi, từ trời Dạ Ma trở lên thì không thể. Chư vị xem trong nhà Phật nói đến Phật sự siêu độ Lương Hoàng Sám vô cùng thù thắng. Lương Hoàng là Lương Võ Đế, Lương Võ Đế khải thỉnh Bảo Chí Công vì phu nhân của ông mà làm Phật sự siêu độ, cho nên gọi là Lương Hoàng Sám. Lúc phi tử của vua còn sống, bà tạo nhiều ác nghiệp nên đọa vào ác đạo. Bảo Chí Công là một cao tăng đắc đạo, Bảo Chí Công là ai? Là Quán Thế Âm Bồ Tát hóa thân đến, bạn xem như vậy còn gì để nói nữa! Quán Thế Âm Bồ Tát đích thân đến chủ trì pháp hội này, chủ trì Phật sự siêu độ này, cũng chỉ có thể siêu độ phi tử của vua đến trời Đao Lợi. Chư vị phải biết, chư Phật Như Lai siêu độ cũng chỉ siêu độ đến trời Đao Lợi, muốn lên trên nữa thì tự mình phải có công phu tu hành, nếu không có công phu tu hành thì không được. Thế nên hiểu được chân tướng sự thật này, thời gian chúng ta còn sống phải hết lòng tu hành, nếu không tu hành mà dựa vào người khác siêu độ, bản lãnh người làm siêu độ có cao tới đâu cũng chỉ có thể đến trời Đao Lợi mà thôi. Nếu như Phật sự siêu độ là do phàm phu chủ trì thì hiệu quả sẽ rất yếu ớt, chỉ có thể nói làm vẫn tốt hơn không làm. Có hiệu quả gì? rất khó nói. Ngày nay bạn đi đâu tìm được cao tăng chân chánh đắc đạo, Phật, Bồ Tát hay người tái lai. Thế nên phải hiểu đạo lý này rồi sau đó tự chúng ta mới thật sự nắm chắc lấy thời gian, một tấc quang âm là một tấc mạng quang, phải hết lòng nỗ lực.
Làm mẹ của Phật, phước báo lớn như vậy thì cũng chỉ sanh đến trời Đao Lợi. Lên trên nữa cần phải có công phu định lực, cần có tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh thành tựu công đức chân thật. Công đức đó ít, kém cỏi, Dục chưa có đoạn, tâm niệm ham muốn chưa có đoạn thì sanh đến tầng trời thứ tư của Dục giới, nhà Phật gọi là “vị đáo định”, bạn tu định chưa đủ trình độ nhưng cũng có tu. Thí dụ Tứ thiền, bậc Tứ thiền cần công phu thiền định một trăm điểm thì mới có thể đến Tứ thiền; bậc Tam thiền cần chín chục điểm, Nhị thiền cần tám chục điểm, Sơ thiền cần bảy chục điểm. Nếu công phu của bạn dưới sáu chục điểm thì chẳng đến Sắc giới nổi. Nhưng bạn cũng có công phu, công phu thiền định của bạn có khoảng sáu mươi điểm, năm mươi điểm, bốn mươi điểm, bạn có công phu này, không phải là không điểm. Nếu bạn hoàn toàn không có tu, chỉ chuyên tu phước, tu bố thí, trì giới, tu thập thiện nghiệp đạo không có công phu định lực, không xả bỏ ý niệm tham muốn thì chỗ bạn sanh đến sẽ là trời Tứ Vương và trời Đao Lợi. Có một chút công phu định lực, tâm địa có một ít thanh tịnh mới có thể sanh đến trời Dạ Ma, Đâu Suất, Hóa Lạc, Tha Hóa Tự Tại. Càng lên trên thì phước báo của mỗi tầng càng lớn hơn, thọ mạng càng dài hơn, chân chánh là hưởng phước vô tận. Nhưng thọ mạng có dài hơn thì cũng có lúc phước báo hết, tức là có lúc sẽ hưởng hết; sau khi hưởng hết thì lại phải lưu chuyển theo nghiệp. Do đó sanh lên trời chẳng phải là pháp cứu cánh, dù sao vẫn không bằng niệm Phật vãng sanh Thế giới Cực Lạc, sanh đến Thế giới Cực Lạc là vô lượng thọ, nói cách khác vĩnh viễn không sanh, không tử. Không những trời Dục giới chẳng thể sánh bằng, mà trời Sắc giới, Vô Sắc giới đều chẳng thể sánh bằng. Thế nên hết thảy chư Phật tán thán A Di Đà Phật, tán thán Thế giới Cực Lạc, đạo lý là ở chỗ này.
Câu kinh văn “vị mẫu thuyết pháp”, tuy pháp hội này là do Đế Thích thiên chủ khải thỉnh, nhưng ý nghĩa rất sâu. Thứ nhất là vì tránh việc sanh ra một số hiểu nhầm về Phật pháp của một số người thế gian. Học Phật, đặc biệt là phát tâm xuất gia, “thế phát xuất gia” rồi hình như kể từ đó không còn lo cho cha mẹ nữa, người thế gian cho rằng là bất hiếu. Đặc biệt là người Trung Quốc thường nói: “Bất hiếu có ba điều, không con nối dõi là lớn nhất”. Cha mẹ mong bạn nối dõi dòng họ, một khi bạn xuất gia thì việc nối dõi tông đường sẽ đoạn mất, làm sao không có lỗi với cha mẹ, tổ tiên! Người đời chẳng biết xuất gia là đại hiếu, đây là ý nghĩa thứ nhất. Ý nghĩa thứ hai là làm một tấm gương cho tứ chúng đệ tử học Phật: Tứ chúng đệ tử gồm: Xuất gia, tại gia, nam chúng, nữ chúng, khơi gợi tư tưởng về hiếu kính của họ, làm cho họ chân chánh thể hội câu thứ nhất trong Tam phước: “Hiếu dưỡng cha mẹ”. Trong nhà Phật cho dù xuất gia thì cũng không thể bỏ bê, chẳng đoái hoài gì đến cha mẹ, không có đạo lý này. Nhưng hình thức hiếu dưỡng không giống nhau, hết lòng tu trì, phụng hành theo lời Phật dạy, dùng công đức ấy hồi hướng cho cha mẹ; cha mẹ có thể được chư Phật hộ niệm, thiện thần bảo hộ, đây mới gọi là chân hiếu. Người thế gian hiếu thảo cha mẹ, mượn vài người giúp việc chăm sóc cho đời sống, còn đệ tử Phật để cho thiên long thiện thần chăm sóc cho cha mẹ, chu đáo hơn nhiều so với những người giúp việc mà bạn mướn đến. Nhưng nếu như bản thân bạn không có tu trì thì thiên long thiện thần sẽ chẳng bảo hộ bạn, mà sẽ khinh chê bạn.
Nếu bạn chân chánh tu hành, có đạo có đức cảm động đến thiên thần, họ tự nhiên sẽ đến chăm sóc; bạn không cần phải đi cầu họ, cũng không cần phải thông báo cho họ, [họ] tự nhiên sẽ đến chăm sóc. Tại sao vậy? Vì họ tôn kính bạn, tôn kính cha mẹ bạn, cho nên có ý nghĩa này.
Lại xem đoạn kinh tiếp theo:
Nhĩ thời thập phương vô lượng thế giới bất khả thuyết bất khả thuyết nhất thiết chư Phật, cập Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, giai lai tập hội.
Đoạn kinh trên là “phát khởi tự” của kinh này. Kinh này tổng cộng gồm mười ba phẩm, phẩm thứ nhất là phẩm Tựa, nhưng không có gọi là phẩm Tựa mà gọi là “Phẩm Đao Lợi Thiên Cung”, trên thực tế phẩm này là phẩm Tựa. Ý nghĩa trong phần tựa vô cùng chu toàn viên mãn, phía trước có sáu thứ thành tựu, đây là “chứng tín tự”; từ đoạn kinh này về sau là “phát khởi tự” của kinh Trong “phát khởi tự” nói với chúng ta vô cùng rõ ràng, hàm nhiếp cả giáo, lý, hạnh, quả; trong khoa chú đoạn này được gọi là “quả nhân tập tán” Chúng ta phải đặc biệt chú ý những chỗ như vậy, phải biết học tập như thế nào, khi Phật thuyết pháp thì trước tiên đem quả báo bày ra cho mọi người thấy, từ quả báo này sanh khởi lòng tin. Sau đó mới giải thích quả báo hình thành như thế nào, rồi giảng về nhân cho bạn thì bạn sẽ hết lòng để nghe, bạn rất muốn biết tại sao. Đây là phương tiện thiện xảo của việc thuyết pháp, chúng ta phải biết. Thế nên mới nói “quả nhân” chứ chẳng nói “nhân quả”.
Vừa mở đầu thì hiện lên cái gì? Bảo bạn xem những nhân vật tham gia đại hội này, đây là quả. Đây là người, người là “quả người”, do quả đức của Ngài cảm động được nhiều người như vậy đến tham gia pháp hội. Trước khi Phật giảng kinh thì hiện tướng lành, hiện các thứ hào quang, những tướng lành này là lý. Văn Thù Bồ Tát nhìn thấy hiện tượng này nên sanh khởi nghi hoặc, đây là tiêu biểu hạnh. Thế Tôn và Bồ Tát một người hỏi, một người đáp, Văn Thù hỏi, Thế Tôn trả lời, đây là giáo. Cho nên trong phần Tựa chúng ta thấy giáo, lý, hạnh, quả, lần tụ hội này là quả báo. Giống như trong kinh Hoa Nghiêm vừa mở đầu, lúc chưa giảng kinh thì trước tiên nói về y báo, chánh báo trang nghiêm của Tỳ Lô Giá Na Phật, bày quả báo ra cho bạn thấy.
Chỗ này hiện ra sự không thể nghĩ bàn, chư vị xem thấy ở trong bộ kinh nào có kinh văn giống như vậy không? “Nhĩ thời”, lúc Phật lên cung trời Đao Lợi vì mẹ mà thuyết pháp, “thập phương vô lượng thế giới, bất khả thuyết bất khả thuyết hết thảy chư Phật”, chư vị từng thấy trong kinh nào khi Phật giảng kinh thì hết thảy chư Phật đều đến nghe kinh? Chưa từng thấy! Quang cảnh này làm sao tưởng tượng nổi! Kinh Hoa Nghiêm cũng không có trường hợp này, kinh Vô Lượng Thọ cũng không có, vô cùng hy hữu! Không thể hàm hồ, lơ là lướt qua. Thông thường chúng ta nói câu: “Một Phật ra đời, ngàn Phật ủng hộ”, đó là chư Phật hóa hiện thành Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát đến để giúp đỡ Phật hoằng hóa; còn nơi đây thì không phải vậy, chư Phật, dùng thân phận của Phật đến. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hôm nay giảng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, hết thảy chư Phật đều đến tham dự nghe giảng. Số người đến là từ vô lượng thế giới, nói không xuể, kể không xiết hết thảy chư Phật và Đại Bồ Tát Ma Ha Tát; Đại Bồ Tát Ma Ha Tát này theo chư Phật cùng đến, tháp tùng theo chư Phật. Số chư Phật đã nói không xuể, kể không xiết, vậy thì số Bồ Tát còn nhiều hơn nữa, tất cả đều đến dự hội. Đoạn kinh văn này tuyệt đối không thể hàm hồ, lơ là lướt qua, bạn phải tỉ mỉ mà tư duy, Thế Tôn suốt đời giảng kinh bốn mươi chín năm, giảng hơn ba trăm hội, không có hội nào thù thắng như vậy. Đây là những người tham dự pháp hội, là quả, một phần trong giáo, lý, hạnh, quả của kinh.
Vì sao họ đều đến? Chẳng có một vị Phật nào không báo ân mẹ, hôm nay đức Phật Thích Ca Mâu Ni không giảng pháp nào khác, mà giảng pháp Địa Tạng. Nói rõ hết thảy các pháp đều nương vào đại địa để sanh khởi, đây là căn bản. Địa Tạng tiêu biểu cho cái gì? Tiêu biểu “hiếu thân tôn sư”, thế nên khi giảng pháp “hiếu thân tôn sư” thì hết thảy chư Phật nhất định đích thân đến tham gia, chư Phật đến để làm ảnh hưởng chúng. Đao Lợi thiên vương trong hội này làm công đức chủ, phước báo của Ngài tu quả thật rất lớn: Thỉnh Phật đến cung trời Đao Lợi giảng kinh Địa Tạng, phước báo này rất lớn. Thế nên hết thảy chư Phật Như Lai đều đến đầy đủ, một vị cũng không sót, nhân duyên vô cùng hy hữu! Đến để làm gì? Đề xướng hiếu đạo. Vừa gặp mặt liền tán thán đức Phật Thích Ca Mâu Ni, ý tán thán đó cũng hết sức viên mãn.
Tán thán Thích Ca Mâu Ni Phật, năng ư Ngũ trược ác thế, hiện bất khả tư nghị đại trí tuệ thần thông chi lực, điều phục cang cường chúng sanh tri khổ lạc pháp.
Lời này nói ra chẳng dễ, nếu không phải là chư Phật Như Lai đích thân tuyên thuyết, nói cho chư vị biết, Bồ Tát cũng không nói được. Tại sao vậy? Các Ngài còn chưa vào cảnh giới này thì làm sao nói ra được! Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện vào thời đại gì? “Ngũ trược ác thế”. Xã hội hiện nay của chúng ta có thể nói là “ngũ trược ác”, gần như phàm phu ngu muội vô tri nhất cũng có thể cảm nhận được. Năm mươi năm, một trăm năm về trước, phải là người có trí tuệ cao độ mới có thể cảm nhận được hiện tượng “Ngũ trược ác thế “này, phần đông người thường không cảm nhận được; “thế gian này chẳng tệ, rất tốt! Cuộc sống của tôi rất vui vẻ” họ không cảm nhận được sự trược ác này, trược nghĩa là ô nhiễm. Nửa thế kỷ trước chúng ta chưa từng nghe nói ở đâu cần phải bảo vệ hoàn cảnh môi trường gì đó, danh từ này chưa nghe nói qua, chưa từng nghe nói qua danh từ này; nói cách khác sự ô nhiễm của môi trường còn có thể chịu đựng được. Đợi đến lúc phát động bảo vệ môi trường, có nghĩa là môi trường đã ô nhiễm đến mức làm cho người ta không chịu được, mỗi một chính phủ, địa phương trên toàn thế giới đều đang đề xướng. Hay nói cách khác, mức độ trược ác này đã đến mức khá nghiêm trọng nên mới có danh từ này xuất hiện.
Ngũ là năm loại lớn, năm loại ô nhiễm nghiêm trọng, trong kinh Phật gọi là Ngũ trược ác thế. Trong ngũ trược, thứ nhất là “Kiếp trược”, kiếp là nói về thời gian, ngày nay chúng ta gọi là thời đại không tốt, là từ trên thời tiết nhân duyên mà nói. Thật ra mà nói, thời gian có ô nhiễm gì đâu! Đây là một thời đại ô nhiễm trầm trọng, chính là cái ý nghĩa này. Nhưng thực ra mà nói thời đại ô nhiễm là bốn loại ô nhiễm kể sau đây: Thứ hai là “Kiến trược”, kiến là kiến giải, tư tưởng, kiến giải sai lầm, nhà Phật gọi là tà tri tà kiến, có cái nhìn sai lầm về chân tướng của vũ trụ nhân sanh, chính là ô nhiễm trên kiến giải. Kế đó là “Phiền não trược”, chúng ta dùng cách nói hiện nay nghĩa là ô nhiễm tư tưởng. Hai thứ này hợp lại chính là nói ô nhiễm tâm lý, ô nhiễm tinh thần, việc này rất nghiêm trọng! Từ ô nhiễm tâm lý, ô nhiễm tinh thần nhất định sẽ dẫn đến ô nhiễm sinh lý và hoàn cảnh sống của chúng ta, đó gọi là “Chúng sanh trược”. Chúng sanh trược, nói theo ngôn ngữ hiện nay chính là hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta bị ô nhiễm. Trái đất ngày nay bị mất cân bằng sinh thái, khí hậu không bình thường, tai nạn dồn dập, đều thuộc về Chúng sanh trược. Sau cùng là “Mạng trược”, dùng ngôn ngữ hiện nay để nói tức là ô nhiễm sinh lý. Nói cho mọi người dễ hiểu hơn về Ngũ trược thì hai thứ đầu là ô nhiễm kiến giải, ô nhiễm tư tưởng hợp lại chính là ô nhiễm tâm lý, ô nhiễm tinh thần; Chúng sanh trược chính là hoàn cảnh sinh hoạt bị ô nhiễm, Mạng trược là ô nhiễm sinh lý tất cả đều gọi là trược.
Ác là thập ác, hết thảy chúng sanh không làm việc thiện. Thân tạo “sát sanh, trộm cắp, tà dâm”; miệng tạo “vọng ngữ, lưỡng thiệt”, lưỡng thiệt là nói thị phi, gây chia rẽ, vọng ngữ chính là không nói thật, lừa gạt người khác, ác khẩu chính là nói lời ác độc, ỷ ngữ chính là nói những lời hoa mỹ lừa gạt chúng sanh, tạo ra những khẩu nghiệp này; còn ý nghiệp, trong tâm nghĩ những gì? Tham, sân, si, mạn, làm những thứ này, đây gọi là ác, trược ác. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện trong thời đại như vậy.
“Hiện” là thị hiện, thị hiện đại trí tuệ không thể nghĩ bàn. Câu này chính là nói Phật xuất hiện ở thế gian này, làm ra một hình dáng cho chúng sanh xem, hình dáng gì? Hình dáng đại trí tuệ. Hiện nay chúng ta gọi là làm thầy, làm mô phạm, làm người dẫn đầu cho xã hội đại chúng, làm tấm gương, làm mô phạm cho xã hội đại chúng. Ngài có thể thị hiện trong đời ác Ngũ trược này, hết thảy chư Phật đều tán thán, tán thán Phật trong đời ác trược vì những chúng sanh khổ nạn này làm ra một tấm gương tốt, làm ra một hình mẫu tốt.
“Thần thông chi lực” bốn chữ này là nói về biểu hiện bên ngoài của Ngài. “Bất khả tư nghị đại trí tuệ” đây là bên trong. Biểu hiện bên ngoài chính là giúp đỡ xã hội, giúp đỡ hết thảy chúng sanh, nói về năng lực mạnh mẽ của Ngài. Thông là thông đạt, không có gì là Ngài không biết. Hết thảy sự vật, đạo lý, nhân quả, hiện tượng, biến hóa trong thế gian, không có gì không biết, không có gì không thể, đây gọi là thần thông. Thần nghĩa là thần kỳ, tuyệt đối không thể suy lường vượt quá tri thức của phàm phu chúng ta. Thần thông này không phải là nói bảy mươi hai phép biến hóa của Tôn Ngộ Không, không phải ý này, nếu nghĩ như vậy thì bạn đã hoàn toàn hiểu lầm. Hết thảy việc gì Phật cũng thông suốt, nói cách khác, mọi thứ nghi nan tạp chứng trong xã hội chúng ta ngày nay không có gì là Phật không biết. Ngài có khả năng giúp đỡ chúng ta giải quyết những khó khăn này.
“Điều phục cang cường chúng sanh”. Cư sĩ Duy Ma từng nói: “Chúng sanh ở cõi Diêm Phù Đề cang cường, khó giáo hóa”. Cang cường là tánh ương ngạnh, chấp trước kiên cố rất khó tiếp nhận những lời dạy dỗ của Phật. Chúng ta có thể nhìn thấy được việc này trong xã hội hiện nay, họ bài xích Phật pháp, gây chướng ngại cho giáo học Phật pháp, hiển thị tánh ương ngạnh. Chính họ không chịu nghiên cứu Phật pháp, Phật pháp rốt cuộc là gì? Họ cũng không biết; ghép vô một chữ mê tín, tiêu cực, lạc hậu rồi liền bỏ xó qua một bên, không biết đây là của báu, thật sự có thể giải quyết vấn đề của Ngũ trược ác thế.
Bốn chữ sau cùng này rất tuyệt vời: “Tri khổ lạc pháp”, bốn chứ này không dễ nói ra. Chúng sanh khổ, vì sao khổ? Chúng sanh mong cầu vui, tại sao không đạt được vui? Có người nào trên thế giới không chịu khổ! Có ai không mong cầu vui vẻ! Khổ từ đâu đến? Vui từ đâu đến? Chẳng ai biết. Làm sao chúng ta mới có thể lìa khổ? Làm sao mới có thể được vui? Những lý luận và phương pháp này không có ai biết. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni biết được, ở trong kinh giáo đức Phật dạy rất rõ ràng, rất sáng tỏ, nếu như chúng ta muốn lìa khổ, được vui, thì kinh điển Đại thừa là sự chỉ dẫn hoàn hảo nhất, chỉ đạo chúng ta, hướng dẫn chúng ta, mục tiêu của giáo học Phật pháp chính là dạy chúng ta lìa khổ được vui. Chư Phật tán thán đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng là để quả ở phía trước, làm cho người ta chú ý. Hai đoạn kinh văn này, nếu như tâm địa thanh tịnh, cảm giác nhạy bén thì khi xem thấy hai đoạn kinh văn này, tuy không lạnh nhưng lông tóc dựng đứng, vô cùng hy hữu! Người nào khi mở pháp hội có thể làm cho hết thảy chư Phật Như Lai đều đến nghe, người nào có thể nhìn thấy chư Phật Như Lai, được sự tán thán không thể nghĩ bàn như vậy. Chư Phật tán thán đức Phật Thích Ca, thật ra chính là chư Phật tán thán lẫn nhau, chúng ta phải hiểu đạo lý này, Phật Phật đạo đồng. Nói cách khác, chỉ có chư Phật Như Lai mới chịu đến thị hiện trong Ngũ trược ác thế, đây chính là tinh thần của Địa Tạng Bồ Tát, “Tôi không vào địa ngục, thì ai vào địa ngục!”, địa ngục là chỗ khổ nhất. Những chúng sanh khổ nạn này, tôi không đi giúp họ thì ai giúp họ! Chỗ càng nhiều khổ nạn, bi tâm của Phật, Bồ Tát càng nặng, càng muốn đến đó để dạy dỗ, giúp đỡ mọi người, chỉ cần những chúng sanh khổ nạn này chịu tiếp nhận, Phật, Bồ Tát liền tới; nếu không chịu tiếp nhận, Phật, Bồ Tát muốn giúp đỡ cũng không còn cách gì. Có thể tin, có thể giải, có thể học thì Phật, Bồ Tát nhất định sẽ xuất hiện trong thế gian này.
Ngày nay tại sao chúng ta lại đến Singapore giảng hội kinh này? Tại sao không giảng ở chỗ khác? Chúng ta không có tâm thiên vị, không có tâm riêng tư, cũng không phải ham thích địa phương này. Hoàn toàn là do duyên ở địa phương này đã thành thục. Duyên gì? Người ở địa phương này có thể tin, có thể giải, có thể hành; địa phương này đầy đủ bốn điều kiện tín, giải, hành, chứng. Trong mười mấy năm nay chúng ta ở địa phương này hoằng dương Tịnh độ, khuyên mọi người niệm Phật cầu sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc, đã làm như vậy trong rất nhiều năm. Ở những khu vực như Singapore, Malaysia, lúc nào cũng có thể nghe đến người niệm Phật vãng sanh, thường luôn nghe đến. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên vô cùng nhiệt tâm, hơn phân nửa các đồng tu niệm Phật lúc lâm chung, đa phần đều mời Cư sĩ Lý Mộc Nguyên trợ niệm, giúp họ lo liệu hậu sự, ông đã thấy được tướng lành quá nhiều, quá nhiều! Ngày nay Cư sĩ Lý phát tâm như vậy là do ông ta đã nhìn tận mắt, nghe tận tai, niệm Phật vãng sanh bất thoái thành Phật là thật, chẳng phải giả. Ông ấy đã làm hết lòng như vậy, rất nhiệt tâm như vậy, tín nguyện đó của ông không phải phát suông đâu, là đã nhìn thấy sự thật nên mới phát khởi đấy.
Cho nên, pháp khổ vui trong lục đạo tam đồ chỉ có Phật mới biết được thấu triệt, biết được triệt để, biết được rốt ráo, cho nên Phật có khả năng giúp đỡ chúng ta giải quyết vấn đề, giúp chúng ta lìa khổ được vui. Tuyệt đối không thể xem thường hai đoạn kinh văn này, đây là diệu pháp của chư Phật Như Lai khác miệng đồng âm tuyên thuyết, là vô thượng diệu pháp. Đoạn kinh văn này chúng ta có thể xem như là tổng cương lĩnh của đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện trong thế gian giảng kinh hơn ba trăm hội, thuyết pháp bốn mươi chín năm. Phật xuất hiện trong thế gian để làm gì? Để làm việc này.
Sau khi tán thán, chư vị hãy xem tiếp kinh văn:
Các khiển thị giả vấn tấn Thế Tôn.
Đây là lễ mạo, Phật phái thị giả đến vấn an đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Lễ tiết, đây cũng là làm một hình dáng cho người ta xem, lễ không thể bỏ. Người mà vô lễ thì sẽ không có chỗ đứng trong thế gian này, nhưng hiện nay người ta đều lơ là đi lễ tiết. Nếu lơ là lễ tiết rồi, thì nói thật ra dù tu học Phật pháp có giỏi cách mấy quả báo sẽ ở đâu? Quả báo sẽ không ở cõi người, hơn phân nửa là ở cõi quỷ. Đến đoạn nói về những quỷ vương ở phía sau, nói rõ nhân của những quỷ vương này thì quý vị sẽ hiểu. Tu hành Phật pháp giỏi vô cùng, nhưng cống cao ngã mạn, không có lễ tiết, tương lai nhận được quả báo là ở trong quỷ đạo làm quỷ vương. Trong kinh Hoa Nghiêm giảng về những vị làm thế chủ, khí thế gian chủ, thần núi, thần cây, thần hoa, thần nước, những vị này sẽ có khuynh hướng như vậy. Phật pháp được xây dựng trên nền tảng của hiếu kính, tại sao khuyên chư vị đồng tu phải giác ngộ? Có “hiếu thân tôn sư” thì chúng ta mới có thể hướng về Phật đạo, đi về Thế giới Cực Lạc, nếu như không có ý niệm này thì tuy tu học Phật pháp nhưng sẽ đến quỷ đạo làm quỷ vương. Nếu như thù thắng hơn nữa thì bạn có thể đến thiên đạo; thiên đạo là trời Dục giới, còn trời Sắc giới thì không được, nhất định phải biết. Ở đây dạy lễ, dạy kính.
Thị thời Như Lai hàm tiếu, phóng bá thiên vạn ức đại quang minh vân.
Chỗ này nói về Phật hiện tướng lành. Trong “quang minh vân” hiển lý, phóng quang. Chúng sanh lợi căn nhìn thấy hào quang đều hiểu hết những lời dạy của Phật, không cần phải dùng lời nói, “quang minh” tiêu biểu cho trí tuệ, “trăm ngàn muôn ức vầng mây sáng rỡ lớn” chính là vô lượng vô biên trí tuệ, trong vòng sát-na-tế toàn bộ đều hiện ra, không cần thời gian dài, trong vòng sát-na liền đem vô lượng vô biên trí tuệ hiện ra trước mặt hết thảy đại chúng. “Thị thời” chính là lúc chư Phật Như Lai tán thán, phái thị giả đến vấn an đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Thế Tôn mỉm cười. Phóng quang là tiêu biểu pháp, hào quang này từ đâu ra? Trong Chân Như bản tánh vốn có đầy đủ Bát-nhã quang minh, Phật vì chúng sanh nói hết thảy pháp là dựa vào cái này. Phật thuyết tất cả pháp bắt đầu từ đâu? Là lưu xuất ra từ trong tự tánh vốn đầy đủ Bát-nhã, hôm nay nói chỗ y cứ của hết thảy pháp, biểu hiện ra một lượt cho mọi người xem.
Trăm ngàn muôn ức nói chẳng hết, cho nên sau đó lược nêu ra vài điều, nếu nói kỹ thì nói không hết, giản lược nêu ra mười điều. Tuy là giản lược nêu ra, nhưng chư vị cũng phải biết, đây cũng giống như cách tiêu biểu pháp trong kinh Hoa Nghiêm, bất cứ câu nào cũng đầy đủ trăm ngàn muôn ức quang minh vân, một chính là hết thảy, hết thảy chính là một. Thế nên, khi chúng ta nghe kinh, nghe pháp, người giảng nếu như dùng tâm chân thành, tâm cung kính, thì liền cùng quang minh của Phật khởi tác dụng cảm ứng, Phật quang sẽ chiếu soi đạo tràng đó cũng giống như đại quang minh vân chiếu soi trên không trung của đạo tràng [tại cung trời Đao Lợi] này. Phía dưới người nói, người nghe sanh vô lượng hoan hỷ, không phải do người ấy giảng hay, nói khéo, không phải vậy, người hiện nay gọi đó là từ trường không giống nhau, đây là sự gia trì của Phật, từ bi gia trì, quang minh nhiếp thọ.
Nói riêng biệt ra thì câu đầu tiên là.
Đại viên mãn quang minh vân.
“Đại viên mãn” là bao gồm toàn bộ những vầng mây khác. Viên mãn chính là một tơ hào khiếm khuyết cũng không có, chính là toàn thể tánh đức lưu lộ. Tại sao hết thảy chúng sanh có thể khởi cảm ứng đạo giao? Tâm chúng sanh và tâm Phật không hai không khác. Sai khác ở đâu? Chúng sanh còn mê, Phật đã giác. Khi giác là tâm tánh, khi m�� cũng là tâm tánh, tâm tánh không có giác, mê. Trong hết thảy chúng sanh, thường nói hữu tình chúng sanh, chúng ta ngày nay gọi là động vật, chúng sanh hữu tình trong chín pháp giới; ngoài hữu tình chúng sanh ra còn có vô tình chúng sanh, ngày nay chúng ta gọi là thực vật, khoáng vật, đều là trong tự tánh biến hiện ra. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tình dữ vô tình đồng viên chủng trí”. Viên là viên mãn, đồng viên chủng trí chính là đồng thời thành Phật, là cái ý này. Tại sao? Cùng một pháp thân, cùng một thể tánh. [Đối với] người giác ngộ, núi sông đại địa đều là thân mình, cùng với mình là một thể. Thế nên, sẽ quan hoài vô điều kiện, yêu thương, bảo vệ vô điều kiện, đấy gọi là đại từ đại bi, cho nên câu thứ hai sẽ là “đại từ bi quang minh vân”. Nhất định phải biết được Phật như vậy, chính chúng ta cũng như vậy. Hôm nay Phật hiển hiện không thể nghĩ bàn, vô lượng vô biên tự tánh quang minh; hôm nay chúng ta hiển lộ ra cũng là vô lượng vô biên vô minh phiền não, chúng ta biến thành nông nỗi này, hoàn toàn trái nghịch với tánh đức, biến thành một chúng sanh đáng thương xót. Thế nên tự mình phải giác ngộ, phải thật sự giác ngộ, tự mình phải quay đầu, phải thọ trì đọc tụng, y giáo phụng hành, người như vậy mới thật sự quay đầu. Vừa quay đầu thì cùng với đại quang minh vân của Phật khởi tác dụng cảm ứng đạo giao. Thứ hai là:
Đại từ bi quang minh vân.
Từ bi là chỗ nương dựa cho sự phát tâm của chúng ta. Trong Tứ hoằng thệ nguyện là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, nương vào cái gì mà phát tâm? Nương vào tâm từ bi. Ba chữ “quang minh vân” ở đây chính là tiêu biểu cho đức năng viên mãn của chân tâm tự tánh, Trí tuệ Bát-nhã vốn có. Chư Phật, Bồ Tát, Bồ Tát ở đây là chỉ cho Pháp thân Đại sĩ; khi chưa chứng pháp thân thì tánh đức này chưa hiển lộ, không có quang minh vân; các Ngài có đại từ bi, không thể thêm quang minh vân. Thêm quang minh vân thì tối thiểu phải là Pháp thân Đại sĩ, phá một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân, thật sự cùng tâm cùng nguyện, cùng đức cùng hạnh với Phật, thì trong đoạn này hiển lộ chẳng sót, đây là sự tướng. Tứ hoằng thệ nguyện từ chỗ này phát khởi. Địa Tạng Bồ Tát phát nguyện này viên mãn, rốt ráo, “địa ngục chẳng không, thề chẳng thành Phật”, từ bi đến cực độ! Chúng sanh khổ nạn trong địa ngục Ngài đều độ, huống chi là những chúng sanh khác, đây gọi là phổ độ chín giới chúng sanh.
Sau khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni diệt độ và trước khi Di Lặc Bồ Tát chưa giáng sanh, khoảng thời gian này quá dài. Trong thời gian dài như vậy không có Phật ra đời, cái khổ của chúng sanh chúng ta không cách nào tưởng tượng nổi. Phật, Bồ Tát lẽ nào không có tâm từ bi sao? Có chứ, phải làm sao? Trong thời gian này Phật giao phó hoàn toàn sự nghiệp giáo hóa chúng sanh cho Địa Tạng Bồ Tát. Lúc Phật không ở thế gian thì Địa Tạng Bồ Tát là người đại diện cho Phật Thích Ca, Thế Tôn không ủy thác cho Bồ Tát khác, mà mang sự nghiệp này giao phó cho Địa Tạng Bồ Tát. Do đó có thể biết sau khi đức Phật diệt độ, khi Di Lặc Bồ Tát chưa xuất thế, dùng phương pháp gì để giáo hóa hết thảy chúng sanh? Dùng “Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh”, đây là lời phó chúc của Thế Tôn. Địa Tạng Bồ Tát nhận sự ủy thác của Thế Tôn, chẳng cô phụ đức Phật Thích Ca, Ngài đích thật tự mình đảm đương trách nhiệm này, vô cùng từ bi! Chúng ta phải dùng “đại từ bi quang minh vân” phát tâm Bồ-đề, thượng cầu hạ hóa, độ mình, độ chúng sanh. Câu thứ ba:
Đại trí tuệ quang minh vân.
Đây là chỗ y cứ cho sự tu hành của chúng ta. Bất luận tu học pháp môn nào, không có trí tuệ thì không thể thành tựu, nhất định phải nương vào trí tuệ, trí tuệ từ đâu có? Nói cho chư vị biết, trí tuệ nhất định không phải do học hỏi, ghi nhớ mà có. Tôi nghe nhiều, đọc nhiều, nhớ rất nhiều, đó là thông minh của thế gian, trong kinh Phật gọi là “thế trí biện thông”. Trong Phật đạo, thế trí biện thông là một trong tám nạn, nếu bạn gặp phải nạn này thì hỏng rồi, tại sao? Rơi vào trong “sở tri chướng”, những gì bạn biết trở thành chướng ngại, chướng ngại bạn minh tâm kiến tánh, chướng ngại bạn đạt định, chướng ngại bạn khai trí tuệ. Trí tuệ từ đâu đến? Trí tuệ nhất định được từ trong thiền định, thiền định từ đâu đến? Thiền định nhất định được từ trong trì giới. Đây gọi là “tam vô lậu học”. Tuy pháp môn Đại thừa không xem trọng giới luật trên hình thức, Đại thừa nói là tâm địa giới pháp, còn thù thắng hơn hình thức, phải làm thật sự! Thiền định là tâm thanh tịnh, sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần bên ngoài, “ngoài không chấp tướng, trong không động tâm”, đó gọi là thiền định, đó là chân chánh tu thiền định. Nếu lục căn chúng ta tiếp xúc với cảnh giới lục trần, vẫn còn bị cảnh giới bên ngoài cám dỗ, vẫn còn khởi tâm động niệm, vậy là xong rồi!
Công phu chân chánh, tu hành chân chánh ở đâu? Chính là dụng công ở chỗ sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, chúng ta dùng công phu niệm Phật, phương pháp này rất tốt. Niệm đầu vừa động, thì dùng “A Di Đà Phật” chuyển liền, chuyển thành A Di Đà Phật, trong đây tam học: Giới, định, tuệ đồng thời đầy đủ. Nếu bạn có thể chuyển thì bạn tuân thủ theo pháp, đây là trì giới. Nhìn thấy cảnh giới bên ngoài thuận tâm thì khởi lên tham ái, tâm tham vừa động thì “A Di Đà Phật” chuyển trở lại, đây chính là trì giới. Thấy hoàn cảnh không vừa ý, trong tâm không ưa thích thì liền “A Di Đà Phật” chuyển lại. Nếu bạn có thể chuyển trở lại, tiếp nhận sự giáo huấn của Phật, Phật dạy chúng ta làm như vậy, chúng ta làm như vậy, đấy là trì giới. Sau khi chuyển trở lại, đối với hết thảy cảnh giới đều không để ý nữa, quay về niệm Phật, đây là tu định. Nhất tâm xưng niệm A Di Đà Phật, tuệ ở trong đó. Thế nên [nhiều người] chẳng biết sự tu học của Tịnh tông thù thắng, hoàn thành tam học giới, định, tuệ ngay trong một niệm, viên mãn đầy đủ. Sau đó xử sự, đối người, tiếp vật, thiện ý tự nhiên sẽ sanh ra, thế nên công phu tu hành của bạn sâu hay cạn chẳng có tơ hào ẩn giấu được, đều biểu hiện trên gương mặt, âm thanh, từng cử chỉ, từng động tác của bạn, công phu tu hành của bạn làm sao ẩn giấu được? Trong ngoài như nhau. Che đậy, ẩn giấu là đối với người ngu ở thế gian mà nói, người ngu si không nhìn ra nên mới bị bạn gạt, người chân chánh có trí tuệ thì không dấu nổi, vừa tiếp xúc liền hiểu rõ. Thế nên “đại trí tuệ” là chỗ nương dựa tu hành của chúng ta. Câu thứ tư:
Đại Bát-nhã quang minh vân.
Ý nghĩa của Bát-nhã và trí tuệ có khi là giống nhau, nhưng hai chữ này nói cùng một chỗ thì ý nghĩa đương nhiên có sai khác. Bát-nhã như trong kinh Bát-nhã nói: “Thật tướng Bát-nhã, quán chiếu Bát-nhã, văn tự Bát-nhã”. Đại trí tuệ ở phía trước chúng ta giải nghĩa là tuệ trong giới, định, tuệ; tuệ nhất định phải bao gồm giới và định, còn giới không nhất định bao gồm định và tuệ; nhưng định nhất định phải có giới, định cộng giới, người có định sẽ không phạm lỗi. Người có tuệ gọi là đạo cộng giới, cái trì giới đó còn cao minh hơn nữa. Do đó tuệ giống như ba tầng lầu, tầng thứ ba nhất định bao gồm hai tầng dưới, tầng dưới chẳng bao gồm tầng trên, giới chẳng bao gồm định, định chẳng bao gồm tuệ; định nhất định sẽ bao gồm giới; tuệ nhất định sẽ bao gồm giới và định. Bát-nhã, ở đây chúng ta y theo cách nói của kinh Bát-nhã, thật tướng Bát-nhã là thể. Thật tướng vô tướng, cũng chính là không có phân biệt trí, thật trí, đối với hết thảy pháp rõ ràng, sáng tỏ nhưng ở trong không có phân biệt. Phân biệt còn không có, thì đâu có chấp trước! Thế nên được gọi là thật tướng Bát-nhã. Thật tướng chính là chân tướng, người đó hiểu rõ chân tướng, chúng ta thường gọi là hiểu rõ chân tướng của vũ trụ nhân sanh rốt ráo triệt để, trí tuệ này được gọi là thật tướng Bát-nhã.
Thật tướng Bát-nhã khi khởi tác dụng gồm có hai loại: Một là tự thọ dụng, hai là tha thọ dụng. Tự thọ dụng là quán chiếu Bát-nhã, chúng ta dùng lời nói hiện nay thì quán chiếu Bát-nhã chính là trải qua đời sống có trí tuệ cao độ, hoặc giống như trên quả địa của Pháp thân Đại sĩ, các Ngài sống đời sống viên mãn trí tuệ, tương ứng với quang minh vân. Phàm phu chúng ta có thể trải qua một đời sống trí tuệ cao độ, đó là rất hiếm có, như vậy bạn mới hiểu được quán chiếu. Tổng cương lĩnh của quán chiếu, trong kinh Kim Cang, Phật dạy: “Phàm những gì có tướng đều là hư vọng”. Thế nên đối với hết thảy pháp tướng, họ có thể không phân biệt, không chấp trước, có thể tùy duyên mà không phan duyên, cái gì cũng tốt, cái gì cũng tự tại, mỗi ngày sinh hoạt thanh tịnh, vui vẻ vô cùng! Tùy cảnh ngộ mà an lạc, phú quý có vui vẻ của phú quý, nghèo hèn có vui vẻ của nghèo hèn; phú quý, nghèo hèn là sự tướng, vui vẻ đều giống nhau, đều bình đẳng, đều sinh hoạt rất viên mãn, đều được vui vẻ. Đây là quán chiếu Bát-nhã, sự thọ dụng của chính mình. Văn tự Bát-nhã chính là lợi tha, tha thọ dụng, giúp đỡ người khác. Trong văn tự bao gồm lời nói, nói cách khác trong quán chiếu bao gồm sự tướng, chính là làm ra hình dáng để cho người ta thấy, ngày nay chúng ta gọi là thân giáo, văn tự Bát-nhã là ngôn giáo. Do đó có thể biết Thật tướng Bát-nhã là ý giáo. Thân, ngữ, ý đều giáo hóa hết thảy chúng sanh, đều giúp đỡ hết thảy chúng sanh. Trong thật tướng tuy là nói ý giáo, nhưng không có niệm đầu của ý; nếu có niệm đầu của ý thì đó không phải là chân thực trí tuệ Bát-nhã. Bát-nhã là “tức tướng ly tướng, ly tức đồng thời”, như vậy mới có thể phá trừ hết thảy mê hoặc. Câu thứ năm:
Đại tam muội quang minh vân.
“Tam muội” là Phạn ngữ, là dịch âm từ tiếng Ấn Độ, nghĩa là chánh thọ, sự hưởng thụ bình thường Phật bảo chúng ta sự hưởng thụ của lục đạo chúng sanh là không bình thường. Các thứ hưởng thụ được quy nạp thành năm loại lớn, thân có hai loại: Khổ thọ và lạc thọ. Khổ đó là vô lượng vô biên, Lạc cũng là vô lượng vô biên, dùng hai loại này bao gồm hết cả. Tâm lý, chúng ta gọi là tinh thần. Về thân thể có hai loại khổ và lạc. Về tâm lý thì có buồn và vui, có hai loại này, đây chính là bốn loại. Sau cùng còn một loại lớn, thân không có khổ và lạc, trong tâm cũng không có buồn và vui, như vậy rất tốt, trạng thái này gọi là xả thọ, tổng cộng là năm loại này. Xả thọ rất tốt, nhưng thời gian rất ngắn, không kéo dài được, tạm thời thân xả bỏ khổ, lạc, tâm xả bỏ buồn, vui, chỉ là tạm thời. Nếu như cái xả thọ này có thể duy trì mãi thì gọi là Tam muội, chính là chánh thọ, thế nên Tam muội cũng gọi là thiền định, cũng dịch thành thiền định. Chư Phật Như Lai vĩnh viễn đều là xả thọ, cho nên khổ, lạc là tương đối, buồn, vui cũng là tương đối, Tây Phương gọi là Thế giới Cực Lạc, chúng ta cứ dùng cách suy nghĩ sai lầm của bản thân để hạn cuộc cái lạc này của Tây Phương, cứ tưởng cái lạc này của Tây Phương là lạc trong khổ lạc, vậy là sai rồi! Không phải lạc trong khổ lạc; khổ, lạc hai bên đều xả bỏ, đó là chân lạc! Thế nên tới Thế giới Tây Phương Cực Lạc, năm thứ thọ: Khổ, lạc, buồn, vui, xả này đều chẳng có, đó mới gọi là Thế giới Cực Lạc. Chúng ta phải hiểu ý nghĩa này.
Đại Tam muội có thể phá hết thảy chướng ngại. Khoa học gia hiện đại biết thế gian này có rất nhiều chướng ngại, thí dụ họ phát hiện không gian ba chiều, chúng ta hiện nay đang sống trong không gian ba chiều, họ biết có không gian bốn chiều, có không gian năm chiều. Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói ông xem thấy báo cáo khoa học, ông nói khoa học gia đã khẳng định tối thiểu có mười một chiều không gian tồn tại. Nếu như y theo Phật pháp để nói thì không chỉ có như vậy, chúng ta làm sao biết được? Chúng ta biết những không gian khác nhau này do đâu mà có, chúng ta hiểu được đạo lý này. Phật nói những không gian khác nhau là do vọng tưởng, phân biệt, chấp trước biến hiện ra, chúng ta biết hết thảy chúng sanh có vô lượng vô biên vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, cho nên thời gian, không gian sẽ có vô lượng vô biên chiều, đâu chỉ có mười chiều, hai mươi chiều thôi đâu! Đây là thật, không phải giả. Cho dù trong không gian ba chiều, hoàn cảnh sinh sống hiện nay của chúng ta, trong đó vẫn còn rất nhiều chướng ngại. Nói ba chiều, bốn chiều, đây là nói một cách đại khái, cũng giống như nhà Phật chúng ta nói mười pháp giới. Chúng ta đem mỗi một pháp giới gọi là một chiều, thì có mười chiều không gian. Cộng thêm nhất chân pháp giới thì là mười một chiều. Nhưng mỗi pháp giới lại có rất nhiều [pháp giới nhỏ ở trong ấy], nói không hết. Giả như bạn đạt được Tam muội, an trú trong Tam muội, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều dứt sạch thì sẽ đột phá được tất cả giới hạn này. Công phu thiền định cạn sâu không đồng, Định kém thì đột phá một tầng, hai tầng, Định sâu hơn thì có thể đột phá nhiều tầng hơn, chúng ta biết những tình hình này rất rõ ràng, trong thế gian có một số người tu định, Có một cụ kể cho tôi nghe, vào thời quá khứ lúc đại chiến thế giới lần thứ hai, trong thời gian chiến tranh ấy cụ ở Giang Tây, ở đó có một vị đạo sĩ, đạo sĩ này có thần thông, nói thật ra là có công phu định lực. Chỗ đó của cụ ở tương đối thấp, đạo sĩ này kêu cụ dọn nhà và nói chỗ đó vài ngày nữa sẽ bị ngập nước. Đạo sĩ cũng ở vùng gần đó, cụ bèn sai người dò xem đạo sĩ này có dọn hay không? Cụ thấy đạo sĩ dọn nhà sau đó cụ cũng dọn theo. Quả nhiên không sai, hoàn toàn phù hợp với thời gian đạo sĩ này nói. Một dấu hiệu báo trước gì cũng không thấy, kết quả là nước lũ bất ngờ ập đến, chỗ ấy bị ngập hết, từ đó cụ mới biết vị đạo sĩ này có thần thông. Sau đó không lâu vị đạo sĩ đó bảo với cụ, ông ấy nhìn thấy chỗ nào đó xảy ra chiến tranh, nói cho cụ biết phương hướng, đại khái là cách bao xa, ông đã nhìn thấy được. Cụ này là một người lính, là một quan lính cấp cao, cụ cho rằng vị đạo sĩ này nói không đúng, cụ chưa có nghe nói qua, không có loại tin tức này. Kết quả là qua ba tháng sau, người Nhật bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng, phương vị, tình huống, khoảng cách theo lời ông nói, ba tháng trước ông đã nhìn thấy rồi. Do đó có thể biết thời gian quá khứ, hiện tại, vị lai đều đồng thời tồn tại. Đó là công phu định lực nhỏ, không phải đại định, ông có thể đột phá thời gian ba tháng, sự việc ba tháng sau ông có thể thấy. Ông ở một căn nhà nhỏ trong núi sâu, ông có thể nhìn thấy Trân Châu Cảng ở cách đó mấy ngàn dặm, có thể nhìn thấy đảo Hawaii, đây là định lực nhỏ. Bây giờ trên thị trường có lưu thông “Mật mã kinh Thánh”, ông ta có thể nhìn thấy ba ngàn năm sau, định lực của ông còn cao minh hơn nhiều so với vị đạo sĩ đó. Đạo sĩ này chỉ có thể nhìn thấy vài tháng, vài năm, chỉ có thể nhìn thấy xung quanh vài ngàn dặm mà thôi, đây là một cảnh giới. Tam muội chẳng thể nghĩ bàn, có thể đột phá hết thảy chướng ngại.
Như Lai đoạn hoàn toàn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, cho nên năng lực của Ngài viên mãn, tận hư không, khắp pháp giới không có gì không biết, không có gì không thể, chúng ta hiểu được đạo lý này; thì sau đó những lời Phật dạy chúng ta mới tin tưởng, lời Ngài nói là thật không phải giả, Ngài đích thật có năng lực này. Ngài có năng lực này, chúng ta cũng có. Ngày nay chúng ta mất đi cái năng lực này là vì chúng ta không có định, trong tâm mỗi ngày vọng tưởng, phân biệt, chấp trước cả đống, thiệt thòi là ở chỗ này, chúng ta nhất định phải giác ngộ, phải hiểu rõ.
Tốt rồi, hôm nay chúng ta giảng đến đây thôi.
[1] Sát na (khana hoặc ksana), dịch nghĩa là Tu Du (trong khoảnh khắc), Niệm Khoảnh (trong khoảng một niệm), tức là khoảng thời gian để một niệm dấy lên và mất đi, rất ngắn ngủi. Có nhiều cách giải thích chữ này:
1. Theo Câu Xá Luận, quyển 12: Một trăm hai mươi sát na gọi là một Đát Sát Na (tat-ksana), sáu mươi Đát Sát Na là một Lạp Phược (lava), ba mươi Lạp Phược là một Mâu Hô Lật Đà (muhūrta). Ba mươi Mâu Hô Lật Đà là một ngày đêm. Như vậy, Sát Na tương đương khoảng 0.013 giây.
2. Theo Ma Ha Tăng Kỳ Luật, quyển 17, Sát Na còn gọi là Niệm, cứ 20 Niệm là một Thuấn, hai mươi Thuấn là một Đàn Chỉ (khảy ngón tay), 20 Đàn Chỉ là một La Dự (Lạp Phược), hai mươi La Dự là một Tu Du, ba mươi Tu Du là một ngày đêm. Như vậy, một Niệm tương đương với 0.018 giây.
3. Theo Đại Trí Độ Luận, quyển 83, sáu mươi niệm là một Đàn Chỉ.
4. Có thuyết lại cho Niệm là đơn vị lớn hơn Sát Na, như trong Nhân Vương Kinh nói thì chín mươi sát na là một niệm, còn Vãng Sanh Luận lại nói sáu mươi sát na là một niệm.
5. Cũng theo Nhân Vương Kinh (bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập) thì một sát na gồm chín trăm lần sanh diệt, còn Vãng Sanh Luận Chú lại cho rằng một sát na có một trăm lẻ một lần sanh diệt.
Còn nhiều thuyết khác nữa, nhưng đều cùng chia sẻ chung một đặc tính: Sát na cực ngắn ngủi, không thể cảm nhận được bằng giác quan thông thường.Ban biên dịch: Pháp Âm Tuyên Lưu
0 notes
Text
Đức Phật dạy:
Đừng quá mong muốn một cái gì đấy, vì nếu phúc phận của mình không đủ, thì cũng chẳng có được.
Đừng quá sợ mất một cái gì đấy, vì nếu phúc phận của mình đủ thì không ai có thể lấy đi được.
Người đến là duyên khởi, người đi là duyên tàn. Duyên sâu thì hợp, duyên
mỏng thì tan, vạn pháp do duyên, vạn sự tùy duyên, bất cầu bất khổ.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật🙏🙏🙏
0 notes
Text
Bản Chất 13 Hạnh Đầu Đà.
Nguồn gốc: Khi Thái Tử Tất Đạt Đa (sau này trở thành Đức Phật Thích Ca Mâu Ni) đi qua bốn cửa thành, thấy rõ bốn sự thật của cuộc đời: Sinh, lão, bệnh, tử thì Ngài đã giác ngộ và phát tâm dũng mãnh dứt bỏ cung thành điện ngọc, vợ đẹp, con yêu, trút bỏ áo Hoàng bào của một vị Thái tử để mặc lên chiếc áo của một vị tu sĩ và bắt đầu cuộc hành trình đi tầm sư học đạo. Theo quan niệm lúc bấy giờ là…
View On WordPress
0 notes
Link
#ồnào#CậpnhậttintứcmớinhấtvềThầyThíchMinhTuệ#MụcđíchtuhànhcủaThầyThíchMinhTuệ#NhữngxungquanhThầyThíchMinhTuệ#TiểusửthầyThíchMinhTuệ
0 notes
Text
Ngày hôm nay tớ đã đi khoá tu một ngày và có suy nghĩ Gì????
Để me kể lại hành trình một ngày này. Do lần đầu me đến m không biết phải làm sao thì có một ông và một cô hướng dẫn cho me, me được mặc áo Giới và trải nghiệm 1 ngày tu thiên
Đọc Kinh -> Nghe Giảng ( cách đức phật sinh ra, 7 bước chân trên đoá sen của phật) -> ngồi thiền 30 phút trước đức phật) -> ăn cơm trong chánh niệm -> đi ngủ trưa -> thiền 40p -> nghe giảng 2 tiếng ( về sự học, học điều quan trọng nhất là phải hành, và sự học không kiêu ngạo bảo thủ, Văn, Tư, Suy, Hành) văn là nghe, nghe để biết, biết để Tư duy và suy ngẫm và cuối cùng là Hành là thực hành, nhìn xa trông rộng thì tốt, nhưng phải biết nhìn từng bước đi bước chân của mình, học đến đâu hành đến đó) -> đi kinh Hành 1 vòng ở chùa
Một ngày có mình nhiều suy nghĩ mình vẫn đang còn nhiều sân si, và mình nhận rõ được cái sự kiên nhẫn của mình yếu như nào, mình đã có suy nghĩ là bỏ cuộc k tu nữa, khi ngồi thiền thì đếm từng giây sao mà lâu thế
Mình học đc cách sống chậm lại, và biết chịu đựng được những sự khó khăn, cũng chịu khó để hoàn thành và vượt qua được đến cuối ngày mình biết mình phải rèn luyện nhiều hơn nữa
Mình biết ơn cơ thể của mình ngày hôm nay, minh biết ơn đôi chân của mình vẫn mạnh khoẻ để đi được để ngồi thiền được, mình biết ơn đôi tai vẫn nghe đc và ngày hôm ngay đã nghe thầy giảng bài, mình biết ơn đôi mặt vẫn nhìn rõ mọi thứ, nhìn rõ đức phật. Mình biết ơn tất cả mọi người ngày hôm nay
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
0 notes
Text
Tìm Hiểu Về Phật Bản Mệnh Tuổi Mão Mới 2024
Phật bản mệnh là nhóm 8 vị Bản tôn quan trọng, đồng thời là những người hộ mệnh tôn chủ phù trợ cho 12 con giáp. Vậy phật bản mệnh tuổi Mão là ai? Tuổi Mão nên thờ vị Phật nào?" thì hãy cùng Mệnh 69 khám phá sâu hơn thông qua nội dung của bài viết dưới đây nhé!
Phật bản mệnh tuổi Mão là ai?
Phật bản mệnh tuổi Mão Phật bản mệnh tuổi Mão là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Ngài là vị Bồ Tát đại diện cho trí tuệ, sự sáng suốt và thông minh. Ngài là hiện thân của trí tuệ uyên thâm, giúp người tuổi Mão tăng cường trí tuệ, khai mở tâm trí, hóa giải hung khí, mang lại bình an và may mắn trong cuộc sống. Theo đạo Phật, người tuổi Mão thường được coi là được bảo hộ bởi một vị Phật, và theo cuốn Pháp Uyển Châu Lâm, Văn Thù Bồ Tát được xem là vị Phật bản mệnh cho người tuổi Mão. Văn Thù Bồ Tát không chỉ là vị Phật hộ mệnh mà còn tượng trưng cho trí tuệ hoàn hảo và sự khôn ngoan siêu việt. Người tuổi Mão có những đặc tính nhanh nhẹn, mưu trí, nhạy bén nhưng đôi khi thiếu quyết đoán. Văn Thù Bồ Tát được thờ cũng như một nguồn ánh sáng trí tuệ, giúp bổ sung và củng cố tính cách của người tuổi Mão. Việc thờ Phật bản mệnh này có thể giúp họ phát triển trí tuệ, sáng suốt, và khả năng xoay chuyển khó khăn trong cuộc sống. Vì vậy, người tuổi Mão có thể lựa chọn thờ tượng Văn Thù Bồ Tát để nhận được sự hộ mệnh và sự trí tuệ từ ngài. Tượng Văn Thù Bồ Tát có thể được thờ độc lập hoặc cùng với tượng Phật Thích Ca Mâu Ni và Phổ Hiền Bồ Tát. Thông qua việc thờ Phật, người tuổi Mão hy vọng có thể hướng đến sự giáo hóa tâm linh và sự phát triển cá nhân tích cực. Hình tượng Phật Văn Thù Bồ Tát: Ngài thường được tạc trong tư thế ngồi trên lưng sư tử, tay phải cầm kiếm trí tuệ tượng trưng cho trí tuệ sáng suốt, dẹp tan phiền não, tay trái cầm kinh Bát Nhã biểu tượng cho sự giác ngộ. Ngài cũng có thể được tọa trên tòa sen, tay cầm hoa sen hoặc ấn tam muội. Ý nghĩa của Phật Văn Thù Bồ Tát đối với người tuổi Mão: Gia hộ bình an: Ngài giúp người tuổi Mão tránh được tà ma, bệnh tật, tai ương, mang lại sức khỏe và bình an trong cuộc sống. Tăng cường trí tuệ: Ngài giúp người tuổi Mão thông minh, sáng suốt, học hành thi cử đỗ đạt, thành công trong công việc. Hóa giải hung khí: Ngài giúp người tuổi Mão hóa giải những điều xui xẻo, hung khí, mang lại may mắn và tài lộc. Mang lại sự bình an nội tâm: Ngài giúp người tuổi Mão có tâm trí thanh tịnh, an nhiên, tránh được phiền não, lo âu. Cách thỉnh Phật Văn Thù Bồ Tát: Người tuổi Mão nên thỉnh tượng Phật Văn Thù Bồ Tát bằng chất liệu phù hợp với bản mệnh như: đá thạch anh, đá ngọc bích, đá phỉ thúy,... Nên thỉnh tượng Phật tại các cửa hàng uy tín, chất lượng. Khi thỉnh Phật cần phải khai quang, điểm nhãn để tượng Phật được linh thiêng. Nên đặt tượng Phật tại vị trí trang trọng, sạch sẽ trong nhà. Nên thường xuyên lau dọn tượng Phật, dâng hương, hoa quả để thể hiện lòng thành kính. Lưu ý thỉnh Phật Văn Thù Bồ Tát: Khi thỉnh Phật bản mệnh, người tuổi Mão nên chọn ngày lành tháng tốt để cầu mong sự may mắn, bình an. Nên chọn tượng Phật được làm từ chất liệu tốt, Nên trì tụng kinh Bát Nhã để cầu mong được Phật Văn Thù Bồ Tát gia hộ. Niệm Phật thường xuyên để cầu bình an, may mắn. Sống thiện tâm, tích đức, giúp đỡ người khác. Tránh làm những điều ác, trái với đạo đức.
Mặt phật bản mệnh tuổi mão - Mặt phật Văn Thù Bồ Tát
Phật bản mệnh tuổi Mão Vị phật Văn Thù Bồ Tát là vị phật quan trọng trong Phật giáo Đại Thừa, thường được tôn vinh trong các kinh điển Phật giáo. Văn Thù Bồ Tát, là một trong Đẳng giác Bồ Tát và thuộc hàng Bồ Tát thượng thủ, có tiềm năng trở thành Phật. Ngài biểu tượng cho Trí Tuệ, có khả năng chuyển hóa vô minh và phiền não, cũng như hiểu rõ mọi chân lý và đạt được giải thoát. Văn Thù Bồ Tát là Bồ Tát thân cận của Phật Thích Ca Mâu Ni, thường xuất hiện để giới thiệu thời pháp của Phật hoặc thay Đức Phật diễn đạt Chánh pháp. Trong Kinh Kim Cương, ngài được coi là một vị thần thiền định, mang ý nghĩa vô cùng quan trọng. Văn Thù Bồ Tát tuổi mão đại diện cho Trí Tuệ, Bát Nhã và Giải Thoát, hướng dẫn chúng sinh sử dụng lòng nhẫn để nuôi dưỡng lòng từ bi, và sử dụng trí tuệ tinh thông để vượt qua vô minh và phiền não mang lại may mắn bình an. Hình tượng phật Văn Thù Bồ Tát thường được thể hiện trong tư thế. - Tư thế Ngồi trên Sư Tử Xanh: Văn Thù Bồ Tát thường được thể hiện ngồi trên lưng sư tử xanh, biểu tượng của sức mạnh và quyền lực. - Tay Phải Cầm Thanh Gươm Bốc Lửa: Trong tay phải, Bồ Tát cầm thanh gươm bốc lửa giữa đỉnh đầu. Thanh gươm tượng trưng cho trí tuệ, khả năng chặt đứt vô minh và phiền não, giúp giải thoát khỏi khổ đau và bất hạnh. - Tay Trái Ôm Cuốn Kinh Bát Nhã: Tay trái ôm cuốn kinh Bát Nhã, tượng trưng cho sự giác ngộ và sáng suốt thông qua việc tu học và nghiên cứu các giáo lý Phật pháp. - Thanh Tịnh và Hoa Sen Xanh: Đôi khi, Bồ Tát có thể được thể hiện cầm hoa sen xanh, biểu tượng cho thanh tịnh và trí tuệ trong tình thức nhẹ nhàng và tinh tế. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát có trí tuệ vô lượng, ánh sáng trí tuệ của ngài giúp chúng sinh có năng lực tự giải thoát khỏi phiền não, tham sân, si. Người thờ tượng ngài sẽ được ngài phù hộ, độ trì, được lĩnh ngộ trí tuệ của ngài, từ đó có năng lực tự chuyển hóa cuộc sống của bản thân, có cuộc sống và sự nghiệp suôn sẻ, thành công.
Ý nghĩa của Phật bản mệnh tuổi Ất Mão 1975
Phật bản mệnh tuổi Mão Người tuổi Ất Mão sinh năm 1975 mang theo mệnh Thủy (Đại Khê Thủy – nước khe lớn) và là Đắc Đạo Chi Thố (thỏ đắc đạo). Với sự hộ mệnh của Văn Thù Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Dược Sư Như Lai, và Hư Không Tạng Bồ Tát, người tuổi này được ban tặng trí tuệ, phúc lợi, sức khỏe, nét mặt tinh anh thông thái và độ bền lâu. Tính cách của người tuổi Ất Mão thường được mô tả là ôn hòa, mềm mỏng, nhưng vẫn rất bản lĩnh và kiên định trong việc theo đuổi mục tiêu. Họ thông minh và có sự thành thạo trong nhiều lĩnh vực, mang lại sự phú quý, nhưng đôi khi có thể thiếu kiên nhẫn và dễ bỏ dở công việc. Người tuổi Ất Mão thường có sở thích về văn chương và chính trị, đồng thời thích giúp đỡ những người gặp khó khăn. Tính cách này thường ưa cuộc sống an toàn, hòa bình, ít tham gia vào tranh đấu và không chủ trương vụ lợi cá nhân. Họ cũng có số sống xa cha mẹ, và để sống lâu, cần tích nhiều phúc đức. Trong khoảng từ 45-55 tuổi, người tuổi Ất Mão cần đề phòng về tai nạn và nguy cơ mất mát tài chính. Mặc dù cuộc sống không gặp nhiều trở ngại, nhưng cũng cần đề phòng về sức khỏe. Phật bản mệnh của họ, Văn Thù Bồ Tát, được coi là người hộ mệnh mang lại bình an, sự thuận lợi trong cuộc sống và công việc, và giúp hóa giải vận hạn cũng như khắc phục những khó khăn trong gia đình. Những ai tận hiến tâm linh và thờ Phật bản mệnh sẽ được ngài bảo vệ, che chở, và duy trì trạng thái bình an trong mọi tình huống. Họ sẽ được ban tặng sức khỏe mạnh mẽ, giảm nhẹ khỏi tai nạn và ác nghiệp, đồng thời tránh xa được sự hại từ kẻ tiểu nhân, trù ếm, và những rủi ro liên quan đến tài chính hay phá sản. Ngài cũng giúp họ giải quyết những thách thức trong tình duyên, công việc, học hành thi cử của bạn được suôn sẻ thành công.
Kết luận
Phật bản mệnh tuổi Mão Phật bản mệnh tuổi Mão là Văn Thù Bồ Tát, người hộ mệnh mang lại bình an, sự thịnh vượng và giúp người tuổi Mão vượt qua những thách thức trong cuộc sống. Với tính cách ôn hòa, mềm mỏng và sự kiên định trong mục tiêu, người tuổi Mão có thể tận hưởng sự hỗ trợ và sự bảo vệ từ Văn Thù Bồ Tát. Hy vọng thông tin này đã giúp làm sáng tỏ về vị Phật hộ mệnh và giá trị tâm linh mà người tuổi Mão có thể đón nhận từ việc thờ Phật bản mệnh của mình. Read the full article
#mặtphậtbảnmệnhtuổimão#mặtphậtvănthùbồtát#phậtbảnmệnhtuổiấtmão#TìmHiểuVềPhậtBảnMệnhTuổiMãovàẢnhHưởngTâmLinh#vănthùbồtáttuổimão
0 notes
Text
" Cái u mê đó chúng ta đem mà hoằng pháp, thì pháp bị bế tắc, chúng ta đem dạy cho đời, thì đời càng thêm đau khổ, chúng ta càng lãnh đạo, thì đạo không có đường để đi "
Bây giờ đây chúng ta làm lễ kỷ niệm Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời, có phải chúng ta làm lễ kỷ niệm suông không?
Có phải chúng ta đến nơi lễ đài để lạy Phật, nhưng xong rồi chứng nào vẫn giữ tật nấy hay không?
Nếu chúng ta đến nơi một lễ đài, để rồi chen nhau lạy, sau đó về nhà và chứng nào vẫn giữ tật nấy, xem người như rơm rác, thì thiết lập lễ đài để làm gì?
Chúng ta phải thiết lập lễ đài ngay chính trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta phải xây dựng cho được lễ đài ngay trong đời sống của chúng ta, cái lễ đài đó mới thật sự quan trọng. Chúng ta đừng khờ khạo góp tiền hàng triệu bạc, hàng chục triệu bạc để rồi làm công việc dã tràng xe cát biển đông. Chúng ta đừng bỏ ra cả một đời người để làm một công việc như vậy. Chúng ta phải biến lễ đài thành lễ đài ngay chính trong tâm hồn chúng ta và lễ đài khi đã được thiết trí trong tâm hồn của chúng ta, thì lẽ đương nhiên chúng ta đi đâu, ở đâu, lúc nào, ngủ, thức đều có Phật cả.
Thế thì, ngày hôm nay chúng ta làm lễ kỷ niệm Đức Phật ra đời, có phải rằng chúng ta chỉ biết nấu vài chén chè, vài dĩa xôi đặt lên bàn Phật không?
Chúng ta có thể nấu vài dĩa xôi, vài chén chè đặt trên bàn Phật với tâm hồn nào? Chúng ta đặt trên bàn Phật với tâm trạng một lữ khách đang thực tập khai Phật tri kiến, thị Phật tri kiến, ngộ Phật tri kiến, nhập Phật tri kiến thì chè, xôi đó cũng trở thành pháp lạc, cũng trở thành đề hồ. Trái lại, chúng ta đặt xôi, chè lên bàn Phật với u mê, tham lam, ích kỷ, hẹp hòi, tầm thường, hèn mạt, thì xôi, chè đó trở thành đất, đá.
Chúng ta làm lễ kỷ niệm ngày đản sanh của Đức Phật, chúng ta phải làm thế nào đó để Đức Phật trong chúng ta phải ra đời mỗi ngày. Chúng ta làm lễ Đức Phật đản sanh, nghĩa là chúng ta có khả năng làm cho Đức Phật trong ta đản sanh mỗi ngày và chúng ta làm được như thế là chúng ta rất giàu! Chứ chúng ta không đợi 365 ngày mới đến chùa làm lễ đản Sanh, Phật tử đâu mà nghèo nàn đến như thế, tu hành đâu mà tội nghiệp như thế!
Chúng ta phải làm như thế nào đó để Đức Phật trong chính chúng ta đản sanh mỗi ngày và mỗi ngày chúng ta phải thấy được Phật đản sanh. Còn ai mà không có khả năng làm cho Đức Phật của mình đản sanh hằng ngày, thì cứ đợi đi! Lo về chợ Đông Ba mà mua bán cho gắt, tới các cơ quan mà làm việc cho gắt, rồi đợi 365 ngày đến chùa Từ Đàm mà làm lễ, đến chùa Phước Duyên mà làm lễ, đến chùa Từ Hiếu mà làm lễ và nếu rủi ro, không gặp ngày chủ nhật, mình phải đi thi hoặc đi chấm thi… thì coi như Đức Phật tắt ngòi, hết ra đời luôn! Hết đản sinh luôn!
Còn nếu chúng ta thông minh, chúng ta biết làm cho Đức Phật chúng ta đản sinh mỗi ngày, thì Ma vương phải khóc, quỷ thần phải khóc, những kẻ manh tâm phá hoại Phật giáo phải khóc, phải dong tay đầu hàng.
Chúng ta có khả năng làm cho Đức Phật chúng ta ra đời mỗi ngày, thì chúng ta không cần phải xin phép ai để tổ chức đại lễ cả. Nhưng vì u mê, chúng ta không làm cho Đức Phật trong chúng ta đản sanh mỗi ngày, nên chúng ta phải xin phép tổ chức lễ Phật Đản. Cái u mê đó chúng ta đem mà hoằng pháp, thì pháp bị bế tắc, chúng ta đem dạy cho đời, thì đời càng thêm đau khổ, chúng ta càng lãnh đạo, thì đạo không có đường để đi! Cho nên, chúng tôi nói với tất cả quý vị là Phật tử thì chúng ta phải thông minh, làm cho Phật trong mỗi chúng ta đản sinh mỗi ngày và mỗi ngày chúng ta được đảnh lễ Phật đản sinh của chúng ta, đó mới thật sự là người đệ tử của Phật làm lễ kỷ niệm đản sinh một cách thông minh, một cách tài tình, một cách có trí tuệ và là một phương tiện thiện xảo. Ta mới có khả năng đi những bước vững chãi trên những hoa Sen, còn nếu không thì chỉ là hoa Sen vẽ trên giấy mà thôi.
|Hoà Thượng Thái Hòa|
0 notes