Mono no Aware - Ken Liu
Về tác giả
Ken Liu sinh năm 1976 tại Phúc Châu, Trung Quốc và di cư đến Mỹ khi còn rất trẻ. Anh là tác giả của nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết và tập truyện ngắn nổi tiếng như The Paper Menagerie, Grace of Kings và là người chuyển ngữ bộ tiểu thuyết Tam thể của Lưu Từ Hân sang tiếng Anh. Tác phẩm của anh thường kết hợp các yếu tố văn hóa phương Đông và phương Tây, đề cập đến các chủ đề như công nghệ, triết lý, văn hóa và nhân tính. Ken Liu là một trong những nhà văn khoa học viễn tưởng gốc Á nổi tiếng nhất thế giới. Anh đã nhận được nhiều giải thưởng văn học uy tín như Hugo, Nebula và World Fantasy. Ngoài sáng tác văn học, anh cũng làm việc như một luật sư, nhà dịch thuật và kỹ sư phần mềm.
Các thông tin khác cùng nhiều truyện ngắn và truyện dịch của Ken Liu có thể tìm thấy trên website https://kenliu.name/.
Về tác phẩm
Mono no Aware là một truyện ngắn của Ken Liu, đăng trên tạp chí Lightspeed năm 2013.
* * *
Thế giới có hình dạng giống như từ “cái ô” trong văn tự kanji, trừ việc được viết rất xấu, như chữ viết của tôi vậy, xấu đến nỗi tất cả các phần đều chẳng hài hòa chút nào.
Bố tôi sẽ rất xấu hổ về nét chữ trẻ con của tôi. Quả thực, tôi hầu như không thể viết được nhiều chữ kanji nữa. Việc học chính thức của tôi ở Nhật Bản đã dừng lại khi tôi chỉ mới lên tám.
Tuy nhiên, với mục đích hiện tại, nét chữ xấu này vẫn tạm chấp nhận được.
Tán dù bên trên là cánh buồm mặt trời. Ngay cả ký tự kanji méo mó đó cũng chỉ có thể cho ta một gợi ý về kích thước khổng lồ của nó. Mỏng hơn bánh tráng gấp trăm lần, chiếc đĩa quay ấy trải rộng hàng nghìn kilomet ngoài không gian như một cánh diều khổng lồ có ý định bắt giữ mọi photon bay qua. Cánh buồm cản bầu trời theo đúng nghĩa đen.
Bên dưới treo một sợi dây cáp bằng ống nano carbon dài 100km: chắc, nhẹ và dẻo. Cuối dây cáp treo lõi của con tàu Hy Vọng, mô-đun nhà ở, là một hình trụ dài 500m tập hợp toàn bộ 1.021 cư dân trên thế giới.
Ánh sáng từ mặt trời chiếu vào cánh buồm, đẩy chúng tôi đi trên một quỹ đạo xoắn ốc ngày càng mở rộng và tăng tốc rời xa khỏi nó. Gia tốc giữ chúng tôi dưới mặt đất, tạo ra trọng lượng cho vạn vật.
Chúng tôi đi theo đường cong của quỹ đạo đến một ngôi sao tên là 61 Virginis. Hiện tại thì ta không thể thấy nó được vì ngôi sao đang ở sau tán của cánh buồm mặt trời. Tàu Hy Vọng sẽ tới đó trong khoảng 300 năm nữa, có thể lâu hơn hoặc sớm hơn. Nếu may mắn, những đứa cháu chắt tôi sẽ được chứng kiến sự kiện đó - tôi đã từng tính thử xem con cháu đời thứ bao nhiêu của tôi sẽ có vinh dự ấy, nhưng giờ tôi đã quên mất rồi.
Mô-đun nhà ở không có cửa sổ, cũng không có khung cảnh các ngôi sao đều đặn bay vụt qua. Hầu hết mọi người chẳng quan tâm, họ đã chán ngắm sao từ lâu rồi. Nhưng tôi thích nhìn qua những máy ảnh lắp ở đáy tàu, để có thể ngắm nhìn thứ ánh sáng đo đỏ ngày một yếu dần phát ra từ ánh mặt trời của chúng tôi, quá khứ của chúng tôi.
* * *
“Hiroto,” Bố tôi lay tôi tỉnh giấc. “Thu dọn đồ đạc đi con. Đến giờ rồi.”
Chiếc vali nhỏ của tôi đã sẵn sàng. Tôi chỉ cần cất bộ cờ vây của mình trong đó. Bố tặng tôi bộ cờ này khi tôi lên năm, và đối với tôi, những lúc hai bố con chơi với nhau là khoảng thời gian yêu thích nhất trong ngày.
Khi gia đình tôi ra ngoài, mặt trời vẫn chưa mọc. Tất cả hàng xóm cũng đang xách túi đồ đứng bên ngoài nhà của họ, và chúng tôi lịch sự chào nhau dưới những ngôi sao mùa hạ. Như thường lệ, tôi tìm Cái Búa. Việc đó chỉ là chuyện nhỏ. Kể từ khi tôi có thể nhớ được, tiểu hành tinh đó đã là thứ sáng nhất trên bầu trời ngoài mặt trăng, và cứ mỗi năm nó lại sáng hơn nữa.
Một chiếc xe tải gắn loa phía trên chạy chầm chậm vào giữa phố.
“Các công dân ở Kurume chú ý! Vui lòng di chuyển đến trạm xe buýt một cách trật tự. Sẽ có rất nhiều xe buýt đưa các bạn đến ga tàu để có thể đến ga Kagoshima. Không được phép tự lái xe đi. Các bạn phải để đường đi thông thoáng cho xe buýt và các phương tiện công cộng!”
Mọi gia đình đều chậm rãi bước xuống vỉa hè.
“Bà Maeda,” Bố tôi nói với người hàng xóm. “Tôi giúp bà xách hành lý nhé?”
“Cảm ơn anh nhiều nhé,” bà lão nói.
Sau mười phút đi bộ, bà Maeda dừng lại và dựa vào cột đèn.
“Chỉ còn một chút nữa thôi, bà ơi,” tôi nói. Bà gật đầu nhưng hụt hơi không nói được. Tôi cố gắng cổ vũ bà. “Bà đang mong đợi gặp cháu trai ở Kagoshima phải không ạ? Cháu cũng nhớ Michi. Bà sẽ được ngồi cùng cậu ấy và nghỉ ngơi trên tàu vũ trụ. Họ nói sẽ có đủ chỗ cho tất cả mọi người.”
Mẹ mỉm cười tán thành với tôi.
“Thật may mắn biết bao khi chúng ta được ở đây,” Bố tôi nói. Ông chỉ vào những hàng người đang di chuyển thành hàng đến bến xe buýt, những người đàn ông trẻ tuổi mặc áo sơ mi đi giày chỉn chu trông thật nghiêm trang, những phụ nữ trung niên đang giúp đỡ cha mẹ già của họ, những con phố sạch sẽ, vắng vẻ, và yên tĩnh - dù ở trong đám đông, nhưng mọi người chỉ nói rất nhỏ. Chính bầu không khí dường như cũng trở nên lung linh cùng sự kết nối chặt chẽ giữa con người - gia đình, hàng xóm, bạn bè, đồng nghiệp - vô hình và bền chặt tựa như những sợi tơ.
Tôi đã xem trên TV về những gì đang xảy ra ở nơi khác quanh thế giới: bọn cướp bóc gào thét, nhảy múa trên đường phố, cảnh sát bắn chỉ thiên và đôi khi bắn cả vào đám đông, những tòa nhà bốc cháy, xác chết chất đống nằm ngổn ngang, các tướng lĩnh la hét trước những đám đông nổi loạn, thề sẽ trả thù cho những ân oán ngày xưa ngay cả khi thế giới đang diệt vong.
“Hiroto, bố muốn con hãy nhớ điều này,” Bố nói. Ông nhìn quanh, không kìm nén nổi cảm xúc. “Khi đối mặt với thiên tai, cũng là lúc chúng ta thể hiện sức mạnh của mình như một dân tộc. Con phải hiểu rằng chúng ta không được định nghĩa bởi sự cô đơn riêng lẻ, mà bởi mạng lưới các mối quan hệ mà chúng ta đang có. Một người phải vượt lên trên những nhu cầu ích kỷ của bản thân để tất cả chúng ta có thể sống hòa thuận. Cá nhân thì nhỏ bé và bất lực, nhưng nếu gắn kết chặt chẽ với nhau, thì toàn đất nước Nhật Bản sẽ là bất khả chiến bại.”
* * *
“Thưa thầy Shimizu,” cậu bé Bobby tám tuổi nói, “Em không thích trò chơi này.”
Trường học nằm tại trung tâm của mô-đun nhà ở hình trụ, nơi nó hưởng lợi khi được che chắn tốt nhất khỏi bức xạ. Trước cửa lớp học treo lá cờ Mỹ để học sinh nói lời tuyên thệ mỗi buổi sáng. Hai bên lá cờ Mỹ là hai hàng cờ nhỏ hơn thuộc về các quốc gia khác có người dân sống sót trên tàu Hy Vọng. Ở góc trái là bức tranh một đứa trẻ Hinomaru, các góc của tờ giấy trắng giờ đã quăn lại và mặt trời mọc đỏ rực một thời đã mờ dần thành màu cam của ánh hoàng hôn. Tôi đã vẽ nó vào ngày tôi lên tàu Hy Vọng.
Tôi kéo ghế ngồi cạnh chiếc bàn nơi Bobby và cậu bạn Eric đang ngồi. “Vì sao em không thích trò chơi này?”
Giữa hai cậu bé là một bàn cờ vây kích thước 19x19. Một ít quân cờ trắng và đen đã được đặt ở những điểm giao nhau.
Cứ hai tuần một lần, khi được nghỉ một ngày từ công việc thường nhật là theo dõi tình trạng của cánh buồm mặt trời, tôi thường đến đây dạy bọn trẻ đôi chút về Nhật Bản. Đôi khi tôi cảm thấy thật ngớ ngẩn khi làm điều này. Sao tôi có thể trở thành thầy giáo của bọn trẻ khi tôi chỉ còn ký ức mơ hồ của một cậu bé về Nhật Bản chứ?
Nhưng cũng chẳng còn sự lựa chọn nào khác. Tất cả những kỹ thuật viên không phải người Mỹ như tôi đều cảm thấy nhiệm vụ của chúng tôi là phải tham gia vào chương trình bồi dưỡng văn hóa tại trường và truyền đạt những gì chúng tôi có thể.
“Mọi quân cờ đá trông đều giống nhau,” Bobby nói, “và chúng không di chuyển. Chúng thật tẻ nhạt.”
“Thế em thích chơi trò gì?” Tôi hỏi.
“Asteroid Defender ạ!” Eric nói. “Trò chơi này hay lắm ạ. Thầy sẽ cứu được cả thế giới.”
“Ý thầy là một trò gì mà không phải chơi trên máy tính ấy.
Bobby nhún vai. “Cờ vua, chắc thế ạ. Em rất thích quân hậu. Quân hậu quyền lực và khác biệt so với các quân khác. Quân hậu chính là anh hùng ạ.”
“Cờ vua chỉ là trò chơi của các cuộc giao tranh nhỏ,” tôi nói. “Góc nhìn của cờ vây rộng hơn. Nó bao gồm toàn bộ trận đấu.”
“Nhưng chẳng có anh hùng nào trong cờ vây cả,” Bobby bướng bỉnh nói.
Tôi chẳng biết phải trả lời cậu bé thế nào.
* * *
Không còn nơi ở tại Kagoshima, nên mọi người phải ngủ bên ngoài dọc đường đến sân bay vũ trụ. Ở phía chân trời, chúng tôi có thể nhìn thấy những con tàu lớn màu bạc lấp lánh ánh mặt trời.
Bố đã giải thích với tôi rằng các mảnh vỡ rơi ra từ Cái Búa hướng tới Sao Hỏa và Mặt Trăng, vậy nên để được an toàn, các con tàu sẽ đưa chúng tôi đi xa hơn và đi vào không gian.
“Con muốn ngồi cạnh cửa sổ ạ,” Tôi nói, tưởng tượng thấy những ngôi sao bay ngang qua.
“Con nên nhường ghế ở cửa sổ cho những người nhỏ tuổi hơn con,” Bố nói. “Hãy nhớ rằng, tất cả chúng ta phải hy sinh để sống cùng nhau.”
Chúng tôi chất đầy những chiếc vali của mình vào tường và phủ ga trải giường lên để làm thành những chỗ trú ẩn khỏi gió và mặt trời. Hàng ngày các thanh tra chính phủ đều ghé thăm để phân phát đồ tiếp tế và đảm bảo rằng mọi thứ đều ổn.
“Hãy bình tĩnh!” Các thanh tra chính phủ nói. “Chúng tôi biết mọi thứ đang tiến triển chậm, nhưng chúng tôi đang làm hết sức có thể rồi. Tất cả mọi người đều sẽ có chỗ ngồi.”
Chúng tôi đành kiên nhẫn chờ đợi. Một số bà mẹ tổ chức các buổi học cho bọn trẻ trong ngày, các ông bố thì thiết lập một hệ thống ưu tiên để những gia đình có cha mẹ già và trẻ sơ sinh được lên tàu đầu tiên khi tàu sẵn sàng.
Sau bốn ngày chờ đợi, những lời trấn an từ các thanh tra chính phủ nghe có vẻ không khiến người ta yên tâm. Những tin đồn bắt đầu lan truyền trong đám đông.
“Chính là do những con tàu đấy. Chúng đang gặp trục trặc.”
“Những chủ thầu đã lừa dối chính phủ và nói rằng họ đã sẵn sàng nhưng thực chất thì chưa, và bây giờ Thủ tướng Chính phủ quá xấu hổ không dám thừa nhận sự thật.”
“Em nghe nói chỉ có một con tàu, và chỉ vài trăm người quan trọng nhất có chỗ ngồi. Những con tàu khác chỉ là vỏ rỗng để tượng trưng thôi.”
“Người ta đang hy vọng rằng người Mỹ sẽ thay đổi ý định và đóng nhiều tàu hơn cho các nước đồng minh như chúng ta”.
Mẹ tôi đến và thì thầm vào tai Bố.
Bố tôi lắc đầu và ngăn Mẹ lại. “Đừng nhắc lại những điều như vậy nữa.”
“Nhưng vì an toàn của Hiroto -”
“Không!” Tôi chưa bao giờ nghe thấy Bố giận dữ như vậy. Ông dừng lại, nuốt nước bọt. “Chúng ta phải tin tưởng lẫn nhau, tin tưởng vào Thủ tướng và Lực lượng Phòng vệ.”
Mẹ trông có vẻ không vui. Tôi tiến đến và nắm lấy tay Mẹ. “Con không sợ đâu ạ,” tôi nói.
“Đúng vậy,” Bố nói, giọng dịu đi. “Chẳng có gì phải sợ cả.”
Ông bế tôi vào lòng - tôi có chút ngượng vì Bố đã không làm việc này kể từ khi tôi còn rất nhỏ - và chỉ vào đám đông hàng nghìn người quanh chúng tôi trải dài mãi tận chân trời.
“Con hãy nhìn xem trong chúng ta có bao nhiêu người: các bà, các ông bố trẻ, các chị gái và em trai. Đối với bất cứ ai hoang mang và bắt đầu tung tin đồn trong đám đông như thế sẽ thật ích kỉ và sai lầm, và nhiều người có thể sẽ bị tổn thương. Chúng ta phải giữ vững tinh thần và nhìn vào toàn cảnh.
* * *
Mindy và tôi làm tình chậm rãi. Tôi thích ngửi mùi hương từ mái tóc xoăn đen của cô ấy, mái tóc dày, ấm, xộc vào mũi như mùi biển, như mùi muối tinh khiết.
Sau đó chúng tôi nằm cạnh nhau, nhìn lên màn hình trần của tôi.
Tôi tiếp tục nhìn lên cánh đồng sao đang lùi xa dần. Mindy làm việc trong lĩnh vực điều hướng, và cô ấy ghi lại nguồn cấp dữ liệu video buồng lái có độ phân giải cao cho tôi.
Tôi thích tưởng tượng rằng đó là một giếng trời lớn, và chúng tôi đang nằm dưới những vì sao. Tôi biết một số người khác thích để màn hình của mình hiển thị ảnh và video về Trái Đất xưa, nhưng điều đó chỉ làm tôi thêm buồn rầu.
“Làm sao để nói từ ‘ngôi sao’ trong tiếng Nhật ạ?” Mindy hỏi.
“Hoshi,” tôi nói với cô ấy.
“Còn từ ‘khách’ anh nói thế nào?”
“Okyakusan.”
“Vậy chúng ta là hoshi okyakusan ạ? Những vị khách của vì sao?”
“Không phải như thế đâu,” tôi nói. Mindy là một ca sĩ, và cô ấy thích thanh âm của những ngôn ngữ khác ngoài tiếng Anh. Có lần cô ấy đã nói với tôi rằng: “Thật khó để lắng nghe âm nhạc đằng sau những từ ngữ khi không hiểu rõ được ý nghĩa của chúng.”
Tây Ban Nha là tiếng mẹ đẻ của Mindy nhưng cô ấy thậm chí nhớ tiếng Tây Ban Nha còn ít hơn tôi nhớ tiếng Nhật. Cô ấy thường hay hỏi tôi về những từ tiếng Nhật và đưa chúng vào các ca khúc của mình.
Tôi cố gắng diễn đạt một cách thi vị cho cô ấy, nhưng không chắc liệu mình có thành công hay không. “Wareware ha, hoshi no aida ni kyaku ni kite.” Chúng ta đến để trở thành những vị khách của muôn vàn ngôi sao.
“Có cả nghìn cách để diễn đạt mọi thứ,” Bố tôi đã từng nói, “mỗi cách lại phù hợp với một thời điểm khác nhau.” Ông dạy tôi rằng ngôn ngữ của chúng tôi thật nhiều sắc thái, duyên dáng và tao nhã, mỗi câu đều như một lời thơ. Ngôn ngữ ấy nhiều tầng ý nghĩa, những điều không nói thành lời cũng mang sức nặng chẳng kém gì những điều đã nói ra, ngữ cảnh lồng trong ngữ cảnh, lớp chồng lớp, tựa như chất thép trong kiếm samurai vậy.
Tôi ước Bố ở bên tôi để tôi có thể hỏi ông: Làm sao để con nói “con nhớ bố” một cách phù hợp vào dịp sinh nhật 25 tuổi của mình, khi con là người sống sót cuối cùng trong dòng họ?
“Chị gái em đã từng rất thích truyện manga Nhật Bản.”
Cũng như tôi, Mindy là một trẻ mồ côi. Đó là điều thu hút chúng tôi lại gần nhau.
“Em có nhớ gì nhiều về chị ấy không?’
“Không nhiều lắm. Khi lên tàu em chỉ tầm năm tuổi. Trước đó, em chỉ nhớ được nhiều tiếng nổ súng và tất cả bọn em phải trốn trong bóng tối, vừa chạy vừa khóc và trộm đồ ăn. Chị ấy luôn ở đó để giữ em yên lặng bằng cách đọc truyện manga. Và rồi thì…”
Tôi mới xem đoạn video đó đúng một lần. Từ quỹ đạo cao của chúng tôi, viên bi xanh trắng là Trái Đất dường như chao đảo trong giây lát khi tiểu hành tinh va vào, và sau đó, những làn sóng âm thầm, cuồn cuộn của sự hủy diệt đã từ từ nhấn chìm quả địa cầu.
Tôi kéo cô ấy về phía mình và hôn nhẹ lên trán, một nụ hôn dỗ dành. “Chúng ta đừng nói về những điều đáng buồn nữa.”
Cô ấy vòng tay ôm tôi thật chặt, như thể sẽ không bao giờ buông tay.
“Còn truyện manga, em có nhớ gì về chúng không?” Tôi hỏi.
“Em nhớ trong manga đầy những người máy khổng lồ. Em đã nghĩ: Nhật Bản thật hùng mạnh.”
Tôi cố gắng tưởng tượng xem: những người máy anh hùng khổng lồ trên khắp Nhật Bản, đã liều mạng cứu người dân.
* * *
Lời xin lỗi của Thủ tướng được phát qua loa phóng thanh. Một số người cũng xem trên điện thoại.
Tôi nhớ rất ít về lời xin lỗi đó ngoại trừ việc giọng ông ấy nhỏ và trông ông thật già yếu. Ông có vẻ thành thật hối lỗi. “Tôi đã để mọi người thất vọng.”
Hóa ra những tin đồn là sự thật. Các công ty đóng tàu đã nhận tiền từ chính phủ nhưng đã không đóng những con tàu đủ kiên cố hoặc đủ khả năng như họ đã hứa. Họ vẫn tiếp tục diễn kịch đến tận phút cuối cùng. Khi chúng tôi nhận ra sự thật thì đã quá muộn.
Nhật Bản không phải là quốc gia duy nhất khiến người dân thất vọng. Những quốc gia khác trên thế giới đã tranh cãi về việc mỗi quốc gia nên đóng góp bao nhiêu cho nỗ lực sơ tán chung khi Cái Búa được lần đầu phát hiện sắp sửa va chạm vào Trái Đất. Và rồi, khi kế hoạch đó sụp đổ, đa số các nước đều quyết định rằng sẽ tốt hơn nếu đặt cược rằng Cái Búa sẽ di chuyển chệch hướng và thay vào đó, dành tiền và sinh mạng để chiến đấu với nhau.
Sau khi Thủ tướng kết thúc bài phát biểu, đám đông vẫn im lặng. Một vài giọng nói giận dữ hét lên nhưng cũng nhanh chóng lắng xuống. Dần dần, theo trật tự, mọi người bắt đầu thu dọn đồ đạc và rời khỏi các khu cắm trại tạm thời.
* * *
“Mọi người chỉ đi về nhà thôi sao?” Mindy ngờ vực hỏi.
“Ừ.”
“Không có cướp bóc, không có chạy loạn, cũng không có binh lính nổi loạn trên đường phố sao?”
“Vì đây là Nhật Bản,” tôi nói với cô ấy. Và tôi có thể nghe được niềm tự hào trong giọng nói của mình, như một dư âm giọng nói của bố.
“Em đoán mọi người đều đã từ bỏ,” Mindy nói. “Họ đã bỏ cuộc. Có lẽ đó là một việc làm văn minh.”
“Không!” Tôi cố không để lộ sự nóng giận trong lời nói của mình. Câu nói của cô ấy khiến tôi thấy khó chịu, như lời nhận xét của Bobby rằng cờ vây tẻ nhạt vậy. “Không phải thế đâu em.”
* * *
“Bố đang nói chuyện với ai thế ạ?” Tôi hỏi.
“Tiến sĩ Hamilton,” Mẹ nói. “Chúng ta - ông ấy và bố mẹ - học chung trường đại học ở Mỹ.”
Tôi quan sát Bố nói tiếng Anh qua điện thoại. Ông dường như là một con người hoàn toàn khác: Không phải chỉ vì ngữ điệu và cao độ trong giọng nói của Bố; mà gương mặt Bố trông hoạt bát hơn, cử chỉ tay cũng nhiều hơn. Ông nhìn giống như một người nước ngoài vậy.
Bố hét vào điện thoại.
“Bố đang nói gì vậy ạ?”
Mẹ bảo tôi im lặng. Mẹ chăm chú quan sát Bố, lắng nghe từng chữ một.
“Không,” Bố nói vào điện thoại. “Không được!” Câu này thì tôi không cần dịch.
Sau đó Mẹ tôi nói, “Anh ấy đang cố gắng làm điều đúng đắn, theo cách của riêng mình.”
“Anh ta vẫn ích kỷ như ngày nào,” Bố cáu kỉnh.
“Thật chẳng công bằng chút nào,” Mẹ nói. “Anh ấy không bí mật gọi cho em. Thay vào đó, Hamilton gọi anh vì anh ấy tin rằng nếu hai người hoán đổi vị trí cho nhau, anh ấy sẽ sẵn lòng trao cho người phụ nữ mình yêu cơ hội sống sót, ngay cả khi là với người đàn ông khác.”
Bố nhìn Mẹ. Tôi chưa bao giờ nghe bố mẹ tôi nói “anh yêu em” với nhau, nhưng có những lời không cần thiết phải nói ra mới cảm nhận được.
“Mẹ sẽ không bao giờ đồng ý với bố con nữa.” Mẹ mỉm cười nói. Rồi bà đi vào bếp nấu bữa trưa. Ánh mắt của Bố dõi theo Mẹ.
“Hôm nay đẹp trời con nhỉ,” Bố bảo tôi. “Hai bố con mình đi dạo đi.”
Chúng tôi đi ngang qua những người hàng xóm khác đi bộ dọc vỉa hè. Chúng tôi chào nhau, hỏi thăm sức khỏe của nhau. Mọi thứ đều có vẻ bình thường. Cái Búa ngày càng tỏa sáng rực rỡ trong ánh hoàng hôn phía trên đầu.
“Con chắc hoảng sợ lắm nhỉ, Hiroto,” ông nói.
“Họ sẽ không cố gắng đóng thêm tàu thoát hiểm nữa ạ?”
Bố không trả lời. Cơn gió cuối hè mang theo tiếng ve kêu râm ran.
“Ve sầu ca vang
Không hề biết trước
Khi nào đời tàn.”
“Bố ơi?”
“Đó là một bài thơ của Basho. Con có biết bài thơ đó không?”
Tôi lắc đầu. Tôi không hứng thú với thơ ca cho lắm.
Bố thở dài và mỉm cười với tôi. Ông nhìn lên mặt trời lặn và lại bắt đầu đọc thơ:
“Ánh mặt trời phai mờ mang vẻ đẹp vô hạn
Dẫu cho thời điểm đã gần đến cuối ngày
Tôi tự nhẩm lại những dòng thơ. Điều gì đó từ lời thơ khiến tôi xúc động. Tôi cố gắng diễn tả thứ cảm xúc đó thành lời: “Như có một chú mèo con hiền lành đang liếm lấy trái tim con vậy.”
Thay vì cười nhạo tôi, Bố tôi gật đầu nghiêm nghị.
“Đó là một bài thơ của nhà thơ cổ điển thời Đường Li Shangyin. Mặc dù là một người Trung Quốc, nhưng cảm xúc ông ấy gửi gắm trong bài thơ lại mang đậm phong cách Nhật Bản.”
Chúng tôi tiếp tục dạo bước, và tôi dừng lại bên một bông hoa bồ công anh màu vàng. Đối với tôi, góc nghiêng của bông hoa trông thật đẹp. Tôi lại có cảm giác nhột nhột như lưỡi mèo liếm lấy tim mình.
“Bông hoa…” tôi ngập ngừng. Tôi không biết diễn tả sao cho đúng.
Bố nói,
“Những cánh hoa rơi xuống
Nhuốm vàng như tia sáng trăng
Đêm nay là đêm thật dài”
Tôi gật đầu. Đối với tôi, hình ảnh ấy dường như vừa phù du vừa vĩnh cửu, giống như cách tôi đã trải qua thời còn trẻ. Điều này làm tôi vừa buồn rầu lại vừa hân hoan.
“Mọi thứ đều sẽ qua đi, Hiroto à,” Bố nói. “Cảm xúc trong tim con: gọi là mono no aware. Đó là một cảm giác về sự ngắn ngủi của mọi thứ trong cuộc sống. Mặt trời, bồ công anh, ve sầu, Cái Búa, và tất cả chúng ta: Chúng ta đều tuân theo các phương trình của James Clerk Maxwell và đều là những hình mẫu phù du cuối cùng rồi sẽ tàn lụi, dù chỉ trong một giây hay cả một liên đại.”
Tôi nhìn quanh những con phố sạch sẽ, đoàn người đi chậm, cỏ cây, ánh đèn buổi tối, và tôi biết rằng mọi thứ đang ở đúng vị trí của mình; tất cả đều ổn. Hai bố con tiếp tục đi dạo, bóng của chúng tôi chạm vào nhau.
Mặc dù Cái Búa lơ lửng ngay trên đầu, tôi cũng không hề hoảng sợ.
* * *
Công việc của tôi đòi hỏi phải nhìn chăm chú vào lưới đèn báo hiệu trước mặt. Trông nó hơi giống một bàn cờ vây khổng lồ.
Hầu hết thời gian công việc của tôi đều rất tẻ nhạt. Các bóng đèn, dùng để biểu thị độ căng trên những điểm khác nhau của cánh buồm mặt trời, cứ vài phút lại phát ra cùng một tín hiệu khi cánh buồm nhẹ nhàng uốn cong trong ánh sáng mặt trời đang mờ dần phía xa. Tín hiệu theo chu kỳ của những bóng đèn quen thuộc với tôi như nhịp thở của Mindy khi cô ấy ngủ vậy.
Chúng tôi đang di chuyển với tốc độ bằng một phần nhỏ tốc độ ánh sáng. Do đó, trong vài năm tới, khi mà di chuyển đủ nhanh, chúng tôi sẽ thay đổi lộ trình đến 61 Virginis và các hành tinh nguyên sơ của nó, và sẽ rời bỏ mặt trời - nơi đã sinh ra chúng tôi như một ký ức bị lãng quên.
Nhưng hôm nay, tín hiệu từ những bóng đèn có cảm giác bị tắt. Một trong những ngọn đèn ở góc tây nam hình như nhấp nháy quá nhanh.
“Điều hướng,” tôi nói qua micro, “Đây là Trạm Giám sát Cánh Buồm Alpha, bạn có chắc chắn rằng chúng ta đang đi đúng hướng không?”
Một phút sau, giọng của Mindy truyền qua tai nghe của tôi, hơi pha chút ngạc nhiên. “Em không nhận thấy điều gì bất thường, nhưng có một chút lệch hướng. Có chuyện gì thế ạ?”
“Anh vẫn chưa chắc chắn.” Tôi nhìn chằm chằm vào lưới đèn trước mặt, nhìn vào ngọn đèn ương bướng không đồng bộ, không hài hòa.
* * *
Mẹ đưa tôi đến Fukuoka, không đi cùng Bố. “Chúng ta sẽ đi mua sắm cho lễ Giáng Sinh.” bà nói. “Bố mẹ muốn làm con ngạc nhiên.” Bố tôi mỉm cười và lắc đầu.
Chúng tôi đi qua những con phố nhộn nhịp. Bởi vì đây có thể là Giáng Sinh cuối cùng trên Trái Đất, nên không khí có thêm chút hân hoan.
Trên tàu điện ngầm tôi liếc nhìn tờ báo người đàn ông ngồi bên cạnh đang cầm. Tiêu đề là “Hoa Kỳ tấn công trở lại!”. Bức ảnh lớn cho thấy tổng thống Mỹ đang cười đắc thắng. Dưới đó là một loạt các hình ảnh khác, một vài ảnh tôi đã nhìn thấy trước đây: con tàu sơ tán thử nghiệm đầu tiên của Mỹ từ nhiều năm trước đã nổ tung trong chuyến bay thử nghiệm, lãnh tụ của của quốc gia bí ẩn nào đó tự nhận trách nhiệm trên TV; lính Mỹ đang hành quân vào một thủ đô nước ngoài.
Bên dưới là một bài báo nhỏ hơn: “Các Nhà Khoa Học Mỹ Hoài Nghi Về Viễn Cảnh Ngày Tận Thế.” Bố đã nói một số người thà tin rằng thảm họa là không có thật còn hơn là chấp nhận việc họ không thể làm gì được nữa.
Tôi mong đợi được đi chọn quà cho Bố. Nhưng thay vì tới khu vực đồ điện tử, nơi tôi đã trông chờ được Mẹ đưa đi mua quà cho Bố, chúng tôi đến một khu vực của thành phố mà trước đây tôi chưa từng đến. Mẹ lấy điện thoại ra gọi một cuộc ngắn, nói tiếng Anh. Tôi nhìn Mẹ ngạc nhiên.
Sau đó chúng tôi đứng trước một tòa nhà với lá cờ Mỹ to lớn treo phía trên. Chúng tôi đi vào trong và ngồi xuống tại một văn phòng. Một người đàn ông Mỹ đi vào. Mặt ông ấy thật buồn, nhưng ông đang cố làm việc chăm chỉ để không lộ vẻ buồn rầu nữa.
“Rin.” Người đàn ông gọi tên mẹ tôi và ngừng lại. Chỉ trong một âm tiết đó, tôi nghe thấy được sự hối tiếc, niềm khao khát và cả một câu chuyện phức tạp.
“Đây là Tiến sĩ Hamilton,” Mẹ nói với tôi. Tôi gật đầu và đề nghị bắt tay ông ấy, như tôi đã thấy người Mỹ làm trên TV.
Tiến sĩ Hamilton và Mẹ nói chuyện được một lúc. Mẹ bật khóc, còn Tiến sĩ Hamilton lúng túng đứng dậy, như thể ông muốn ôm Mẹ nhưng không dám.
“Con sẽ ở cùng Tiến sĩ Hamilton,” Mẹ bảo tôi.
“Gì cơ ạ?”
Bà giữ lấy vai tôi, cúi xuống, và nhìn vào mắt tôi. “Người Mỹ có một con tàu bí mật trong quỹ đạo. Đây là con tàu duy nhất mà họ có thể phóng vào vũ trụ trước khi gia nhập vào cuộc chiến này. Tiến sĩ Hamilton đã thiết kế con tàu. Ông ấy là… bạn cũ của mẹ, và ông ấy có thể đưa một người lên tàu cùng. Đây là cơ hội duy nhất của con đấy.”
“Không, con không đi đâu hết.”
Rốt cuộc, Mẹ vẫn mở cửa rời đi. Tiến sĩ Hamilton giữ chặt lấy tôi khi tôi vừa đá vừa la hét.
Tất cả chúng tôi đều ngạc nhiên khi nhìn thấy Bố đứng đó.
Mẹ bật khóc nức nở.
Bố ôm Mẹ, hành động mà tôi chưa từng nhìn thấy Bố làm trước đây. Đó có vẻ là một cử chỉ mang đậm phong cách người Mỹ.
“Em xin lỗi,” Mẹ nói. Bà vừa khóc vừa liên tục nói câu xin lỗi.
“Không sao đâu,” Bố nói. “Anh hiểu mà.”
Tiến sĩ Hamilton buông tôi ra, và tôi chạy đến chỗ bố mẹ, ôm lấy họ thật chặt.
Mẹ nhìn Bố, không nói gì nhưng trong ánh mắt đã chứa đựng tất cả.
Gương mặt Bố dịu dàng như một bức tượng sáp sống động. Ông thở dài và nhìn tôi.
“Con không sợ đúng không?” Bố hỏi.
Tôi lắc đầu.
“Một bông hoa bồ công anh
Trong làn gió cuối thu dịu mát
Đưa hạt giống thật xa và rộng.”
“Vậy thì con có thể đi được rồi,” Bố nói. Ông nhìn vào mắt Tiến sĩ Hamilton. “Cảm ơn anh đã chăm sóc con trai tôi.”
Hai mẹ con đều nhìn Bố ngạc nhiên.
Tôi gật đầu, giả vờ hiểu.
Bố ôm tôi một cách mãnh liệt và nhanh chóng.
“Hãy nhớ rằng con là người Nhật Bản.”
Và rồi họ đi mất.
* * *
“Thứ gì đó đã đâm thủng cánh buồm,” Tiến sĩ Hamilton nói.
Căn phòng nhỏ chỉ chứa ban chỉ huy cao cấp nhất - cộng với Mindy và tôi vì chúng tôi đều đã biết chuyện. Không có lý do gì để gây ra sự hoảng loạn trong dân chúng.
“Lỗ thủng khiến con tàu nghiêng sang một bên và chệch hướng. Nếu không khắc phục sự cố, lỗ thủng sẽ ngày càng to, và cánh buồm sẽ sớm sụp đổ, và rồi tàu Hy Vọng sẽ trôi dạt trong không gian.
“Có cách nào để sửa nó không?” Thuyền trưởng hỏi.
Tiến sĩ Hamilton, người mà tôi coi như cha mình, lắc đầu với mái tóc bạc trắng. Tôi chưa bao giờ thấy ông chán nản như vậy.
“ Lỗ hổng cách trung tâm cánh buồm vài trăm kilomet. Sẽ mất nhiều ngày để đưa một người ra đó vì ta không thể di chuyển quá nhanh trên bề mặt của cánh buồm - rủi ro một lỗ thủng khác là quá lớn. Và trước khi chúng ta đưa bất kỳ ai ra nơi đó, lỗ hổng sẽ ngày càng to đến nỗi không thể khắc phục nổi.”
Và rồi nó tan biến. Mọi chuyện vẫn tiếp diễn.
Tôi nhắm mắt lại và hình dung ra cánh buồm. Màng cánh buồm mỏng đến nỗi nếu không cẩn thận chạm vào sẽ bị thủng. Nhưng lớp màng này được hỗ trợ bởi một hệ thống các nếp gấp và thanh chống phức tạp tạo cho buồm độ cứng và sức căng. Khi còn nhỏ, tôi đã xem chúng trải ra trong không gian, hệt như một trong những tác phẩm origami của mẹ.
Tôi tưởng tượng ra mình đang móc và tháo một sợi dây cáp vào giàn giáo của thanh chống khi tôi lướt dọc trên bề mặt cánh buồm, giống như một con chuồn chuồn đang lướt qua mặt ao.
“Tôi có thể đến đó trong vòng 72 giờ,” tôi nói. Mọi người đều quay sang nhìn tôi. Tôi giải thích ý kiến của mình. “Tôi biết rõ mô hình của những thanh chống, bởi vì tôi đã dành phần lớn cuộc đời mình theo dõi chúng từ xa. Tôi có thể tìm ra con đường nhanh nhất.”
Tiến sĩ Hamilton vẫn còn hoài nghi. “Những thanh chống ��ó chưa bao giờ được thiết kế cho những thao tác như vậy. Ta chưa bao giờ lên kế hoạch cho kịch bản này.”
“Vậy thì chúng ta sẽ phải tùy cơ ứng biến,” Mindy nói. “Chúng ta là người Mỹ cơ mà, chết tiệt. Chúng ta sẽ không bao giờ bỏ cuộc.”
Tiến sĩ Hamilton nhìn lên. “Cảm ơn cháu, Mindy.”
Chúng tôi lên kế hoạch, thảo luận cùng nhau, chúng tôi còn hét vào mặt nhau, chúng tôi làm việc thâu đêm.
* * *
Việc leo lên dây cáp từ mô-đun nhà ở đến cánh buồm mặt trời thật dài và gian truân. Tôi phải mất 12 giờ để trèo lên.
Để tôi minh họa cho bạn xem tôi trông thế nào bằng ký tự thứ hai trong tên mình:
Ký tự này nghĩa là “bay lên”. Bạn thấy gốc từ bên trái chứ? Chính là tôi, khi được buộc vào dây cáp với cặp anten gắn trên mũ bảo hiểm. Lưng tôi đeo đôi cánh - hay trong trường hợp này là những tên lửa đẩy và bình nhiên liệu bổ sung để đẩy tôi bay lên trên về phía mái vòm phản chiếu khổng lồ chắn ngang cả bầu trời, tấm gương phản chiếu cánh buồm mặt trời.
Mindy trò chuyện với tôi qua liên kết radio. Chúng tôi kể cho nhau những câu chuyện cười, chia sẻ những bí mật, nói về những thứ hai đứa muốn làm trong tương lai. Khi không còn gì để nói, cô ấy hát cho tôi nghe. Mục đích là để giữ cho tôi tỉnh táo.
“Wareware ha, hoshi no aida ni kyaku ni kite.”
* * *
Nhưng việc leo lên dây cáp thực ra mới chỉ là khởi đầu. Hành trình vượt qua cánh buồm dọc theo mạng lưới các thanh chống để đến lỗ thủng còn khó khăn hơn nhiều.
Đã 36 giờ kể từ khi tôi rời con tàu. Giọng của Mindy bây giờ đã mệt mỏi, không còn chút sức lực nào. Cô ấy ngáp.
“Ngủ ngon nhé, em yêu,” tôi thì thầm vào micro. Tôi mệt mỏi đến nỗi cũng muốn chợp mắt một lát.
“Tôi đang đi dạo dọc con đường vào một buổi tối mùa hạ, với bố bên cạnh.”
“Hiroto à, chúng ta sống ở vùng đất của núi lửa, động đất, bão và sóng thần. Chúng ta luôn phải đối mặt với sự tồn tại bấp bênh, lơ lửng ở dải đất nghèo nàn trên bề mặt hành tinh này, nằm giữa ngọn lửa phía dưới và vùng chân không băng giá phía trên.”
Và tôi lại một mình trở lại với bộ đồ của tôi một lần nữa. Sự mất tập trung nhất thời của tôi khiến tôi đập ba lô vào một trong những thanh xà của cánh buồm, suýt nữa làm văng một trong các bình nhiên liệu. May mà tôi đã bắt lấy nó kịp thời. Khối lượng các thiết bị của tôi đã giảm nhẹ xuống từng gam cuối cùng để tôi có thể di chuyển nhanh hơn và không xảy ra sai sót gì. Tôi không thể để mất bất cứ thứ gì nữa.
Tôi cố gắng thoát khỏi giấc mơ và tiếp tục di chuyển.
“Tuy nhiên, chính nhận thức về sự cận kề cái chết, về vẻ đẹp vốn có trong từng khoảnh khắc đã cho phép chúng ta chịu đựng. Con trai à, mono no aware, là sự đồng cảm với vũ trụ. Đó chính là sức mạnh tâm hồn của dân tộc ta. Nó cho phép chúng ta chịu đựng Hiroshima, chịu đựng sự chiếm đóng, chịu đựng sự thiếu thốn và viễn cảnh hủy diệt mà không rơi vào tuyệt vọng.”
“Hiroto, dậy đi!” Giọng Mindy tuyệt vọng, cầu xin. Tôi giật mình tỉnh giấc. Đã bao lâu rồi tôi không được ngủ? Hai, ba hay bốn ngày rồi?
Trong khoảng 50km cuối cùng của hành trình, tôi phải buông các thanh chống cánh buồm và chỉ nhờ vào tên lửa để di chuyển mà không buộc dây cáp, rồi lướt trên bề mặt cánh buồm trong khi vạn vật đều đang chuyển động với tốc độ bằng một phần tốc độ ánh sáng. Chỉ là ý nghĩ thôi cũng đủ khiến tôi choáng váng.
Rồi đột nhiên bố tôi lại ở bên cạnh tôi, lơ lửng trong không gian bên dưới cánh buồm. Chúng tôi đang chơi cờ vây.
“Hãy nhìn về góc tây nam. Con có thấy đội quân của con bị chia làm đôi không? Các quân cờ trắng của bố sẽ sớm bao vây và bắt hết cả nhóm này.”
Tôi nhìn vào góc ông chỉ và thấy mình bị rơi vào thế nguy hiểm. Tôi đã bỏ qua một khoảng trống. Những gì tôi nghĩ là cả một đội quân cờ vây nhưng thực tế lại là hai nhóm riêng biệt với lỗ hổng ở giữa. Tôi phải lấp đầy khoảng trống bằng nước cờ tiếp theo của mình.
Tôi rũ bỏ ảo giác. Tôi phải kết thúc hành trình này, và sau đó tôi có thể ngủ.
Có một lỗ thủng trên cánh buồm rách nát trước mặt tôi. Ở tốc độ chúng tôi đang di chuyển, ngay cả một hạt bụi nhỏ thoát khỏi tấm chắn ion cũng có thể gây ra sự tàn phá. Mép lởm chởm của lỗ thủng vỗ nhẹ trong không gian, được đẩy lên bằng gió mặt trời và áp suất bức xạ. Tuy một photon riêng lẻ thì rất nhỏ, không đáng kể, thậm chí không trọng lượng, nhưng tất cả photon kết hợp lại có thể tạo ra một cánh buồm lớn bằng cả bầu trời và đẩy một nghìn người đi cùng.
Vũ trụ thật diệu kỳ.
Tôi nâng một quân cờ đen lên và chuẩn bị lấp đầy chỗ trống để hợp nhất đội quân của mình thành một.
Quân cờ ấy cũng giống như bộ dụng cụ khâu vá trong ba lô của tôi. Tôi điều động các động cơ đẩy của mình cho đến khi tôi lơ lửng ngay trên vết rách cánh buồm. Qua lỗ thủng tôi có thể nhìn thấy những vì sao xa xôi, những vì sao mà nhiều năm rồi không ai trên tàu thấy được. Tôi nhìn chúng và tưởng tượng rằng một ngày nào đó, ở một trong các hành tinh này, loài người sẽ hợp nhất thành một đất nước mới, sẽ phục hồi khỏi nguy cơ tuyệt chủng, sẽ khởi đầu lại và phát triển hưng thịnh một lần nữa.
Tôi cẩn thận đắp miếng băng lên vết rách, rồi bật đèn khò nhiệt. Tôi đưa đèn khò qua vết rách, và tôi có thể cảm nhận được miếng băng đang tan chảy ra và hợp nhất với các chuỗi hydrocacbon ở màng cánh buồm. Khi việc này thực hiện xong, tôi sẽ làm bốc hơi và lắng đọng các nguyên tử bạc trên đó để tạo thành một lớp phản chiếu sáng bóng.
“Thành công rồi,” tôi nói qua micro. Và tôi nghe thấy những âm thanh bị bóp nghẹt của tiếng hò reo ăn mừng ở đầu dây bên kia.
“Anh quả là anh hùng,” Mindy nói.
Tôi tưởng tượng mình là người máy Nhật Bản khổng lồ trong truyện manga và mỉm cười.
Đèn khò xèo xèo và vụt tắt.
“Hãy xem xét cẩn thận,” Bố nói. “Con muốn chơi nước cờ tiếp theo ở đó để lấp đầy chỗ trống. Nhưng đó là điều con thực sự muốn sao?”
Tôi lắc bình nhiên liệu gắn vào đèn khò. Không còn gì cả. Đây là cái bình mà tôi đã đập vào một trong những thanh xà của cánh buồm. Vụ va chạm chắc chắn đã gây ra rò rỉ và không còn đủ nhiên liệu để hoàn thành miếng vá.
“Hãy quay lại ngay,” Tiến sĩ Hamilton nói. “Chúng ta sẽ bổ sung nhiên liệu cho cháu và thử lại một lần nữa.”
Tôi kiệt sức rồi. Cho dù tôi có cố gắng thế nào đi chăng nữa, tôi không thể rời khỏi đây nhanh như vậy. Và đến lúc đó ai biết được vết rách sẽ lớn đến mức nào? Tiến sĩ Hamilton cũng hiểu rõ điều này như tôi. Ông ấy chỉ muốn đưa tôi trở lại sự an toàn ấm áp của con tàu.
Tôi vẫn còn nhiên liệu trong bình, để dành cho chuyến trở về của tôi.
Khuôn mặt bố tôi đầy mong đợi.
“Con thấy rồi ạ,” tôi nói chậm rãi. “Nếu con chơi nước cờ tiếp theo ở chỗ trống này, con sẽ không còn cơ hội quay lại nhóm quân nhỏ ở phía đông bắc. Bố sẽ bắt hết chúng.”
“Một quân cờ không thể ở hai vị trí được. Con buộc phải lựa chọn, con trai à.”
“Con nên làm gì bây giờ ạ?”
Tôi nhìn bố đợi câu trả lời.
“Hãy nhìn xung quanh con xem,” Bố nói. Và tôi nhìn thấy Mẹ, bà Maeda, Thủ tướng, tất cả hàng xóm của chúng tôi từ Kurume, và những người đã đợi cùng chúng tôi ở Kagoshima, Kyushu, ở cả Tứ Đảo, trên toàn Trái Đất và trên cả tàu Hy Vọng. Họ nhìn tôi đầy mong đợi, hy vọng tôi sẽ làm một điều gì đó.
Giọng bố trầm lắng:
“Những ngôi sao tỏa sáng lấp lánh.
Chúng ta đều chỉ là những vị khách đi ngang qua
Một nụ cười và một cái tên.”
“Cháu có cách này,” tôi nói với Tiến sĩ Hamilton qua radio.
“Em biết anh sẽ tìm ra giải pháp mà,” Mindy nói, giọng đầy tự hào và hạnh phúc.
Tiến sĩ Hamilton im lặng một lúc. Ông biết tôi đang nghĩ gì. Và sau đó nói: “Hiroto, cảm ơn cháu.”
Tôi tháo đèn khò ra khỏi bình nhiên liệu vô dụng của nó và nối vào cái bình trên lưng. Tôi bật đèn khò lên. Ngọn lửa sáng ngời, sắc bén, như một lưỡi gươm ánh sáng. Tôi điều khiển các photon và nguyên tử trước mặt, biến chúng thành một mạng lưới sức mạnh và ánh sáng.
Những ngôi sao ở mặt bên kia đã bị phong ấn một lần nữa. Bề mặt phản chiếu của cánh buồm trông thật hoàn hảo.
“Bác chỉnh lại hướng đi ạ,” tôi nói qua micro. “Cháu làm xong việc rồi.”
“Đã biết,” Tiến sĩ Hamilton nói. Giọng nói của ông như đang cố gắng giấu nỗi buồn.
“Trước hết anh phải quay lại đã,” Mindy nói. “Nếu bây giờ chúng ta sửa lại chiều hướng, anh sẽ không còn chỗ nào để buộc mình nữa.”
“Không sao đâu, em yêu à,” tôi thì thầm vào micro. “Anh sẽ không quay lại đâu. Không còn đủ nhiên liệu nữa.”
“Mọi người sẽ mang đến cho anh!”
“Mọi người không thể chỉnh hướng các thanh chống nhanh như anh đâu,” tôi nhẹ nhàng bảo cô ấy. “Không ai biết rõ mô hình thanh chống bằng anh cả. Trước lúc mọi người đến đây, anh sẽ ngạt thở mất.”
Tôi đợi đến khi cô ấy im lặng. “Chúng ta đừng nói về những điều đáng buồn nữa. Anh yêu em.”
Sau đó tôi tắt radio và bay vào không gian để không bị họ dụ dỗ vào một nhiệm vụ giải cứu vô ích. Rồi tôi rơi xuống, xa, rất xa dưới tán cánh buồm.
Tôi nhìn cánh buồm quay, lộ ra những vì sao trong vầng sáng trọn vẹn của chúng. Mặt trời, bây giờ đã quá mờ nhạt, chỉ là một ngôi sao trong số nhiều vì sao khác, không mọc cũng không lặn.
Cảm giác nhột nhột như lưỡi mèo liếm lại xuất hiện trong tim tôi.
* * *
Tôi đặt quân cờ tiếp theo vào chỗ trống.
Bố chơi nước cờ tiếp đúng như tôi dự đoán, và những quân của tôi ở góc đông bắc đều bị ăn mất, loại ra khỏi bàn cờ.
Nhưng nhóm quân chính của tôi vẫn an toàn. Thậm chí về sau chúng còn phát triển mạnh mẽ.
“Có lẽ có anh hùng trong cờ vây đấy ạ,” Giọng Bobby vang lên.
Mindy gọi tôi là anh hùng. Nhưng tôi chỉ đơn giản là một người đàn ông được ở đúng nơi đúng thời điểm. Tiến sĩ Hamilton cũng là một anh hùng vì đã thiết kế ra tàu Hy vọng. Mindy cũng là anh hùng vì cô ấy đã giữ cho tôi tỉnh táo. Mẹ tôi cũng là anh hùng vì bà đã sẵn sàng rời bỏ tôi để tôi sống sót. Bố tôi cũng là anh hùng vì ông đã dạy tôi những điều hay lẽ phải.
Chúng ta được định nghĩa bởi các vị trí mà chúng ta nắm giữ trong mạng lưới cuộc sống của mọi người.
Tôi kéo ánh nhìn của mình ra khỏi bàn cờ vây cho đến khi những quân cờ đá hợp nhất lại thành các mô hình lớn hơn của cuộc sống chuyển dịch và nhịp thở gấp gáp. “Các quân cờ riêng lẻ không phải là anh hùng, nhưng tất cả hợp lại sẽ là anh hùng.
“Quả là một ngày đẹp trời để đi dạo, con nhỉ?” Bố nói.
Và hai bố con cùng nhau đi dạo xuống phố, để chúng tôi có thể ghi nhớ từng ngọn cỏ lướt qua, từng giọt sương, từng tia nắng nhạt phai của mặt trời sắp tàn, thật đẹp tuyệt vời.
Hết
* * *
Biên dịch: Evelyn
Biên tập: Quỳnh Chi
* * *
Nhà văn, dịch giả Ken Liu (Ảnh: MIT Libraries)
1 note
·
View note
“È stato l’ultimo dissidente, una specie di Teresa d’Avila della fantascienza”. Su Philip K. Dick
La postura sciamanica – anzi, religiosa. Questo affascina, contorce, conturba. Il fatto, ad esempio, che non si parli di opera aperta, ma continua. Un dato. Nel 1954 pubblica 28 racconti e scrive 3 romanzi. Se è per questo, nel 1964 di romanzi ne scrive 6, tra cui Le tre stimmate di Palmer Eldritch e Deus Irae con Roger Zelazny (a cui vanno aggiunti 11 racconti pubblicati). Il dato numerico, in questo caso, misura, parzialmente, l’entità mistica dell’opera di Philip K. Dick. Cosa intendo? Chiamatela “preghiera continua” – senza speculare troppo, pigliate i Racconti di un pellegrino russo (testo più che devoto, pericoloso, che fa pericolante l’anima, la volontà), edizione Bompiani o Città Nuova o Qiqajon o cosa vi va, e capite tutto. Insomma, Dick coltiva la scrittura perpetua, fino a frangerla in orazione, non tanto per forgiare il proprio “immaginario” – per viverlo, piuttosto. In effetti, chi legge Dick lo legge per quello: entrare nella sua testa, restare impaniato in un universo autonomo, autentico. E ciò si attua per dedizione e azzardo. Poligrafo, eremita del verbo, visionario, allucinato pioniere di verità arcaiche, Dick ha scritto cancellandosi. È stato, lentamente, riscoperto, dal cinema, dall’editoria: in Italia, l’editore Fanucci vive, con talento, sulle sue opere, ristampate con costanza monastica – già sei quest’anno, da Ma gli androidi sognano pecore elettriche? a Confessioni di un artista di merda. Negli Usa l’ultimo dei sovversivi, il dissidente letterario, l’uomo che ha capovolto l’icona dello scrittore ‘romantico’ – più che concentrarsi in una sola opera, rivelativa, si è frantumato in centinaia, frutto di un estremismo implacabile – è diventato un ‘classico’, che paradosso. Nella prestigiosa Library of America le sue opere stanno al fianco di Emily Dickinson e John Dos Passos, tra Raymond Carver e T.S. Eliot e Ralph Waldo Emerson. Ne sarebbe felice? Chissà, vero è che l’America ingurgita e partorisce miti. Dick è antologizzato in tre volumi della LOA, Four Novels of the 1960s (dove sono raccolti anche Ubik e Do Androids Dream of Electric Sheep?), Five Novels of the 1960s & 70s e Valis & Later Novels. I libri sono curati dallo scrittore Jonathan Lethem – ben tradotto da noi, ora in catalogo La Nave di Teseo – di cui minimum fax ha pubblicato la raccolta di saggi Crazy Friend. Io e Philip K. Dick. Qui Lethem dice qualcosa intorno al talento narrativo di Dick. Inesplicabile sottraendo i concetti di rischio e ossessione, che vanno percorsi con ferocia lunare. (d.b.)
***
Di tutti gli scrittori di fantascienza del ventesimo secolo, perché Philip K. Dick è colui che – a giudicare dalla ristampa dei suoi romanzi e dei film tratti dalle sue opere – ha catturato maggiormente l’immaginazione popolare?
È popolare in un modo diverso rispetto a qualsiasi altro scrittore. L’ho battezzato come il Lenny Bruce della fantascienza. Venendo dalla stessa tradizione e usando gli stessi materiali di altri scrittori di fantascienza era, in un certo senso, la risposta di quest’ultima alla Beat Generation. Era l’ultimo outsider, l’anticonformista, il dissidente. All’epoca in cui entrò nell’ambiente, la fantascienza era interessata ai veri sviluppi scientifici, al potenziamento dell’esplorazione spaziale e a una cognizione super-razionale. Al contrario, Dick era in sintonia con l’inconscio, l’irrazionale, il paranoico, l’impulsivo. Le sue storie avevano una natura selvaggiamente allucinatoria che trattava come se fosse razionale. Oggigiorno le storie degli altri scrittori di fantascienza non sono così razionali come si sosteneva. Erano, piuttosto, in preda a un’immaginazione favolosa o alla realizzazione del proprio desiderio. Stavano scrivendo fiabe, per lo più. Ma Dick si è impegnato nel modo più diretto narrando il ritorno del terrore e dell’irrazionale nella società tecnologica contemporanea. Ecco perché la fantascienza era importante per cominciare: la fantascienza nel suo modo goffo, sdolcinato e parziale stava prendendo il toro per le corna.
Era solo in questo ruolo oppure faceva parte di un movimento?
All’inizio faceva parte di un gruppo di scrittori piuttosto noti, i Galaxy writers, chiamati così perché avevano pubblicato i loro racconti sulla rivista Galaxy. Robert Sheckley, Frederick Pohl, Cyril Kornbluth, William Tenn e molti altri, stavano spingendo la fantascienza verso un uso maggiore del commento satirico e sociale. Usavano la satira per mostrare alcune trappole, paradossi e perversità del capitalismo di consumo. Dick partecipò a questo movimento e continuò a essere un acuto critico del tardo capitalismo. Intuì la potenza pervasiva dell’era della pubblicità per la coscienza, ad esempio. Quello che ha fatto Dick è stato prendere le tendenze di questo movimento attratte dalle critiche sociali e aggiungere ad esse questa qualità quasi insopportabilmente personale, emotiva, intima. I suoi personaggi non vivono solo in futuri paranoici, ne sono completamente in balia. Un universo assurdo e surreale, come talvolta potevano essere le immagini e le idee dei suoi libri, che Dick analizzava sempre in modo accurato. Le difficoltà dei suoi personaggi non sono mai state divertenti per lui, bensì straordinariamente terrificanti. Questo è ciò che lo rende così distinto, non solo da altri scrittori di fantascienza, ma anche da altri scrittori postmoderni a cui potrebbe essere associato, come Thomas Pynchon, Kurt Vonnegut, Donald Barthelme e Richard Brautigan, che hanno lavorato su materiali paradossali e fantastici. Dick si dedica alle sue visioni con un’intensità emotiva diversa da qualsiasi altro scrittore. Scava più a fondo fino ad arrivare, nelle situazioni narrative edificate nei suoi romanzi, a una scelta di vita o di morte. I suoi libri hanno sempre questa duplicità: c’è uno strato di inventiva satirica o fantastica – una tra le più grandi idee di tutta la storia letteraria – ma c’è anche questo interesse emotivo e personale. Mette sempre a rischio tutto ciò che ha. I personaggi sono profondamente vulnerabili, imperfetti e in balia delle situazioni che vivono.
Questo accade perché c’è meno distacco tra Dick e i suoi personaggi?
C’è un sottile distacco tra Dick e i suoi personaggi. Tutto questo riguarda il fatto che Dick era uno scrittore impulsivo, esplosivo, prolifico e non aveva assolutamente il controllo della scrittura. Questo è il motivo per cui c’è una variazione nella prosa ed è anche il motivo per cui alcune persone trovano in qualche modo imbarazzante la sua scrittura. Scriveva con una sorta di intensità visionaria priva di convenevoli, ripensamenti e revisioni che si potrebbe desiderare che uno scrittore necessitato a fare.
Molti scrittori – penso a Robert Heinlein e Stephen King – ricevono questa critica: le loro idee sono migliori della loro scrittura. Eppure la prosa di Dick sembra godere di una cura speciale…
È uno scrittore così profondamente umano e intelligente, Dick, così impegnato, che la prosa trasmette un’enorme quantità di significati, anche nella sua forma più imbarazzante. Direi che i quattro romanzi raccolti in Four Novels of the 1960s sono tra i più realizzati, i meno infelici fra tutte le sue opere. Ubik, che potrebbe essere il suo capolavoro, ha nei primi capitoli del materiale dispersivo, che fa perdere tempo e un po’ scoraggia il lettore profano. Per questo motivo quando consiglio a qualcuno il lavoro di Dick, dico che il secondo libro diventerà il loro preferito. Per sempre. Qualunque esso sia. Ne hanno letto uno e dicono: “Oh, questo è un po’ strano, un po’ bizzarro. Voglio leggerne un altro”. Poi in qualche modo si spostano nell’ottica in cui lavora lo scrittore e diventano dei devoti.
Questi sono i quattro romanzi migliori di Dick?
Se si deve scegliere un solo decennio emblematico del suo lavoro, allora bisogna prediligere gli anni ’60. Questi anni rappresentano il vertice della sua carriera, ma in quel decennio ci sono almeno altri quattro romanzi affini ai quelli scelti: Cronache del dopobomba, Illusione di potere, Labirinto di morte, Noi marziani. Questi sono tutti romanzi superbi, singolari e completamente realizzati e tutti degli anni ’60, un decennio incredibilmente prolifico in cui Dick ha scritto altri dieci o dodici libri. Questo volume comincia con il miglior libro introduttivo: La svastica sul sole. È un libro che attira i lettori ed è il più avvincente, in particolare per un lettore non di genere. È un’opera straordinariamente appassionante e scrupolosa, ma non è il sogno ad occhi aperti di qualcuno che si è appena chiesto cosa succederebbe se i nazisti avessero vinto la guerra. Tutti i personaggi nazisti minori sono studiati. Dick ha scritto questa realtà quasi come un’alternativa agli studi accademici.
Come spiega la straordinaria produzione dello scrittore?
Merito, in parte, delle anfetamine. Pensare a Dick biograficamente e pensare alle sue abitudini di scrittore può essere affascinante e sconcertante perché nessuno potrebbe spiegare la qualità torrenziale del suo lavoro. Ci sono diverse cose che si possono indicare, ma sono tutte spiegazioni parziali. Le anfetamine sono una di queste spiegazioni. Ci sono buoni motivi per chiedersi se soffrisse di un raro disturbo neurologico chiamato epilessia del lobo temporale, che ha associato esperienze visionarie involontarie alla grafomania – scrittura frenetica, scrittura compulsiva. Se si vogliono fare alcune diagnosi speculative, ci sono delle connessioni con altri mistici e visionari religiosi sono noti per la loro scrittura ossessiva come, per esempio, Santa Teresa d’Avila. Ebbe visioni straordinarie e poi trascorse anni a scrivere infinite spiegazioni di queste visioni in crisi di grafomania. Dick è una figura molto provocatoria a cui pensare in questi termini. È un personaggio esemplare per la strana intensità auto-didattica del suo lavoro.
Nel suo saggio, “You Don’t Know Dick”, racconta le proprie esperienze giovanili rintracciando rare copie fuori stampa di libri tascabili di Dick nelle librerie di Brooklyn. Chi scopre Dick per la prima volta nell’edizione della Library of America vivrà chiaramente un’esperienza completamente diversa…
È una cosa incredibile pensare al viaggio che questo scrittore ha intrapreso. Non si può fare a meno di desiderare che possa in qualche modo sapere che cosa stia succedendo. Era la fine degli anni ’70 e l’inizio degli anni ’80, vivevamo in un mondo diverso, molto meno dickiano di ora. La cosa straordinaria del suo lavoro è quanto il mondo lo abbia raggiunto, aderendo alle sue visioni. Questo è vero in senso generale: l’iconografia della fantascienza, i tipi di materiali, le immagini e le metafore che Dick stava esplorando sono abbastanza comuni nella cultura di oggigiorno. Tutti sono al corrente su cosa sia un androide. Non è esotico. Fa semplicemente parte del vocabolario della cultura. Trenta o quarant’anni fa, non era così. Ma anche, in modi intensamente particolari e peculiari, le visioni di Dick – sebbene non fosse interessato ad essere uno scrittore profeta –, le sue intuizioni sul futuro media, sulla cultura commerciale, erano infallibili. Viviamo in un mondo pieno di pubblicità invasiva che colonizza la mente, nel pieno del marketing virale che aveva predetto quando sembrava assurdo farlo. Viviamo davvero nel suo universo e, in un certo senso, nel suo cervello. Chi lo leggerà per la prima volta, troverà così tanto sul mondo in cui viviamo, in una forma peculiare e strana, ma lo troverà assolutamente pertinente e attuale.
Come vedeva se stesso Dick?
Domanda molto complicata. Aveva tremende e contrastate aspirazioni di essere riconosciuto come scrittore letterario, letterato, tanto da considerarsi fallito in questo senso. Tuttavia, in altri modi, sentiva di aver realizzato – e giustamente – grandi cose in questa forma disprezzata e che non erano state riconosciute. A volte crede di aver compreso ciò che nessuno ha visto, altre di aver perso tutte le sue possibilità. Talvolta era provocatorio e orgoglioso della fantascienza, un antidoto al conformismo, alla docilità e alla tendenza del mainstream a non esaminare lo status quo. Si sentiva un ribelle ed era orgoglioso di esserlo. Non era particolarmente interessato a preparare le persone al futuro o a predire il futuro. Era un fantasista e un narratore e le sue estrapolazioni erano satire del presente piuttosto che previsioni. Eppure, paradossalmente, nella loro accuratezza, nella loro vividezza, nei suggerimenti della realtà che vide incorporati nel mondo degli anni ’50 e ’60, estrapolandoli e satirizzandoli, predisse il futuro in modo accurato.
Dick si considerava un innovatore?
Penso che il radicalismo nel suo lavoro non operi nel modo in cui gli scrittori o i critici di solito pensano allo stile. Ma c’è un radicalismo formale nel suo lavoro, nel modo in cui ha strutturato i suoi romanzi, in cui ha composto le scene, in cui fa evolvere i racconti, in cui confonde diversi tipi di materiale, toni differenti come la tragedia e la satira: questo è il livello nel quale c’è uno sforzo cosciente, orgoglioso, sperimentale, radicale e innovativo. Non è esattamente quello che si pensa normalmente come stile. È più una questione di forma.
Dick si considerava parte di una tradizione americana di scrittura fantastica risalente a H. P. Lovecraft?
Quando, a metà degli anni ’30, gli scrittori di fantascienza iniziarono ad articolare il genere, trassero un po’ di forza dalla consapevolezza degli scrittori horror e fantasy lovecraftiani. Si sono anche definiti in qualche modo in opposizione. L’horror era un tipo oscuro e onirico di scrittura, mentre gli scrittori di fantascienza pensavano che stessero facendo un tipo di scrittura lucido e ottimista. Questa opposizione potrebbe non sembrare così semplice in retrospettiva. Erano tradizioni alleate, alleate dalla loro differenza sulla credibilità letteraria. Dick non ha mai fatto commenti specifici su Lovecraft di cui sono a conoscenza. Ci sono alcune profonde tendenze che hanno in comune. Dick si dilettava in quello che gli scrittori di fantascienza dell’epoca consideravano il genere fantasy. C’è un romanzo, La città sostituita, e alcuni racconti abbastanza realizzati – in particolare, “Il re degli elfi” e “La cosa-padre” – dove Dick sta deliberatamente scrivendo come uno scrittore fantasy o horror piuttosto che come uno scrittore di fantascienza. Dick li avrebbe pensati più come una migrazione consapevole attraverso una “membrana” in un altro campo di operazioni. Queste tradizioni ora sembrano così correlate tra loro che queste distinzioni non sembrano così importanti.
Adesso Dick è molto popolare tra i produttori cinematografici. All’epoca, invece, lavorava con molti scrittori di fantascienza – come Ray Bradbury e Rod Serling – che stavano producendo sceneggiature per la televisione. Dick ha mai vissuto questa esperienza?
Ci ha provato alcune volte perché, per un artista affamato com’era, quello gli sembrava un buono pasto. Eppure non aveva la capacità di calzare il suo stile selvaggio e visionario nella trasposizione in formato televisivo di 30 minuti. I suoi pochi tentativi furono piacevolmente senza speranza. Ha scritto solo una sceneggiatura, un adattamento di Ubik. Ancora una volta, un esperimento senza speranza. Tra i suoi articoli sono stati trovate alcune sinossi per programmi tivù in cui stava ovviamente cercando di commercializzarsi, ma sono troppo eclettici, ellittici, pieni di dettagli. Non poteva semplificare il contenuto al livello che sarebbe stato necessario. Il suo stile compositivo non ha a che fare con le serie televisive di fantascienza degli anni ’60 che ricordiamo.
*L’intervista è stata originariamente pubblicata qui; la traduzione è di Caterina Rosa
L'articolo “È stato l’ultimo dissidente, una specie di Teresa d’Avila della fantascienza”. Su Philip K. Dick proviene da Pangea.
from pangea.news https://ift.tt/3ePdHN0
1 note
·
View note