#bình bát học viện Phật giáo Việt Nam
Explore tagged Tumblr posts
nhathoho · 3 years ago
Text
Chùa Phật cô đơn ở đâu?
Nếu là người dân ở Thành phố Hồ Chí Minh, hoặc chỉ cần là người miền Nam, những người tin yêu đạo Phật hẳn đều biết đến Bát bửu Phật đài, hay còn chính là chùa phật cô đơn nổi tiếng linh thiêng. Nơi đây luôn thu hút rất nhiều tín đồ đến lễ phật và hoạt động tôn giáo, thậm chí còn là một điểm thu hút khách du lịch từ nhiều nơi vì sự tích của ngôi chùa này, Với bài viết dưới đây thietkenhathoho.com sẽ cung cấp cho mọi người thêm những thông tin hữu ích về chùa phật cô đơn . 
chùa phật cô đơn ở đâu?
  chùa phật cô đơn là cái tên đặc biệt mà người dân gọi khi nhắc đến Bát bửu Phật đài
Địa chỉ
chùa phật cô đơn là một cái tên đặc biệt có một không hai được dân chúng đặt và truyền lại qua nhiều năm dành cho Bát Bửu Phật Đài. Sau này, ngôi chùa ngày càng nổi tiếng hơn vi sự tích của nó thì đây cũng là cái tên được sử dụng nhiều hơn như một thói quen khi nhắc đến Bát Bửu Phật Đài. Đến này chùa đã đổi tên thành Chùa Thanh Tâm. Chùa Thanh Tâm tọa lạc tại Ấp 1, xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 30km về hướng Tây Nam.
Giờ mở cửa
Chù cô đơn mở cửa từ 5 sáng, và đóng cửa vào 21 giờ tối vào tất cả các ngày trong tuần. Tuy nhiên, nếu bạn là khách du lịch đến thăm quan và tìm hiểu về ngôi chùa có bề dày lịch sử này thì không nên đến quá sớm để các tăng ni chuẩn bị buổi sáng, cũng như không về quá muộn để đảm bảo an toàn.
Lịch sử về chùa phật cô đơn
  Lịch sử của chùa phật cô đơn
Ban đầu, chùa phật cô đơn là một tâm nguyện lớn của một người con nhỏ nhoi tại vùng đất bên kênh Cầu Xáng - cư sĩ Lê Chí Bình. Ông đã cúng tặng một khu đất của gia định rộng 30 héc ta để tôn tạo ngôi Tam bảo làm chỗ nương tựa tâm linh cho đồng bào, trong đó kiến tạo ngôi chùa Thanh Tâm. Khu chùa được hoàn thành và an vị Phật vào ngày 12/7/1956. Cũng ngay ở đây, chùa phật cô đơn - lúc bấy giờ còn gọi là Bát Bửu Phật Đài được trồng một nhánh cây bồ đề được chiết gốc từ đại thọ bồ đề ở Benares, Ấn Độ – nơi Đức Thế Tôn tọa thiền để nhắc nhở thập phương về gốc tích của đạo thiêng. 
Bát Bửu Phật Đài là bức tượng thuộc về cấu trúc của chùa phật cô đơn . Nó được xây dựng sau khi ngôi chùa hoàn thành, bức tượng được bắt đầu tôn tạo vào năm 1959 và hoàn thành vào năm 1961. Phật đài này có kiến trúc hình bát giác, cao đến 3 mét. Trên đài, tôn trí tượng Đức Phật Thích Ca cao 7 mét, nặng khoảng 4 tấn do Hội Phật học Nam Việt tạo nên, với sự tùy hỷ hiến cúng của cư sĩ Hội trưởng Chánh Trí Mai Thọ Truyền.
Vì tượng phật được tôn tạo rất lớn cộng với các phương tiện cũng như công cụ trợ giúp thời bấy giờ có rất ít nên dẫn đến việc cung thỉnh tượng Đức Phật từ chùa Xá Lợi về Cầu Xáng là một điều vô cùng khó khăn. Lúc đó, các vị tôn đức và cư sĩ đã tiến hành tổ chức rất  nhiều buổi cầu nguyện, chuyên tâm trì tụng kinh Pháp hoa trong thời gian dài liên tục, và nhờ năng lực hộ trì đó, nhiều duyên lành huyền nhiệm đã xuất hiện, vượt qua mọi trở ngại, thành tựu tốt đẹp. Lễ an vị Phật được tổ chức vào các ngày 22 đến 25/8/1961 vào mùa Vu lan - Báo hiếu năm Tân Sửu trong sự hoan hỷ của đông đảo Tăng Ni, Phật tử tại đây.
Vào tháng 3 năm 2017, chùa phật cô đơn được quyết định kiến thiết lại toàn diện. Cùng thời gian, ngôi chùa đã tổ chức lễ đặt viên đá xây dựng đầu tiên, đánh dấu cho sự chuyển mình hoàn toàn của nó. Ngôi chùa được quay trở về với tên gọi ban đầu là Thanh Tâm, trở thành cơ sở nội trú cho Ni giới tu học trang nghiêm, thanh tịnh, bên cạnh cơ sở 2 của Học viện, một trong 4 trung tâm đào tạo Tăng Ni lớn của Giáo hội. Đến năm 2019, sau một thời gian rất dài, chùa Thanh Tâm đã được xây dựng và hoàn thiện hoàn toàn.
Sự tích chùa phật cô đơn
  Trải qua gần 20 năm bom đạt, Đức Phật vẫn sừng sững an nhiên tại đây.
Những năm tháng chiến tranh kéo dài giữa nước ta với đế quốc Mỹ, chùa phật cô đơn đã phải hứng chịu rất nhiều những lần oanh tạc của bom đạn. Vào khoảng tháng 2 năm 1965 chùa Thanh Tâm đã bị hư hỏng phần mái do lửa của trái sáng từ máy bay thả xuống. Đến tháng 11 năm 1965 ngôi chùa này lại một lần nữa bị bom dội xuống và chỉ còn lại phần nền chùa. Nhưng một sự màu nhiệm diệu kỳ, chỉ có kim thân của Đức Phật vẫn sừng sững đứng yên lặng ở đó như cầu nguyện cho cả vùng. Đức Phật lẳng lặng an tính nhìn xuống nhân gian khói lửa, an nhiên một mình giữa cánh đồng. 
Sau ngày thống nhất đất nước 30 tháng 4 năm 1975, tiếng súng im bặt trên cả nước cũng như ở đây đã dừng lại, nhưng khu vực Bát Bửu Phật Đài vẫn ít người lai viếng, nên vẫn còn rất hoang vắng, vẫn luôn chỉ có Đức Phật sừng sững tại đây.
Vào năm 1976, đất nước dần dần ổn định sau chiến tranh, người dân cũng theo các chiến dịch làm thủy lợi, dân chúng trong độ tuổi quy định phải đều tham gia đóng góp 15 ngày công lao động/năm. Có đến hàng trăm, hàng ngàn thanh niên nam nữ đến từ những thành phố khác nhau, cùng với thanh niên xung phong khăn gói áo quần mang theo lương thực tỏa ra các vùng nông thôn còn hoang hóa để làm thủy lợi đào kênh thông nước loại phèn chua. Khu vực nơi mà chùa phật cô đơn tọa lạc cũng là một nơi được chọn làm thí điểm. Đoàn người chia nhau theo đội để làm việc, mỗi đội phụ trách một khu vực. 
Đến giờ nghỉ ngơi, đoàn người lại tìm những nơi có bóng mát để nghỉ chân hay nấu nướng. Có những người hay một đội nào đó lao động tại khu vực có tượng Phật lộ thiên, họ may mắn tìm được chỗ râm mát, liền vào nghỉ bên dưới Phật đài. Theo chân họ từ bậc thang lên Phật đài, Đức Phật vẫn luôn là khuôn mặt hiền từ bao dung nhìn những người con đến từ xứ lạ. Mang một tấm lòng kính ngưỡng Đức Phật, đoàn người chắp tay cúi đầu xá tượng Phật. Nhưng đồng thời, trong lòng cũng tràn đầy thắc mắc vì sao lại chỉ có một mình tượng Phật lẻ loi không chút hương khói tại nơi hoang vắng này? Nhìn thấy cảnh tượng như vậy, đoàn người bỗng nghĩ đến hình ảnh Đức Phật “cô đơn”, ngài luôn ở tại nơi đây với khuôn mặt khoan dung đó đợi ngày có những người con đến thăm viếng mình.
Hết thời hạn làm việc, những tốp người cũng dần trở về thành phố, về nơi mà họ sinh sống. Lúc trở về có ngang qua thôn xóm hay những lúc ngồi trên xe họ nhỏ to với nhau chuyện gặp tượng Phật Cô đơn. Khi về đến nhà, họ cũng truyền tai nhau về hình ảnh Đức Phật cô đơn tại nơi mà họ làm thủy lợi. Có những người nổi lên sự tò mò, họ tìm kiếm và đến với Đức Phật, xem ngài có cô đơn như lời đồn. Cứ thế một người, mười người rồi trăm người ngàn người dần đến với người nhiều hơn, cái tên Phật cô đơn cũng lan tỏa vào ý thức của các Phật tử. Nhưng bây giờ, Đức Phật ở chùa Thanh Tâm không còn cô đơn nữa vì ngài vẫn luôn được nhiều người con từ khắp mọi miền đến thăm, ngài phù hộ độ trì cho những người ấy kiếp sống bình an và đường tình duyên không bao giờ cô đơn.
Kiến trúc chùa phật cô đơn
  chùa phật cô đơn có kiến trúc đẹp như thế nào?
chùa phật cô đơn không chỉ nổi tiếng vì sự tích màu nhiệm của nó, mà còn bởi vi kiến trúc cổ của chùa chiền ngày xưa vẫn còn lưu lại những ấn ký của năm tháng tại đây. Tuy đã trải qua kiến thiết lại toàn diện, nhưng chùa phật cô đơn vẫn còn nhiều nét nguyên sơ, cổ kính.
Người nào đã tác tượng Phật cô đơn
Xuất xứ của pho tượng này thực ra khá bất ngờ. Ban đầu, vốn dĩ bức tượng này không thuộc về chùa Thanh Tâm ngày nay mà là thuộc về chùa Xá Lợi cũng nằm ở thành phố Hồ Chí Minh. Theo tư liệu từ chùa Xá Lợi thì khi ngôi chùa này mới bắt đầu xây, giáo sư Trương Đình Ý đã xây dựng một pho tượng được thực hiện bằng xi măng và thạch cao. Tuy nhiên pho tượng đúc xong quá lớn nên họ không thể đưa lên chính điện trên lầu được. Vì thế chùa Xá Lợi đã nhượng lại cho chùa khác (nay là tượng Phật cô đơn tại chùa Thanh Tâm ở huyện Bình Chánh).
Kiến trúc đặc biệt của chùa
Trải qua tủ sửa và kiến thiết lại vì ảnh hưởng bởi chiến tranh khốc liệt, chùa Thanh Tâm ngày nay vẫn may mắn giữ lại những nét nguyên sơ, cổ kính. Ngôi chùa vẫn được tái hiện lại theo đặc trưng của những ngôi chùa cổ tại Việt Nam, đó là vườn bạch đằng xanh mướt bao trùm lên cả khu chùa. Tổng thể kiến trúc của chùa được xây dựng trên một mảnh đất khoảng hơn 30ha. Chính vì vậy, mọi không gian trong chùa các khu điện thờ đều vô cùng khang trang, thoáng mát và rất rộng rãi.
Khi vừa bước đến chùa, du khách sẽ được hòa mình vào thiên nhiên thông qua cánh rừng bạch đàn xanh ngát. Nếu đến đúng vào giờ các tăng ni đánh chuông bạn còn có thể nghe những tiếng ngâm cổ kính từ chuông chùa và mùi nhang hương thoang thoảng. Sau khi xuyên qua cánh rừng này, Cổng Tam Quan chắc chắn sẽ là kiến trúc đầu tiên mà du khách nhìn thấy. Cổng Tam Quan của chùa được xây dựng rất cao, to và vô cùng trang nghiêm với những đường trạm trổ uốn lượn và vô cùng tinh xảo.
Sau khi đi qua cánh Cổng Tam Quan nguy nga đó, du khách sẽ được tiếp tục chiêm ngưỡng khuôn viên của chùa rộng khoảng 5 héc ta. Vì có một khoảng không gian rộng lớn như thế nên đây là nơi mà ngôi chùa trưng bày và thờ rất nhiều tượng phật khác nhau.
Khi kết thúc con đường dài trên khuôn viên rộng lớn của chùa, chúng ta sẽ di chuyển vào bên trong chánh điện. Đây là nơi mà chùa thờ tụng tượng phật Di Đà, kế bên đó là tượng phật Tiêu Diện và thần Hộ Pháp. Gần với khu chánh điện là các khu điện thờ khác, tại đây sẽ cung thờ tượng phật bồ tát Chuẩn Đề, tượng phật Quán Thế Âm Bồ Tát, tượng phật Di Lặc, tượng Địa Tạng cùng rất nhiều những pho tượng phật khác được chạm khắc vô cùng tinh xảo. Bước ra khỏi khu chánh điện, phía bên cạnh tượng Phật Cô Đơn, du khách sẽ nhìn thấy một điện thờ Đức Thánh Quan Công. Di chuyển tiếp là điện thờ vị tổ sư Thích Thiện Bổn, đền thờ ông Hổ…
Chỉ trong vài lời văn, câu miêu tả hay những bức ảnh, thật khó để có thể lột tả được sự tinh xảo và nguy nga của chùa phật cô đơn . Nếu có cơ hội, bạn hay đến đây và tự trải nghiệm vẻ đẹp cổ kính và Đức Phật nổi tiếng này.
Những lưu ý khi đến chùa phật cô đơn
  Bạn nên có một số lưu ý khi đến thăm quan và làm lễ tại chùa phật cô đơn .
Cung giống như bao ngôi chùa khác t���i Việt Nam cũng như trên thế giới, khi đến với chùa phật cô đơn - là một chốn linh thiêng thì bạn không nên ăn mặc những trang phục quá màu mè và gây phản cảm làm mất đi tính trang nghiêm vốn có của chùa. Đặc biệt là những bộ váy ngắn, hay quần đùi thậm chí là quần lửng. Tốt hơn hết để tỏ lòng thành tâm khi đi cầu nguyện bạn có thể đầu tư một bộ quần áo bà bà hay phật tử khi đến đây.
Hiện nay, có rất nhiều bạn trẻ đến chùa để có cho mình những bộ ảnh hoài cổ sống ảo trên mạng xã hội. Đặc biệt, chùa phật cô đơn còn là một địa điểm nổi tiếng. Nhưng mục đích quan trọng nhất khi đến chùa là cầu nguyện, bạn nên thành tâm cầu bình an và tận hưởng vẻ đẹp an lạc, linh thiêng thay vì mải mê chụp ảnh.
Một điểm bạn nên lưu ý khi đến chùa phật cô đơn nữa là không nên tùy tiện sờ hay đụng chạm thậm chí là việc lấy bất cứ đồ vật nào trong chùa mà không có sự cho phép. Bạn nên hỏi những tăng ni hay phật tử tại đây trước khi xin lấy lộc hay xin đồ kỷ niệm gì đó trước khi lấy, còn không nên lấy tự nhiên hành khi không được sự cho phép của nhà chùa vì chùa Thanh Tâm vốn là một nơi linh thiêng.
Quang cảnh của chùa cũng là điều mà mọi người khi đến chùa nên giữ gìn cẩn thận, đặc biệt là chùa phật cô đơn còn có lịch sử khá lâu. Bạn không nên dẫm đạp lên cây cối, hoa cỏ hay bàn ghế trong chùa. Vứt rác đúng nơi quy định để tránh làm ô nhiễm môi trường. Và đừng quên là nên xin phép trước với ban quản lý nhà chùa để được sự đồng ý nếu muốn quay phim, chụp hình.
Đến chùa phật cô đơn cầu gì?
  Nên cầu gì khi đến chùa phật cô đơn ?
Mọi người khi đến chùa hầu như đều nghĩ sẽ cầu bình an, may mắn và hạnh phúc cho bản thân và gia đình. Nhưng mỗi ngôi chùa đều linh nghiệm về những việc khác nhau. Người dân trong vùng và các du khách đã đến thăm trước đó cho rằng đây là ngôi chùa rất linh thiêng về tình duyên cũng bởi vì cái tên độc đáo chùa phật cô đơn .
Họ tin rằng Đức Phật sẽ ban phước cho những người cầu nguyện tại đây có đường tình duyên thuận lợi viên mãn sớm thoát sự cô đơn trong tình yêu. Đó là lý do mà trong những ngày rằm hàng thay hay đầu tháng, đặc biệt là trong ngày lễ tình nhân 14/2 có rất nhiều người đến đây để xin một con đường tình yêu thuận lợi.
Trên là những thông tin bổ ích về Phật Cô Đơn do thietkenhathoho.com sưu tầm từ nhiều nguồn uy tín hy vọng bài viết giúp ích được phần nào trong việc cung cấp thông tin cho quý độc giả. Nếu bạn cần thiết kế nhà thờ họ hoặc các công trình kiến trúc tâm linh có thể liên hệ với Acc Home theo số điện thoại 0977. 703. 776 hoặc hòm thư điện tử [email protected] các kiến trúc sư của chúng tôi sẽ giúp bạn có không gian tâm linh hoàn hảo nhất.
Đọc nguyên bài viết tại : Chùa Phật cô đơn ở đâu?
from Nhà Thờ Họ - Feed https://ift.tt/5mdsUC1
0 notes
vietnamidol · 3 years ago
Text
Đọc sách cùng bạn: Một du khảo văn chương
Tumblr media
Tác giả gọi sách này của mình là tập tùy bút. Theo tôi gọi đúng tên thì đây là một cuốn sách du khảo văn chương về một vùng đất lịch sử. Vũ Bình Lục từ vài chục năm nay đã từ một nhà thơ chuyển sang địa hạt nghiên cứu cổ văn. Bằng vốn chữ Hán có được và nhất là bằng tình yêu sâu sắc với tiền nhân, ông đã đọc lại thơ cổ của cha ông, khảo cứu, dịch thuật, bình giải dựa trên các văn bản đã được những người đi trước sao lục, kết hợp với những tìm tòi, phát hiện của mình. 
Công phu lao động miệt mài của ông trên từng con chữ bao năm qua đã được xuất bản thành những bộ sách đồ sộ: "Hồn thiền trong thơ Lý – Trần" (2013), "Thánh thơ Cao Bá Quát" (2014), "Hồng hạc cõi trời Nam" (về thi hào Nguyễn Trãi, 2 tập). Đặc biệt bộ "Giải mã kho báu văn chương" (5 tập, gần ba nghìn trang) tập hợp thơ chữ Hán của các tác gia Việt Nam trong vòng 500 năm từ thời nhà Trần đến thời nhà Hồ. 
Đến nay tuổi đã ngoài bảy mươi ông vẫn miệt mài đi trong rừng thơ suối chữ của người xưa để lại tìm cách chuyển tải đến bạn đọc ngày nay. Ông đã hoàn thành mấy bản thảo dày dặn nữa chờ in, và thường là phải tự bỏ tiền túi của mình ra, những cuốn sách dày nặng hay đấy nhưng cũng tốn kém đấy. Nói thế để thấy cái tâm cái công của Vũ Bình Lục đối với vốn cổ cha ông thật đáng trân trọng và biết ơn.
TRẦM TÍCH ĐÔNG TRIỀU
Tác giả: Vũ Bình Lục
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2020
Số trang: 600 (khổ 14,5x20,5cm)
Số lượng: 500
Giá tiền: 450.000
Chính hành trình tìm về nguồn cội văn học dân tộc đó đã đưa ông đi đến nhiều nơi vừa là tìm kiếm tư liệu vừa là kiểm nghiệm thơ với cuộc đời. Do vậy, khi đến với vùng đất Đông Triều, Vũ Bình Lục không chỉ đến với tư cách một khách du nhìn núi nhìn sông bề ngoài. 
Ông đến khi đã thấm ngấm tinh thần, tư tưởng của người xưa lưu lại trong những áng thơ văn, để có thể tự cho mình "tự do thả hồn mộng mơ vào cõi thiêng Đông Triều". 
Đó là một hành trình văn hóa có chủ đích, nên những bài viết của ông trong sách này cũng không phải theo nghĩa "tùy bút" viết chơi, mà là nhằm vào "một chủ đề chiêm ngưỡng, đối chiếu hiện cảnh với những điều được các tác giả miêu tả trong thơ đời Lý – Trần, đặc biệt là ở thời nhà Trần." Cuốn sách vì thế cũng có thể coi như một tuyển thơ thu gọn gồm những sáng tác của các nhà vua, triều thần, nhà sư thời Trần viết về và viết tại một trong ba vùng "bản thổ" của một triều đại hiển hách nhất trong lịch sử nước nhà.
Đông Triều nay là một huyện của tỉnh Quảng Ninh. Nhưng từ xưa Đông Triều là một vùng văn hóa lớn, có vị trí địa lý – chính trị - kinh tế - quân sự rất đặc biệt trong lịch sử nước Việt, nhất là vào thời Trần. Đây là vùng đất phong của An Sinh vương Trần Liễu, anh trai vua Trần Thái Tông (tức Trần Cảnh) – vị vua mở đầu triều đại nhà Trần. Đây là nơi phát tích của Trúc Lâm Yên Tử, Thiền phái độc đáo của Việt Nam, do vua Trần Nhân Tông sáng lập. 
Đây là nơi gần kề Côn Sơn, chốn lui về của Nguyễn Trãi. Bước chân người nay đặt lên bao dấu tích người xưa. Với người biết sử thuộc văn thì nhìn vào đâu cũng thấy hiển hiện bóng tiền nhân, đứng trước mỗi di tích mà như thấy người xưa hiện về cùng trò chuyện, đàm đạo. Vũ Bình Lục may mắn được là một người như vậy và ông muốn dắt bạn đọc theo cùng mình trong cuộc hành hương văn chương này về Đông Triều. Đến chỗ nào ông cũng nói được cho ta biết sự tích chỗ đó có thơ làm chứng, giãi bày. 
Thơ xưa ông dẫn cả chữ Hán và phiên âm, cả bản dịch của người khác và của mình, rồi ông phân tích, bình giải cho ta thấy được tâm sự nỗi lòng suy tư của người xưa gửi gắm trong từng câu chữ, điển tích. Không chỉ thơ xưa, còn có thơ nay – thơ của chính nhà thơ Vũ Bình Lục cảm tác trước thế sự đời người trôi trên dòng lịch sử. Đọc cuốn sách này vì vậy gây cho ta cảm giác lâng lâng hoài cổ mà luận kim.
Lấy thí dụ một danh lam ở Đông Triều là chùa Quỳnh Lâm. Tôi đến chùa này lần đầu tiên năm 1978. Trước đó, đọc trong sách báo tôi chỉ biết láng máng về nó, biết là ở đó có cái chuông đồng nổi tiếng, hình như thuộc về "An Nam tứ khí" thì phải. Khi về Đông Triều trong chuyến sưu văn học dân gian năm đó tôi đã thăm chùa và đã ghi được câu ca xưa truyền lại sự nổi tiếng của di tích này: "Quỳnh Lâm khánh đá chuông đồng/ Muốn chơi thì trả của chồng mà chơi/ Của chồng nặng lắm em ơi/ Trả sao cho hết mà chơi chùa Quỳnh". 
Và chỉ vậy. Sau này có dịp quay lại chùa thì so với hồi trước bốn chục năm thấy cũng đã khác. Nay đọc Vũ Bình Lục tôi mới được biết thêm nhiều điều về chùa Quỳnh Lâm. Biết rằng chùa xây từ đời Lý và được mở mang bề thế hơn từ đời Trần do công của Tổ thứ hai Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là Pháp Loa. Biết rằng ở chùa từng có Quỳnh Lâm Viện như là trường đại học Phật giáo đầu tiên ở nước ta. 
Biết rằng ở chùa có am Bích Động làm nơi xướng họa thơ văn của các bậc danh nho và cao tăng và theo tác giả sách thì đó đã có thể coi là Bích Động Thi Xã, thi đàn đầu tiên của nước Việt, có trước Tao Đàn của ông vua sáng Lê Thánh Tông (1442 – 1497). Biết rằng, và đây là điều đặc biệt, chủ soái của thi đàn ấy là Văn Huệ Vương Trần Quang Triều (1287 – 1325) với hiệu Cúc Đường chủ nhân. 
Ông là con trai đầu của Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng (1252 – 1313), cháu nội của Hương Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (1228? – 1300), đã từ quan về làm cư sĩ chùa Quỳnh Lâm, và sớm qua đời ở tuổi 38. Tư liệu về Trần Quang Triều ít ỏi, Vũ Bình Lục đã phải lần tìm trong sách vở và qua thơ của hai thành viên tích cực trong thi xã Bích Động để cho người đọc hình dung ra một con người và một nhà thơ hơn bảy trăm năm về trước. Đây là một bài của Nguyễn Sưởng viết khi trở lại thăm am Bích Động ở chùa Quỳnh Lâm nói về nỗi đau của dân chúng trước sự ra đi của Cúc Đường chủ nhân mà Vũ Bình Lục dịch ra lục bát:
Gió xoa hoa biểu hạc bay
Mây ôm mái cỏ, rồng say ngủ vùi
Xót xa dân chúng ngậm ngùi
Trăng Quỳnh lạnh buốt cả hồi chuông đêm (tr. 66)
Nỗi ngậm ngùi trong vần thơ xưa lây cả sang người nay khi tác giả dạo thăm chùa Quỳnh, và cả khi dạo khắp miền Đông Triều theo chân các bậc tiền nhân trong thơ. Buồn thương trước cảnh thế gian biến cải. "Đọc thơ các cụ ta viết về ngôi chùa này, mới thấy tâm hồn người xưa vô cùng phong phú và đẹp đẽ. Nó vẫn còn nồng ấm làm sao. Con người thời ấy tư duy, cảm nhận thẩm mỹ, có lẽ chả thua kém gì con người ngày nay đâu nhé. Tuy nhiên, cái sự trong trẻo thánh thiện, tài hoa nghệ sĩ thì tôi có thể đoan chắc mà nói rằng, nó còn sâu sắc tinh tế hơn con người ngày nay nhiều lắm. Tất nhiên là thế. Con người ngày xưa tự sáng lập ra các học thuyết mới mẻ về tôn giáo, rồi thẩm thấu, rồi tự phát sáng trong tâm mình nhiều minh triết nhân văn của các tôn giáo ấy". (tr. 64-65).
Bạn sẽ khai phá được nhiều trầm tích văn hóa, lịch sử của Đông Triều qua thơ đời Trần trong cuốn sách này của Vũ Bình Lục. Ông viết chuyện xưa, dịch và dẫn giải thơ xưa, nói cảm xúc thời nay, bằng một giọng điệu sâu lắng tình cảm và suy tư, vừa học thuật vừa văn chương, đọc không thấy khó hiểu, không bị khô khan. Bạn cũng có thể nhờ sách này mà có được một vốn kiến thức về một thời kỳ thơ cổ điển nước nhà được hệ thống hóa theo một chủ đề. Công phu đọc sách để làm ra sách của Vũ Bình Lục như vậy, "Trầm tích Đông Triều" đang chờ bạn lật giở.
Hẹn bạn lần tới với một cuốn sách mới khác!
Hà Nội, 29/7/2021
0 notes
theravadavn · 4 years ago
Text
Giải Về Cõi Trời – Tỳ Khưu Giới Nghiêm
Tumblr media
“Biên soạn tập sách: “Giải về Cõi Trời” này, tuy chưa đầy đủ lắm, song cũng có thể là chút ít tư liệu cho những ai muốn tìm hiểu về Cõi Trời một cách đúng đắn và chính xác hơn. Dường như trước đây ai cũng hiểu khái quát, rằng là Cõi Trời là nơi đẹp lắm, tuyệt mỹ lắm, kỳ thú lắm, hạnh phúc và an lạc lắm! Thế thôi! có người lại hiểu lầm, cứ đinh minh Cõi Trời chỉ có 1 ông, một vị thần hay một vị thượng đế nào đó; và mọi quyền tài phán, định đoạt vận mệnh vui khổ, hèn sang, phước tội của con người đều ở trong tay ông ta cả.” TỲ KHƯU GIỚI NGHIÊM THITASĪLO
Một trong những chương trình hoạt động của Ban Phật giáo Nam tông Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, là sưu tập và xuất bản lại những tác phẩm, dịch phẩm của chư vị Trưởng lão tiền bối có công khai sơn Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam như Ngài Hộ Tông, Ngài Bửu Chơn, Ngài Giới Nghiêm, Ngài Tịnh Sự, Pháp sư Thong Kham v.v…
Có một số kinh sách đã được chính thức xuất bản trước năm 1975, nhưng vì thời đó phương tiện in ấn còn thô sơ nên có nhiều sai sót. Một số khác còn là bản thảo, hoặc chỉ mới quay roneo, in lụa để kịp thời phát hành nội bộ trong các dịp lễ, chưa có ý định nhuận sắc để xuất bản. Vì vậy Ban Phật giáo Nam Tông cần phải tu thư và nhuận sắc lại trước khi xin xuất bản.
Riêng về các dịch phẩm của Ngài Giới Nghiêm, Thượng tọa Giới Đức đã tự nguyện dành nhiều thời gian và công sức để nhuận sắc cuốn Mi Tiên Vấn Đáp và Giải Về Cõi Trời. Bản thân tôi cũng đã nhuận sắc cuốn Tứ Niệm Xứ và Giải Về Bạn. May mắn thay lúc còn sanh tiền, Ngài thường giao cho chúng tôi nhuận sắc hầu hết những tác phẩm của Ngài. Nhờ được sống nhiều năm gần gũi bên Ngài nên chúng tôi dễ dàng thưa hỏi lại những đoạn văn khó hiểu, những ngôn từ trong cách dụng ngữ riêng của Ngài nên chúng tôi đã làm quen được với cốt cách, ý tứ và văn phong trong các tác phẩm của Ngài. DO đó, bây giờ chúng tôi mới dám tự nguyện thực hiện công việc khó khăn này, sợ rằng người khác khó có thể nắm bắt được những chỗ khúc mắc về căn ngôn, ngữ nghĩa trong các bản thảo này.
Vì việc làm khó khăn như vậy, chúng tôi chân thành mong được sự cộng tác và góp ý của chư Tăng, Tu nữ, và Phật tử để cho chương trình giới thiệu lại các tác phẩm của chư Tôn đức tiền bối được hoàn chỉnh và hiệu quả hơn.
Trân trọng,
Trưởng Ban Phật giáo Nam Tông
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam
Hòa Thượng Viên Minh
TIỂU SỬ CỐ HÒA THƯỢNG THIỀN SƯ GIỚI NGHIÊM
HÒA THƯỢNG THIỀN SƯ GIỚI NGHIÊM, thế danh Nguyễn Đình Trấn, sanh ngày 05-05-1922 (nhằm ngày 09-04 Nhâm Tuất) tại làng Giạ Lê Thương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Đình Tải. Thân mẫu là cụ bà Huỳnh Thị Thành.
Ngài sanh ra trong một gia đình theo đạo Phật lâu đời. Năm 09 tuổi, Ngài vào một ngôi chùa hẻo lánh ở làng B��ng Lãng – Huế, để tu học và thọ giới Sa di. Năm 1942, Ngài thọ Tỳ kheo giới tại chùa Phổ Đà – Đà Nẵng thuộc hệ phái Bắc truyền. Năm 1944, Ngài du học tại Campuchia và năm 1947, Ngài được Hòa thượng Niếp-Tích truyền giới tỳ kheo và theo học đạo với Vua Sãi Campuchia là Trưởng lão Hòa thượng Chuon-Natch. Các năm kế tiếp, Ngài du học tại Thái Lan, Miến Điện và được Hòa thượng thiền sư Mahasi Sayadaw truyền thọ pháp hành Tứ Niệm Xứ.
Năm 1954, Ngài dự hội nghị kết tập Tam tạng kinh điển (Pāḷi) lần thứ VI tại Rangon, Miến Điện.
Trở về quê hương 1957, Ngài cùng các vị cao tăng thành lập Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam.
Từ 1964-1974, Ngài liên tục giữ chức vụ Tăng thống GHTGNTVN nhiều nhiệm kỳ.
Năm 1979, được sự cung thỉnh của Mặt Trận Đoàn Kết Dân Tộc Cứu Nước Campuchia, Ngài cùng phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam qua Campuchia để truyền Cụ Túc giới cho 07 vị sư sãi lãnh đạo, phục hồi Phật giáo Campuchia sau pháp nạn. Tại Giới đàn này, Ngài được cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng.
Năm 1980, Ngài tham gia Ban vận động thành lập GHPGVN và được suy cử chức Phó Chủ tịch Thường trực Hồi đồng Trị sự GHPGVN.
Hơn nửa thế kỷ xuất gia hành đạo, hoằng pháp và phục vụ cho xã hội, Ngài đã để lại cho hậu thế nhiều công đức và nhiều công trình Phật sự to lớn.
Ngài là vị thiền sư đầu tiên tạo được nhiều thiền viện, trong đó có thiền viện Phước Sơn và nhiều ngôi Tam Bảo trên toàn quốc. Ngài cũng đã trước tác nhiều kinh sách có giá trị, và đào tạo nhiều đệ tử trở thành tằng tài cho Giáo hội.
Ngày 09-08-1984, Ngài giã từ cõi thế, an nhiên thị tịch lúc 10 giờ 30 tại chùa Phật Bảo. Thọ mạng được 63 tuổi, 38 hạ lạp.
Hằng năm vào ngày 13-07 Âl, lễ tưởng niệm Hòa thượng được long trọng tổ chức tại chùa Phật Bảo – Tân Bình, TPHCM.
LỜI TỰA
Biên soạn tập sách “Giải về Cõi Trời” này, chúng tôi có nhã ý cúng dường pháp thí trong ba ngày 24, 25, 26 tháng 3 năm 1961 (tức ngày 8, 9, 10 năm Tân Sửu) tại Tam Bảo Tự – Đà Nẵng để cầu quốc thái dân an và và kỷ niệm “Đệ bát chu niên” ngày Phật giáo Việt Nam truyền bá đến Trung Việt.
Toàn thể Tăng và cư sĩ Phật tử thuộc Tổng hội Phật giáo Nguyên thủy Trung phần [1], sau khi nghe đại đức Hộ Tông – Tăng thống Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam – tại Sài Gòn quang lâm về đây, đã giảng giải ý nghĩa trọng đại của buổi lễ, đồng thời ��ã từ tâm ban rải một thời pháp sách tấn, khuyến hóa mọi người tinh cần tu tập. Đại Đức Tăng thống cũng kêu gọi tài thí rất trọng thể để hoàn thiện quy mô ngôi chùa có tính lịch sử, là dấu ấn hoằng pháp đầu tiên tại đất miền trung.
Xét thấy đây là cơ hội tốt để tôi ấn hành tập sách bé nhỏ này, để góp phần pháp thí cho trọn vẹn ý nghĩa lời pháp trong câu: “Tài, Pháp – nhị thí thỉ thành công, phước huệ song tu phương tác Phật”; giả nghĩa cho rõ là tài thí và pháp thí mà đầy đủ, trọn vẹn; phước và huệ mà cùng tu mới mong thành Phật!
Biên soạn tập sách: “Giải về Cõi Trời” này, tuy chưa đầy đủ lắm, song cũng có thể là chút ít tư liệu cho những ai muốn tìm hiểu về Cõi Trời một cách đúng đắn và chính xác hơn. Dường như trước đây ai cũng hiểu khái quát, rằng là Cõi Trời là nơi đẹp lắm, tuyệt mỹ lắm, kỳ thú lắm, hạnh phúc và an lạc lắm! Thế thôi! có người lại hiểu lầm, cứ đinh minh Cõi Trời chỉ có 1 ông, một vị thần hay một vị thượng đế nào đó; và mọi quyền tài phán, định đoạt vận mệnh vui khổ, hèn sang, phước tội của con người đều ở trong tay ông ta cả! Đọc tập sách này, mọi người mới thấy ra rằng, hóa ra Cõi Trời không chỉ có “một ông”,“một ngài”  mà có vô lượng chúng hữu tình cộng cư ở đấy. Và Cõi Trời chẳng ai chiếm lấy một mình được. Bất cứ ai, bất cứ  “nhân loại” nào, chúng sanh nào, hữu tình nào có tu hành, biết làm phước, biết trì giới, có tham thiền, có đức tin, biết làm lành, lánh ác đều có thể hóa sanh lên Cõi Trời  này để thọ hưởng phước quả mỹ diệu, thắng xa cõi Người. Đành rằng, các Cõi Trời chưa phải là cứu cánh cho những người hành đạo giải thoát; nhưng cũng là nơi xứng đáng cho chúng ta “nhàn cư”, “an cư”, “lạc cư” tạm thời khi chưa hành trì, công phu đến chổ rốt ráo! Nó như là phần thưởng khuyến khích, an ủi cho những kẻ khởi tâm tu tập về giai doạn sơ thiện, hướng thiện trên lộ trình bỏ mê tầm giác. Chư vị Bồ tát có đại nguyện Chánh Đẳng Giác trong nhiều kiếp miệt mài bồi bổ công hạnh Ba la mật, đôi khi mệt mỏi – các ngài đều lựa chọn các Cõi Trời  Dục giới, thường là Đẩu suất đà thiên để nghỉ ngơi một thời gian! Vậy Cõi Trời  là cõi của phước quả; ai tích lũy được nhiều tín, thí, giới  – thì được hóa sanh lên 6 Cõi Trời  Dục giới để thọ hưởng phước báu của mình như định luật nhân quả tự nhiên – chứ chẳng có ai mời, ai rước, ai đưa cả! Nếu ai tu tập đắc định, đắc thiền thì hóa sanh các Cõi Trời cao hơn, có thể là trời Sắc giới hoặc Vô sắc giới – tùy đề mục quán tưởng, định thiền.
Cuối cùng, tôi và toàn thể thí chủ nhất tâm hồi hướng phần phước của tài thí và pháp thí thanh cao này đến cho tất cả chúng sanh, nhất là ân nhân nhiều đời của chúng ta được an sinh, hạnh phúc và tấn hóa.
Nguyện cầu cho quốc dân, đất nước Việt Nam được thanh bình an lạc.
Nguyện cầu Tam Bảo chứng minh và chư thiên hộ trì cho tất thảy thí chủ, kẻ công người của, đã thành tâm và hoan hỷ phần phước sự hôm nay sớm thoát ly sinh tử luân hồi, chứng quả Vô sanh bất diệt Đại Niết bàn!
Mong thay,
Tỳ Kheo Giới Nghiêm
#phatgiaonguyenthuy #Tykhuugioinghiem #ducphap #tinhtam #theravada Theo nguồn: https://theravada.vn/book/giai-ve-coi-troi-ty-khuu-gioi-nghiem/ Nguồn ảnh: Instagram Dhammanamo
0 notes
phamthituong · 4 years ago
Text
Hành Trình Sang Xứ Phật – Tỳ Khưu Bửu Chơn
#TyKhuuBuuChon #phatgiaonguyenthuy #ducphat #ducphap #ductang #theravada Xem thêm: https://theravada.vn/book/hanh-trinh-sang-xu-phat-ty-khuu-buu-chon/
Tumblr media
Những ký ức được chép trong quyển sách đều do sự nghe thấy của tôi tại mấy nơi mà tôi đã hân hạnh được đặt chơn đến. Ngoài ra, lại có nhiều hình ảnh về những chỗ động tâm và thánh tích trong mấy xứ: Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Xiêm v.v… được in nơi mỗi bài tường thuật cho người đọc dễ lãnh hội và phát tâm cảm thích.
Phi Lộ
Người Trung Huê và Việt Nam, mỗi năm đến tiết thanh minh thường bày ra lễ tảo mộ để tỏ lòng nhớ đến ân đức ông bà, cha mẹ đã quá cố. Cũng như người Pháp thường đến viếng thư viện của văn hào Victor Hugo, hay phòng thí nghiệm của nhà thông thái Pasteur, vì ái mộ sự nghiệp văn chương khoa học của các Ngài. Còn người tu Phật thì lại được hy vọng viếng những nơi thánh tích về Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Hồi xưa đường giao thông bất tiện đã có biết bao nhiêu nhà mộ đạo như thầy Huyền Trang chẳng hạn dám hy sanh mạng sống trải qua bãi sa mạc và nhiều quốc độ dã man rừng rú để sang tận Trung Ấn Độ để chiêm bái mấy chỗ động tâm.
Về phần tôi từ khi xuất gia nương theo chánh Pháp và hấp thụ được chút ít chơn lý giải thoát thì hằng nhớ đến ân đức của đấng Cha lành. Những nhà sư muốn cúng dường Đức Thế Tôn thì chỉ có cách là ráng hành theo lời dạy của Ngài hầu mau dứt khổ, với một di sản vỏn vẹn với tam y và quả bát, giống như loài chim có cái mỏ và cặp cánh, thì mong gì được sang tận xứ Ấn Độ để chiêm bái mấy nơi thánh tích. Đó là không nói đến thời cuộc quốc tế khó khăn hiện nay đã làm trở ngại cho việc xuất dương không nhỏ.
Nhưng bỗng đâu nhóm thiện tín Sài Gòn rất trong sạch với ngôi Tam bảo yêu cầu tôi sang Tích Lan và Ấn Độ để nghiên cứu và học hỏi thêm Phật giáo Nguyên Thủy. Lúc đầu tôi còn do dự vì nghĩ rằng tại Cao Miên cũng có đầy đủ Kinh Luật Pāli, nếu hành giả nào hết lòng tu tập thì cũng được kết quả theo sở nguyện, hơn nữa trong thời buổi vật chất này, cuộc viễn du của một nhà sư thật là cam go bất tiện, nhứt là giới luật cấm nhặt sự mang tiền bạc theo mình. Nhưng tôi sực nhớ lại lúc gần nhập Niết-bàn, Đức Phật có thuyết cho tôn giả Ānanda nghe như vầy: “Này Ānanda, sau khi Như Lai nhập diệt và trong buổi Như Lai nếu có người muốn thấy Như Lai thì nên đi viếng bốn chỗ động tâm sau đây: Chỗ Như Lai giáng sanh tại vườn Lumbini, chỗ Như Lai thành đạo tại Bồ Đề Tràng (Bodhigaya), chỗ Như Lai quay bánh xe Pháp lần đầu tiên tại vườn Lộc Giả (Isipatana) và chỗ Như Lai diệt độ tại rừng Kusinara dưới hai hàng cây song long thọ.
“Những ai có duyên lành đi tới bốn chỗ động tâm ấy để chiêm nghiệm về ân đức của đấng Chánh đẳng Chánh giác và sự vô thường của đời Ngài, rồi phát tâm chán nản thế sự, thì có khi cũng được đắc đạo quả Niết-bàn hay ít ra cũng thoát khỏi bốn đường dữ trong kiếp vị lai”. Vì nhớ đến câu Phật ngôn ấy nên tôi mới quyết dạ hy sinh, không nài khó nhọc, nguyện xông pha đất lạ quê người, nơi mà khí hậu, phong hóa, ngôn ngữ và cách sinh hoạt mỗi mỗi đều khác hẳn xứ ta.
Còn nói qua chuyện xin giấy tờ xuất dương cho một Việt kiều ngụ t���i đất Miên, thì đó là một việc hết sức cam go. Người đương sự phải trải qua nhiều cơ sở chuyên trách Pháp-Miên và các lãnh sự quán ngoại quốc: Xiêm, Ấn Độ, Miến Điện. Tích Lan .v.v…Hơn nữa, cuộc xuất ngoại của một nhà sư cần phải được hội Tăng già bổn xứ ưng thuận sau khi biết rõ hạnh kiểm và trình độ học thức về Kinh Luật. Trải qua một thời gian hơn 3 tháng nhứt là nhờ ngài Đốc Phủ Như đã tận tâm lo giấy tờ và thiện tín các nơi hộ độ chi phí mà cuộc xuất dương của tôi mới được thực hiện và buổi khởi hành nhứt định vào lúc 4 giờ chiều ngày 13-6-1952 tại phi trường Pochengtong (Pnom-Penh).
Trước ngày xuất dương có nhiều thiện tín nhứt là thầy Huỳnh-V-Niệm yêu cầu tôi để làm một cuộc lễ tiễn hành, nhưng tôi nghĩ rằng mình tài hèn đức kém không dám nhận lãnh, túng thế nên chư thiện tín mời thỉnh tôi bố thí một thời Pháp tại nhà ông Đốc Phủ Như để nhắc nhở tấm lòng mộ đạo của chư thiện tín trước khi tôi từ giã thủ đô Kim Biên.
Trong hôm ấy thầy H.V.N có đọc một bài diễn văn để tiễn hành tôi như vầy:
Bạch Đại đức,
Trong cơ hội này, chúng tôi được hay tin Ngài sắp đắc kỳ sở nguyện trong cuộc viễn du qua Ấn Độ và Tích Lan để tìm đường tu học, tôi xin thay mặt cho tất cả chư thiện nam tín nữ đang cu hội nơi đây có đôi lời kính xin Ngài hoan hỷ tha thứ cho.
Bạch Đại đức,
Thuở trước kia, vừa được 29 tuổi xuân Ngài còn là một công chức đang sống trong cảnh gia đình đầm ấm, hạnh phúc, no cơm, ấm áo có nhiều hy vọng tương lai tốt đẹp của đời. Bỗng đâu duyên kỳ đã đến nhờ trí huệ xét đoán cao siêu về nỗi vô thường khổ não của vạn vật, nên Ngài đã can đảm chặt đứt các sợi dây trói buộc, từ giã chốn đô thành huyên náo đầy dẫy những điều tội lỗi dấn thân vào chốn rừng sâu núi thẳm quyết dạ hy sinh để nối gót đấng Cha lành. Rồi từ đó trở đi, trải qua nhiều năm, nhiều tháng chúng tôi không có dịp hội kiến cùng Ngài. Có lẽ trong thời kỳ cố gắng trên đường phạm hạnh, Ngài đã có dịp hưởng hương vị thiêng liêng cho đến nỗi không còn màng chi đến việc tế thế độ nhân. Nhưng rất may! Trong mấy năm gần đây chúng tôi rất vui mừng được thấy chí hướng của Ngài có bề thay đổi, chẳng dành thọ hưởng kho tàng Pháp bảo một mình, nên Ngài đã có nhiều cơ hội đem cả tấm lòng bác ái, đứng ra hoằng pháp độ sanh, đúng theo chánh giáo để nhắc nhở, dìu dắt chúng tôi trên đường giải thoát.
Bạch Đại đức,
Đúng lẽ thì chúng tôi phải tạo ra một cuộc lễ long trọng để tiễn hành Ngài vì trong ít hôm nữa Ngài sẽ từ biệt chúng tôi, lên đường sang Ấn Độ và Tích Lan du học, Tích Lan là một căn cứ của Hội Phật giáo Thế giới và nơi mà mùi vị của Phật giáo Nguyên Thủy còn đương nồng hậu, sẽ có dịp được nhận thêm một bực hành giả có đầy đủ nghị lực như Ngài.
Bạch Đại đức,
Nhưng chúng tôi không thể thực hành sự tiễn đưa Ngài y theo ý nguyện, vì hoàn cảnh trái ngược đời và đạo, nên khiến cho Ngài không ưng thuận cho phép chúng tôi làm tròn phận sự của hàng môn đệ. Tuy nhiên, chúng tôi không đành thờ ơ lãnh đạm với một đấng ân nhân cao cả như Ngài, bởi cớ ấy chúng tôi xin kính mấy lời cảm tạ công ơn vô lượng của Ngài đã dạy dỗ chúng tôi từ bấy lâu nay.
Chúng tôi xin cầu nguyện cho Ngài được luôn luôn khỏe mạnh và mau đạt thành đạo quả Niết-bàn, và rất trông mong rằng trong một ngày vị lai Ngài sẽ trở về xứ sở mang theo nhiều tài liệu để chấn hưng Phật giáo, hầu tế độ quần sanh mau được thoát khỏi chốn sông mê bể khổ. Đó là một công trình vĩ đại tương đương với chí khí của Ngài Huyền Trang thuở trước (đọc ngày 1-6-1952).
Thật là:
Trong buổi chia phôi luống chạnh lòng,
Tiễn người tầm đạo, tách rời đông.
Đem theo chánh kiến, y cùng bát,
Coi rẻ kim ngân nhẹ tợ lông.
Ý trước nhận hành gương cứu khổ,
Duyên sau gắng độ giống nòi hồng.
Quay về Phật giáo thời nguyên thủy,
Đức cả công dày rạng núi sông.
Huỳnh Văn Niệm
Sở kiểm soát tài chánh P.Penh
Đại đức Bửu Chơn họa nguyên văn:
Theo dấu người xưa nguyện dốc lòng,
Một hình một bóng giã miền Đông.
Tung mây bay thẳng sang Tây-Trước,
Lướt sóng thuyền đưa tới Xây-Lông (Ceyion)[1]
No đói chỉ nhờ nơi quả bát,
Ấm thân sở cậy lá y hồng.
Mài gươm trí tuệ vào nguyên thủy,
Tam tạng thỉnh về rạng núi sông.
Để đáp lại tâm nhiệt thành của một số đông Phật tử đã hy sinh công của trong cơ hội ấy, và nhứt là muốn bày tỏ sự lợi ích từ cuộc xuất dương, tôi xin cho xuất bản quyển “Hành trình sang xứ Phật” này để cống hiến đến chư độc giả.
Những ký ức được chép trong quyển sách đều do sự nghe thấy của tôi tại mấy nơi mà tôi đã hân hạnh được đặt chơn đến. Ngoài ra, lại có nhiều hình ảnh về những chỗ động tâm và thánh tích trong mấy xứ: Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Xiêm v.v… được in nơi mỗi bài tường thuật cho người đọc dễ lãnh hội và phát tâm cảm thích.
Nhà sư tu hành còn kém khuyết, học hỏi ít oi, ngôn ngữ văn chương không trôi chảy, nếu có điều chi sơ thất trong quyển sách này, xin chư cao Tăng, Đại đức và quý độc giả vui lòng chỉ dạy.
Tác giả
Tỳ khưu Bửu Chơn.
Hành Trình Sang Xứ Phật
1. Khởi hành từ Nam-Vang qua Vọng Các.
Lúc trưa ngày 13-6-1952 lên xe rời khỏi Chùa Mahamontrey, tôi rất thâm cảm tấm lòng từ bi khiêm tốn của các vị Đại đức Maha Sès, Achar Tích, Achar Sim, Hộ Tông và một số đông chư tăng Việt Nam không nệ mệt nhọc trong buổi nắng hè, vui lòng đưa tôi ra tận phi trường Pochengtong. Nối đuôi theo sau đoàn xe của chư tăng, có rất nhiều thiện tín ở phương xa như: Kratié, KG. Cham, KG. Chnang, Sài Gòn… đã tụ họp lại từ mấy hôm trước, vậy đoàn cùng các Phật tử Việt Nam tại Kim Thành tiễn chân tôi sang đất Ấn. Khi 2 giờ rưỡi trưa đoàn xe vào đến phi trường Pochengtong thì tôi thấy đã có nhiều người đang chực sẵn tại đó.
Phần chư tăng thì vị nào cũng tỏ vẻ hoan lạc thỏa thích vì rất hân hạnh được một bạn đồng đạo sang tận Tích Lan tu học, các Ngài cho cuộc hành trình của tôi là bước đầu tiên để khuyến khích nhiều vị Sư khác xuất dương. Bên phía thiện tín thì có người thản nhiên bình tĩnh và cũng có người lo âu về cuộc hành trình xa xôi, khó nhọc của tôi, không biết lúc nào trở về và bề độ nhựt của tôi tại đất khách ra sao? Thấy tấm lòng chiếu cố nhiệt thành của chư Đại đức và của thiện nam tín nữ, tôi cũng bâng khuâng ái ngại nửa mừng nửa lo. Mừng là được đạt kỳ sở nguyện sang tận đất Phật khảo cứu Kinh Luật Nguyên Thủy và chiêm bái mấy chỗ động tâm, còn lo là nỗi cô thân lạ cảnh lạ người, không biết cuộc xuất ngoại của tôi sẽ đem lại kết quả thế nào và có bổ ích chi cho đồng bào? Tôi chỉ biết nguyện thầm ân đức Tam bảo gia hộ tôi đến nơi được an vui khỏe mạnh, tu học dễ dàng, hầu đáp lại mối thạnh tình của một số đông Phật tử đã hy sanh công của lo lắng cho tôi.
Chúng tôi kẻ đứng người ngồi, chuyện trò chờ đợi, mãi tới 3 giờ rưỡi mới thấy dạng phi cơ của hãng Thái-Airways từ Sài Gòn trở lên và đáp xuống phi trường. Sau khi hành khách trình giấy tờ và hành lý cho nhà chức trách khám xong thì đúng 4 giờ chiều, con hạc sắt lại rồ máy cất cánh bay về Vọng Các. Trên phi cơ dòm xuống, trong giờ phút nắng bức này là một cảnh vật linh động đủ màu sắc thiên nhiên của các xứ của miền nhiệt đới. Ngoài mấy cơ sở tân thời của phi trường Pochengtong và những liều tranh lẻ tẻ của nhóm nông dân, thì toàn là đồng ruộng bao la bát ngát, lấp lánh những mảnh gương màn bạc chói ngời, điểm dấu các ao hồ, ngòi rạch, cảnh vật ấy lại thêm phần cảm động khi tôi nhìn về phía nhà ga thấy lố nhố nhóm người đến tiễn chân vẫy tay dở nón. Bay được một đoạn đường mây bắt đầu trở nên đen sẫm, dông mưa ào ạt tuôn xuống, phi công phải cẩn thận cho bớt máy và mãi gần 6 giờ chiều tới Vọng Các, lúc ấy mưa cũng vừa dứt. Bức màn u ám đã gieo rắc mối lo sợ cho hành khách lại nhường chỗ cho một bầu trời quang đãng trong tươi. Thoạt nghe tiếng còi báo động cho biết phi cơ sắp đáp xuống sân bay, phi trường này ở cách xa thủ đô Thái Lan ngót 28 cây số ngàn, lớn hơn phi trường Tân Sơn Nhứt nhiều và kiến trúc rất tối tân, những ghế ngồi trong phòng khách đều bọc toàn bằng da. Cũng như nơi các phi trường khác, ở đây số người đưa rước nhiều gấp bội số hành khách nên nghề buôn bán thực phẩm và nước giải khát rất phồn thạnh. Khi xuống phi cơ và vào đến nhà ga, ai nấy đều có người thân đến rước, riêng tôi chẳng được cái may mắn ấy và đang suy nghĩ không biết chùa nào đặng xin ngụ đỡ vài hôm. Mãi đến một giờ sau tôi mới gặp một người Việt Nam quen là thầy Tám X… cư ngụ tại xứ Thái đã lâu, cũng như đoàn thám hiểm gặp được giếng nước giữa bãi sa mạc, người xứ lạ gặp được bạn đồng hương là một chuyện may vô cùng.
Ở đây người thường nói tiếng Thái hoặc tiếng Anh, thành thử tiếng Pháp của tôi trở nên vô dụng, may thay trước khi xuất dương tôi cũng có học được đôi chút hai thứ tiếng ấy nên dễ bề trao đổi ngôn ngữ với người bổn xứ. Tôi được vào trọ nơi chùa Thep Serin trong ba hôm để chờ chuyến máy bay đưa sang Miến Điện, lúc tôi ở đây mọi việc đều nhờ thầy Tám X… hộ độ và có vài vị cư sĩ Cao Miên đến thăm để đưa tôi đi viếng kinh đô Vọng Các, xem các ngôi chùa, nhất là chùa Phật Ngọc (Wat Préah Keo).
Thái Lan là một nước hoàn toàn theo Phật giáo Nam Tông từ vua chí dân, thảy thảy đều giữ đạo Phật, dân số chừng 18 triệu, trong ấy có trên 5 triệu Hoa kiều cùng một số người Việt Nam và Cao Miên, chư tăng có tới 250.000 vị, Chùa chiền rất nhiều và kiến trúc tương tợ như ở xứ Cao Miên. Theo luật bổn xứ người ngoại quốc mới đến phải trình cho sở Tân đáo và đóng một thứ thuế vào xứ chừng 8 đồng bạc Thái (gần 30 đồng bạc Đông Dương). Những khách ghé tạm để chờ phi cơ đưa sang xứ khác được phép lưu trú đỡ (Visatransit) không quá một tuần lễ. Nước Thái Lan cũng có đầy đủ Kinh Luật như Miến Điện và Tích Lan, Pháp học ở đó được tấn triển khả quan, nhưng Pháp hành thì kém sút hơn hai xứ nói trên và Cao Miên.
2. Từ Vọng Các sang Rangoon
Cách 3 ngày sau có chuyến máy bay sang Miến Điện, đúng 10 giờ sáng thì phi cơ cất cánh và bay mãi tới 1 giờ chiều mới tới thủ đô Rangoon. Phi trường tại đây nhỏ hơn ở Vọng Các, hôm ấy trời cũng mưa dầm, phi cơ vừa đáp xuống thì đã có ông Maṅgala U Bathan chực sẵn tại phi trường để rước tôi. Ông là một thương gia rất tín thành với Phật giáo được thầy Tám X… từ Vọng Các đánh điện văn cho hay trước, ông đưa tôi về Chùa Sasanāyetha ở gần thủ đô Rangoon được sắp đặt theo những điều kiện thuận lợi cho các hành giả chuyên tu về phép thiền định. Vị Sư cả là Đại đức Bhadanta Muninda suốt thông Kinh Luật, giới hạnh trang nghiêm đã xuất gia hơn 20 hạ.
Cũng như ở Thái Lan người Miến lấy Phật giáo làm quốc đạo, phần đông người bổn xứ đều sinh hoạt theo khuôn khổ Phật giáo, ngoài ra có một số ít tín đồ Thiên Chúa giáo. Diện tích xứ Miến Điện lớn hơn xứ Thái Lan nhưng dân số cũng chừng 19 triệu, tăng chúng có lối 180.000 vị và có rất nhiều am thất dành riêng cho các tín nữ (cô diệu)[2] thọ trì thập giới đến học kinh hoặc tham thiền. Tôi cũng có dịp được viếng một ngôi chùa trong ấy có đến 130 tín nữ (cô diệu) từ 10 tuổi sắp lên ở tu học. Nơi Miến Điện pháp hành được tấn triển hơn các xứ trong khối Phật giáo Nguyên Thủy, người Miến lại còn có đức tin trong sạch với ngôi Tam bảo hơn mọi nơi nên bề khất thực của các bực xuất gia rất dễ dàng. Một hôm được viếng chùa Shrewdagoon nhằm ngày bát quan trai, tôi có gặp hơn 50 tín đồ đến nghe một vị Đại đức lão thành thuyết về “minh sát huệ”. Cả thảy thính giả đều là người giữ bát quan trai giới, đến ở luôn tại giảng đường trọn ngày đêm. Hành vi cao thượng của các cư sĩ Miến Điện trong ngày lễ bát quan trai càng khêu gợi đức tin của người tìm đạo. Vì hiện nay trên thế gian khó tìm đâu ra một số người tại gia đông đúc như thế, dám bỏ phế việc đời vào chùa tham thiền, niệm Phật.
Hôm tới Miến Điện tôi nghe người ta cho biết có một vị A-la-hán vừa tịch diệt trước mấy hôm, xác còn quàn mà không hôi thúi, và có nhiều bực khác đắc từ Tu-đà-huờn cho đến A-na-hàm quả, tôi có tọc mạch hỏi thăm coi các ngài hành theo pháp nào thì nhiều người cho biết rằng hành theo pháp Tứ niệm xứ.
Chùa Shrewdagoon một bảo tháp nguy nga đồ sộ có danh tiếng trong hoàn cầu, để thờ tám sợi tóc của Đức Phật. Theo lịch sử Phật giáo sau khi Đức Thế Tôn đắc đạo dưới cội Bồ đề được 3 tuần nhựt và Ngài còn đang vui hưởng hương vị giải thoát, thì một hôm nọ có hai người lái buôn Miến Điện đi ngang qua gặp, họ liền phát tâm trong sạch dâng bánh đến Ngài và xin qui y Nhị Bảo là Phật và Pháp mà thôi, vì lúc ấy chưa có Tăng già. Cúng dường xong hai người lái buôn xin một vật di tích của Ngài để đem về xứ thờ phụng chiêm bái, Đức Phật liền nhổ tám sợi tóc trao cho họ đem về xứ tạo tháp Shrewdagoon thờ cho đến ngày nay.[3]
Một hôm tôi được viếng chùa Donanasari Kudi ở Hangavadi là nơi hội họp của hàng phụ nữ đến học tham thiền, chùa này có thể chứa được gần 200 tín nữ thọ thập giới hoặc bát quan trai giới, y phục của họ toàn là màu cam, dưới mặc một cái cũn, phần trên cái áo tràng chẹt tay và phía ngoài họ choàng một lá y không có may điều. Các cô đều học Pāli trong ba lớp: hạ, trung, thượng. Những giáo sư đều là người nữ trừ ra vị giám đốc là một vị Đại đức đến xét hỏi giảng dạy đôi khi, nhóm tín nữ này được hội Phật giáo Prariyati Sassana hộ độ 4 món vật dụng và 300 đồng bạc Miến mỗi tháng, tiền cung cấp dầu xăng và một chiếc xe hơi để đưa đến nhà các thí chủ lãnh gạo, củi, khô cá và phẩm vật khác đem về chùa nấu lấy mà chi độ. Khi tôi đến viếng thì có chừng 130 tín nữ đang ngụ tại chùa Donanasari Kudi, hôm sau lại được đi viếng chùa Thế Giới Hòa Bình là chỗ đang sửa soạn để kết tập Tam Tạng lần thứ 6 tại Kaba Aye.    
Nói về sự thành lập xã hội Phật giáo Miến Điện.
Không ở đâu hơn xứ Miến Điện được kết quả tốt đẹp về sự thành lập một xã hội căn cứ vào Phật giáo. Mỗi người nào lần đầu tiên đến viếng xứ Miến, đi bằng đường hàng không hoặc đường thủy chẳng hạn sẽ có cảm giác là thường vì thấy những phong cảnh tô điểm với những kiểu tháp đầu nhọn khác nhau, sơn trắng hoặc thếp vàng lố nhố trong những rặng cây. Nếu du khách khi tới Rangoon sẽ thấy sự xa xăm, sự chói sáng dưới ánh thái dương của bảo tháp Shrewdagoon (tháp thờ tóc 8 sợi tóc của Đức Phật) ở trên chót đồi và lố nhố những bảo tháp thếp vàng dọc theo bờ sông Rangoon, những bảo tháp này chẳng những là một phong cảnh tuyệt vời của xứ Miến mà cũng là một biểu hiệu về Phật gi��o của đời người Miến. Trong 19 triệu dân có lối 16 triệu tín đồ Phật giáo.
Phật giáo dạy chung cho tất cả thế giới một phong hóa hay là một kỷ luật hoàn toàn tốt đẹp là mỗi người Phật tử ít ra phải giữ ngũ giới hay là thập giới. Tuy nhiên, trong một nước nào hay là một tôn giáo nào cũng có kẻ tốt người xấu, cũng thế, người ta cũng thấy ít người không được tốt của xứ Miến vậy. Dầu sao, xứ Miến cũng có thể nói là một xứ chịu ảnh hưởng của Phật giáo từ nhiều thế kỷ đã qua, do nhờ phái Tăng già dắt dẫn. Nhờ sự dắt dẫn của các nhà sư mà mỗi đứa trẻ đều được xuất gia sa di hoặc tỳ khưu ít ra từ một tuần cho tới một năm. Những đứa bé ấy trước kia đều được vào học trong các chùa địa phương, bắt đầu học chữ Miến và những phép toán, văn chương đạo đức v.v…Các giáo sư đều là nhà sư dạy không cho những trẻ em ấy, nhờ đó mà 56 phần trăm người Miến đều được biết văn chương lỗi lạc. Một khi đứa trẻ đã vào xuất gia rồi thì giao phó cho ông thầy dạy dỗ và có thể tu luôn suốt đời hoặc sau một năm học tập, muốn hoàn tục ra cũng được. Sau khi ra đời tánh tình cử chỉ cũng chịu ít nhiều ảnh hưởng của ông thầy đã huấn luyện. Chư tăng chẳng những phải thực hành về mặt đạo đức mà còn là một bực hướng dẫn về phần tinh thần cho dân chúng nữa.
Trong mỗi làng không có chuyện chi quan trọng mà không cần đến sự hiểu biết của chư tăng, vì vậy mà các Ngài được dân sự Miến, dầu cho trong làng thật nhỏ cũng sùng bái và dâng cúng vật thực hằng ngày. Nếu mỗi khi có cuộc lễ chi thì họ lại càng dâng cúng rất dồi dào, có cả 4 món vật dụng là: y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc men. Nếu có người nào tạo được một bảo tháp hoặc một Tăng đường để được nhiều phước báu đặng mau đến Niết-bàn, thì đối với xã hội Miến, rất được nhiều danh dự hơn người giàu có muôn hộ. Mỗi người Phật tử đều dòm thấy những vật chung quanh là vô thường, vô ngã, vì vậy mà hiện nay dân Miến ít có người giàu có danh tiếng vì họ được hấp thụ một phần ảnh hưởng lớn lao của Phật giáo.
Trên lịch sử từ trước thì người ta nhận biết rằng người Miến là một dân tộc sống về nghề canh nông, cho tới ngày nay họ cũng rất thạnh vượng trong nghề ấy. Đời giản dị trong nghề canh nông của họ lại nảy sanh ra nhiều câu ca dao đã hơn 100 năm về trước như sau:
Ca dao đời nhà nông (dịch):
Khi đã đến mùa mưa tầm tã,
Đôi vợ chồng ẵm cả đứa con.
Vai mang giỏ cũ đã mòn,
Mình mặc rách rưới đầu tròn bịt khăn.
Đi theo bờ ruộng lăng xăng,
Miệng ngậm ống điếu dài nhằn cả gang.
Kia kìa cua ở trong hang,
Hoặc là ốc hến theo đàn lượm vô.
Rau lang rau dệu bắp ngô,
Đem về nấu với ớt khô mắm mòi.
Với cơm đã chín xong rồi,
Dọn ra hủ hỉ xúm ngồi cùng ăn.
Đứa con quá lạnh run lên,
Vào ngồi lòng mẹ lấy khăn trùm mình.
Kia xong công việc gia đình,
Cùng nhau bàn tính chương trình ngày mai.
Bài ca dao trên đây để tỏ cuộc đời giản dị, mộc mạc của nhà nông sống một cách thái bình vui thú. Tuy nhiên, họ cũng có một sự lo lắng là thiếu nước mưa, nếu trời mưa dồi dào thì mùa màng họ rất thạnh vượng.
Phụ nữ Miến rất cực nhọc vất vả về công việc ruộng nương gia đình, họ cũng giúp chồng cày, cấy, gặt, hái v.v… họ lại còn biết thêu dệt những mền chăn để hỗ trợ gia đình và làm ngapi (mắm) để chi dụng mãn năm. Phụ nữ Miến rất tự do và tỏ ra mình không có hấp thụ theo văn minh lố lăng của Âu châu, luôn luôn ăn mặc theo phong hóa nước nhà và theo kỷ luật của Phật giáo. Họ không bị bắt buộc gì về sự kết hôn hay ly dị đều do họ thỏa thuận, chớ không có liên quan gì đến Phật giáo, khi nào họ thôi nhau thì của cải được chia đồng, nếu chồng chết thì phần đông họ vẫn ở vậy và lo làm ăn như lúc chồng còn sống.
Phật tử người Miến vẫn khoan dung đại độ đối với tất cả những người có tôn giáo khác, họ không chấp giai cấp và dòng giống. Về mặt chính trị, kỹ nghệ, thương mãi và xã hội họ cũng đối đãi bình đẳng nhau cả, họ rất trọng quyền lợi của nhau và lòng tự ái của kẻ khác. Họ không khi nào có tên riêng (Surnom) như đạo Gia-tô, tên họ lại không liên quan đến tên của gia quyến, họ chỉ có một tên riêng biệt của mỗi người thôi.
Xứ Miến phía nam giáp ranh với Ấn Độ, phía tây với Tàu, phía bắc với Thái Lan, là xứ dẫy đầy những tháp và lọng, có nhiều sông rạch, ruộng lúa, hột saphir và nhiều thứ rubis. Nhiều dân tộc khác cho xứ Miến là xứ phụ nữ đáng yêu, ông Ptolemy một nhà địa dư học cho là một bán đảo vàng khắp mọi nơi, nếu từ tháng 5 tới tháng 10 thì toàn xứ trở nên xanh um với thửa ruộng đã cấy xong, vì lúa là một hầm vàng của xứ Miến, nên xứ Miến không có ai nạn đói bao giờ. Miến Điện mở mang một xã hội đời sống và tinh thần đều căn bản nơi Phật giáo. Hiện nay họ sống vẫn đầy đủ hạnh phúc, có thể nói họ cười, giỡn, tranh đấu và chết cũng đồng trong một lúc.
Trong trận chiến tranh thế giới thứ nhì, người ta chết hằng vạn, nhưng không làm mất sự vui thú của họ một mảy may nào đó cũng nhờ tinh thần Phật giáo, nên họ luôn luôn được vui cười, họ có thể tự hào rằng: Phật giáo và cơm nước đem lại cho họ muôn vàn hạnh phúc.
Trong 5 hôm ở Rangoon tôi được ông U Ba Than và ông chưởng lý U Tchan Htong hộ độ và mỗi bữa cho xe đến rước tôi đi chiêm bái mấy nơi Phật tích. Đến ngày thứ 6 lúc 10 giờ rưỡi tối mới có chuyến máy bay qua Calcutta.
Từ Rangoon sang Calcutta
Hôm ấy tôi từ giã Rangoon sang Calcutta lối 10 giờ rưỡi đêm.
Ban đêm biết trời ở trên hư không lạnh lắm, hãng máy bay có phát mền nỉ cho hành khách đắp, vì trời khuya gió lạnh phần thì mệt mỏi quá nên tôi ngủ quên mãi đến 4 giờ sáng mới thức dậy và nghe còi báo hiệu cho biết phi cơ sắp đáp xuống phi trường Calcutta. Bên trên nhìn xuống thì toàn là một vùng sáng trắng mênh mông lập lòe của đèn điện trong tỉnh thành xem rất ngoạn mục, đây là giờ phút im lặng nhứt tại một đô thị đông đảo trong khi người người đang yên giấc.
Các hành khách mới đến phải trình giấy thông hành và biên vào 4, 5 mảnh giấy theo luật Chánh phủ Ấn Độ, xong việc phải qua phòng y tế cho quan thầy khám xét giấy chủng đậu và giấy tiêm thuốc ngừa dịch tả, rồi qua phòng thương chánh cho khám hành lý và khai rõ các vật dụng mang theo mình, nhứt là vàng bạc. Ở đây sở thương chánh xét rất gắt gao để đánh thu�� những món đồ ngoại quốc nhập cảng, vì phi trường ở xa tỉnh thành ngót 20 cây số nên hành khách phải chờ sáng ra mới có xe của hãng đưa về Calcutta. Hội Đại Bồ Đề được tin trước có cho người đến rước nhưng máy bay đến trễ nên phái đoàn đã trở về. Tôi hết sức lo âu, nhưng cũng may hội ấy lại ở cùng một đường với sở hàng không nên khi xe chạy ngang ngừng lại cho tôi xuống trước cửa chùa.
Theo luật Chánh phủ Ấn, người ngoại quốc chỉ được lưu mãn, nên 3, 4 ngày sau tôi phải rời khỏi Calcutta lúc 8 giờ sáng đặng qua Tích Lan, không được đi chiêm bái mấy nơi động tâm. Đến 1 giờ trưa thì máy bay đáp xuống phi trường Madras, cách tỉnh thành 25 cây số, tôi được người rước về nghỉ tại chi ngành hội Đại Bồ Đề ở đây, cũng đông không thua gì Calcutta, dân số thành Madras có tới 6 triệu, phần nhiều là người Tamil, còn ở Calcutta thì lối 8 triệu thuộc về giống Bengali.
Sáng hôm sau mới có phi cơ bay qua đảo Tích Lan, tối được nhân viên hội Đại Bồ Đề đưa vào một nhà hàng ăn điểm tâm. Tại đây, cách trình bày nơi phòng ăn, sự tiếp khách và các thực phẩm, mỗi mỗi đều khác xứ ta, khi khách ngồi xong thì người bồi đến đặt trên bàn một miếng lá chuối rồi sớt cơm và đồ ăn mỗi món chừng vài muỗng, ai nấy đều ăn theo lối cổ điển, nghĩa là dùng tay trộn cơm và các món ăn lộn chung nhau rồi bóc từng nhúm đút vào miệng nhai ngỗm ngoãm. Ăn xong người khách liếm cả tay rồi mới đi rửa sau, tôi rất bỡ ngỡ vì không quen, nhưng cũng phải ăn theo cách bình dân ấy đặng ra phi trường cho kịp giờ.
Tới 11 giờ rưỡi trưa máy bay mới cất cánh rời khỏi địa phận Ấn Độ, bay ngang qua Ấn Độ Dương để sang Tích Lan. Một giờ rưỡi sau phi cơ đáp xuống phi trường Jeffna, ở đây sự khám xét giấy tờ và hành lý còn gắt hơn ở Ấn Độ để đánh thuế các hàng hóa nhập cảng, hành khách phải đến bác sĩ khám bịnh 3 lần, ai được phép lưu trú lâu (entered visa) đều bị thâu giấy thông hành và nhận giấy tạm 1 tuần rồi sau sẽ đến sở Tân đáo xin nhứt định thời hạn cư ngụ trong xứ. Từ Jeffna tôi phải lên một chiếc phi cơ khác đi Colombo, thủ đô của xứ Tích Lan. Trên không dòm xuống thì toàn là rừng núi xanh um và đầy dẫy những vườn dừa sum suê bao la phủ tất cả xóm làng thành thị, phong cảnh Tích Lan cực đẹp khiến người trong nước tự hào rằng đó là cõi thiên đàng.
Phi cơ vừa đáp xuống thì có bác sĩ Jayavikrama thay mặt ông Malalasekara đến rước tôi về Chùa Vajirāma an nghỉ, chùa này lớn đứng vào bực nhứt ở Colombo thuộc về phái Amarapura Nikaya, có cả thư viện cho người tới xem Kinh hoặc các tạp chí về Phật học.
Tôi quyết sang Tích Lan để nghiên cứu và học hỏi thêm về PGNT, nhưng chùa này không có trường học, nên 4, 5 hôm sau lại sang ngụ tại chùa Dhammaduta Vidyalaya ở Dematagoda cách xa đó chừng 6 cây số, nhằm lúc gần nhập hạ. Tại đây có học đường và luôn cả giáo sư về anh văn nên rất tiện, trường Phật học này có dạy 6 thứ tiếng: Pāli, Tamil, Sanscrit, Hindi, Singalese và Anh ngữ cho nhà sư dễ bề khảo cứu và đi truyền đạo khắp nơi. Vị Sư trưởng tên là Vajirañāna là một tiến sĩ khoa triết học tại Luân Đôn rất cao hạ, kiêm luôn chức giám đốc các Phật học đường trong xứ Tích Lan nên được nhiều người sùng bái, yêu vì.
4. Lịch sử Phật giáo Tích Lan
Tích Lan là một nước vừa được độc lập, dân số chừng 8 triệu người gồm lại có nhiều sắc: Tamil, Anh, Ấn, Hòa Lan, Sihala v.v… Kinh thành Colombo cũng khá to, được xây dọc theo bờ biển dài lối 20 cây số nên khí hậu rất mát mẻ.
Phật giáo Tích Lan chia ra 3 phái: phái Siam Nikaya lâu đời nhứt từ nước Xiêm-la truyền sang trên 200 năm và chư tăng đông hơn hết có trên 15 ngàn vị, phái này có bổn phận gìn giữ và phụng thờ răng nhọn của Đức Phật tại tỉnh Kandy; phái Ramañña Nikaya từ Miến Điện truyền sang cách đây 150 năm và có chừng 3 ngàn vị sư; phái Amarapura Nikaya cũng từ Miến Điện truyền sang và cũng lâu như phái Ramañña Nikaya, số tăng có chừng 2 ngàn vị. Tổng cộng lại xứ Tích Lan có lối 20 ngàn chư tăng đều thuộc về Phật giáo Nam Tông, có nhiều vị sư xuất thân từ các trường cao đẳng hoặc trung học thông suốt 6 thứ tiếng nói trên. Về tôn chỉ thì 3 phái ấy đều giống nhau, nhưng sự thực hành có khác nhau đôi chút, như tỳ khưu, sa di trong phái Siam Nikaya thì cạo lông mi, còn hai phái kia thì để tự nhiên. Phái Ramañña thì không dùng dù mà chỉ lấy lá buôn xòe lớn ra như cây quạt để che nắng, còn phái Amarapura thì đi đầu trần, phái sau này thực hành Kinh Luật đúng đắn hơn mấy phái khác, Đại đức Narada cũng thuộc về phái ấy.
Chùa chiền.
Tại Colombo có ngôi chùa tên là A Dục tự (Asokārāma) kiến trúc cực kỳ xinh đẹp, tốn hơn 1 triệu rupies, bên trong lót toàn bằng đá cẩm thạch, có kim thân của 28 vị Phật tổ quá khứ và hình các Chư Thiên, Phạm Thiên, đục nổi trên mặt tường trông rất mỹ thuật.
Theo cổ truyền sau khi Phật tịch diệt được 218 năm, vua A Dục có cho hai người con là đức Mahinda và công nương Sanghamitta đem Phật giáo qua truyền bá trong đảo Tích Lan. Từ Ấn Độ hai vị ấy có mang theo một nhánh cây Bồ đề được trồng lần đầu tiên tại Anuradhapura mà hiện nay vẫn còn tàng lá sum suê. Về các ngọc Xá lợi thì được chia sớt trong khắp xứ Tích Lan cho dân chúng tạo bảo tháp thờ phụng, hiện nay còn có nhiều bảo tháp ấy, có cái bị sụp đổ vì lâu đời, có cái được tu bổ nên còn nguyên vẹn.
Tại tỉnh Anuradhapura có tháp Maha Cetiya cao đến 60 thước tây, chu vi chừng 300 thước được vô số người tới chiêm bái ngày đêm không ngớt, nhiều nhứt là mấy hôm rằm hoặc 30.
Tại Seruvela thuộc tỉnh Tricomale có một bảo tháp thờ xương trán Đức Thế Tôn rất nguy nga đồ sộ.
Tại Mahintale cũng có nhiều bảo tháp và trái núi mà trước kia đức Mahinda đã bay đến phóng hào quang ra sáng lòa trong xứ, cái động đá của Ngài ngự tham thiền hiện nay vẫn còn.
Trong tỉnh Hatton có trái núi Siri Pada cao hơn 2.000 thước, sử truyền rằng khi Đức Phật Thích Ca bay qua Tích Lan lần thứ nhì, Ngài có để lại trên chót núi ấy một cái dấu chơn mà hiện nay người bổn xứ hay tới chiêm bái, núi này cao nhứt trong đảo Tích Lan. Lúc Đức Phật qua Tích Lan đầu tiên tại xứ Mahinyangama có cho đức vua mấy sợi tóc để tạo tháp phụng thờ, bây giờ tháp ấy đã hư sụp và chính phủ Tích Lan đang định tu bổ lại.
Cách tỉnh thành Kandy độ 15 cây số có trái núi Aloka Vihara rất đẹp đẽ và là chỗ Đại đức Buddhagosā đã hội tất cả chư tăng trong đảo Tích Lan để kết tập Tam Tạng lần thứ tư theo yêu cầu của vua Devanampa Tissa, chính trong kỳ này Kinh Luật Pāli được chép ra bằng chữ Tích Lan lần thứ nhứt sau khi Phật nhập diệt hơn 900 năm. Tại Kandy ở giữa xứ Tích Lan có đền thờ răng nhọn của Đức Phật tổ, đền thờ ấy trước kia là một đền vua được dâng vào Tam bảo sau lúc ngài thăng hà. Mỗi năm tới tháng 7 thì có cử hành cuộc lễ Perahara, kiệu răng nhọn ra khỏi đền cho người chiêm bái. Cuộc lễ vô cùng long trọng có cả 60 thớt voi mang đồ trang sức quý giá, sau mỗi cặp voi có 10 người đánh trống, thổi kèn và cầm đuốc đi theo, con tượng sau cùng mang một cái bành đặc biệt hơn các con khác, trên bành có để tháp đựng răng nhọn. Cuộc lễ dàn ra hơn một cây số rưỡi, hàng vạn người từ các nơi hội đến nghinh lễ, mỗi người đều cầm hoa đi theo hàng ngũ một cách cung kính.
Đền thờ Xá lợi.
Đền này ở trong đền thành vua trước kia, cất làm hai tầng. Tầng trên là chỗ thờ Xá lợi, mỗi ngày chia ra làm 4 thời cho dân chúng vào chiêm bái bảo tháp chớ không được xem Xá lợi, vì phải có nhiều chìa khóa mới mở tới bên trong. Sớm mai từ 5 tới 6 giờ, trưa từ 10 tới 11 giờ, chiều từ 2 tới 3 giờ và tối từ 7 tới 8 giờ. Người đi lễ mang theo bông hoa khi vào trước điện thì quỳ xuống dâng bông cho vị thượng tọa rồi đảnh lễ lui ra một phía nhường chỗ cho vô số người khác vào chiêm bái, trong lúc hành lễ đều có kèn trống giúp thêm vẻ trang nghiêm long trọng.
Đức Xá lợi được giữ rất cẩn thận và cơ hội để cho người xem không có nhứt định trước, trong một hoặc hai năm không chừng, chỉ khi nào có các thương khách ngoại quốc hoặc do lời yêu cầu của quần chúng thì mới có lịnh mở tháp cho xem. Tin khai tháp được loan trên mặt báo 3 ngày trước, rồi mỗi ngày Xá lợi được thỉnh ra giữa giảng đường cho người xem. Phải có 90 cái chìa khóa do nhiều vị Đại đức giữ, khi hội đủ các ngài mới có thể mở tới Xá lợi để trong nhiều ngăn nắp rất kiên cố. Đầu tiên phải mở 3 vòng cửa mới tới chỗ để tháp Xá lợi, tháp cao độ 1 thước rưỡi Tây an vị trong cái cũi bằng đồng. Muốn mở cũi phải cần đến 2 cái chìa khóa thật to do 2 vị bác sĩ cất giữ, kế đó một vị thượng tọa đem lại một cái chìa khác đặng mở nắp tháp. Tháp làm bằng đồng pha vàng màu lóng lánh vô cùng đẹp đẽ, bên trong có vô số bửu vật do tín đồ thập phương cúng dường Xá lợi. Xong lại có hai vị thượng tọa khác đem chìa đến mở thêm hai ngăn tháp nữa cũng chứa đầy ngọc ngà châu báu, sau rốt một vị thượng tọa khác đến mở nắp tháp cuối cùng mới tới đức Xá lợi. Răng nhọn dài độ ba phân rưỡi hoặc bốn phân tây hơi cong một chút, to bằng cỡ ngón tay út màu lóng lánh như vàng hoặc như ngà voi đã lên nước, vì tôi là nhà sư ngoại quốc nên được hân hạnh đứng gần xem rõ.
Khi mở ngăn tháp sau cùng thì chư tăng và những người có phận sự đều đứng cung kính yên lặng chiêm ngưỡng về ấn đức của Phật, công chúng không được đến gần. Xong việc vị thượng tọa cao hạ nhứt mới thỉnh Xá lợi để qua một tháp nhỏ lộng kiếng rồi mới để ra giữa giảng đường cho ai nấy cùng xem, mỗi lần xem có hàng vạn người nên Chánh phủ phải phái cảnh sát đến giữ trật tự. Mỗi nhóm người vào chiêm bái chỉ được vài phút rồi phải lui ra nhường chỗ cho nhóm khác, nhiều lúc hết giờ mà người xem còn sót lại rất đông nên phải hoãn lại 4, 5 hôm đặng làm vừa lòng hàng tứ chúng.
Cách tỉnh thành Kandy chừng hai cây số có một tịnh thất của hai nhà sư người Đức ở tu pháp thiền định. Một ngài lấy danh hiệu là Ñānnatiloka tu đã lâu năm và có nhiều thanh danh trên thế giới, nhiều tác phẩm về Phật giáo Nam Tông do ngài soạn ra bằng tiếng Đức và được phiên dịch ra tiếng Anh và Pháp.
Tại Dodanduvva thuộc tỉnh Galles, Đại đức Ñānnatiloka có sáng tạo một chỗ tham thiền trên cù lao rất thanh tịnh dành riêng cho các nhà sư ngoại quốc đến hành đạo, hiện đã có một vị người Hòa Lan, một vị người Tiệp Khắc và một vị người Anh.
Đi vòng quanh Tích Lan.
Lúc nghỉ học và nhân dịp có phái đoàn chư tăng đi chiêm bái các nơi Phật tích trong toàn xứ Tích Lan, tôi cũng xin nhập đoàn đặng đi xem xét khảo cứu tường tận những cổ tích. Cuộc hành trình phải cần lối 20 ngày và tốn phí ngót 100 rupies (chừng 500 đồng bạc ta).
Theo phong tục người bổn xứ sự đi chiêm bái các thánh địa đem lại rất nhiều hạnh phúc, vì đó hễ lúc nào đường giao thông thuận tiện thì họ họp lại từng đoàn mướn xe, sắp đặt vật thực, lũ lượt kéo nhau lên đường. Đi tới chỗ nào có suối nước bóng cây thì họ mới dừng lại nấu nướng ăn uống rồi tiếp tục đi nữa cho tới khi viếng đủ các nơi Phật tích.
5. Chiêm bái mấy chỗ động tâm và đi vòng quanh Ấn Độ
Vào tháng 11 sau khi ra hạ, hội Đại Bồ Đề Tích Lan có tổ chức cuộc đi vòng quanh Ấn Độ để chiêm bái mấy chỗ động tâm, cuộc hành trình kéo dài hơn một tháng rưỡi tổn phí hết 800 rupies (chừng 4.000$ đông dương), nếu đi riêng một mình thì sở tổn phải lên gấp hai.
Tất cả phái đoàn gồm lại 29 người, có 6 vị sư kể luôn tôi do ông Karunaratna là đại biểu của hội làm hướng đạo, đó cũng là một dịp may cho tôi vì được người giải thích rành rẽ mỗi khi tới chỗ nào có thánh tích.
Phái đoàn khởi hành nhằm ngày 1 tháng 11 – 1952 DL, một hôm trước chúng tôi được hội Đại Bồ Đề mời tới xem chớp bóng mấy chỗ sắp đi viếng, có ông Karunaratna giải thích rành rẽ, xong việc lại có thỉnh chư tăng đến tụng kinh cầu an cho phái đoàn đi đường dễ dàng.
Đúng 7 giờ tối, tàu hỏa rời khỏi nhà ga Colombo chạy đi Talamana thuộc miền ranh giới Tích Lan để chuyển sang tàu thủy vượt biển qua xứ Ấn Độ, tỉnh thành ở xứ Colombo chừng 340 cây số ngàn. Phái đoàn nhờ mướn luôn một toa xe hạng nhì nên cuộc hành trình khỏi chật vật, mỗi toa đều có giường cho hành khách đi đường xa nghỉ đêm, ngoài tiếng động cơ phì phịch, tiếng cọ xát giữa bánh xe và đường sắt, thỉnh thoảng một tiếng hét của còi báo hiệu làm cho hành khách giật mình, bên ngoài là một cảnh trời tinh khiết êm đềm, muôn sao lấp lánh, khiến cho người lữ khách nhiều thú vị thần tiên trong đêm tối ở xứ Tích Lan.
Con rắn sắt khổng lồ băng đồng lướt bụi, uốn éo theo những khúc quanh, mãi gần sáng mới tới Talamana. Đúng 6 giờ sáng hành khách mới được xuống xe để sang qua tàu thủy sau khi sở thương chánh và cảnh sát khám xét xong. Tàu chạy ngót hai tiếng rưỡi đồng hồ mới tới Dhamuskodi, một hải cảng địa đầu của Ấn Độ. Phái đoàn phải dừng lại để tới 12 giờ trưa mới lo xong giấy tờ rồi lên xe lửa sang thành Madras, cách xa chừng 800 cây số, tàu hỏa phải chạy suốt một ngày một đêm cho tới 9 giờ sáng hôm sau mới đỗ vào ga Madras.
Thành Madras được xây dọc theo bờ biển dài ngót 40 cây số, dân cư trên 6 triệu, phần đông là người Tamil, ở đây phụ nữ thường xỏ lỗ mũi một bên, hai bên hoặc ngay chính giữa để đeo dây vàng thòng xuống tới môi, còn phần đông đàn ông đều đeo bông. Chúng tôi được đưa vào nghỉ trong các gian phòng của hội Đại Bồ Đề Madras xa ga xe lửa chừng 200 thước, phái đoàn được đưa đi xem nhiều vật quí vô giá trong viện cổ tang và các thú lạ tại vườn bách thú.
Cách đây độ 15 cây số là vườn Adyar trụ sở của hội Thông thiên học, trong vườn có một thư viện chứa nhiều tác phẩm và kinh sách cổ điển lâu trên ngàn năm. Một bảo tháp rất đẹp được dựng lên tại đây để thờ Đức Phật. Nhờ ở gần mé biển nên có một khí hậu rất mát mẻ, dân sự theo đạo Gia-tô rất đông[4], nên có nhiều đền thờ nguy nga đồ sộ, trái lại chẳng thấy có một cái chùa Phật nào, trừ ra hội Đại Bồ Đề.
Vào lúc 7 giờ tối hôm 4-11-1952, phái đoàn lại ra ga đi Calcutta, cách xa ngót 1.700 cây số, xe lửa phải chạy hết hai ngày đêm và tới nơi lúc 12 giờ trưa. Hội Đại Bồ Đề có phái Đại đức Jinaratna đến rước chúng tôi về an nghỉ, đây là hội ngành của hội Đại Bồ Đề trên toàn xứ Ấn Độ cất làm ba tầng có nhiều phòng cho khách nghỉ tạm. Phía trước nhà hội có một ngôi chùa hai tầng, tầng trên thờ Phật, tầng dưới là giảng đường, trước chùa có một cái hồ rộng độ 80 thước vuông để người ra tắm gội khi trời nóng. Tỉnh thành Calcutta vô cùng rộng lớn, dài trên 60 cây số và rộng 40 cây, nằm dọc theo bờ biển Bengale khí hậu rất nóng, dân cư gần 8 triệu phần đông là người Bengali. Cách chùa độ 3 cây số có một cái đài kỷ niệm nữ hoàng Victorya cất toàn bằng đá cẩm thạch trắng trên một khu đất chừng hai cây số vuông. Cũng cách chùa chừng một cây số về phía đông có một cái đền thờ lộng lẫy của nhóm tu Lõa Thể (Jainisme).
Lúc 7 giờ tối 7-11-1952 có ông D.Valisinha tổng thư ký hội Đại Bồ Đề tới khai Xá lợi của hai vị đại A-la-hán Mục Kiền Liên và Xá lợi Phất cho chúng tôi xem và chiêm ngưỡng tại chùa Siridhamma, trong chùa có chừng 6, 7 vị sư ở hoằng pháp tại xứ Ấn Độ: 1 vị người Ấn trước kia là một tiến sĩ luật xuất gia, 1 vị người Anh cử nhân văn chương, 1 vị người Népal, còn bao nhiêu đều là nhà sư Tích Lan.
Chiều hôm sau phái đoàn có dịp chứng kiến một cuộc lễ dâng Tam Tạng Pháp Bảo và kim thân Phật vào chùa do hội Hymalayan của người Tây Tạng tổ chức. Đây là một cơ hội cho tôi thấy tận tường phẩm cách và những nghi lễ của các nhà sư Tây Tạng. Người họ hơi mập, mặc y phục bề bộn, bẩn thỉu, mũi trẹt, mí mắt dày và híp lại mường tượng như người Tàu, Nhựt, Mông cổ… nước da ngăm, cạo tóc nhưng để râu, đầu đội mão cao nhọn ở phía trên có một chùm lông túa ra trông rất lạ mắt, có vị cầm kèn dài độ hai thước tây phải có hai người đỡ lên, vị thì ôm mõ, vị mang phèn la, chiêng v.v… Khi kim thân được an vị xong, một sư trưởng lại dâng rượu cúng Phật rồi đọc kinh bằng tiếng Tây Tạng trong lúc trống kèn nổi lên vang rền giống như những cuộc hành lễ trong các chùa Việt Nam, mỗi nhà sư đều giữ một phần âm nhạc mà họ cho là rất quan trọng. Than ôi! Cũng vì sự chia rẽ và hiểu sai Chánh pháp nên ngày nay trên toàn cõi Á Châu, mỗi tông mỗi phái thật hành giáo lý của đức Bổn Sư theo thể thức riêng của mình, khiến có nhà khảo cứu Phật học người Âu thốt rằng: “Phật giáo! Một kẻ khách quan khi nghe đến hai danh từ ấy không khỏi hoang mang ngờ vực vì những hành động và nghi lễ phức tạp của tín đồ chia ra nhiều tông phái, không khác nào một đám rừng rậm có nhiều loại cây lẫn lộn rất khó cho người tìm được ngõ ra vào”.
Đến 9 giờ tối 8-11-1952 thì phái đoàn lại từ giã Calcutta để qua thành Vương Xá (Radjagahs) thuộc miền Trung Ấn Độ cách xa chừng 450 cây số. Tàu chạy suốt đêm mãi tới 8 giờ sáng hôm sau mới tới ga Bukkatiapur, từ đây phải sang qua xe lửa nhỏ chạy thêm 60 cây số nữa mới tới thành Vương xá, thủ đô của vua Tần-Bà-Sa và A-Xà-Thế thuở trước, chúng tôi gặp bên vệ đường vô số thánh tháp bằng gạch đã sụp đổ. Bây giờ người bổn xứ không còn theo Phật giáo nữa mà hầu hết đều thuộc Ấn Độ giáo hoặc Hồi giáo, chỉ có một ngôi chùa do người Miến Điện dựng lên để duy trì Phật giáo tại đây. Lúc phái đoàn tới chùa thì trời sắp tối nên đồng an nghỉ đợi sáng ra mới đi viếng các nơi. Vị sư trụ trì tại đây là người Miến, biết nói tiếng Anh rất vui vẻ. Ngài cho biết rằng tại đây không có tín đồ Phật giáo, mà chỉ có trên 3.000 người mộ đạo từ phương xa đến viếng hằng năm.
Sáng ra, sau khi điểm tâm xong, chúng tôi được đưa đi xem cảnh điêu tàn của những đền đài vua A-Xà-Thế. Đây là một khu vực rộng rãi bao la gồm toàn những đống gạch đá hư đổ và chân tường trơ trọi đã trải qua biết bao nhiêu cảnh tang thương, khi phồn thạnh lúc điêu vong do luật vô thường chi phối. Đi thêm chừng nửa cây số thì gặp một cái tháp toàn bằng đá xanh do vua A-Xà-Thế dựng lên để thờ Xá lợi Đức Phật. Xa một đổi nữa thì tới chùa Trúc Lâm (Veluvan) của vua Tần-Bà-Sa dâng cho Tăng hội thuở trước, nhưng hiện nay là một cánh đồng không mông quạnh ít người lai vãng. Đi một chặng nữa thì tới suối Ôn Tuyền (Tapoda), suối này do 10 cái mọi lớn bằng ống tre cho nước chảy ra nóng gần như nước sôi, Chánh phủ có cho cất nhiều buồng tắm cho dân chúng tùy tiện. Tôi cũng có vào tắm thấy trong mình khỏe khoắn lạ thường, tục truyền rằng suối này từ dưới đáy quả địa cầu chảy ngang qua địa ngục Đồng Sôi (Lohakambhi) nên nước mới nóng như thế. Người bổn xứ tin rằng suối này có thể chữa khỏi bịnh hoạn cho những ai xuống tắm, nên chi hằng buổi có cả trăm người đến tắm khỏi tốn kém chi. Tắm xong chúng tôi lại trèo qua chót núi Papphali Guhara là nơi mà Đại đức Ca-Diếp thường ngồi tham thiền khi trước, lúc Đại đức Ca-Diếp lâm bịnh, Đức Thế Tôn có ngự đến đây thuyết cho ngài nghe về bảy nhân sanh quả Bồ đề (Sattasambojjanga). Trong động nhìn xuống thấy toàn là đồng ruộng mênh mông xanh tốt của xứ Ma-Kiệt-Đà (Magodha), khiến cho tôi sực nhớ lại trước kia, lúc đi ngang qua chỗ này Đức Phật có dạy cho tôn giả Ānanda nên cắt y theo hình thửa ruộng ấy, gọi là phước điền y mà bây giờ các nhà sư Nguyên Thủy còn mặc.
Bữa sau chúng tôi đi viếng núi Kicchakuta là nơi trước kia Đức Phật thường ngự đến, dọc đường phái đoàn có ghé lại động Satta Panna Guha là chỗ hội của 500 vị đại A-la-hán do Ngài Ca-Diếp chủ tọa sau khi Phật Niết-bàn 100 ngày để kết tập Tam Tạng Pháp bảo lần thứ nhứt bằng khẩu truyền. Đi một đoạn nữa chúng tôi gặp những chân tường bằng gạch đã sụp đổ và được người cho biết rằng đó là ngục thất mà trước kia hoàng tử A-Xà-Thế vì nghe lời Đề-Bà-Đạt-Đa, nên đành giam hãm vua cha cho đến chết để đoạt ngôi. Đi lần tới thì gặp một cái bảo tháp thờ Xá lợi của Đức Phật tổ do vua A-Xà-Thế sáng tạo. Lúc 218 năm sau vua A Dục cho đào tháp đem Xá lợi ra rồi tạo thêm 84.000 thánh tháp khác cho dân chúng thờ phụng. Cách đây một đổi là cảnh rừng hoang nằm dưới chơn núi Kicchakuta mà trước kia là ngôi chùa Ajivakarama của vị đại thần Ajivaka dâng cho Đức Thế Tôn. Từ đây chúng tôi phải khó nhọc trèo núi hơn hai cây số mới tới chỗ Phật thường ngự hồi xưa, phía dưới có một cái động của đức Ānanda để hầu Phật, phái đoàn lên tới nơi thì trời vừa xế bóng, chúng tôi đồng thành tâm đảnh lễ một ngôi tháp đã hư sập trên chót núi. Chỗ này trước kia Đức Thế Tôn có ngự đến thuyết pháp về Anādādiya Sutta[5] cho bốn vị Tứ Đại Thiên Vương nghe, xong lại chúng tôi trèo xuống viếng động của đức A-nan rồi vội vã trở về vì trời sắp tối, mà chỗ này là một cảnh hoang vu nguy hiểm, người người vừa đi vừa tụng kinh mãi gần 9 giờ đêm mới về tới nhà trọ.
Sáng bữa sau chúng tôi lại đi viếng học đường (Nalanda) ở cách chùa hơn 10 cây số, phải đi tàu hỏa và lúc tới nơi mỗi người phải lấy một cái vé giá 2 annas (chừng 6 cắc tiền ta) để vào cổng. Chỗ này khi xưa nào là vô số tăng đường, trai đường nguy nga đồ sộ mà nay chỉ còn lại những đống gạch đá vụn đã bị phong sương bao phủ trải qua một thời gian dày dặn. Trên một khu vực rộng lớn toàn là những chân tường dày lối 8, 9 tấc tây, lúc trở về tình cờ chúng tôi gặp một vị tỳ khưu và một vị sa di là người Anh nên dùng tiếng Anh để giao thiệp, nhưng thấy ông ta bỡ ngỡ và nhờ một vị tỳ khưu cho biết rằng ông ấy là người Pháp tên Adam, trước kia làm kỹ sư tại sở hàng không Paris hơn tám năm. Vì ông nhận thức cuộc đời là khổ nên qua Ấn Độ xuất gia sa di hơn một tuần nay và còn đang học hỏi kinh luật để thọ cụ túc giới theo luật tỳ khưu. Tôi liền nói tiếng Pháp thì ông hết sức mừng rỡ hỏi thăm về tôi, sau khi biết tôi là người Việt Nam ông lại càng thỏa thích vì tại đây ít khi gặp được một người biết tiếng Pháp để trò chuyện, nhứt là bàn về Phật giáo, còn vị tỳ khưu là một cử nhơn văn chương người Ấn xuất gia lấy pháp danh là Kasyap.
Viếng bồ đề đạo tràng (Bodh Gaya)[6]
Sáng hôm sau lúc 8 giờ phái đoàn lại từ giã thành Vương Xá để sang xứ Uruvela cách xa 130 cây số chiêm bái Bồ Đề Đạo Tràng là nơi Đức Phật Thích Ca đắc đạo, chúng tôi tới tỉnh Gaya rồi phải đi thêm 13 cây số nữa mới tới nơi. Hội Đại Bồ Đề có xe hơi chực sẵn để rước chúng tôi về nhà trọ ở cách Bodh Gaya chừng 150 thước, nhà trọ này do hội Đại Bồ Đề sáng tạo coi rất rộng rãi mỹ thuật có thể chứa được nhiều du khách. Gần bên là một ngôi chùa Tây Tạng có 20 nhà sư Đại Thừa ở tu, tôi vào chùa thấy vô số cốt Phật, thánh thần, trống kèn, chuông mõ bề bộn như các chùa ở xứ ta, xa đó chừng 500 thước là một ngôi chùa Trung Huê với vài vị sư, và cách xa 2 cây số nữa mới đến một ngôi chùa Nguyên Thủy do các người ở Miến Điện ở để trông nom Bồ Đề tràng.
Nói về bốn chỗ động tâm thì chỉ có Bồ Đề tràng là quan trọng hơn hết, vì chính tại chỗ này Đức Thích Ca đã đắc quả Chánh đẳng Chánh giác và thường thuyết về Tứ niệm xứ kinh (Sati Pathna Sutta), theo kinh giảng thì thuở trước tại xứ này phần đông đều hành theo pháp Tứ niệm xứ nên khỏi bị sa đọa và được sanh về cõi trời sau khi thác. Nhưng hiện nay trái hẳn hầu hết người bổn xứ đều theo Hồi giáo hay Ấn Độ giáo, họ chặt cây bồ đề và đốt gốc rễ hết ba lần cốt ý làm tiêu diệt di tích của Phật giáo, tuy nhiên cây vẫn mọc như thường và bây giờ lớn khoảng hai ôm. Hơn nữa, họ tàn phá luôn cả một cái bảo tháp cao gần 50 thước do vua A Dục dựng lên hồi xưa và thỉnh thoảng lại tàn sát, đánh đập chư tăng ngoại quốc đến ở tu gần đó. Cách đây chừng mấy chục năm có 4 nhà sư Tích Lan đến ngụ trong một kiểng chùa gần đó, bị bọn Hồi giáo tuôn vào giết hết hai, ba vị, còn một vị bị trọng thương trốn thoát. Bồ Đề tràng là một di tích tinh thần cao cả của đấng Cha lành mà chẳng có một người Ấn Độ nào để ý tới.
Than ôi! Đã ngót 2.500 năm qua, xứ Ấn Độ bị thời gian thay đổi màu sắc nhiều lần, người trong xứ vì thời cuộc và hoàn cảnh nên phải chịu ảnh hưởng của ngoại đạo không nhỏ. Khởi đầu là một sự cưỡng bách tinh thần do bọn chinh phục đem vào, nhưng lần lần thành thói quen, các con cháu hiện nay đều giữ đạo của tổ tiên thuở trước như: Hồi giáo, Bà-la-môn giáo, Gia-tô giáo v.v… Rốt cuộc Phật giáo trên đất Ấn phải điêu vong, một phần lớn do sự tàn sát phá hoại của bọn xâm lăng Hồi giáo từ miền Trung Đông kéo sang từ lối thế kỷ thứ VIII sau Phật Niết-bàn. Hơn nữa, những kiểu mẫu chùa chiền và tổ chức Tăng già theo qui củ khiến cho giặc dễ nhận biết mà tàn sát phá hoại. Còn phái Bà-la-môn thì sống rời rạc không tổ chức nên dễ trà trộn với thường dân đặng lánh nạn. Trạng thái vô thường của đạo Phật trên đất Ấn hiện nay không khác gì tình cảnh đạo Gia-tô, hội thánh căn bản thì ở tại thành Rome nhưng các thánh tích về đức Christ lại còn ở Jérusalem thuộc xứ Palestine giữa các quốc độ theo Hồi giáo. Có một điều khác nhau là các tín đồ nhà Phật không hề dùng võ lực để đoạt lại những thánh tích của Đức Thế Tôn, còn nhóm Gia-tô Âu châu trong những thế kỷXIII, XIV, XV đã bao lần đem binh sang Palestine công phạt bọn Hồi giáo và Do Thái để đoạt các di tích của đức Christ, nhưng các cuộc viễn chinh đều thất bại và hao hơn 20 triệu sinh linh.
Cách đây độ 60 năm ông Dhammapala người Tích Lan tới chiêm bái Bồ Đề tràng phát tâm cảm động vì cảnh điêu vong của Phật giáo nên cố gắng sáng lập ra hội Đại Bồ Đề. Ông đã gặp biết bao trở ngại và phải nhờ tới sự can thiệp của Chánh phủ mãi tới ngày 28 Mai 1953 mới được thu hồi Bồ Đề tràng về cho các Phật tử thế giới và giao phó cho hội Đại Bồ Đề trông giữ.
Xa Đại Bồ Đề tràng chừng 200 thước thì tới sông Ni Liên (Nerañjara) nơi Đức Bồ tát xuống tắm trước khi thành đạo, trước kia nước dưới sông luôn luôn lưu thông tràn tới bờ vừa cho con quạ đậu trên đất chúi mỏ xuống uống được, nhưng hiện nay là một bãi cát trắng phau với vài dòng nước sâu tới đầu gối. Thật ra, luật vô thường đã làm cho biển cạn non mòn đến thế. Tôi cùng ít người trong phái đoàn lội qua sông rộng độ một cây số rưỡi, chỗ thì sâu, chỗ thì cạn, chỗ là bãi cát trồi lên, mới qua tới xóm của nàng Sujata đã dâng cơm trộn sữa dê cho đức Bồ tát trước khi thành đạo. Trước kia xóm này rất phồn thạnh nhưng nay chỉ còn có một trụ đá trơ trọi để làm dấu tích, lúc trở về vì trời nóng tôi liền thay y ra tắm thấy trong người khỏe khoắn lạ thường.
Chung quanh Bồ Đề tràng có nhiều tháp nhỏ thờ các vị đại A-la-hán, trước cội Bồ đề có một cái bảo tọa bằng đá chạm trổ khéo léo bề dài độ 2 thước rưỡi tây, bề ngang 1m50 do vua A Dục tạo ra để kỉ niệm nơi đức Thích Ca tĩnh tọa. Còn cái bảo tọa đầu tiên mà đức Chánh Biến Tri ngồi đắc đạo thì nay đã chìm sâu dưới quả địa cầu.
Mỗi đêm tôi đều ra một nơi thanh vắng gần đó để niệm kinh và cầu nguyện sự an vui cho tất cả chúng sanh, nhứt là các thiện tín có tâm trong sạch hộ độ tôi được đến chốn này. Vì gần tới tháng 11 nên tiết trời lạnh thấu xương, với bộ tam y mỏng manh tôi cũng ráng chống chọi với phong sương để làm tròn bổn phận.
Bỗng đâu tôi nhớ lại những lời đầu tiên của Đức Chánh Biến Tri khi vừa thành đạo như vầy: “Anekajāti saṃsāraṃ, sandhavissaṃ anibbissaṃ, gahakāraṃ gavesanto, dukkhā jāti punappunaṃ. Gahakāraka ditthosi, puna gehaṃ na kāhasi, sabbe te phāsukā bhaggā, gahakūtaṃ visaṅkhataṃ, visaṅkhāragataṃ cittaṃ, tanhānaṃ khayamajjhagāti”. Nghĩa: “Khi Như Lai chưa thành bực Đại giác và đang tìm thợ cất nhà là cái tâm ái dục mà chưa gặp đặng, thì Như Lai phải chịu sanh tử luân hồi khổ não trong vô số kiếp. Này anh thợ cất nhà, nhưng bây giờ Như Lai bắt được người rồi. Người không sao dựng lại cái nhà ngũ uẩn của Như Lai được nữa. Vì sườn nhà là phiền não ta đã bẻ gãy, cái nóc là vô minh ta cũng phá tan, Như Lai đã đắc pháp ‘Vô vi Niết-bàn’.
Viếng vườn Lộc Giả.
Sáng hôm 15-11-1952 vào lúc 12 giờ trưa phái đoàn từ giã Bodhi Gaya để sang vườn Lộc Giả (Isipatana Miggadāyavana) thuộc xứ Bénarès cách xa chừng 220 cây số là nơi Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên cho năm thầy Kiều Trần Như nghe, vườn Lộc Giả bây giờ lấy tên mới là Sarnath ở cách thành Bénarès chừng 8 cây số, tại đây có một ngôi chùa làm toàn bằng đá cẩm thạch. Còn có một tòa lầu hai tầng gồm lại có 64 cái phòng có cả dưỡng đường và đại học đường do vua thương mãi Birla cất cho Phật tử thập phương đến ngụ để học tập hoặc chiêm bái thánh tích. Gần đó có một bảo tháp cao độ 40 thước, châu vi 100 thước do vua A Dục dựng lên kỷ niệm nơi Đức Thế Tôn quay bánh xe pháp lần thứ nhứt và vô số Tăng đường đã sụp đổ.
Sử chép rằng một hôm nọ bọn Hồi giáo vì ganh ghét sự phồn thạnh của đạo Phật nên cùng nhau âm mưu bao vây Tăng đường tàn sát hàng ngàn vị sư trong lúc các ngài đang thọ thực, chỉ có một số ít trốn khỏi. Ngoài ra, chúng lại tiêu hủy các tịnh thất, trai đường và đập vỡ những kim thân Phật, cái thì gãy cổ, sứt tay, bể mũi, gãy chân, mà hiện nay Chánh phủ Ấn cho sở khảo cổ đem vào chưng trong bảo tàng viện rất lớn được cất gần nơi đó.
Lúc viếng vườn Lộc Giả. Tôi có nhớ bài Phật ngôn như vầy:
“Evamme suttaṃ ekaṃ samayaṃ bhagavā bārānasīyaṃ viharati Isipatane Migadāye tatra kho Bhagavā pañca vaggiye bhikkhū amantesi. Dve me bhikkhave anta pabbajītena na sevitabbā katame dve? Yo cāyaṃ kāmesu kāmasukhallikānuyoko hīno gamo pothujjaniko anariyo anatthasañhito yo cāyaṃ attakilamathānuyogo dukkho anariy anatthasañhito. Ete te kho bhikkhave ubho ante anupagamma majjhimā patipadā tathagatena abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñānakaranī upasamāya abhiññāya saṃbodhāya nibbānāya saṃvattati. Katamā ca sā bikkhave majjhimā patipadā tathāgatena abhisaṃbuddhā cakkhukaraṇῑ ñānakaraṇῑ upasamāya abhiññāya saṃbodhāya nibbānāya saṃvattati? Ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo, seyyathῑdaṃ? Sammādiṭṭhi, sammāsaṅkappo, sammāvācā sammākammanto, sammāājῑvo, sammāvāyāmo, sammāsati, sammāsamādhi. Ayaṃ kho sā bhikkhave majjhimā patipadā tathagatena abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñānakaranī upasamāya abhiññāya saṃbodhāya nibbānāya.    
Nghĩa: Ta là Ānanda đã nghe như vầy: “Một thuở nọ đức Thế Tôn ngự tại vườn Lộc Giả thuộc xứ Baranasῑ. Lúc ấy Ngài kêu năm anh em Kiều Trần Như mà thuyết rằng: này các thầy tỳ khưu, có hai điều thái quá mà bậc xuất gia cần phải xa lánh. Hai điều ấy như thế nào? Một là đời sống luông tuồng theo ngũ dục, say mê trong ngũ dục, thật xấu xa thô bỉ thấp hèn vô ích. Hai là tư cách theo khổ hạnh, hành hạ xác thân cho kiệt quệ, không thanh cao mà cũng chẳng bổ ích vào đâu. Này các t��� khưu Như Lai đã tìm ra con đường trung đạo, không dùn quá hay thẳng quá theo hai cách ấy. Nhờ hành theo con đường giữa mà Như Lai đã phát sanh trí tuệ diệt trừ phiền não thống khổ làm cho thân tâm trở nên thanh tịnh. Mà con đường trung đạo ấy là như thế nào? Chính là Đạo bát chánh: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Này các tỳ khưu, nhờ hành theo con đường giữa ấy mà Như Lai phát sanh trí tuệ, thấu rõ ba tướng của vạn vật làm cho thân tâm yên lặng, đắc pháp thần thông, diệt trừ phiền não thống khổ”.  
Đi xa độ một cây số, cổ tháp xây toàn bằng gạch để kỷ niệm chỗ Đức Phật gặp năm ông Kiều Trần Như lần đầu tiên. Tại đây nơi nhà trọ của hội Đại Bồ Đề có hai vị sư Tích Lan ở để duy trì Phật giáo. Chiêm bái xong, chúng tôi lại trở ra viếng thành Bénarès nằm dựa bờ sông Hằng Hà. Thành này rất lâu đời và có một lịch sử vĩ đại nhứt về tôn giáo trong xứ Ấn Độ. Đây là nơi tự cổ chí kim đã nảy ra vô số đạo giáo như: đạo Lõa thể, Khổ hạnh, Đa thần giáo và nhiều tông phái của Bà-la-môn giáo. Còn đạo Phật thì chỉ thạnh hành trong khi đức Như Lai giáng thế và phải suy vong sau khi một thời gian Ngài nhập diệt. Hiện nay, mỗi khi người khách để chơn vào xứ thì có cảm giác rằng mình đang ở giữa bầu không khí huyền bí lạ lùng.
Về sông Hằng Hà, trong kinh giải rằng bề dài của nó tới 500 do tuần (mỗi do tuần chừng 16 cây số ngàn), bề ngang 1 do tuần và bề sâu cũng 1 do tuần. Người Ấn rất tin vào sự huyền bí của sông ấy. Bây giờ sông đã cạn và hẹp nhỏ lại, nhưng dân sự vẫn tấp nập xuống tắm để rửa tội rất đông. Trên bờ lúc nào cũng có cả trăm cả ngàn người chực sẵn thay phiên nhau xuống tắm và có bán đủ thứ nhang đèn lễ vật dùng vào việc tế rửa tội. Người chết mà xác được rửa nước sông Hằng thì sẽ được nhiều phước lành. Thật hết sức dị đoan huyền bí làm cho con người hoang mang điên đảo không nhỏ. Nhưng cái đó chẳng riêng gì xứ Ấn Độ. Sự tin tưởng vô căn cứ ấy vẫn lan tràn khắp vũ trụ. Mà hễ tà đạo tấn triển thì nhân loại càng thêm thống khổ vì không còn tin nơi cái nghiệp. Trong hồi đại chiến thứ nhứt, vì theo khoa phù thủy của lão Raspoutine mà Nga hoàng Nicolas III phải mất ngôi. Dân Nga nổi loạn tàn sát tất cả hoàng tộc rồi lập chánh thể Cộng sản cho tới nay. Bên Pháp còn có nhiều người đến Nhà thờ Đức Bà Notre Dame De Lourdes cầu nguyện cho khỏi bịnh tật.
Hôm ấy, phái đoàn có mướn một chiếc ghe đưa theo dòng sông xem người bổn sứ tắm rửa tội. Trên bờ rải rác có nhiều đống lửa tung khói mùi tanh khét. Đó là những xác chết được đem lên thiêu sau khi được rửa tội bằng nước sông Hằng. Thiêu xong, thân nhơn lại đùa cả tro tàn xuống sông cho người chết được an vui. Trong khi ấy, chúng tôi thấy một người ẵm đứa bé vừa chết đem rửa tội để vào ghe đưa ra giữa sông, đoạn cột xác lại vào một tảng đá to xô ùm xuống nước. Làm vậy, thân quyến tin rằng đứa bé được sanh về cõi Thiên đàn.
Thấy trời sắp tối, chúng tôi cho ghe vào bến rồi về nhà trọ của hội Đại Bồ Đề an nghỉ. Lúc đi ngang qua các đường phố, chúng tôi có gặp một nhà tu lỏa thể đang ngồi trần truồng trước cửa chùa của họ. Đầu tóc rối bơm, râu ria xồm xoàm, mình thoa đầy tro và cứt bò. Người ấy đang ngồi lim dim, miệng tụng lầm thầm cái chi không biết và có năm, ba người xúm xít chung quanh để cầu ông ta ban phước lành cho.
Đến xứ Kusinara.
           Lúc 12 giờ trưa ngày 17-11-1952, phái đoàn rời khỏi Bénarès đặng sang xứ Kusinara, nơi Đức Phật nhập Niết-bàn cách xa 340 cây số (215 dặm Anh). Chúng tôi phải đi tàu hỏa hết 180 dặm mới tới ga Gorakhpur, rồi từ đây đi xe hơi 35 dặm nữa mới tới Kusinara. Hai bên đường toàn là cảnh hoang vu, đồng khô cỏ cháy, cây cối u sầu còi cọc như còn mang lấy một vết thương đau khổ về những giờ phút cuối cùng của đấng Chí tôn Chí thánh.
Hiện nay chẳng còn thành quách chi cả. Chỉ có một nhà trọ với 5 vị sư Miến Điện ở tu hành gần chỗ đức Thế Tôn nhập diệt. Ngoài ra, còn có một bảo tháp mà phía sau có một gian phòng để che đậy nắng mưa cho một kim thân Phật tổ bằng đá, bề dài hơn 6 thước, nằm nghiêng mặt về hướng tây. Phòng này rất hẹp, đủ chỗ cho vài người vô thôi, nên sự lễ bái không được thong thả. Sau khi lên nhang đèn và đảnh lễ kim thân xong, tôi sực nhớ lại lời dạy cuối cùng của đức Như Lai trước khi nhập diệt: “‘Handa dāni bhikkhave āmantayāmi vo vayadhammā saṅkhārā appamādena sampādethāti’. Ayam tathāgatassa pacchimā vācā”. Nghĩa: “Này các tỳ khưu, Như Lai cho các ngươi biết rằng những pháp hữu vi đều không bền vững. Vậy các ngươi chớ nên giải đãi và hãy mau chóng cố gắng làm tròn phận sự của mình. Đây là lời dặn cuối cùng của Như Lai”.
Lễ xong, chúng tôi đi quanh kim thân thấy có vô số báu vật và y bát của tín thí dâng cúng. Riêng tôi có mang theo một lá y mới do Thiện Tín Kim Biên dâng để thay đổi trong lúc đi đường. Nhưng thấy cảnh động lòng, tôi thành tâm đem y ra đắp lên kim thân rồi cầu nguyện cho quả phước mau thành tựu đến các thí chủ.
Rồi phái đoàn lại đi viếng nơi làm lễ trà tỳ kim thân Đức Phật ở trong thành vua Mala cách xa chừng 2 cây số. Đây cũng là một cánh đồng ruộng mênh mông chỉ còn trơ trọi có một bảo tháp đã sụp đổ mà hội khảo cổ đang đào sâu xuống đáy đặng tìm các báu vật. Chúng tôi cũng lần mò vào tận trung tâm bảo tháp để chiêm ngưỡng. Gần bên tháp có một cây bồ đề kỷ niệm chỗ thiêu táng Đức Thế Tôn. Dưới cội cây có một vị sư người Tàu tu theo phái Đại Thừa đã hơn 25 năm và bây giờ ông được 50 tuổi. Nguyên trước kia, ông là con nhà phú giả, từ Trung Hoa qua chiêm bái mấy chỗ động tâm rồi phát đức tin trong sạch trở về từ biệt gia đình qua đây ẩn dật tu hành. Ông có làm một cái lều nhỏ trên chắn ba cây bồ đề đặng ở tham thiền. Kế đó, chúng tôi đi xem một trụ đá kỷ niệm chỗ con rạch mà trước kia Đức Phật dạy tôn giả Ānanda đi múc nước cho Ngài dùng trong khi đang bịnh kiết lỵ.
Nhà trọ nơi đây rất hẹp nên phái đoàn phải lên xe trở ra nhà ga cho kịp tàu hỏa. Tối hôm ấy đi về phía vườn Lumbini cách xa chừng 100 cây số, nơi đức Bồ tát giáng sanh trong kiếp chót.
           Viếng vườn Lumbini.
Bữa 18-11-1952, lúc 7 giờ tối thì tàu hỏa rời khỏi ga Gurakhpur đi Nawatanwa cách xa đó lối 100 cây số. Lúc tới nơi, phái đoàn được vào nghỉ tại nhà trọ của hội Đại Bồ Đề, trong ấy có một vị sư người Tích Lan coi sóc.
Sáng hôm sau, cơm nước xong độ 10 giờ, chúng tôi đồng đi viếng vườn Lumbini ở xa ga Nawtanwa chừng 25 cây số. Đoạn đường này rất cam go vì không lưu thông đặng nên phải đi bộ hoặc cưỡi ngựa, hay là đi xe bò, mướn người võng tới giá rất mắc. Nhưng ai nấy đều thích đi bộ nên chỉ mướn theo vài người khiêng vác hành lý và vật thực thôi. Chỗ này đường sá quạnh hiu vắng vẻ nên vấn đề vật thực cần phải sắp đặt châu đáo hơn các nơi khác để phòng ngừa cơn bất trắc. Đi mãi hơn 6 giờ chiều mới tới nơi. Chúng tôi đi theo đường xe bò, lội theo bờ ruộng và băng qua ba con sông nước cạn tới bắp vế. Nhờ hết mùa mưa nên chúng tôi băng qua sông rất dễ, thỉnh thoảng lại trải qua mấy bãi cát trắng phau và những cánh đồng ruộng màu vàng ánh trong mùa lúa chín. Khi qua hết hai con sông thì ông trưởng phái đoàn cho biết rằng đã vào tới địa phận xứ Nepal (trước kia là xứ Ca-tì-la-vệ). Nhờ đồng trống nên khi còn 1 cây số thì đã thấy hai hòn núi rất cao, giữa có hai tòa tháp bằng gạch cách nhau chừng 300 thước. Đó là ranh giới giữa hai xứ bên nội và bên ngoại của đức Bồ tát mà trước kia gọi là vườn Lumbini. Gần đó có một nhà trọ rộng rãi do Chánh phủ Nepal tạo riêng cho những người đi chiêm bái nghỉ ngơi. Xứ này nằm dưới ngọn núi Hy Mã Lạp Sơn nên khí hậu lạnh lắm.
Hôm ấy, phần thì đói và mệt mỏi nên ai nấy đều nghỉ sớm. Còn tôi, vì cảm thích được may mắn đến nơi thánh địa nên không ngủ, lần mò ra ngoài đến một nơi bằng thẳng gần thạch trụ kỷ niệm chỗ đức Bồ tát giáng sanh đặng ngồi niệm kinh. Mãi tới 11 giờ đêm, phần ở nơi trống trải tuyết lạnh thấu xương, phần tam y mỏng manh lại không chiếu không mền nên phải trở về nhà trọ, thân tâm khoan khoái lạ thường. Tôi nhớ lại câu của đức Bồ tát giáng sanh đi bảy bước rồi ứng thinh lên nói rằng: “Aggohamasmi lokassa jeṭṭhohamasmi lokassa seṭṭhomasmi lokassa. Ayamantimā jāti natthi dāni punabbhavo”. Nghĩa: “Ta đây là cao thượng, là đàn anh, là một bực quý cao hơn tất cả chúng sanh trên thế gian. Kiếp này là kiếp chót của ta luôn cả cảnh giới để luân hồi cũng không còn nữa”.
Sáng ra, chúng tôi lại đi xem xét tường tận thì gặp rất nhiều dấu vết của vô số tăng đường, trai đường hồi Phật giáo còn phồn thạnh mà nay chỉ là những đống gạch ngói ngổn ngang và chơn tường sụp đổ. Nơi giữa cảnh điêu tàn hiu quạnh ấy có một cây trụ đá lớn hơn một ôm, cao lối 5 thước do đức vua A Dục dựng lên cách đây hơn 2300 năm đặng kỷ niệm nơi đức Bồ tát giáng sanh.
Viếng xong, phái đoàn trở về nhà trọ lo sắp đặt cơm nước. Nhân dịp ấy, tôi trèo lên gác trên ngắm xem phong cảnh dãy Hy Mã Lạp Sơn có tiếng là hùng vĩ đẹp đẽ nhứt trên thế gian. Một lớp tuyết trắng dày luôn bao phủ vô số chót núi cao chọc trời, khiến người nhìn lâu có cảm giác rằng mình đang đứng trước một kỳ quan vĩ đại lạ thường không sao tưởng tượng đặng. Từ nhà trọ tới cánh rừng nằm dưới chơn núi cách xa 60 cây số và từ đây phải đi thêm 150 cây số nữa mới tới núi. Tuy còn xa núi như thế mà trời lạnh đến nứt cả da. Theo kinh chép lại thì trên dãy Hy Mã Lạp Sơn có bốn cái hồ rộng lớn vô cùng, chứa nhiều báu vật.
           Viếng chùa Kỳ Viên (Jetavana).
           Qua ngày 21-11-1952, lúc 2 giờ trưa, phái đoàn rời khỏi ga Nawtanwa để sang xứ Savathi (Xá Vệ) cách xa chừng 160 cây số để viếng Kỳ Viên tịnh xá do vị trưởng giả Cấp Cô Độc đã xuất ra hết 540 triệu đồng vàng cất lên để dâng cho Đức Phật.
Khi tàu ngừng tại ga Balrampur thì vào độ nửa đêm, phải chờ tới sáng mới mướn xe đưa vô chùa còn xa chừng 16 cây số.
Cũng như mấy nơi thánh tích khác, đoạn đường này toàn là đồng bằng, cây cỏ xanh um vắng vẻ không có nhà cửa, xóm làng chi cả. Lúc đến nơi, chúng tôi thấy một đám rừng toàn là những cây cao thấp lớn nhỏ mọc xen kẽ giữa mấy đống gạch ngói và chơn tường sụp đổ của cảnh tịnh xá nguy nga đồ sộ nhứt trong thời kỳ Phật còn tại thế. Trước khi vô đến chùa, chúng tôi thấy hồ Bokkharani bây giờ đã cạn khô. Trước kia, ông Đề Bà Đạt Đa khi biết ăn năn về những hành vi ác độc của mình, định xuống hồ này tắm gội sạch sẽ đặng vào sám hối với Phật. Nhưng khi đi gần tới hồ thì bị đất nẻ ra chôn sống.
Đi một đổi nữa thì gặp một cây bồ đề thật già ở trước cửa chùa. Có tích như vầy: “Một hôm, có người bạch Phật nên làm cách nào để cúng dường đức Như Lai bằng vật thực khi Ngài vắng mặt. Ngài dạy nên cúng dường cây bồ đề thì cũng được phước như bố thí đến Ngài vậy”. Người bổn xứ liền sang tận Bodh Gaya chiết một nhánh cây bồ đề cái đem về trồng trước cửa chùa mà hiện nay vẫn còn sống nhưng đã còi cọc. Đây là cây bồ đề lâu đời nhứt được trồng từ lúc đức Thế Tôn còn tại thế. Vào trong ranh chùa, vị trưởng phái đoàn chỉ cho chúng tôi những chỗ mà trước kia là cốc liêu của các vị đại A-la-hán: Angulimala, Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ca Diếp, A Nan. Cái tịnh thất ở giữa là của Đức Phật, gần đó có một cái bảo tọa rất lớn mà trước kia Ngài thường ngự để thuyết pháp. Chắc chỗ này rộng lắm mới có thể chứa được cả muôn ngàn thính giả như trong kinh đã nói và trong chùa có ít nhứt là 500 vị tỳ khưu.
Cách xa chùa Kỳ Viên chừng một cây số là kinh đô xứ Savatthi trước kia có dân cư nhiều nhứt xứ Ấn Độ, lối 60 triệu mà hết 50 triệu theo đạo Phật, còn bao nhiêu thì thuộc về các ngoại đạo. Nhưng đô thành huyên náo phồn thạnh ấy bây giờ trở nên một cảnh điêu tàn gần như bị thời gian che lấp ít ai để ý tới.
Tôi đương suy nghĩ đâu đâu bỗng phái đoàn cho biết sắp hết giờ nên cần trở về nhà ga gấp để đáp chuyến xe sang Lucknou cách xa 220 cây số, rồi từ đây lên tàu hỏa đi thêm 260 cây số nữa mới tới chỗ Đức Phật ngự trên cung trời Đạo Lợi thuyết pháp cho Phật mẫu nghe trong ba tháng hạ rồi trở xuống. Chỗ này hiện giờ chỉ còn một cây bồ đề và một trụ đá do vua A Dục dựng lên làm kỷ niệm. Ngoài ra, lại có vô số chân tường sụp đổ ngói gạch ngổn ngang trong vùng ấy.
            Viếng đền thờ Birla ở Delhi.
           Rời khỏi xứ Sangkassa, phái đoàn lại trở về nhà ga đặng đáp tàu hỏa sang Delhi, Thủ đô của xứ Ấn Độ cách xa 310 cây số. Tàu khởi hành lúc 7 giờ tối bữa 24-11-1952 đến 7 giờ sáng hôm sau, 25-11 mới tới nơi.
Kinh đô Delhi thật vô cùng rộng lớn, kiến trúc tối tân, dân số lối 6 triệu. Muốn đi xem khắp tỉnh thành, phi cơ phải bay đến 15 hoặc 20 phút. Tại đây có rất nhiều đền đài và cổ tích rất lâu đời. Hôm sau, phái đoàn được đi xem các cung điện của vua chúa thời xưa, xem tháp Kutab minar cao lối 75 thước và huê viên kỷ niệm chỗ thiêu táng thánh Cam Địa (Ganđhi).
Sau cùng, chúng tôi được vào xem một đền thờ của đạo Bà-la-môn do vua thương mãi Birla cất. Đền này thật vô cùng nguy nga đồ sộ, kiến trúc mỹ thuật tinh xảo không thua gì một đền vua. Trong ranh đền có nào là nhà trọ cho khách thập phương yên nghỉ, nào là thư viện cho người xem kinh đọc sách, nhà cho khách giải lao và nhiều cảnh vật tuyệt đẹp giúp tài liệu hữu ích cho các nhà nhiếp ảnh. Trong đền có quân lính canh gác khi vào người khách phải cởi giày, lột nón cho người giữ rồi lấy một cái thẻ để lúc ra về đổi lại. Đền thờ cất hai tầng. Tầng dưới để chứa báu vật và chia ra nhiều phòng để kinh sách hoặc làm việc. Tầng trên để thờ các vị thần. Có ba nóc cao vọi. Cái giữa thờ đức Vishnou có nhiều tay, cái bên tả thờ đức Siva có nhiều đầu và cái bên hữu đức Krishna thổi ống sáo.[7]
Vào lúc 11 giờ đêm phái đoàn từ giã Delhi đi qua Agra viếng đền Tajh Mahal cách xa gần 200 cây số là một kỳ quan vĩ đại kiến trúc theo Hồi giáo do vua Shah Jahan cho dựng lên gần mé sông Yamuna cách đây độ 300 năm.[8] Đền Tajh Mahal cất toàn bằng đá cẩm thạch trắng ráp lại, là một công trình tạo tác hết sức quan trọng trên đất Ấn Độ do hơn 20.000 nhơn công xây dựng trong 17 năm trường, sở tốn không sao kể siết.[9]
Dự lễ an vị Xá lợi tại Sanchi.
Tới bữa 27-11, lúc 7 giờ chúng tôi sang xứ Sanchi cách xa độ 455 cây số dự lễ an vị Xá lợi của hai vị đại A-la-hán Xá lợi Phất và Mục Kiền Liên. Sáng bữa 28-11 mới tới nơi và chúng tôi ở luôn 3 hôm tại đây chờ dự cuộc Hội nghị Phật giáo Quốc tế.
Hai vị Xá lợi này do một nhà khảo cổ người Anh tìm được trên núi Sanchi từ lâu đem về để tại bảo tàng viện Luân Đôn. Mãi đến khi Ấn Độ được độc lập, Chánh phủ Anh mới giao lại cho hội Đại Bồ Đề, hội này cho dựng lên một bảo tháp trên núi Sanchi gần chỗ đào được và mới tổ chức cuộc lễ an vị hôm nay.
Lễ này được cử hành hết sức long trọng, có vô số đại diện quốc tế đến dự và do hai vị thủ tướng Nehru (Ấn Độ) và U Nu (Miến Điện) đến khai mạc. Chỗ hành lễ trước kia chỉ là một khóm rừng nhờ sự bảo trợ của Chánh phủ Bhopal mà nay trở nên một tỉnh thành phồn thạnh huyên náo có đến một triệu dân thuộc về nhiều nước trên thế giới. Có cả một cơ binh coi giữ trật tự, có máy điện, máy nước, máy truyền thanh và luôn cả một hội chợ triễn lãm về kỹ nghệ thương mãi trưng bày nhiều vật quí lạ trong xứ làm cho cuộc lễ thêm phần long trọng. Lúc này nhằm giữa mùa đông nên Chánh phủ có dạy che trại vải dành riêng cho khách thập phương tới dự. Khi phái đoàn Cao Miên đọc diễn văn trên máy truyền thanh thì được các hội viên vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt, vì xứ Cao Miên đã rộng rãi dâng cho quỹ tổ chức lễ an vị một số tiền hơn 50.000 rupies (chừng 250.000$ xứ ta) và 10 thùng báu vật do bá tánh cúng dường trong lúc đức Xá lợi quang lâm đến kim thành.
Trên một con đồi cao có một cái cổ tháp do vua A Dục cho xây đã trên 2.000 năm toàn bằng đá xanh ráp lại bề cao chừng 13 thước và bề kính độ 30 thước. Cách đó 80 thước có một bảo tháp do hội Đại Bồ Đề sáng tạo kiến trúc theo kiểu tối tân tốn kém ngót 203.500 rupies (hơn 1 triệu bạc ta).
Tối hôm 30-11-1952 cuộc lễ an vị Xá lợi khởi hành, các viên quan quý chức và vô số tín đồ sắp hàng dài từ chân núi kéo lên. Người đi đầu là thủ tướng Miến U Nu đội tháp Xá lợi đến trước cửa tháp. Tới đây thủ tướng Ấn Néhru cắt dây khai mạc bảo tháp mới rồi tự mình nghinh tháp Xá lợi vào trong chuyển sang vị thượng tọa Vajiranānā, một bác sĩ triết học kiêm chức chánh Chủ tịch hội Đại Bồ Đề Tích Lan. Ngài Vajiranānā đón nghinh rồi đem an vị đức Xá lợi trên bảo đoàn. Chư tăng liền tụng kinh cung nghinh Xá lợi bằng tiếng Pāli nghe vang rền trong khắp vùng ấy, bấy nhiêu đó đủ chứng minh rằng đã trải qua mấy ngàn năm mà ân đức cao cả của hai vị đại A-la-hán Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất hãy còn ghi tạc trong trí não người đời. Chỉ với một chút xương tàn mà cũng kích thích mạnh mẽ đức tin và tâm nhiệt thành của khắp hàng Phật tử, huống hồ là ân huệ vô lượng của Đức Thích Ca Mâu Ni?
Viếng động Ajanta.
Vào bữa 1-12-1952 lúc 12 giờ trưa chúng tôi đáp tàu hỏa sang xứ Jalgoan ở xa chừng 400 cây số và tới 10 giờ sáng hôm sau thì tới nơi. Phái đoàn phải mướn autobus đi thêm 60 cây số nữa mới tới động Ajanta, từ ga Jalgoan tới tỉnh thành Bombay còn xa chừng 420 cây số.
Động Ajanta là một kỳ quan vĩ đại hiếm có trên thế gian, tất cả có 31 cái động kiến trúc liên tiếp nhau dọc theo một dãy núi, do các vị quốc vương trước kia của Ấn Độ đã tạo ra để kỉ niệm Phật giáo, có động làm đến một hoặc hai đời vua mới xong. Mỗi cái bề cao lối 14 thước, bề cao 8 hay 10 thước, có cái làm đến hai tầng toàn là đục vào trong núi, chạm trổ rất công phu mỹ thuật không thể tưởng tượng đặng. Hiện nay có rất nhiều nhà khảo cổ Âu-Mỹ-Á đến tận nơi xem xét để kinh nghiệm về cách kiến trúc chạm trổ của động Ajanta.
Trong động phần nhiều tối đen lạnh lùng khiến cho du khách có cảm giác rằng mình đang ở trong một cảnh hết sức uy nghiêm huyền diệu. Chánh phủ có làm tạm một cái máy điện cho các người đến chiêm bái hoặc các nhà khảo cổ mướn để soi sáng bên trong, muốn xem rõ những hình tượng chạm trổ trên vách đá, người khách phải dùng đèn pile và phải có phép của Chánh phủ mới được vào nhiếp ảnh thâu thập tài liệu. Có vài cái động đã sụp đổ về phía mặt tiền, có cái làm chưa xong còn bỏ dở, công cuộc tạo tác rất công phu tốn kém, vì phải đục vào trong núi rồi lấy đá vụn đem đổ một nơi xa, không biết bao nhiêu năm mới rồi.
Bấy nhiêu đó đủ chứng tỏ sự đúng đắn của câu phương ngôn Pháp “Muốn thì được”. Vì người đời mỗi khi có đức tin mạnh mẽ với một lý tưởng hoặc một chủ nghĩa nào rồi, thì dầu phải làm cho biển cạn non mòn họ cũng không nản chí.
Viếng động Ellora.
Sau khi viếng xong động Ajanta phái đoàn lại trở về nhà ga để đáp xe lửa sang xứ Manmad bữa 2-12 lúc 10 giờ đêm. Từ nhà ga Manmad đến động Ellora còn xa 142 cây số, chúng tôi phải sang qua xe lửa một lần và xe hơi một lần mới tới nơi.
Động này gồm lại 26 cái, kiến trúc cũng tương tợ như Ajanta nhưng không phải thuộc về Phật giáo mà là do các tín đồ Bà-la-môn giáo tạo ra để kỉ niệm và thờ phụng các vị thần của họ. Có động đục từ dưới một trái núi phủng lên tới trên không, rất mỹ thuật đẹp đẽ, có khi hết 2, 3 đời vua mới làm xong một cái động.
Đến tỉnh thành Bombay.
Sáng chúa nhựt 4-12-1952, lúc 5 giờ mọi người lại khuân hành lý ra tàu hỏa để viếng tỉnh thành Bombay. Đây là một đô thị đẹp nhứt của xứ Ấn Độ được dựng dọc theo bờ biển Oman, bề dài tới 3, 4 chục cây số, dân cư hơn 5 triệu. Tại đây có rất nhiều đền tháp thuộc về các đạo giáo khác nhau và có một nhà trọ của hội Đại Bồ Đề, toàn dân trong xứ đều theo Hồi giáo hoặc Bà-la-môn giáo chớ chẳng mấy ai mộ đạo Phật. Xa nhà ga chừng một cây số có một ngôi chùa tên là Mahajana Vihara do hội Đại Bồ Đề sáng tạo để tìm cách hoằng dương chánh pháp.
Bữa 6-12 phái đoàn lại rời khỏi Bombay đặng trở về Madras cách xa 1.400 cây số, vì dọc đường không có Phật tích nên tàu chạy luôn 2 đêm 1 ngày mới tới nơi vào lúc 6 giờ sáng hôm 8-12. Đến đây là kết thúc cuộc hành trình vòng quanh xứ Ấn Độ, phái đoàn phải ở lại vài hôm đợi chuyến phi cơ về Colombo.
6. Thỉnh Ngọc Xá lợi Đức Phật Tổ
           Về đến Colombo tôi cũng luôn luôn cố gắng nghiên cứu học hỏi kinh luật đến giáp năm. Khi gần về xứ, muốn đáp lại đức tin trong sạch của chư thiện tín Việt Nam ở Saigon và Kim Biên đã hy sanh công của rất nhiều vào công cuộc xuất dương sang xứ Phật, tôi tìm cách yêu cầu các vị giáo tông thuộc nhiều phái ở Tích Lan, đặng thỉnh một hòn ngọc Xá lợi của Đức Phật Tổ về xứ cho hàng tứ chúng phụng thờ chiêm bái. Tôi phải vận động nhiều nơi vì nếu chỗ này không được thì còn chỗ khác. Nhưng phước thay! Còn vài ba hôm nữa lên đường thì có đức Giáo tông Vipassi thuộc phái Siam Nikaya hiến cho một hòn ngọc đức Phật tổ bằng cỡ hột gạo.
Tôi rất thỏa thích về sự kết quả ấy nhưng bỗng đâu dịp may đưa đến dồn dập bất ngờ, khi còn một ngày nữa hồi hương tôi được vị thượng tọa phái Ramañña Nikaya pháp danh là Gunasiri trụ trì chùa Mirissa đánh điện văn cho tôi hay Ngài sẽ hiến cho một viên ngọc Xá lợi Đức Phật tổ nhỏ cỡ hột mè, chùa Ngài ở xa Colombo chừng 150 cây số.
Ceylon Télegram
Nagathero 174 dématagoda road maradana
Bringing relic prepare casket
Gurnasiri from mirissa.
Nghĩa: Sửa soạn tháp tôi đem Xá lợi biếu.
Trước kia tôi cũng có yêu cầu Đại đức Narada thuộc phái Amapura Nikaya Bauy cho một đức Xá lợi đem về xứ Việt Nam cho hàng tứ chúng thờ phụng, vì trong xứ ta chẳng có nơi nào thờ Xá lợi cả. Trái lại trên đảo Tích Lan, trong dịp đi viếng mấy nơi thánh tích tôi gặp rất nhiều tháp thờ Xá lợi được dựng lên khắp nơi cho các tín đồ chiêm bái, nhứt là bảo tháp Maha Cetiya tại tỉnh Anuradhapura luôn luôn có hàng trăm hàng ngàn người tới lui tấp nập để cúng dường Xá lợi.
May thay, khi gần về xứ Đại đức Narada lại cho tôi hay rằng Ngài mới thỉnh được hai vị Xá lợi Đức Phật tổ nơi chùa Kosgoda do vị thượng tọa Siri Sumanarevata Nayaka Thera thỉnh từ Ấn Độ đã lâu đời. Quí giá hơn nữa là Đại đức Narada được người thỉnh sang Tân-Gia-Ba truyền bá Chánh pháp. Thừa dịp ấy, tôi yêu cầu Ngài tiện đường sang viếng Việt Nam trước để tìm cách củng cố nền móng Phật giáo Nguyên Thủy, sau nữa, mang ngọc Xá lợi sang biếu. Như vậy, cuộc lễ cung nghinh sẽ được chánh thức và thêm phần long trọng hơn là tự tôi thỉnh về.
Trong khi sang viếng Đông Dương nhằm lúc hạ tuần tháng sáu 1953 dương lịch, Đại đức Narada có hiến cho nhóm PGNT Kỳ Viên một vị Xá lợi, một vị nữa cho đức Từ cung Hoàng thái hậu để riêng cho Phật giáo Đại thừa toàn quốc Việt Nam. Ngài cũng hiến một hột Xá lợi khác cho xứ Cao Miên mà trước kia Ngài có đến ở hoằng Pháp trong một thời gian.
Khi gần trở về xứ đức Phó Giáo tông phái Siam Nikaya tại Kandy Tích Lan có biếu cho ngọc Xá lợi của Đức Phật Tổ Thích Ca cỡ bằng hột gạo (vì tôi có yêu cầu Ngài trước) hiện nay Ngọc Xá lỵ ấy đương để thờ tại chùa Roka-Kandal Kratié.
Lúc đúng một năm, tôi lo giấy tờ về xứ cho kịp dự lễ cung nghinh Xá lợi được cử hành trọng thể tại chùa Kỳ Viên tự vào những ngày 21-22-23 tháng 6 năm 1953 và bắt đầu hoạt động làm cho Phật giáo chánh truyền mau tấn triển trên đất Việt.
– CHUNG –
T.B. Do quả phước thanh cao của sự “Hành trình sang xứ Phật” chiêm bái 4 chỗ động tâm và các nơi thánh tích khác. Tôi xin hồi hướng phần phước thanh cao này cho thân phụ đã hóa vãng và mẫu thân còn hiện tiền xin cho các vị ân nhân ấy hằng được sự an vui. Và cũng xin hồi hướng cho tất cả chư thiện tín các nơi nhứt là Cần Ché hết lòng hộ độ tôi về nền tài chánh trong cuộc xuất dương được thành tựu mỹ mãn, luôn cả chư thiện tín hảo tâm xuất của cải ra để in cuốn ký sự này. Xin cho các vị kể trên đây hoan hỷ thọ lãnh phước báu này và xin cho hằng được sự an vui vĩnh viễn.
ĐĐ. Nāga Thera
[1] Tích Lan đảo.
[2] Nơi các xứ theo PGNT không có Tỳ khưu Ni sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn được 1.000 năm (ngày nay các vị ấy được gọi là Tu nữ (nun)).
[3] Hôm ấy tình cờ tôi gặp một nhà Sư người Mỹ đã xuất gia theo Phật giáo Nguyên Thủy và đang học tham thiền.
[4] Đạo Gia-tô được truyền vào đây hồi thế kỷ XV, XVI bởi các nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha và Hòa Lan có thủy quân ủng hộ. Bị ngoại ban xâm chiếm và muốn được bảo vệ yên ổn, dân chúng xin vào đạo ấy rất nhiều, hơn nữa tôn chỉ về linh hồn và đức thượng đế tạo tác của Bà-la-môn giáo và Gia-tô giáo có nhiều chỗ giống nhau nên hai đạo ấy rất dễ dung hòa.
[5] Kinh này phải giảng cho hàng tứ chúng khi ở nơi thành nếu có sự ghê gớm phát sanh thì nên niệm ân đức Tam bảo thì khỏi sợ ngay.
[6] Bồ Đề Đạo Tràng nghĩa là nơi Bồ tát Sĩ Đạt Ta tĩnh tọa trường kỳ với chí nguyện đến khi nào đạt được quả Phật toàn giác thì Ngài mới chịu đứng dậy.
[7] Có nhiều nơi thờ 3 vị Vishnou-Brahma-Siva đều là các vị thần do sự tưởng tượng tạo ra. Đức Brahma thần tạo tác ra vạn vật ở giữa, đức Vishnou thần bảo tồn vạn vật ở bên mặt và đức Siva thần hủy diệt vạn vật bên trái.
[8]  (2)Vua Shah Jahan cho xây đền Tajh Mahal để thờ bà hoàng hậu yêu quí nhứt của ngài là Mounfaz Mahal thăng hà trong khi lâm bồn vào năm 1631.
[9]  (3)Về vấn đề nhơn công, có lẽ vua Shal Jahan cũng lạm dụng quyền thế ép bức dân chúng như vua Tần Thủy Hoàng xây Vạn lý trường thành mới làm xong việc đại sự như thế.
Xem thêm: https://theravada.vn/book/hanh-trinh-sang-xu-phat-ty-khuu-buu-chon/
from Theravada https://theravadavn.tumblr.com/post/622959152685334530
0 notes
review10nhatrangmarcom · 4 years ago
Text
10 địa điểm du lịch Nha Trang đẹp & hấp dẫn hàng đầu
Thành phố Nha Trang đẹp như 1 bức kiệt tác của tình cờ và con người có phổ biến địa điểm du hý Nha Trang nức tiếng. Cảnh quan tình cờ rộng rãi đã làm cho nên sức hút khó cưỡng của những hoạt động du lịch nơi đây, cộng sở hữu nền ẩm thực phong phú và con người nhà thiện – Nha Trang như đã chiếm trọn trái tim du khách muôn phương. Giờ thì hãy cùng Review 10 Nha Trang Marcom khám phá các địa điểm thú vị này ngay nhé!
Vinpearl Land
Địa chỉ: 98B/13, Trần Phú, Lộc Thọ, Nha Trang, Khánh Hòa
Tumblr media
Toạ lạc trên đảo Hòn Tre xinh đẹp giữa biển khơi và bãi biển trong xanh loanh quanh năm, Vinpearl Land được biết tới như điểm tới du lịch Nha Trang – “thiên đường của miền nhiệt đới” hấp dẫn mọi du khách. khi đặt chân đến địa điểm du lịch này, bạn sẽ được tạm trú tại khu nghỉ dưỡng, khách sạn Vinpearl Land Nha Trang 5 sao bậc nhất, chiêm ngưỡng những khu vườn tuyệt đẹp có trong mình một ốc đảo xanh, hồ bơi nước ngọt hoàn hảo, phố tìm tìm bậc nhất.
Ngoài những khu vui chơi dành cho gia đình và con nhỏ, Vinpearl Land còn sở hữu Công viên nước Vinpearl. có các con đường trượt có độ dốc to nhất là 21.5m, khu vực tiêu khiển này thường chuyên dụng cho những du khách ưa thích cảm giác mạnh. Trong ấy, một đoạn Hang kinh rợn dài 56m cũng sẽ làm cho toại nguyện niềm đam mê thám hiểm của rộng rãi du khách trẻ tuổi. Hơn nữa, nơi này còn lôi kéo du khách bởi rạp chiếu phim 4D hoành tráng.
kế bên những công cụ vận động thường nhật như ca nô, taxi, tàu cao tốc và phà, khách thăm quan còn sở hữu thể sang đảo Hòn tre bằng hệ thống cáp treo dài 3.320m. Đây là cáp treo dài nhất toàn cầu có 9 cột trụ trên biển và đất liền. Tuyến cáp có cấu trúc giống tháp Eiffel, đặc thù vào ban đêm sẽ được thắp sáng bằng laser. Hệ thống cáp này sở hữu thể vận chuyển 1000 – một.500 người/giờ. Nhờ đó, việc hỗ tương giữa đảo và lục địa được dễ dàng hơn.
Viện Hải dương học
Địa chỉ: số 1, Cầu Đá, Trần Phú, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
Viện Hải dương học Nha Trang là nơi nghiên cứu đời sống các loài động thực vật biển tại thành thị Nha Trang thức giấc Khánh Hòa. Lưu ý bạn mang thể đặt ngay những khách sạn gần Viện hải Dương học để thuận tiện cho việc vui chơi, thăm quan du lịch tại đây.Viện này được ra đời vào năm 1923 mang địa chỉ tại số 1 Cầu Đá, bí quyết trung thành tâm xã Nha Trang khoảng 6km về phía Đông Nam.
Địa điểm du lịch này mang trên 20.000 mẫu vật của 4.000 loại sinh vật biển được lưu giữ, sưu tầm và nuôi dưỡng trong rộng rãi năm. đặc biệt, đây còn là nơi trưng bày 1 bộ xương cá voi đồ sộ mang chiều dài sắp 26m, cao 3m mang 48 đốt sống đã được phục chế rất phần nhiều. Du khách tới đây sẽ được thăm quan khu thí nghiệm, ngắm các sinh vật lạ và biết thêm phổ quát điều về cuộc sống của các loài sinh vật ở biển.
Vinpearl Land, dinh Bảo Đại, vịnh Ninh Vân và viện Hải dương học là 4 trong các nơi du hý Nha Trang nổi tiếng. tới đây, bạn sẽ được chiêm ngưỡng những cảnh đẹp, những điều mới lạ và thu về cho mình rộng rãi tri thức bổ ích.
Đảo Hòn Mun
Địa chỉ: Cuối đường Trần Phú, thành phố Nha Trang.
Tumblr media
Đây là 1 hòn được mệnh danh là một hòn đảo thơ mộng nhất Nha Trang. Hòn đảo chinh phục bất kì trái tim khách du lịch nào đặt chân đến nơi đây bởi bãi cát trắng trải dài vô tận, bãi biển xanh rờn sở hữu các tổ yến hoang vu chênh vênh trên vách đá.
tới có đảo Hòn Mun là đến mang làn nước xanh trong, bao la, tới sở hữu những bãi san hô phong phú và đầy màu sắc. với sự phong phú trong hệ sinh thái như vậy, đảo Hòn Mun đã được Quỹ Động vật hoang dã thế giới Nhận định là khu vực phổ thông sinh vật biển hàng đầu Việt Nam.
Đến mang đảo Hòn Mun là tới mang đầy đủ nhà cung cấp thú vị trên biển như: Bar nổi trên mặt biển, lặn biển ngắm san hô hay đi khám phá Hòn Mun bằng tàu đáy kính.
Đảo Hòn Tằm
Địa chỉ: Vĩnh Nguyên, Tp Nha Trang, Khánh Ho��
Đảo Hòn Tằm nằm cách thức thị thành Nha Trang 7 km, là 1 điểm du hý Nha Trang, trải nghiệm một mực bạn phải ké qua lúc đến với tỉnh thành. Đảo Hòn Tằm đẹp mộng mơ sở hữu những hàng dừa chạy dọc trên bãi biển xanh ngào ngạt.
Du khách với thể nằm trên ghế, lắng nghe tiếng sóng biển hòa mang tiếng lá dừa lọ vào nhau nghe lào xào thật êm tai hay dành trọn kỳ nghỉ tại khách sạn Hòn Tằm mang view đẹp, nhìn ra biển. không những vậy, du khách còn được trải nghiệm các trò chơi trên biển cực kì thú vị như dancing dù trên biển, mô tô nước, lướt ván,… mang sự đầu tư về du lịch hoành tráng tương tự, chắc chắc Hòn Tằm sẽ đem lại cho bạn những trải nghiệm mùa hè cực kì đáng nhớ.
Ẩm thực ở Hòn Tằm cũng là 1 điểm níu chân khách du lịch tại nơi đây với những dòng hải sản tươi ngon được chế biến vô cùng quyến rũ. với các khách du hý muốn trải nghiệm văn hóa làng nghề ở đây thì mang thể thăm quan các xưởng khiến cho nghề dệt may, làm cho đồ mỹ nghệ, hay thưởng thức tiếng đàn trang vốn là một nét đẹp văn hóa ý thức còn được lưu giữ suốt bao bấy lâu.
Tham khảo thêm 1 số khách sạn một thể nghi giúp cho chuyến du hý nghỉ dưỡng của bạn thêm tuyệt vời nhé!
Tháp bà Ponagar
Địa chỉ: Đường Hai Tháng Tư, Vĩnh Phước, Thành phố Nha Trang, Khánh Hòa
Nha Trang ko chỉ hấp dẫn sở hữu các bãi biển đẹp đến mê li người mà còn gây ấn tượng bởi các Dự án kiến trúc độc đáo và đẹp mắt. Tháp bà Ponagar là một trong các quần thể kiến trúc văn hóa Chăm Pa to nhất ở miền Trung Việt Nam.
Tọa lạc trên 1 ngọn đồi cao 50m so mang mực nước biển, Tháp Bà Ponagar được bao trùm bởi màu xanh của cây rừng, như 1 Công trình vượt trội giữa khung nền bỗng nhiên xanh mát.
đại quát kiến trúc tháp bà Ponagar gồm mang 3 tầng: tầng phải chăng là ngôi tháp cổ mà nay đã ko còn nữa. Ở tầng giữa là nhà khách được gọi là Mandapa, dành cho những vị khách có thể nghỉ chân sau chuyến hành hương, gồm 4 hàng cột hình bát giác tạo nên một nói chung kiến trúc khôn xiết lạ mắt.
Tầng trên cộng là nơi ngụ cư của những tòa tháp.Điểm đặc thù trong cấu trúc của các tòa tháp đó là những viên gạch được xếp rất khít và đông đảo là không trông thấy những vết kết dính giữa các viên gạch. Tòa tháp với 4 tầng, mỗi tầng đều mang cửa. Bên trong là tượng nữ thần tạc bằng hoa cương ngồi trên đài sen tỏa ra một dáng vẻ uy nghi và tôn kính đến lạ thường. Để dễ dàng hơn cho chuyến thăm quan bạn mang thể lựa chọn cho mình các khách sạn Nha Trang ở Tháp Bà!!!
Nhà thờ Đá Nha Trang
Địa chỉ: 31 Thái Nguyên, Phước Tân, đô thị Nha Trang, Khánh Hòa
Nhà thờ Đá Nha Trang là một địa danh nức danh của thành phố, nơi đây với phổ biến trị giá lịch sử và văn hóa hơn 1 nhà thờ tín ngưỡng thường nhật. Như một nhân chứng lịch sử, Nhà thờ Đá đã chứng kiến bao sự đổi thay theo thời gian của thành thị này, và giờ đây, chính nó cũng là cảnh quan xinh đẹp, góp phần khiến cho nên sức hấp dẫn cho thành phố biển mộng mơ.
Như chính tên gọi của mình, Nhà thờ Đá Nha Trang được vun đắp hoàn toàn từ các viên đá lập thể theo lối kiến trúc hình khối đặc trưng của Phương Tây. Ngoài tên gọi quen thuộc, Nhà thờ Đá còn được biết tới có phổ quát tên gọi khác như Nhà thờ Núi, do được vun đắp trên núi Bông, hay Nhà thờ Nha Trang, Nhà thờ Ngã Sáu … Nhưng dòng tên chính thức nhất của nhà thờ này chính là Nhà thờ Chánh tòa Kitô Vua do đây là 1 nhà thờ đạo thiên chúa chính thống.
Nhà thờ Đá Nha Trang không chỉ là một địa điểm tôn giáo của giáo phận Nha Trang, phục vụ bà con giáo dân đến dự lễ và nguyện cầu, mà còn là 1 địa điểm du hý Nha Trang nức tiếng lôi kéo du khách.
Chùa Long Sơn
Địa chỉ: 20 Đường 23/10, Phương sơn, Thành phố Nha Trang, Khánh Hòa
kể đến địa điểm du lịch Nha Trang không thể bỏ qua địa danh chốn linh thiêng Chùa Long Sơn – Long Sơn Tự, đặc thù nức danh có Kim Thân Phật Tổ như là 1 biểu trưng đẹp của thành phố. Vẻ đẹp của Nha Trang phổ quát theo thời gian và từng địa điểm, khi tấp nập nơi phố thị trấn tấp nập, lúc hoang sơ yên bình nơi biển đảo mênh mông và chẳng thể thiếu được cố là ko gian trầm tư thanh tịnh chốn Long Sơn an lặng.
Nằm ngay dưới chân núi Trại Thủy, phường Phương Sơn, tỉnh thành Nha Trang, thức giấc Khánh Hòa, là ngôi chùa hơn trăm năm tuổi Long Sơn uy nghi là chốn hành hương của bao Phật tử và nơi mua bình lặng trong tâm hồn của phổ biến người. Chùa Long Sơn đã từng trải qua phổ thông lần trùng tu nhưng vẫn giữ được nét cổ kính và nghiêm chỉnh vốn sở hữu. Hiện đây là ngôi chùa lừng danh nhất của Khánh Hòa được phổ biến du khách biết đến và gạnh thăm khi có dịp về sở hữu Nha Trang. bên cạnh đó, bạn với thể tham khảo thêm những khách sạn trong trung chân tình phường Nha Trang để tiện lợi hơn cho việc chuyển di thăm thú phổ biến địa điểm du hý khác.
trong khoảng trên chùa nhìn xuống, bạn với thể chiêm ngưỡng toàn cảnh đô thị Nha Trang xinh đẹp, hiền hòa như tập trung mọi tinh hoa của đất trời mà lớn mạnh ranh ma như hôm nay. đến mang Long Sơn chính là hành trình đi sắm chốn bình lặng trong tâm hồn mỗi người.
Đảo Điệp Sơn
Nằm trong Vịnh Ninh Vân xinh đẹp, đảo Điệp Sơn đẹp vượt trội như một dấu ấn riêng của Nha Trang. Hòn đảo hoang sơ là nơi còn lưu giữ dãy núi nguyên sinh Điệp Sơn, chính do đó đảo cũng được gọi theo tên Điệp Sơn. trong khi thực tiễn đào là 1 cụm gồm 3 đảo nhỏ: Hòn Bịp, Hòn Giữa và Hòn Đuốc được nối mang nhau bằng tuyến phố cát độc đáo dài hơn 800m nhưng rộng chưa đến 1m. Chính đường này đã khiến nên sức hút riêng mang của địa điểm du hý Nha Trang kỳ thú này.
Tumblr media
Cảnh quan tại đảo còn rất nguyên sơ, dân cư trên đảo tương đối thưa thớt, chỉ khoảng 80 hộ và cuộc sống còn khá thuần tuý và cạnh tranh do thiếu điện. những người dân trên đảo hiện sinh sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt thủy hải sản. trong tương lai, hy vọng cơ sở vật chất cơ sở của Điệp Sơn chỉ cần khoảng đến sẽ được tăng trưởng, ko chỉ để tạo ra du lịch mà còn tăng và cải thiện cuộc sống cho người dân nơi đây.
Đảo Khỉ Nha Trang
Nha Trang gây ấn tượng với du khách có rộng rãi địa điểm du lịch thú vị và độc đáo, trong đó mang Đảo Khỉ Nha Trang. Đảo Khỉ là một địa điểm du hý Nha Trang nằm ngay trên đảo Hòn Lao thuộc vịnh Nha cu li, phương pháp trung thật tình xã Nha Trang khoảng 18km theo hướng Bắc. Nơi đây là hòn đảo độc nhất vô nhị ở Việt Nam sở hữu tới hàng nghìn con khỉ sinh sống và phát triển thiên nhiên.
hiện giờ, Đảo Khỉ được biết đến như là công viên du lịch sinh thái đặc trưng ở Nha Trang với 2 loài khỉ được thuần hóa và sinh sống thiên nhiên. lúc du khách đến thăm quan sở hữu thể thoả thích chơi đùa cộng các chú khỉ nghịch ngợm, chúng sẽ rất gần gũi và pha trò đùa nghịch cộng con người.
Bãi Dài Nha Trang
Bãi Dài Nha Trang là một bãi tắm đẹp đang được chú ý phổ biến trong thời gian mới đây và kỳ vọng sẽ là một điểm sáng mới trong hành trình du hý đô thị biển xinh đẹp này. các bờ cát trải dài, trắng mịn như làn da người con gái xinh tươi đang ngủ quên nơi biển cả êm ả, mông mênh sóng vỗ.
Tắm biển tại bãi Dài cũng là 1 cái thú rất riêng so với các bãi tắm khác ở Nha Trang. Bờ biển nơi đây không quá sâu mà chỉ xoai xoải, sóng cũng rất êm, không ầm ĩ hay dồn dập, tạo cho du khách sự yên bình và hoang sơ như chốn chưa từng có ai xẹp qua. Lý thú hơn nữa, dù bờ biển trải dài như vậy, nhưng nơi đây lại với nguồn nước ngọt nằm ngay sát biển, chỉ cần đào sâu khoảng 2m ta đã sở hữu thể được thưởng thức nguồn nước ngọt trong mát lành.
Nguồn: review10nhatrangmarcom’s blog https://ift.tt/2TmPqWm Theo dõi thêm tại: https://review10nhatrangmarcom.tumblr.com
0 notes
dinhthang · 5 years ago
Link
...
2.3. Thấp thoáng bóng SƯ TỬ
Nhắc lại chuyện vua Mi-lan-đà.
Sau khi đi hỏi đạo, vấn đạo, tất cả các bà-la-môn, sa môn hữu danh trong quốc độ, đức vua Mi-lan-đà vô cùng thất vọng vì chẳng ai thỏa mãn được cho ngài vài câu, huống hồ là đi sâu vào giáo pháp! Chán nản, ngài đành vùi đầu vào chính sự, rảnh rỗi, ngài lại xem kinh, đọc sách, suy tư. Đức vua thấy rằng, tư tưởng của đạo Phật rất uyên thâm, hầu như nói ra được tòan bộ về đời sống con người, sự vui khổ cũng như sự sống chết của nó. Nhưng giáo pháp ấy cũng hàm tàng biết bao nghi vấn mà tri thức của ngài không với tới được, không kiến giải được. Ôi! hỏi ai bây giờ? Các bậc A-la-hán thật sự vắng mặt trên cuộc đời này rồi sao?
Đã bao năm, nhốt mình trong cung cấm, đức vua cũng không nhớ nữa. Hết xuân khứ rồi đông lai, tuổi già lại đến mà vấn đề "tử sinh đại sự" không giải quyết được thì phỏng đời sống này còn có tích sự gì!
Hôm kia, khi nhà vua đang dạo chơi trong vườn thượng uyển thì có một vị đại thần tìm đến xin được ra mắt ngài. Đức vua cho phép viên đại thần cùng ngồi dưới bàn đá bên gốc cây sàla tỏa bóng xanh mát.
- Tâu đại vương! Hạ thần thấy một hiện tượng rất lạ lùng.
Đức vua ưu ái ban cho viên lão thần một chung ngự tửu rồi phán:
- Khanh cứ nói đi!
- Hạ thần thu lượm rất nhiều nguồn tin khác nhau, đều là những nguồn tin đáng tin cậy. Rằng là các chùa chiền, am thất, tu viện, tự viện trước đây hoang tàn, đổ nát ở nhiều nơi, bây giờ đang được xây dựng lại quy mô hơn, tráng lệ hơn!
Đức vua thóang nhăn mày, nhưng lại nói:
- Điều ấy tốt thôi! Bản tâm của trẫm cũng thấy rõ đạo Phật xứng đáng được như vậy.
- Rồi Tăng lữ không biết từ đâu xuất hiện mà đông đúc thế không biết!
- Còn các sinh hoạt khác?
- Cận sự nam nữ hai hàng trở lại chùa sinh hoạt còn đông đảo hơn trước đây, với những lễ như: cầu an, cầu siêu, an vị Phật, trai tăng, để bát, thọ bát quan trai giới, nghe thuyết pháp v.v...
- Khanh còn nghe gì nữa chăng?
- Tâu, nghe đâu hiện có rất nhiều bậc Thánh nhân xuất hiện, họ đều là các bậc A-la-hán có nhiều thần thông; ngoài ra còn có hằng chục vị pháp sư siêu việt có mặt đó đây để chủ trì các buổi thuyết giảng, có nơi đông đến hằng chục ngàn người nghe.
Đức vua nghe đến đây bỗng thấy rạo rực trong người, hưng phấn nói:
- Thế là hay lắm! Vậy trong kinh đô ta thì thế nào? Đã mấy năm nay trẫm không hề ra ngoài.
- Tâu, ngôi chùa Sankheyya to lớn, hùng vĩ ở kinh đô bao năm nay chỉ có mấy vị sư già kinh kệ, nhang khói; mấy tháng nay có vị trưởng lão tên là Àyupàla dẫn Chư Tăng từ đâu về đông hơn cả một trăm vị. Thiện nam tín nữ lục tục kéo tới cúng dường, nghe pháp.
Đức vua Mi-lan-đà chợt đứng dậy, niềm vui vỡ òa theo với lời nói:
- Hay lắm ! Vậy trẫm lại được dịp đi hỏi đạo nơi vị đại đức Àyupàla ấy. Ôi! Hạnh phúc thay!
Thế rồi, hôm sau đức vua cho người đến chùa Sankheyya thông báo trước rồi cùng với tùy tùng xa mã, ngự giá lên đường. Rất kính trọng chốn Phật điện, đức vua ra lệnh ngừng xe ở ngoài cổng, rồi cùng với năm trăm tùy tùng, thị vệ chậm rãi đi bộ vào chốn thiền môn. Các vị sư thị giả lịch thiệp dẫn đức vua vào gặp đại đức Àyupàla, đang chờ ngài ở giảng đường mênh mông, rộng lớn, có khả năng dung chứa cả hằng vạn người.
Sau khi chào hỏi cung kính, xã giao, yên vị chủ khách rồi, đức vua hỏi:
- Bạch đại đức! Sự xuất gia của ngài đây có lợi ích như thế nào? Cao quý như thế nào?
Trưởng lão Àyupàla đáp:
- Tâu đại vương! Người xuất gia có ba điều lợi ích và cao quý như sau: nhờ thọ trì giới, người ấy thường lánh xa điều ác, thành tựu điều lành, tăng trưởng điều lành, người ấy sẽ trở thành một con người đức hạnh. Đấy là sự lợi ích và cao quý thứ nhất. Thứ hai, nhờ thực hành thiền định, người ấy tìm được sự quân bình và yên tĩnh tâm hồn, người ấy sẽ không còn bị tham sân nung đốt, quấy nhiễu nữa. Thứ ba, nhờ thực hành thiền quán mà người ấy phát sanh trí tuệ, viên mãn trí tuệ... để lần lượt chứng đắc đạo quả Thánh nhân, chấm dứt khổ đau, phiền não...
Đấy là ba điều lợi ích lớn, cao quý lớn của người xuất gia, tâu Đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu hài lòng rồi nói:
- Trẫm rất hoan hỷ về cách đáp vắn tắt nhưng đầy đủ của đại đức. Nhưng trẫm còn thắc mắc rằng, là người cư sĩ tại gia có thể thực hành để gặt hái ba điều lợi ích lớn, ba điều cao quý lớn ấy chăng?
- Có thể được, tâu đại vương!
- Xin đại đức từ bi chỉ giáo cho!
- Người xuất gia nhờ tu tập theo giới định tuệ nên gặt hái được ba điều lợi ích lớn, cao quý lớn. Còn người cư sĩ tại gia dù họ tu tập theo bố thí, trì giới, tham thiền, nhưng họ còn có cơ hội nghe Pháp mà tăng trưởng trí tuệ. Bố thí có công năng tạo trữ phước báu, mở rộng tấm lòng và học hạnh xả ly. Thọ trì ngũ giới hoặc bát quan trai giới làm cho con người trở nên hiền thiện, đức hạnh. Tham thiền có công năng làm cho tham sân lặng yên. Và nghe pháp có thể khai mở trí tuệ, chứng đắc các đạo quả Thánh nhơn . Như vậy, người cư sĩ tại gia cũng có thể thực hành và thành tựu ba điều lợi ích, cao quý ấy, tâu đại vương!
- Đại đức nói vậy thì có gì làm bằng chứng?
- Có chứ, tâu đại vương! Lúc Đức Thế Tôn thuyết về Túc sanh truyện, nhất là truyện kể về thái tử Vessantara với 700 đại thí, ở gần cửa thành Sankassa, hằng chục ngàn cư sĩ dự nghe đều đắc được quả Thánh, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà chợt cất lời tán thán:
- Ôi! Thật là vi diệu! Hôm nay nhờ đại đức khai mở kiến thức cho trẫm thấy rõ răng: chỉ nghe Pháp thôi cũng có thể thành tựu được đạo quả Thánh nhân, không kể là xuất gia hay tại gia!
- Đúng thế, tâu đại vương!
Bất ngờ nhất, đức vua Mi-lan-đà hỏi vặn lại:
- Thế thì, thưa đại đức! Sự xuất gia của ngài và của hơn trăm vị tỳ khưu trong ngôi chùa Sankheyya này, trong khắp quốc độ này, quả thật là vô ích, rỗng không, chẳng lợi ích gì ráo, chẳng cao thượng gì ráo. Vì sao vậy? Vì làm một tại gia cư sĩ cũng có thể thành tựu ba điều lợi ích lớn, ba điều cao quý lớn? Thưa, có phải vậy chăng?
Trưởng lão Àyupàla Phật học uyên thâm nhưng không sở trường về tranh luận, không nắm rõ những câu hỏi nom có vẻ bình thường nhưng ẩn dấu nhiều gút mắc, nên ngài đã không trả lời được, nín lặng.
Đức vua Mi-lan-đà còn tấn công tiếp, không khoan nhượng:
- Như vậy, giống dòng của sa môn Thích tử xuất gia, giữ gìn trai phạn nghiêm cẩn, không dùng quá ngọ là vì đã tạo trữ những việc làm xấu xa từ trước, nghiệp còn dư sót nên kiếp này phải bị trả quả ăn mỗi ngày một bữa, có phải thế chăng? Có phải các vị xuất gia ấy trước đây đã cướp đoạt món ăn của kẻ khác, bỏ đói kẻ khác nên kiếp này phải ăn ít lại để trả nợ mình đã gieo?
Có một số các vị xuất gia khác, theo hạnh đầu đà sống đời không nhà cửa, ngụ ở cội cây, rừng, nghĩa địa, chỗ không có mái che ... trông rất là tội nghiệp. Tại sao thế? Các vị ấy trước đây lỡ gây nhân trộm cướp, đốt phá xóm làng, dỡ nhà cửa của kẻ khác, cướp đoạt nhà cửa của kẻ khác làm cho người ta không có mái che trên đầu, chẳng còn nhà để ở; nên kiếp này, suốt đời phải bị trả quả xấu do nghiệp mình đã làm, chứ cao thượng cái nỗi gì?
Có rất nhiều vị thọ đầu đà bậc thượng, suốt đời ngăn oai nghi nằm, họ cũng chẳng cao thượng gì đâu! Tại sao? Vì họ đã từng làm trộm cướp, sau khi đón đường tước giật của cải, tài sản của kẻ lữ hành còn bắt trói họ, buộc hai cánh tay vào sau, bắt họ ngồi không cho họ nằm! Thế đấy, gây nhân sao thì gặt quả vậy chẳng sai trật tí nào.
Thưa đại đức! Vậy những giới, những định của các bậc sa môn xuất gia chẳng hơn gì người tại gia, mà trái lại, còn tệ hơn nữa vậy. Sống đời tại gia được phước báu nhiều hơn; được thọ hưởng ngũ dục nhưng rồi cũng đắc đạo quả Thánh nhân như ai. Có phải thế không, đại đức hãy trả lời cho trẫm nghe đi?
Trưởng lão Àyupàla thấy lập luận của nhà vua không đúng với sự thật, không đúng với vận hành nhân quả qua các kiếp sống, nhưng vì không có biện t��i nên ngài không đáp được, đành ngồi giữ im lặng của bậc Thánh.
Một vị lão thần trong năm trăm người tùy tùng tâu rằng:
- Thưa Đại vương! Theo hạ thần được biết, ngài đại đức trưởng lão thâm uyên Phật học, từng thuộc lòng năm bộ kinh Nikàya, nhưng vì do không được lợi khẩu, lợi trí nên không đáp được đấy thôi. Ngưỡng mong đại vương mở lượng hải hà dung thứ!
Lòng cao ngạo chợt khởi lên, đức vua Mi-lan-đà nói to, giọng như sấm động:
- Chẳng phải chỉ riêng có đại đức đây không đáp được, mà toàn cõi châu Diêm-phù-đề này cũng thế, chẳng có sa môn nào đáp được đâu. Tất cả đều rỗng không, điêu tàn, hoang phế... là kiến thức và trí óc của các sa môn Thích tử đời nay! Cho dẫu họ có tự xưng mình là bậc A-la-hán, là bậc Chánh Đẳng Giác đi chăng nữa thì cũng ngồi mà toát mồ hôi vì những câu hỏi của trẫm đưa ra!
Trưởng lão Àyupàla tự nghĩ: "Đúng là ta chẳng thể nào soi sáng vấn đề cho đức vua dầu kinh điển ta nắm vững. Các vị đại tôn túc đã nói rất rõ rằng, lúc cần thiết, tỳ kheo Na-tiên sẽ có mặt ở đây, sẽ dùng trí tuệ biện tài để khuất phục đức vua này. Trách nhiệm bước đầu của ta thế là xong."
Từ giã chùa Sankheyya, đức vua vô cùng buồn bã. Ba hôm sau lại có vị đại thần tên là Nemittiya vào tâu với đức vua:
- Mấy năm nay hạ thần có nghe danh một vị Thánh tăng tên là Na-tiên, còn đang độ thanh xuân nhưng sức học bao trùm thiên hạ. Vị ấy xuất thân trong gia đình bà-la-môn, thuở mới bảy tuổi đã thông suốt Tam Phệ-đà luôn cả chú giải cùng năm bộ sách truyền thống của tôn giáo này. Thế rồi, vị ấy từ bỏ truyền thống, bao năm tu học trong nhiều hang động ở tuyết sơn và các thảo am dưới chân ngọn Hymalaya. Vị ấy đã thọ giáo chân truyền từ các bậc đại ẩn sĩ. Sau đó, mới hơn hai mươi tuổi đầu, vị ấy đã được các bậc đại sư phụ cho xuống núi. Từ đó, suốt từ miền đông đến miền nam, chùa chiền được chỉnh tu, am thất, tự viện mọc lên, Tăng chúng từ đâu đổ về, những chiếc y vàng chói lọi dày đặc khắp các thành phố, thị trấn, hang cùng ngõ hẻm...
Tâu đại vương! Vị ấy quả thật có thần cơ diệu toán, phục hưng Phật giáo rất có chiến lược và chiến thuật. Vị ấy đánh ngoài vào trong và hiện đang bao vây kinh đô của đại vương! Cuộc luận chiến cách đây mấy hôm ở ngôi chùa Sankheyya mà đại vương đã gặp, đấy chỉ là một đội quân "tiền trạm", thăm dò thực lực của đại vương đấy thôi!
Đại thần Nemittiya vốn là viên võ tướng nên cách trình bày, ngôn ngữ nhuốm mùi trận mạc. Vừa nghe đến tên Na-tiên, đức vua đã cảm thấy xao xuyến, rúng động cả châu thân, không biết tại sao!
Vị đại thần vô tình không hay biết, cứ thao thao bất tuyệt:
- Vị Thánh Tăng Na-tiên ấy từ nơi này sang nơi khác, lần lượt luận thắng các danh sĩ bà-la-môn, lần lượt khai đàn thuyết giáo độ cho rất nhiều tu sĩ và thiện nam tín nữ. Đi đâu, vị Thánh Tăng ấy cũng rất đông đảo đệ tử tùy tùng cùng đồ chúng. Người ta nói rằng dung mạo vị ấy đẹp như đức Ànanda, là vị thị giả của Đức Phật thời sinh tiền, đạo hạnh và trí tuệ thì đúng là tôn giả Sariputta, đại đệ tử trí tuệ đệ nhất của Phật tổ hóa sanh!
Tâu đại vương! Hiện tại, vị Thánh Tăng ấy với đông đảo tùy tùng vừa đến chùa Sankheyya sáng nay, kinh đô Sàgala của đại vương đã bị hằng trăm ngàn tu sĩ áo vàng đánh chiếm mất rồi!
Bần thần, đức vua đứng dậy làm rơi vỡ một tách trà, trong lúc ấy, viên đại thần tên là Devamantiyà xuất hiện:
- Tâu đại vương!
- Cứ nói - đức vua phán.
- Vị Thánh Tăng Na-tiên mà quan thượng thư vừa trình bày là đúng sự thật. Vị ấy thông suốt Tam Phệ-đà, thông suốt Tam Tạng là chuyện không phải ngoa truyền. Không kể vị ấy, chính những đệ tử của vị ấy, mới xuất gia tỳ kheo hai, ba năm mà cũng rất nhiều vị thuộc lòng một tạng, hai tạng. Họ chẳng sợ hãi một ai cả, chia nhau từng người đi hoằng pháp đó đây.
Đức vua Mi-lan-đà đã lấy lại bình tĩnh, chậm rãi hỏi:
- Các khanh có nghe nói đến sở học và trí tuệ của vị ấy chăng?
- Tâu, đại vương thông suốt mười tám môn học nghệ, thì nghe đâu vị ấy còn thuộc vào loại tổ sư! Như vậy mọi kiến thức về triết học, thắng luận, thiên văn, địa lý, toán học, văn chương, sử truyện, ngữ ngôn, cú pháp, cổ văn, tử vi, chiêm tinh v.v... thì đại vương chớ nên đụng đến làm gì! Còn Phật học thì kiến thức của vị ấy nghe đâu được một trăm lẻ tám vị Thánh Tăng A-la-hán trên Hy mã lạp sơn trao truyền. Vị ấy còn là bậc lợi khẩu, lợi trí, lợi tuệ; ăn nói lại du dương, trầm bỗng, lưu loát; quần chúng như bị mê hoặc bởi từ nhiều vẻ đẹp: kiến thức, tâm hồn cùng tướng mạo của vị ấy nữa.
Tâu đại vương! Nghe đâu, các vị chư thiên, Tứ đại Thiên vương, Đế thích Thiên vương cũng bị vị ấy nhiếp phục, thâu làm đệ tử. Nếu thế, vị ấy muốn làm thầy không những chỉ cõi người mà còn làm thầy cả cõi trời nữa!
Vị ấy hiện giờ đang ở trong kinh đô của đại vương, chùa Sankheyya; Tăng chúng và thiện nam tín nữ từ mười phương đang kéo nhau về đấy để nghe pháp, cúng dường. Năm con sông đổ tuôn về biển như thế nào thì mọi ngã đường người ta đổ tuôn về chùa Sankheyya cũng dường thế ấy!
Đức vua Mi-lan-đà đi tới đi lui, đi lui rồi đi tới, trời không nóng mà ngài chảy mồ hôi. Đức vua đã cảm thấy sợ hãi thật sự, mọi biện pháp trấn an, làm chủ cảm xúc chợt trở nên vô ích khi nghe kể về vị Thánh Tăng tên là Na-tiên!
Thật lâu sau, đức vua mới nói:
- Các khanh hãy đến chùa Sankheyya, nói với đại đức Na-tiên rằng, là hoàng đế Mi-lan-đà sẽ đến thăm đại đức và Tăng chúng ngay ngày mai.
Thế rồi hôm sau, đức vua sửa soạn long xa cùng với thị vệ tùy tùng năm trăm người, ngự giá đến chùa Sankheyya. Khi ấy, ngài Na-tiên đã chuẩn bị sắp xếp đâu vào đó sẵn sàng: ngài đang ngồi giữa giảng đường to lớn cùng với tám mươi ngàn tỳ khưu! Sở dĩ ngài Na-tiên tập trung số Tăng chúng đông đảo như vậy là muốn đánh mạnh vào tâm lý của đức vua; vì uy lực của Tăng thường làm cho cả loài chúa sơn lâm kiêu hùng nhất cũng phải cụp đuôi!
Và quả thật như vậy, vừa bước vào, ngó lên giảng đường, tóc đức vua đã dựng ngược! Tăng chúng lớp lớp uy nghi, trang nghiêm ngồi bất động, trầm mặc tạo nên một uy lực làm cho đức vua run sợ thật sự!
Đức vua hỏi nho nhỏ vị đại thần thân tín:
- Này Devamantiya! Tăng chúng ở đâu mà đông đúc kinh khiếp như thế?
- Tâu, hạ thần cũng không biết nữa, chắc là họ dùng thần thông biến hóa ra!
- Hoang đường!
- Vậy thì hạ thần xin tâu rõ: bốn mươi ngàn vị ngồi ở đằng sau đều là tân tỳ kheo, thọ đại giới từ một hạ đến sáu hạ! Bốn mươi ngàn vị ngồi đằng trước cao hạ hơn, từ tám hạ đến hai mươi hạ.
Tuy nhiên, dầu nhỏ, dầu lớn, họ đều là tùy tùng, đang theo học với vị Thánh tăng Na-tiên cả thảy! Đại vương đã khiếp chưa, họ đều quy giáo, khâm phục ngài Na-tiên!
- Sao khanh biết rõ vậy?
- Tâu, vì khâm phục và sợ hãi vị ấy nên hạ thần đã điều tra tận tường!
Đức vua Mi-lan-đà lúc ấy như con voi bị vây khổn giữa bầy tê ngưu, như loài rồng nằm co lại trước móng vuốt của những con chim đại bàng, như con chó chóc bị con trăn quấn chặt và sắp nuốt, như con gấu ngựa bị trâu rừng bao vây, như con ếch bị con rắn rượt đuổi, như con nai bị sập bẫy thợ săn, như con chuột run sợ trước oai lực của mèo, như loài tà tinh quỷ mị ở trong tay ông thầy pháp, như mặt trăng bị nhật thực ăn nuốt... Hoặc như rắn bị bắt trong giỏ, chim bị nhốt trong lồng, cá bị dính lưới, như trẻ đi lạc trong rừng sâu nhiều thú dữ, như dạ xoa có tội gặp mặt Tỳ sa môn Thiên vương (Vessavanna), như vị trời hết thọ mạng rời thiên cung v.v... Cũng như thế ấy là sự sợ hãi của đức vua khi đối diện với tỳ kheo Na-tiên cùng với Tăng chúng của ngài. Tuy nhiên, vốn là người trí dũng song toàn, văn võ toàn tài, đức vua đã vội trấn an bằng ý nghĩ như vầy: "Đại đức này dầu có ghê gớm đúng như lời đồn đãi, với khí thế uy mãnh, hùng lực hôm nay, cũng không làm gì nỗi ta đâu!" Rồi ngài mỉm cười nói với viên đại thần thân tín:
- Khanh khỏi cần giới thiệu. Giữa tám mươi ngàn vị tỳ kheo, trẫm có thể nhận ra ngay ai là Na-tiên đại đức.
Và quả đúng như vậy, tỳ kheo Na-tiên ngồi giữa như một vầng trăng sáng bởi diện mạo uy nghi và cốt cách tỏa ra, chẳng thể lầm lẫn được.
Quan đại thần Devamantiya gật đầu:
- Đúng thế, tâu đại vương! Ngài đã nhận ra chúa sư tử lông vàng rồi vậy.
Dầu đã tự trấn áp, tâm của đức vua vẫn bị chao đảo, như bị sóng đánh, nó không thể lặng yên: ngài đã không làm chủ được mình trước cuộc luận tài vô tiền khoáng hậu trong lịch sử loài người!
Cuộc vấn đáp giữa vua Mi-lan-đà và tỳ kheo Na-tiên bắt đầu!
0 notes
hoangviettravel · 5 years ago
Text
Tan Huong Su Thanh Tinh, Yen Binh O Ayutthaya Thai Lan
Một chút lắng đọng, một chút trầm tư của cố đô Ayutthaya Thái Lan chắc hẳn sẽ làm con tim những người yêu vẻ đẹp cổ xưa thêm thổn thức. Tạm rời xa sự sôi động vốn có của thủ phủ Bangkok. Bạn hãy đổi gió đến với nơi đặc biệt này. Nó thật sự thu hút hàng nghìn du khách phải đặt chân đến 1 lần khi đi du lịch Thái Lan. Hãy cùng Hoàng Việt Travel (hoangviettravel.vn) khám phá ngay những điều bí ẩn tại nơi đây nhé!
1. Cố đô Ayutthaya Thái Lan
Tumblr media
Thành phố lịch sử Ayutthaya còn là một trong những di sản văn hóa có sức hấp dẫn. Bởi vẻ huy hoàng của bốn thế kỷ lịch sử được lưu lại qua hàng trăm công trình kiến trúc. Nó chủ yếu được xây bằng gạch nung đỏ. Cách thủ đô Bangkok 76km về phía Bắc trong vùng đất được bao bọc bởi 3 dòng sông: Chao Phraya, Mae Nam Lop Buri và Pa Sak. Cố đô Ayutthaya thuộc tỉnh Ayutthaya Thái Lan. Nơi đây được biết đến như là một ốc đảo của nhiều chùa chiền, đền đài và di tích cổ với diện tích lên đến 2.556km2.
Tumblr media
Sau đây Hoàng Việt Travel (hoangviettravel.vn) sẽ cung cấp một vài thông tin về thành cổ cho bạn.Được xây dựng từ năm 1350 bởi vua U-thong. Bị quân Burma chiếm đóng và tàn phá vào năm 1767, kết thúc thời kỳ Ayutthaya. Có 33 đời vua thay nhau trị vì vương triều và xây dựng Ayutthaya thành thủ đô rực rỡ trong quá khứ. Ở Ayutthaya đã từng có một nền nông nghiệp rất phát triển. Và những mối quan hệ giao thương thịnh vượng với các quốc gia phương Đông và phương Tây.
Tumblr media
Trong suốt thời kỳ, Thái lan luôn phải chống lại sự xâm lược từ những quốc gia láng giềng, đặc biệt là Burma. Năm 1758, đất nước bị xáo trộn bởi một cuộc ganh đua tranh giành ngai vàng trong hoàng tộc. Điều đó đã dẫn đến thất bại thảm hại trong cuộc chiến với người Burma năm 1767. Quân đội Burma khi xâm lược thủ đô đã ra lệnh đốt cháy và phá hủy nhiều công trình kiến trúc hoành tráng,lộng lẫy của vương triều Ayutthaya Thái lan. Những tàn tích còn lại tại thành cổ đã tạo thành công viên lịch sử Ayutthaya ngày nay.
Tumblr media
Khác với sự hoành tráng như sử sách ghi lại từ những năm 1350. Ayutthaya giờ đây là một tàn tích với rất nhiều đền chùa cổ kính. Quần thể di tích đa dạng, còn khá nguyên vẹn như tu viện Wat Phra Chao Phya-thai nằm ở phía đông nam của cổ thành. Từ trong thành phố có thể nhìn thấy ngôi tháp lớn của tu viện được xây dựng năm 1357. Nơi đây dành cho các vị sư đi học đạo từ Sri Lanka trở về. Năm 1592, một ngôi chùa lớn được xây dựng tại đây. Với ý tưởng kiến trúc khổng lồ này sẽ tương xứng với ngôi chùa lớn của Wat Pukhao Thong (được xây dựng vào thời đại Sukhothai trước đó). Tổ hợp kiến trúc Wat Yai Chaimongkhon gồm các tu viện, mộ tháp và chùa chiền.
Tumblr media
Kinh đô Ayutthaya còn là “thành phố của những phế tích” bởi hàng trăm bức tường, ngọn tháp, ngôi đền sụp đổ chỉ còn một phần hay bị phá hủy hết chỉ còn nền móng…Tất cả đều được bảo tồn, bảo vệ thận trọng. Một số kiến trúc có phần trùng tu bằng vật liệu mới nhưng không hề gây ra sự phản cảm. Ngày nay chúng được phục chế lại đến từng chi tiết. Một số đền tháp được phục dựng gần như toàn bộ, kể cả những bức tượng Phật khổng lồ. Nhưng tất cả đều hài hòa một cách kỳ lạ với nhau và với cảnh quan thiên nhiên xung quanh.
2. Cách di chuyển từ Bangkok tới Ayutthaya
Ayutthaya cách Bangkok khoảng 85 km về phía bắc, có rất nhiều phương tiện khai thác tuyến Bangkok – Ayutthaya Thái Lan và ngược lại. Tuỳ thuộc vào “ngân sách” mà bạn có thể lựa chọn nhiều phương tiện di chuyển đến đây. Sau đây, Hoàng Việt Travel (hoangviettravel.vn) sẽ hướng dẫn các bạn đến Ayutthaya bằng minibus, tàu hỏa và xe bus…
Tumblr media
Tàu khỏi hành ở ga Hualamphong tại trung tâm thành phố. Điểm dừng tại nhà ga ở Ayutthaya. Thời gian di chuyển khoảng 2 - 2,5 giờ. Với mức giá tham khảo dao động từ 25 – 300 baht (18,000 VND – 220,000 VND) tuỳ vào hạng ghế. Đây là phương tiện có thời gian di chuyển lâu nhất, nhưng nếu bạn thích ngắm cảnh và trải nghiệm thử tàu hoả Thái Lan thì đây sẽ là lựa chọn tuyệt vời. Khi đi tàu hoả đến Ayutthaya, bạn sẽ phải đi phà để vào được khu vực trung tâm với giá vé khoảng 4 baht/ lượt phà (~ 3,000 VND).
Bạn cũng có thể bắt xe buýt từ ga Mo Chit đến Ayutthaya. Khoảng cách tuyến khoảng 30 phút, với thời gian di chuyển là 90 phút. Giá vé xe buýt là 50-100 baht/vé (36,000 VND – 73,000 VND). Điều lưu ý khi đến ga Mochit, bạn nên bắt xe máy (mất khoảng 5 – 10ph) để đến được nơi bắt đúng xe bus đến Ayutthaya.
Từ trung tâm Bangkok, bạn có thể đi MRT, BTS hoặc bus đến trạm Victory Monument thì xuống. Sau đó đi bộ qua công viên khoảng 20 phút hoặc đón các xe bus 3, 16, 26, 49, 77,96, 104, 134, 136, 138, 145, 170, 509, 517, 529, 536 để đến bến xe Mochit. Ở đây có rất nhiều xe khởi hành đi cố đô Ayutthaya trong ngày. Tham khảo giá vé là  60 Baht/chiều/người và 15 phút lại có một chuyến, 18:00 sẽ là chuyến cuối cùng.
Nếu bạn không thích tốn nhiều thời gian di chuyển và muốn thuận tiện tuyệt đối. Một chiếc taxi chính là phương tiện di chuyển tốt nhất, với chi phí khoảng 1,000 baht (~ 730,000 VND). Bạn cũng có thể thương lượng với tài xế để đưa bạn đến đó, chở bạn đi khắp nơi. Sau đó quay lại Bangkok với giá khoảng 2,500 – 3,000 baht (~1,800,000 VND – 2,200,000 VN).
Theo kinh nghiệm đi du lịch Ayutthaya Thái Lan. Nếu bạn đi du lịch theo nhóm, có lên lịch trình cụ thể các điểm sẽ tham quan, và muốn có sự riêng tư, thuận tiện thì nên sử dụng các dịch vụ thuê xe riêng trọn ngày. Thông thường các dịch vụ này sẽ bao gồm tài xế, phí xăng xe, cầu đường… với thời gian thuê dao động 8 – 10 tiếng (có thể lâu hơn với phụ thu).
3. Các điểm tham quan tại Ayutthaya Thái Lan
Có hơn 10 điểm tham quan ở cố đô Ayutthaya. Nhưng chủ yếu là đền chùa và các phế tích hoàng gia, có kiến trúc thiết kế khá giống nhau. Bạn có thể đi hết cả 10 điểm hoặc lựa chọn ghé thăm 7 địa điểm nổi bật nhất mà Hoàng Việt Travel (hoangviettravel.vn) liệt kê dưới đây nhé.
Tumblr media
Wat Phanan Choeng là một trong những ngôi chùa cổ nhất của Ayutthaya. Trong chùa có tượng Phật cao 19m được mạ vàng có từ năm 1334. Trên tường nhà chùa có nhiều tượng Phật nhỏ. Đó là sự thành tâm của các Phật tử, họ công đức một khoản tiền khoảng 500 Bath và đặt một tượng Phật của mình lên tường.
Tham khảo giá vé: 20 baht.
Wat Ratchaburana có thể được coi là tàn tích được bảo tồn tốt nhất trong khu vực Công viên lịch sử Ayutthaya. Vua Borommarachathirat II đã quyết định xây dựng ngôi đền vào năm 1424 trên khu vực hỏa táng của hai anh trai của ông đã chết trong cuộc chiến giành ngai vàng của họ.
Tumblr media
Nếu so về quy mô của công trình, Wat Ratchaburana chỉ là một ngôi chùa nhỏ. Nhưng đây là một trong những ngôi chùa nổi tiếng ở Ayutthaya với sự kết hợp kiểu thức trang trí đền tháp Hindu giáo. Tiêu biểu vào hình thái chùa thờ Phật, thịnh hành ở cố đô lúc bấy giờ.
Địa chỉ: Amphoe Phra Nakhon Si Ayutthaya, Chang Wat Phra Nakhon Si Ayutthaya
Vì từng là cố đô của một vương triều nên ở đây đương nhiên sẽ có những thứ liên quan đến Hoàng tộc, Tiêu biểu là ngôi đền Wat Phra Si Sanphet. Quần thể đền lớn nhất ở Ayutthaya là nơi cất giữ tro cốt của Hoàng gia. Nghe khá là thú vị đấy nhỉ!
Địa chỉ: Phra Nakhon Si Ayutthaya District, Phra Nakhon Si Ayutthaya, Thái Lan.
Điện thoại bản quản lý khu di tích: +66 35 242 284
Tham khảo giá vé: 50 bath
Wat Chaiwatthanaram được xây dựng theo phong cách Khmer truyền thống. Tương tự như đền Angkor Wat ở Krong Siem Riep, Campuchia. Kinh nghiệm du lịch Ayutthaya Thái Lan cho biết đây là một trong những ngôi chùa bạn dễ dàng săn ảnh đẹp nhất ở Ayutthaya . Với một ngôi bản tháp trung tâm, xung quanh là các ngôi chùa nhỏ. Thường thì bạn có thể leo lên đỉnh để ngắm cảnh thành phố. Đặc biệt là khung cảnh lúc hoàng hôn.
Tumblr media
Địa chỉ: Nằm trong quần thể di tích Công viên lịch sử Ayutthaya thuộc thành phố Ayutthaya, Thái Lan.
Điện thoại: +66 35 322.730
Mở cửa: Từ 8 giờ sáng đến 6 giờ chiều.
Tham khảo giá vé: Người bản địa miễn phí, người nước ngoài 30 baht/khách ~ 20.000 vnđ/vé.
Chung số phận với các ngôi chùa khác, Wat Mahathat hầu như bị phá hủy hoàn toàn dưới quân đội Miến Điện. Dấu tích bị tàn phá nặng nề nhất chính là hàng tượng Phật bên bức tường bị chặt mất hết đầu. Bên cạnh đó lớp gạch đỏ bị bong tróc khiến di tích rất thu hút khách du lịch bởi chính vẻ hoang tàn của nó.
Wat Mahathat nổi tiếng bởi một đầu tượng Phật nằm trong chùm rễ cây. Đó là một khuôn mặt đẹp, thánh thiện và siêu thoát, đem lại cảm giác bình an cho mọi người. Chuyện kể rằng, ai đó đã đem đầu của một pho tượng bị hủy hoại về và đặt vào một gốc cây, những chùm rễ theo thời gian đã vươn ra và ôm trọn lấy khuôn mặt đức Phật. Tất cả tạo thành một bức tranh sống động và lạ kỳ.
Giờ mở cửa chùa Wat Mahathat: 9:00-17:00.
Vị trí : Đường Phra That (gần Công viên Sanam Luang, nằm giữa cung điện Hoàng Gia và Bảo tàng Quốc gia), Old City (Rattanakosin)
Tham khảo giá vé: 50 bath
Nơi này dành cho những du khách muốn trải nghiệm cưỡi voi. So với những nơi cưỡi voi khác ở Thái Lan, voi ở đây rất đẹp, to khỏe và được “trang trí” giống như voi dành cho vua chúa ngày xưa. Đây là một trải nghiệm rất thú vị.
Mặc dù chùa Wat Lokaya Suttha đã bị thiêu cháy gần hết nhưng bức tượng Phật nhập niết bàn vẫn còn nguyên vẹn. Và là một tác phẩm nghệ thuật đáng chiêm ngưỡng.
Tuy nhiên, khi đến ngôi chùa này, bạn sẽ gặp được một vài người bán hoa thân thiện. Nhưng bạn đừng mềm lòng quá nhé! Họ sẽ đưa cho bạn một tờ giấy và nói “miễn phí” nhưng sau đó thì tờ giấy đó vẫn sẽ được tính tiền. Và họ còn bán cho bạn một bức tượng Phật nhưng giá của nó thì không phản ánh đúng những gì bạn đang cầm trên tay.
4. Thiên đường ẩm thực của Ayutthaya Thái Lan?
Hiện nay bạn có thể thưởng thức món mì thuyền trên sông hoặc tại các quán ăn cố định trên đường.
Địa điểm: Mì Thuyền Krung Kao
Mì Thuyền là đặc sản tại cố đô Thái Lan này. Những bát mì truyền thống được nấu và bày bán trên những chiếc thuyền nên rất thú vị. Không những thế, bạn còn có thể tự tay chọn thành phần để cho vào bát. Và tạo nên hương vị cho riêng mình.
Muốn ăn tôm sống nướng hấp dẫn bậc nhất Thái Lan thì cứ đến thẳng các quán ăn, nhà hàng địa phương.
Địa điểm: Các nhà hàng ven sông ở Ayutthaya
Đây sẽ là món ăn điểm nhấn cho chuyến du lịch Ayutthaya Thái Lan trong ngày của bạn. Khi đến với cố đô, đừng bỏ qua tôm sông tươi ngon với “size khủng” này. Phần gạch ở đầu tôm siêu to rất nhiều hoà quyệt cùng nước chấm mặn mà chính là hương vị ẩm thực thiên đường mà chúng ta đang nói đến đấy! Vì kích cỡ và hương vị mê hoặc nên món ăn này có giá cả không hạt dẻ cho lắm. Tuy nhiên rất đáng đồng tiền bát gạo bạn bỏ ra.
Địa điểm: Nhà hàng Wat Yai
Một trong những món ăn điển hình nhất ở thiên đường ẩm thực Thái Lan. Vị chua chua cay cay kết hợp với thịt cua, tôm đậm đà chắc chắn sẽ thu hút bạn từ miếng đầu tiên.
Địa điểm: Đường U thong
Thiên đường dành cho các tín đồ đam mê món ngọt đây rồi! Roti Sai Mai là món ăn mà bạn nhất định phải thử khi du lịch Thái Lan. Nó được làm bằng kẹo bông với nhiều màu sắc khác nhau và được bọc trong bánh crepe vị mặt. Bạn cũng có cơ hội tự tay làm một chiếc bánh cho riêng mình ngay tại quầy bán. Thật thú vị đúng không nào!
Địa điểm: Các quán hàng ăn địa phương
Cũng là món ăn nổi tiếng của Thái Lan, tuy chỉ đơn giản với hủ tiếu/mì xào cùng trứng, đậu phụ, tôm v.v… Nhưng mang lại hương vị bắt miệng. Kèm với một ít rau và vị chua nhẹ của chanh. Đừng đừng bỏ qua việc thưởng thức Pad Thái ngay tại cố đô của xứ sở triệu voi bạn nhé!
Địa điểm: Nhà hàng Thái Malakor
Chuyến du lịch Ayutthaya trong ngày sẽ trở nên hoàn hảo hơn khi “có mặt” Tom Kha Kai. Tom kha kai là một món ăn Thái Lan rất được yêu thích. Món ăn này là một bát súp gà nóng mang vị chua cay nấu cùng nước cốt dừa. Nguyên liệu chế biến tuy đơn giản nhưng lại có khả năng khiến bạn không thể dừng ăn.
5. Các hoạt động bạn nên thử với lịch trình đi Ayutthaya trong ngày
Chợ nổi là một nét văn hóa địa phương độc đáo ở Thái Lan. Bạn sẽ được dịp tham quan và mua sắm quần áo, đồ lưu niệm nhỏ xinh ở đây. Không những thế, chợ nổi còn là nơi “quy tụ” của rất nhiều món ăn hấp dẫn đấy nhé!
Bạn dễ dàng tìm thấy các chiếc thuyền đuôi dài tại bến cảng nằm ở phía đông bắc của đảo, gần chợ Hua Ro. Bạn nên đi thuyền vào buổi tối, khi các ngôi đền chùa được chiếu sáng tạo nên khung cảnh lộng lẫy và tuyệt vời.
Theo kinh nghiệm du lịch Ayutthaya của mình thì sẽ rất thú vị nếu lịch trình trong ngày của bạn có bao gồm hoạt động cưỡi voi. Tại trại voi Ayutthaya, bạn sẽ được trải nghiệm hoạt động điển hình này của du lịch Thái Lan. Một chú voi sẽ đưa bạn đi xung quanh vài di tích cổ, tương tác cũng như tìm hiểu về cách những con voi được huấn luyện và chăm sóc.
6. Những Tip du lịch khi đến Ayutthaya bạn cần lưu ý
Nên mang theo nón, dù và nước suối. Vì bạn sẽ phải đi bộ khá nhiều giữa các địa điểm. Đặc biệt khí hậu ở Thái Lan khô và nóng
Du lịch Thái Lan đừng quên chuẩn bị cho mình 1 chiếc sim 4G Thái Lan. Dùng để liên lạc và tìm kiếm thông tin lúc cần thiết.
Nên mang theo trang phục lịch sự, dài qua đầu gối và che được vai để được vào tham quan một số ngôi chùa tại đây.
Thời điểm lý tưởng nhất để du lịch Ayutthaya là từ tháng 11 đến tháng 2 hằng năm. Từ khoảng tháng 3 đến tháng 5 là thời điểm nóng nhất trong năm, trong khi đó thừ tháng 6 đến tháng 9 là mùa mưa.
Nếu có đủ thời gian thì bạn nên ghé thăm thành phố cổ Muang Boran rất nổi tiếng ở Thái Lan luôn nhé!
Trên đây là những thông tin cần thiết về cố đô Ayutthaya Thái Lan. Hoàng Việt Travel (hoangviettravel.vn) hy vọng bạn có thêm điểm dừng chân cho chuyến hành trình sắp tới. Chúc bạn luôn gặp nhiều may mắn trên mọi nẻo đường.
https://vimeo.com/user103956819/about
https://disqus.com/by/disqus_1XBiK8EOZs/
https://mix.com/hoangviettravel
0 notes
khaimocom · 5 years ago
Text
Cô tăng vạn lý tìm Đại Đạo, May gặp Di Lặc Chuyển Luân Vương
Để truy tìm chân lý Phật Pháp, bà đã chịu muôn thứ khổ; để tu luyện hoàn nghiệp, bà đã lưu lại truyền kỳ, nhiều phen thập tử nhất sinh, tựa như tái hiện Phật Milarepa thuở xưa. Hoa Ưu Đàm Bà La ghi lại trong kinh Phật đã khai nở, chính là lúc Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế độ nhân; câu chuyện của Thích Chứng Thông thật đáng để chúng ta suy ngẫm.
Tumblr media
Thích Chứng Thông (bên trái), và học viên Pháp Luân Công Việt nam Thúy Nga (bên phải) Câu chuyện này bắt đầu từ một tai nạn xe hơi tại Cao Hùng, Đài Loan vào tháng 6 năm 2002. Hôm ấy trên phố người đi lại đông đúc, một chiếc xe gắn máy màu tím đang chạy trên đường, thì đột nhiên một chiếc xe hơi màu xám từ bên trái cấp tốc quẹo phải, trong chớp mắt đã đụng vào chiếc xe gắn máy, cả chiếc xe hơi đè lên người lái xe gắn máy. Khi ấy hai tiểu thư trên xe sợ quá: đây chẳng phải cán chết người hay sao? Hai người lập tức xuống xe, chỉ thấy một nữ tăng nhân tầm 40, 50 tuổi đang gắng sức ngọ nguậy để đứng dậy. Hai cô gái sợ quá, một cô hỏi: “Thưa bà, bà không sao chứ?” Không thấy đối phương đáp lại. Chỉ thấy tăng nhân hai mắt nhắm chặt, mỗi cử động đều khiến toàn thân run rẩy. Một lúc lâu sau, bà mới mở mắt ra, gắng sức dùng tay ra hiệu một cách điềm tĩnh, có ý bảo đẩy giùm xe gắn máy lại. Sau đó, một cách rất khó khăn, bà lấy ra hai tờ truyền đơn từ ba lô đưa cho hai cô gái, đồng thời ra hiệu cho họ đi. Hai vị cô nương rất mừng vì tự mình đã chứng kiến kỳ tích, gặp được một ni cô câm mà hảo tâm. Đợi hai cô đi rồi, người ta mới thấy nữ tăng nhân cật lực bò lên xe gắn máy, chầm chậm lái đi. Vị nữ tăng nhân này chính là pháp sư Thích Chứng Thông, năm nay gần 70 tuổi. Những ai hiểu được bà đều không khỏi cảm thán trước truyền kỳ về trải nghiệm thập tử nhất sinh của bà; để truy tìm chân lý Phật Pháp, bà đã chịu muôn vàn thứ khổ; có người đem trải nghiệm của bà ví như tái hiện cố sự Phật Milarepa năm xưa.
Tumblr media
Thích Chứng Thông đang ngồi thiền định bài số 5 của Pháp Luân Công Vâng mệnh cha kết hôn, sinh con vẫn không giảm nguyện vong xuất gia Thích Chứng Thông sinh ra tại một thôn làng nhỏ nghèo khó tại xã Lý Cảng, huyện Bình Đông, thuộc miền Nam Đài Loan. Bà từ nhỏ đã không thích chốn náo nhiệt, sau khi tan học thường đến một ngôi chùa ở gần đó, lặng lẽ ngồi tọa dưới gốc cây. Các nhà sư trong chùa hỏi bà có muốn xuất gia không, bà thành thực gật đầu. Năm hơn bốn tuổi, một hộ trong thôn làm đám cưới con, người cả thôn đều đi uống rượu cưới, bà hỏi nhỏ phụ thân: “Vì sao phải kết hôn vậy cha? Con lớn lên sẽ không như người này đâu”. Vì bà bẩm sinh tính vừa lanh lợi vừa giản dị, nên từ năm 15 tuổi đã bắt đầu có người đến xin kết thông gia không ngớt, nhưng đều bị bà cự tuyệt. Tuy nhiên năm 21 tuổi, anh trai thầy giáo bà và phụ thân bà đi xa buôn bán cùng nhau, khi trở về đã định chuyện cưới xin, do vậy bà xuất giá. Nháy mắt đã hai chục năm trôi qua, bà kinh doanh một công ty gia đình xuất khẩu thương mại. Bất chấp sự nghiệp phát đạt, được chồng quan tâm, hai trai một gái hiếu thuận, tất cả dường như không đem lại hạnh phúc thật sự cho bà. Bà thường khóc một mình, nước mắt đẫm hai má. Sau khi sắp xếp xử lý công việc bận rộn, bà đều ngồi xếp bằng trên ghế dựa, cung kính lấy ra kinh thư cất trong ngăn kéo rồi nghiêm túc đọc. Cảm thấy đời người ngắn ngủi, vạn sự vô thường, nguyện vọng xuất gia của bà càng ngày càng mạnh mẽ. Nhất tâm hướng Phật đợi cơ duyên, cuối cùng cạo đầu đi tu Hồi ấy Thích Chứng Thông mỗi ngày đều đả tọa vào sáng sớm, có thể nhìn thấy rất nhiều cảnh tượng. Thực ra bà từ bé đã khai mở thiên mục, có thể nhìn thấy rất nhiều cảnh tượng kỳ dị, chỉ là bà cho rằng ai ai cũng đều nhìn thấy như thế nên không đi nói với ai. Thời thơ ấu bà nhìn thấy vạn sự vạn vật đều đang sống, mỗi lần qua cầu, bà đều nói với cây cầu: “Xin lỗi, phiền cho ta qua nhé”. Nhìn thấy hoa cỏ cây cối, bà đều chào và hỏi thăm. Có một lần vào buổi sớm một hôm nọ, bà ngồi đả tọa tại công ty và nhìn thấy đủ loại cá xếp thành hàng ngũ đang bơi qua, miệng đều ngoảnh về phía bà như đang kể lại điều gì. Bà thấy rất kỳ quái, mới hỏi một đồng nghiệp thích câu cá trong công ty: “Hôm qua anh đi đâu?” Người kia nghe xong đáp ngay: “Á! Chị biết rồi à! Không phải tôi làm đâu, tôi chỉ là chạy xe chở họ đi bắt cá thôi; họ dùng điện, đem bắt tất cả cá lên”. Bà nghe xong hai hàng nước mắt chảy dài. Vừa mới học lái xe, một lần bà đột nhiên nhìn thấy xe huấn luyện viên biến thành rộng rãi phi thường, xuất hiện một cảnh tượng Phật quốc thù thắng trang nghiêm. Nguyên là trên xe huấn luyện viên mới treo một tấm bùa hình Phật khoảng hai tấc. Còn có một lần, bà từ phòng làm việc công ty đi tới nhà xưởng, đột nhiên nghe thấy “bang” một tiếng, chỉ thấy trên không trung nở ra một đóa hoa sen rất lớn. Bà thực sự cảm thấy tồn tại chân thật của thế giới Phật quốc, kinh Phật nói chẳng sai. Sống giữa dòng thế tục thấm đẫm danh lợi tình, bà cảm thấy như bị giày vò ngày qua ngày. Khi ấy bà đã thụ “Bồ Tát giới tại gia”, đây đã là giới luật tối cao của cư sĩ không xuất gia, sau nữa là phải tu xuất gia. Khi ở bên các con, bà thường kể chuyện Phật giáo cho chúng nghe, lại nói với chúng rằng một ngày nào đó mẹ của chúng sẽ ly khai thế tục, xuất gia tu hành. Bà nhất tâm hướng Phật, đến năm hơn 40 tuổi, cơ duyên cuối cùng đã chín muồi, người nhà của bà không nhẫn tâm lại để bà tiếp tục chịu giày vò nữa, đều đồng ý để bà xuất gia. Sau 40 năm chờ đợi đằng đẵng trong khổ sở, bà đã hoàn thành nhân duyên thế tục; bà cạo đầu trở thành một vị ni cô, pháp hiệu Thích Chứng Thông. Làm trụ trì xây tinh xá, hành hương sang Tây Tạng suýt mất mạng Đài Loan bảo lưu truyền thống văn hóa kính Thần của Trung Hoa, bởi vậy người ta đều tôn kính phi thường với người xuất gia, và các cư sĩ cũng cực lực cung dưỡng tăng nhân. Xuất gia không lâu, Thích Chứng Thông đã trở thành trụ trì của ngôi chùa. Sau đó dưới sự khẩn cầu của cư sĩ, bà xây dựng một miếu thờ (tinh xá) trên núi hoang. “Khai phá núi rất khổ cực, làm cỏ san đất, tất cả đều tự mình làm. Một ngày tôi một mình làm đến nửa đêm, đột nhiên một con rắn độc, loại bách bộ xà bò tới, dừng trước mặt tôi. Tôi bảo nó quy y theo Phật, để nó đi thật xa, không được hại người, cũng không bị người làm hại. Nó nghe xong thuận theo gác thang mà bò đi”. Cũng như vậy, để khiến thật nhiều người hữu duyên tiếp xúc Phật Pháp, pháp sư Thích Chứng Thông trước sau đã xây ba tinh xá tại ba chỗ trên ngọn núi hoang. Để tìm kiếm chân lý nhân sinh, khi đảm nhiệm chức trụ trì, Thích Chứng Thông còn nhiều lần thăm viếng danh sơn thắng địa để truy tìm dấu vết của Đại Giác Giả. Bà đã từng qua Tây Tạng, Himalaya, Trường Giang, thượng nguồn Hoàng Hà, núi Côn Lôn, Nepal và Ấn Độ. Hành hương là rất khổ sở. Đường đi đều là nơi hoang dã, hoang mạc hoặc bãi sông, khi ăn cơm chỉ có thể đào một cái hố trên mặt đất để đun nước, sinh hoạt gian khổ phi thường. Khi đến Tây Tạng, do không khí loãng, Thích Chứng Thông bắt đầu xuất hiện phản ứng cao nguyên, cộng thêm gánh nặng chịu thống khổ cho một vị nữ cư sĩ đi cùng, kết quả tâm tạng chịu không nổi, suýt nữa mất mạng. Tâm không thoái thác, cầm bát vân du, khổ tìm đường trở về Tuy nhiên sau khi tiêu tốn rất nhiều tiền bạc và nỗ lực, Thích Chứng Thông vẫn không thu hoạch được gì mấy sau nhiều chuyến hành hương, “trong tâm không có cảm giác chắc chắn, đối với tu luyện lên tầng thứ cao như thế nào vẫn y nguyên không minh bạch. Đặc biệt là nhiều người bám theo tôi, khiến tôi cảm thấy rất hoảng hốt. Ngay cả tôi cũng không biết viên mãn như thế nào, thì làm sao giúp được họ đây?” Để có trách nhiệm với người ta, Thích Chứng Thông kiên quyết ly khai đạo trường truyền thống, lựa chọn “chân trần cầm bát vân du”, phương thức truy tìm Phật Pháp thuần khiết nhất và cũng là khổ nhất của thời đại Phật Thích Ca Mâu Ni. Chính như bà viết trong một bài thơ: “Một bát cơm nghìn nhà, Cô tăng vạn lý du, Chỉ để thoát sinh tử, Hóa độ khắp xuân thu”. Cầm bát vân du là phi thường gian nan. Ly khai tinh xá, một chút nguồn sinh hoạt cũng không có, quần áo, lương thực, nơi ở, thảy đều không có, hỏi sống làm sao đây? Đặc biệt trong xã hội hiện đại không có tôn trọng đối với tăng nhân như thời đại Phật Thích Ca Mâu Ni, để từ nhà người ta xin một chút cơm ăn, phải chịu các loại nhạo báng, nhục mạ, vũ nhục và bất lý giải, “đến đâu cũng thấy mỗi người một vẻ, có một nụ cười thiện tâm đối với tôi là một niềm cổ vũ lớn lao”. Tuy nhiên hết thảy đều không ngăn được niềm tin hướng về chân lý Phật Pháp của Thích Chứng Thông. Mỗi ngày Thích Chứng Thông đều mang theo một cái ô, hành lý, túi ngủ, v.v. chân trần bước đi, liên tục không ngừng. Hai chân rất nhanh cọ sát đến mọc bóng nước, gan bàn chân tróc da, chảy cả máu, nhưng bà vẫn tiếp tục đi. “Khi bước đi trên đường nhựa rất bỏng, dẫm nhầm hòn đá trên đường, chân đau buốt đến tận tim. Tôi từng ngủ cạnh ngôi mộ, ngủ ngoài trời dưới gốc cây, ma nạn mà thân tâm phải chịu đựng là không cách nào biểu đạt. Tôi chỉ mong tìm được một con đường phản bổn quy chân, tìm được một vị sư phụ chân chính dẫn tôi trở về nhà”. Thích Chứng Thông vô cùng khiêm tốn nội tâm, bà không nguyện ý nói ra nỗi khổ mà mình phải chịu, rất nhiều người ngoài coi là sự việc kinh thiên động địa, nhưng đối với bà đó chỉ là một hai câu ngắn ngủi mà bà kể lại mà thôi. Thân tâm bên bờ tuyệt vọng, may gặp được Đại Pháp Tuy nhiên vân du cũng không thể khiến Thích Chứng Thông đã hơn 50 tuổi tìm thấy chân Pháp chân Đạo, trái lại thân thể với bao bệnh tật thời niên thiếu, lại chịu bao đau khổ dằn vặt khi vân du khắp trong và ngoài nước, kết quả bách bệnh triền thân. “Phàm là những bệnh mà bệnh viện có thể kể tên ra, thì tôi đều có gần hết, đặc biệt là bệnh tim, bệnh dạ dày, bệnh thận, đau nhức kinh lạc, vẹo lệch sống eo, trật khớp cột sống, v.v. có rất nhiều”. Các bệnh trên thân thể, cộng thêm tâm bệnh tìm không thấy chân lý, trong ngoài đều khốn đốn, khiến Thích Chứng Thông gần như tuyệt vọng, đặc biệt là sau năm 1992. “Trước kia tôi xem kinh thư, thấy đằng sau đều có nội hàm. Tôi có thể nhìn thấy chư Phật Bồ Tát, các chủng cảnh tượng thiên đường; tuy nhiên từ sau năm 1992, chúng đều biến mất. Điều này khiến tôi cảm thấy rất kỳ quái, cũng rất tuyệt vọng. Kinh Phật là dùng để độ nhân, nhưng hiện tại Pháp thân của Phật đã ly khai nhân gian rồi, rốt cuộc đã phát sinh sự việc gì?” Mãi tới một ngày đầu năm 1998, một vị bác sĩ y thuật cao minh tặng bà một bản «Chuyển Pháp Luân». “Tuy khi ấy tôi còn chưa biết đây là cuốn sách gì, nhưng trước khi mở, hai tay tôi giương cuốn sách lên quá đỉnh đầu, rồi mới mở ra. Vừa nhìn thấy ảnh Sư phụ, nước mắt tôi bỗng chốc tuôn rơi, không biết là vì sao. Tôi hình như đã sáng tỏ thân phận, lai lịch của Sư phụ; tôi biết tôi cuối cùng đã tìm thấy Sư phụ chân chính rồi. Khi ấy nước mắt tôi cũng như những hột trân châu, nhỏ xuống từng giọt”.
Tumblr media
“Đoạn thời gian ấy nước mắt tôi tựa hồ không ngừng tuôn rơi. Khi tôi nhìn thấy lần đầu học viên luyện công đả thủ ấn, nước mắt tôi chỉ là không ngừng nhỏ xuống, cảm giác phi thường thân thiết. Lần đầu tiên luyện công, tôi đã nghe thấy huyệt dũng tuyền ở hai chân tách mở ‘păng’ một cái, tôi thực sự thể nghiệm được cảm giác ‘trăm mạch đồng thời vận chuyển’. Toàn bộ cơ thể tôi rất nhanh ở trong trạng thái thoát thai hoán cốt, các loại bệnh đều tiêu mất sạch”. Thích Chứng Thông kể, khi ấy bà mới minh bạch, Sư phụ Lý Hồng Chí là đang chân chính cứu người. Thảo nào hồi năm 1992 xem kinh thư Phật giáo, phát hiện thấy không có nội hàm nào đằng sau, bởi vì Sư phụ đã bắt đầu truyền Đại Pháp rồi, chúng Thần đều rời đi rồi. “Sư phụ dùng toàn ngôn ngữ thiển bạch nhất của nhân loại, mà đem đạo lý cao thâm ra giảng xuất lai. Ví như nói, trong Phật giáo có các chủng giải thích đối với Phật, nhưng Sư phụ giảng: Người tu luyện giác ngộ rồi được gọi là ‘Phật’, chỉ một câu mà đã bao hàm nội dung hàng vạn quyển kinh thư. Lại ví như tu luyện rốt cuộc là gì, Sư phụ giảng, tu luyện chính là quá trình không ngừng tống khứ tâm chấp trước của con người; đây đều là đạo lý mà chúng tôi tu Phật mấy chục năm qua vẫn chưa minh bạch, Sư phụ chỉ một câu đã chỉ rõ ra rồi”. Đại Pháp tựa như chiếc xe tốc hành, khiến con người viên mãn nhanh nhất “Tháng 8 năm 1998, tôi may mắn được gặp Sư phụ sau Pháp hội Singapore, khi ấy tôi hỏi Sư tôn: ‘Con trước đây đã là đệ tử của Phật, hiện nay vẫn là đệ tử của Phật, xin hỏi con có thích hợp tham gia hoạt động Đại Pháp hay không?’ Sư tôn sau khi khai thị một đoạn Pháp lý, nói có thể tu”.
Tumblr media
Từ đó, Thích Chứng Thông đem toàn thân tâm đặt vào tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, lại nghĩ đem lịch trình muôn vàn khổ sở tìm kiếm chân lý của mình cho nhiều người hơn nữa biết. Bà trước tiên tìm những người xuất gia và cư sĩ mà bà biết trước đây, thế nhưng trong số họ không ít người không thể lý giải. Có người nói bà phản bội sư môn, có người phản đối bà mặc y phục người xuất gia để đi hồng truyền Pháp Luân Công, thậm chí có người nửa đêm gọi điện thoại quấy nhiễu bà. Thích Chứng Thông lúc này mới minh bạch, vì sao lần đầu tiên gặp được Sư phụ, trong tâm bà vang lên câu: “Chư vị đang hô khẩu hiệu, luôn miệng nói phải tu luyện, nhưng thực sự khi đến lúc, chư vị lại không đến đắc chân Pháp”. Tuy nhiên bà cũng không vì vậy mà chán nản, bởi vì có rất nhiều người hữu duyên đang đợi ngoài chùa chiền. Thế là bà đến đâu cũng giới thiệu Pháp Luân Công với người ta, dạy người luyện công học Pháp, giúp thành lập điểm luyện công mới. Một lần tại lớp dạy Pháp Luân Công cho các giáo viên Đài Loan, bà giới thiệu với các giáo viên ở dưới bục: “Tôi nguyên là tu luyện Phật giáo, nhưng tôi đến muộn rồi; tôi không bắt kịp truyền pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni, chỉ bắt kịp thời kỳ mạt pháp. Nhưng tôi rất có may mắn, lỡ mất dịp này, nhưng lại gắng sức lên được chiếc xe tốc hành; tuy rằng cất bước chậm, nhưng tôi đã đạt mục đích, Pháp Luân Công tựa như chiếc xe tốc hành ấy, có thể khiến con người viên mãn mau lẹ nhất”. Về không ít người trước đây từng học qua pháp môn khác mà nay không dám luyện Pháp Luân Công vì sợ sư phụ cũ không vui, Thích Chứng Thông nói: “Cũng giống như chúng ta đi học, từ tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, đại học, nghiên cứu sinh, đến tiến sĩ, thầy giáo trước đây của chúng ta không chỉ vì chúng ta nhận thầy giáo khác mà không cao hứng, chỉ cần chúng ta đề cao lên, thì sư phụ trước đây của chúng ta càng cao hứng”. Nhẫn chịu trọng thương tông xe, luyện công hồng Pháp giảng chân tướng Trong khi giúp nhiều người hơn nữa liễu giải Pháp Luân Công, Thích Chứng Thông trước sau bị 5 lần xe hơi đâm rất nghiêm trọng, đúng là thập tử nhất sinh. Sáng sớm một ngày năm 1999, trời còn chưa sáng, bà đã lái xe máy tham gia điểm luyện công buổi sáng sớm và bị một kẻ say rượu đâm trúng. Lúc ấy xương cánh tay trái của bà bị đâm gẫy, mạch máu bị vỡ, toàn bộ cánh tay biến thành tím đen, lại sưng phù lên. Khi kẻ say rượu tỉnh lại, anh ta hét lên: “Thật xin lỗi, để tôi đưa bà đi bệnh viện nhé, nếu không chị gái tôi mắng chết tôi”. Nhưng Thích Chứng Thông từ từ bò dậy khỏi mặt đất, nói mình không hề g�� và để anh ta đi. Bà leo lên xe gắn máy đến điểm luyện công, nhưng không nói với ai về sự việc tông xe, mà nhẫn nhịu đau đớn do gãy xương và luyện công cùng đám đông. Sau khi đồng tu phát hiện ra, họ vô cùng kính phục lực nhẫn nại của bà. Hơn một tháng sau, trong tình huống không có trị liệu nào, đoạn xương gẫy của bà đã liền lại, so với trị liệu của bệnh viện còn nhanh hơn. Sau đó một người trong giới y học hiểu biết sự việc nói: “Theo phân tích hiện trường, xương sườn của bà khẳng định đã bị đâm gẫy, không tin cứ hỏi bà”. Thích Chứng Thông cười, nói: “Đúng vậy, gẫy rồi, người ta không nhìn thấy, tôi cũng không nói nữa”. Cũng như vậy, bằng nghị lực siêu thường, Thích Chứng Thông đã vượt qua mấy ma nạn nữa, và trong mắt bà, những tai nạn đụng xe này đều là hoàn trả nghiệp lực còn thiếu trong quá khứ, chịu khổ có thể tiêu nghiệp. Có một lần đụng xe, ngón tay ở tay phải của bà bị đâm quẹo ngược ra đằng sau, nhưng bà nhẫn chịu đau đớn, tự mình bẻ ngón tay quặt trở lại. Tuy nhiên do dây chằng bị kéo đứt, tới hiện tại ngón tay bà có lúc vẫn còn đau. Trở lại sự kiện Thích Chứng Thông bị xe hơi chèn lên toàn thân như cối xay. Kỳ thực khi ấy bà bị nội thương nghiêm trọng, phần thân trên, tim và phổi đều đau buốt. “Lúc ấy trong tâm tôi chỉ nghĩ tới một sự việc, tôi phải đuổi kịp tàu hỏa và tham gia hội đọc sách, các ý niệm khác đều không có nữa”. Lúc bấy giờ bà đau đến mức không mở mắt ra được, nói không ra lời, người khác lại cho rằng bà bị câm. Hôm ấy bà nhẫn chịu đau đớn để bắt kịp xe lửa, ngồi trên xe lửa ba tiếng đồng hồ, đến miền Trung tham gia học Pháp tập thể cứ cách một ngày. Tối hôm đó xách hành lý lên lầu, đau đến mức ngủ không nổi, cũng không còn sức lực để mà nằm xuống nữa. Đau đớn dữ dội, mỗi phút mỗi giây đều như vậy, nhưng không để người khác biết. Sáu ngày sau, bà nhẫn chịu đau đớn đi sang Nga là nơi thủ lĩnh Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân viếng thăm, cùng cộng đồng học viên Pháp Luân Công kêu gọi chấm dứt bức hại. Trong bốn ngày bốn đêm, bà liên tục lấy từ bi hồng đại và phát xuất ý niệm cường đại với hy vọng quy chính bầu không khí chính-tà. Sau đó, bà cùng đồng tu tới Iceland và đả tọa phát chính niệm trên một sườn núi nhỏ; mỗi tế bào của Thích Chứng Thông đều vật lộn trong đau đớn, thế nhưng bà vẫn kiên trì giữ vững. Buổi tối trước khi trở về Đài Loan, Thích Chứng Thông cảm thấy bản thân đang ở trong trạng thái hấp hối. Bà tĩnh tĩnh ngồi dậy đả tọa, vừa nhẫn chịu vừa nghe tiếng các bạn cùng phòng thảo luận, cuối cùng rơi vào giấc ngủ. Hôm sau tỉnh dậy, bà cảm thấy mình đã sống lại rồi. Đối với lần khảo nghiệm sinh-tử này, Thích Chứng Thông vẫn đối đãi bình thản như mọi ngày.
Tumblr media
Hoa Ưu Đàm huyền thoại 3.000 năm khai nở một lần Ưu Đàm Bà La hoa khai, Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế độ nhân Theo kinh Phật ghi lại: Long Hoa tam hội nguyện tương phùng, sau năm mươi ức năm, Phật Di Lặc hạ thế, giảng Pháp tam biến, độ hết tất cả chúng sinh hữu duyên. Thích Chứng Thông nói: “Ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy ảnh Sư tôn, bỗng chốc nước mắt tôi tuôn rơi, không hiểu vì sao, trong nội tâm hình như đã sáng tỏ về thân phận và lai lịch của Sư tôn. Mãi tới hai năm sau, khi tôi lần đầu tiên xem băng hình giảng Pháp của Sư tôn tại Bắc Kinh năm 1996, xem đến đoạn giảng Pháp về Phật Di Lặc chuyển thế, mới minh bạch ra: Sư tôn chính là Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế, cũng là Phật Di Lặc tái sinh”. Tới năm 2008, khi Thích Chứng Thông tận mắt nhìn thấy hoa Ưu Đàm Bà La, bà lại càng minh bạch hơn nữa về sự việc này. Về hoa Ưu Đàm Bà La, quyển 4 kinh «Pháp Hoa Văn Cú» viết: “Ưu Đàm hoa, có nghĩa là may mắn linh thiêng. Ba nghìn năm mới nở một lần, khi nở là Kim Luân Vương xuất hiện”. Quyển 8 kinh «Huệ Lâm Âm Nghĩa» ghi rõ: “Ưu Đàm hoa, là lược dịch sai từ tiếng Phạn cổ. Đúng Phạn ngữ là Ô Đàm Bạt La, nghĩa là điềm lành linh dị. Đây là Thiên hoa, thế gian không có loại hoa này. Nếu Như Lai giáng sinh, Kim Luân Vương xuất hiện ở thế gian, thì nhờ đại phúc đức của Ngài mà xuất hiện loài hoa này.” «Chuyển Luân Thánh Vương tu hành kinh» cũng nói: “Bấy giờ Chuyển Luân Vương dũng mãnh nói: ‘Kim Luân này đúng là vật báu báo điềm lành của Ta, Ta hiện nay đúng là Chuyển Luân Thánh Vương’”. Trên thực tế, ngay từ đầu năm 2005, người ta đã phát hiện khoảng chục đóa hoa Ưu Đàm Bà La mọc trên tượng Bồ Tát trong thiền viện Tu Di Sơn ở Hàn Quốc. Sau đó, các nơi trên thế giới liên tục xuất hiện loại hoa mang điềm lành này. Thân hoa Ưu Đàm Bà La mỏng như sợi tơ tằm, sắc hoa trắng như tuyết, xung quanh tỏa ra vầng sáng nhàn nhạt, có bông còn phát xuất hương thơm thoang thoảng. Điều đặc biệt nhất là loài hoa này có thể mọc trên bất kỳ vật dẫn nào, cho dù là tượng đồng, sắt thép, thủy tinh, hay là keo dán, trái cây, thực vật, v.v. Bất kể nóng lạnh thế nào, bất kể nơi chốn nào, đều có thể khai nở. “Sau này tôi mới minh bạch ra, Phật Tổ nói năm mươi ức năm sau Phật Di Lặc hạ thế, đối ứng với nhân gian chính là ngày hôm nay, bởi vì không gian khác nhau có khái niệm thời gian khác nhau. Trải qua hơn 10 năm tu Đại Pháp, tôi ngày càng kiên tín, Sư tôn là đến phổ độ chúng sinh”. Tại hội trường cuộc thi Piano do Đài truyền hình Tân Đường Nhân tổ chức—ở Đại học Đài Nam, bên ngoài bức tường nhẵn bóng của thính phòng âm nhạc, Thích Chứng Thông đã tận mắt chứng kiến hoa Ưu Đàm Bà La. Điều này khiến bà càng minh bạch rằng Chuyển Luân Thánh Vương đã hạ thế truyền Pháp phổ độ chúng sinh, con người có thể không ly khai thế tục mà tu thành Như Lai. Hồi tưởng lại hơn 10 năm tu luyện trong Đại Pháp, Thích Chứng Thông cảm thán nói: “Tôi có dùng hết ngôn ngữ của nhân loại cũng không cách nào biểu đạt được cảm ân và tôn kính của mình đối với Sư tôn. Càng tu càng thấy Đại Pháp vô biên, không lời biểu đạt, càng tu càng thấy bản thân còn thua xa yêu cầu của Sư tôn. Vào ngày sinh nhật của Sư tôn 13 tháng 5, tôi xin dùng bài thơ dưới đây để biểu đạt lòng cảm kích của tôi: ‘Khi Phật tại thế ta đắc Pháp, Khi Phật Chính Pháp ta đang tìm, Mừng gặp kiếp này đủ phúc phận, Được thấy chân Phật thân vàng kim’. Vương Tĩnh Văn /  chanhkien.org Read the full article
0 notes
chautzy · 5 years ago
Text
Tour Hành Hương Thập Tự Miền Tây Trong Ngày479.000đ330.000đ4
Áp dụng cho 01 Voucher/01 Khách Tour Hành Hương Thập Tự Miền Tây Trong Ngày Do Công Ty Kỷ Nguyên Tourist Tổ Chức.
Tháng Bảy với mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trong niềm hân hoan của những người con hiếu hạnh nói chung và Phật tử nói riêng. Nhân dịp này, nhiều người thường hành hương viếng chùa, lễ Phật để cầu may mắn, sức khỏe cho ông bà, cha mẹ. Và tour du lịch viếng 10 cảnh chùa Miền Tây 1 ngày được thiết kế đặc biệt như một món quà mà kỷ Nguyên Tourist dành tặng cho du khách và quý Phật tử nhân Mùa Vu Lan Báo Hiếu năm nay. Hành trình sẽ đưa bạn tạm rời xa những bộn bề của cuộc sống, hòa mình vào khói hương nghi ngút và những lời kinh kệ chốn cửa Phật, để gột rửa tâm hồn và cầu nguyện bình an đến những người mình thương yêu.
05h00: Xe và HDV công ty Kỷ Nguyên Tourist đón khách tại điểm hẹn. Khởi hành về Miền Tây. Đoàn ăn sáng trên xe (bánh bao, bánh mì, xôi…). Trên đường đi, Quý khách viếng: Chùa Viên Giác: tọa lại trên đường Học Lãm, Phường 16, Quận 8. Khuôn viên chùa có tượng phật bốn mặt của Thái Lan (gọi là Tứ Diện Thần có bốn khuôn mặt quay ra bốn hướng khác nhau, mỗi khuôn mặt của tượng có đầy đủ mắt, tai, mũi, miệng, với tổng thể 8 cánh tay, mỗi tay đều cầm 1 pháp khí mang ý nghĩa cụ thể riêng). Ngoài ra tượng Phật này còn đem lại sự thịnh vượng, may mắn, sức khỏe và hạnh phúc cho Quý phật tử.
Chùa Phổ Đức: là nơi nuôi dưỡng ung đúc cho hàng Ni lưu hậu thế của tỉnh Tiền Giang qua tất cả các khóa. Mỗi khóa nuôi dưỡng trên 100 Ni chúng. Ngoài ra chùa còn tổ chức khóa tu Bát Quan Trai cho Phật tử về tu vào mùng 1 âm lịch mỗi tháng.
Pháp Bảo Tự: tọa lạc trên đường Lý Thường Kiệt. Ngôi chùa được xây dựng vào năm 1966 tiêu biểu của Phật Giáo Nguyên Thủy tại Tỉnh Tiền Giang.Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Tượng đức Phật Thích Ca thành đạo và tượng đức Phật trì bình khất thực được tôn trí ở án giữa. Trong chánh điện có tôn thờ 5 viên Xá Lợi Phật. Chùa Phật Ân (Trường Trung Cấp Phật Học) số 5 Ngô Quyền, P.7, Thành phố Mỹ Tho. TT.Thích Giác Nhân ban đạo từ, khẳng định, đào tạo Tăng tài là trách nhiệm thiêng liêng của hàng tu sĩ. Hiện tại Tăng Ni sinh phải cố gắng học tập để sau khi ra trường phải là người có kiến thức thực thụ – là người thật sự có đạo đức và có tâm phục vụ chúng sanh.
Chùa Bửu Lâm Cổ Tự: Xe đưa đoàn ghé thăm Chùa Bửu Lâm kiến trúc cổ tiêu biểu nhất thế kỷ 19 ở đồng bằng sông Cửu Long . Cho đến nay đã trải qua 10 đời truyền thừa hơn 200 năm tồn tại. Hòa thượng Tiên Hiện đặt tên chùa là “Bửu Lâm” với ngụ ý “báu vật nhiều như cây trong rừng”. Từng là cơ sở cách mạng vững chắc của Thị Ủy Mỹ Tho trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ xâm lược. Chùa cũng là nơi hoạt động của nhiều nhà yêu nước nổi tiếng như Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh Chủ Tịch Hồ Chí Minh) và Phan Chu Trinh… Chùa Vĩnh Tràng: một ngôi chùa nổi tiếng ở Nam Bộ. Năm 1849, hòa thượng Huệ Đăng ở chùa Giác Lâm (Gia Định) về trụ trì và khởi tạo xây chùa. Khởi thủy chùa có tên là Vĩnh Trươ��ng với ngụ ý mong ước vĩnh cửu nối sơn hà – trường tồn về thiên địa, qua thời gian người dân vùng lân cận đến nay vẫn quen gọi là chùa “Vĩnh Tràng”. Chùa được xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia, và là một điểm hành hương và du lịch nổi tiếng. Chùa mang dáng vẻ kiến trúc đa dạng theo lối tổng hợp Á – u (Pháp, La Mã, Thái, Miên, Chàm). Tuy nhiên, chùa vẫn mang đậm nét lối kiến trúc điêu khắc truyền thống Việt Nam. Chùa còn bảo tồn 60 tượng quý, được tạo tác bằng đồng, gỗ, đất nung để chiêm ngưỡng các tượng Phật quý giá. Chánh điện Chùa Vĩnh Tràng còn có 07 bộ bao lam thếp vàng chạm hình bát tiên, thần mặt trời và thần mặt trăng. Trong khuôn viên chùa còn có nhiều cây cảnh, hồ nước và hòn non bộ tô điểm thêm cảnh đẹp nơi đây và tạo nên một phong cảnh trầm mặc yên tỉnh làm cho du khách có cảm giác thư thái, nhẹ nhàng mỗi khi đến đây chiếm bái.
Ni Viện Tịnh Nghiêm: tọa lạc trên quần thể khu Di tích lịch sử chùa Vĩnh Tràng, thuộc ấp Mỹ An, xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang, do Ni Trưởng Thích Nữ Tịnh Nghiêm khai sơn. Chùa Tịnh Nghiêm, ngoài phương diện là một ngôi Chùa gắn liền với việc nuôi dưỡng, đào tạo các thế hệ Ni tài cống hiến cho Phật pháp; Còn là điểm quy tụ những tâm hồn cao thượng, những tấm lòng nhân ái của hàng Phật tử, nhà hảo tâm, chung tay góp sức cùng nhau mang lại cho bà con nghèo hay những mảnh đời bất hạnh, từng ngày với bao niềm an vui, hạnh phúc trong cuộc sống đầy khó khăn, nghiệt ngã. Quý Phật tử dùng cơm trưa – thực đơn các món chay Chùa Sắc Tứ Linh Thứu: Lúc đầu chùa chỉ là một cái am nhỏ bằng tre lá do bọn trẻ chăn trâu lập nên, vì thế được gọi là Chùa Mục Đồng. Mãi đến năm 1722, có một nhà sư từ miền Trung vào tên là Nguyễn Phước Chánh, pháp hiệu là Nguyệt Hiện đến trụ trì, ông này rất giỏi thuật phong thủy, sau khi xem xét thế đất ông cho rằng chùa được dựng trên mạch suối rồng, ắt sẽ có mạng đế vương đến ngự. Nghe thế Hòa Thượng Nguyệt Hiện cho đặt tên chùa là Long Tuyền Tự, tức là Chùa Suối Rồng.
Thiền Viện Trúc Lâm Chánh Giác: tọa lạc tại ấp 1 thuộc xã Thạnh Tân, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang. Thiền viện có tổng diện tích 50 hecta bao gồm 30 hecta ban đầu và được người dân là Phật tử hiến tặng thêm 20 hecta với kiến trúc 4 thánh tích Phật giáo. Thiền viện có 2 khu vực biệt lập là nội viện và ngoại viện. Trong đó khu ngoại viện bao gồm nhiều hạng mục: Chánh điện, Tổ đường, Thiền đường, Giảng đường, Nhà Tăng ngoại viện, Trai đường, Thư viện, Nhà Trưng bày, Lầu chuông, Lầu trống, Nhà khách cư sĩ nam, Nhà khách cư sĩ nữ…với tổng diện tích hơn 47.000 m². Thiền viện Trúc Lâm Chánh Giác ra đời, bên cạnh việc trở thành trung tâm tu học, còn tạo điểm nhấn quan trọng nhằm thu hút khách tham quan, góp phần làm thay đổi diện mạo một xã nghèo của huyện Tân Phước.
Chùa Phật Đá: tọa lạc tại thị trấn Mỹ Phước, H.Tân Phước (Tiền Giang). Chùa có quy mô không lớn, nhưng là ngôi chùa nổi tiếng ở vùng Đồng Tháp Mười. Trước kia, ở chùa có một pho tượng bằng đá, theo các nhà nghiên cứu là tượng thần Vishnu thuộc văn hóa Phù Nam. Chùa Phật Đá được nhiều người biết đến không chỉ vì nguồn gốc ra đời có nhiều bí ẩn mà còn vì bề dày lịch sử của chùa.
Lên xe khởi hành về TP.HCM. Đến TP. Hồ Chí Minh. Kết thúc chuyến tham quan. Kỷ Nguyên Tourist tạm biệt và hẹn gặp lại. Công ty Du Lịch Kỷ Nguyên rất hân hạnh được mang đến cho quý khách chương trình du lịch đặc biệt Hành Hương về với Vùng đất linh thiêng hứa hẹn sẽ là một sự trải nghiệm tuyệt vời!
Điểm Nổi Bật
Tour Hành Hương Thập Tự Miền Tây Trong Ngày Do Công Ty Du Lịch Quảng Cáo Kỷ Nguyên tổ chức hứa hẹn sẽ là một sự trải nghiệm tuyệt vời và cũng là cơ hội để bạn cầu bình an, tài lộc cho gia đình, người thân nhân dịp đầu năm, nét đẹp văn hóa truyền thống của người Việt Nam từ bao đời nay.
Bên cạnh đó quý Phật Tử sẽ còn có dịp được tận hưởng những phút giây thanh tịnh an lành nơi cửa Phật tạm thời quên đi mọi muộn phiền trong cuộc sống.
Tham quan các chùa: Chùa Viên Giác, Chùa Phổ Đức, Pháp Bảo Tự, Chùa Phật n, Chùa Bửu Lâm Cổ Tự, Chùa Vĩnh Tràng, Ni Viện Tịnh Nghiêm, Chùa Sắc Tứ Linh Thứu, Thiền Viện Trúc Lâm Chánh Giác, Chùa Phật Đá.
Xe du lịch máy lạnh đời mới, hướng dẫn viên chuyên nghiệp, thân thiện, tận tâm trong suốt hành trình giúp quý Phật Tử thêm phần hứng khởi với chuyến du lịch vô cùng thoải mái.
Hướng dẫn viên với phong cách trẻ trung, vui tươi, dày dặn kinh nghiệm sẽ luôn sẵn sàng hỗ trợ du khách trong suốt hành trình.
Thông tin chi tiết vui lòng liên hệ:
CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN DU LỊCH QUẢNG CÁO KỶ NGUYÊN
Địa chỉ: 67 Đặng Thúc Liêng, Phường 4, Quận 8, TP Hồ Chí Minh.
LH hỗ trợ (8h30 – 17h30): 1900633351
Nguồn: Tour Hành Hương Thập Tự Miền Tây Trong Ngày479.000đ330.000đ4= 330.000đ
from ptql.org https://ptql.org/103340 Visit IFTTT
0 notes
Text
Vị Tu nữ Phật giáo nguyên thuỷ đầu tiên của Việt Nam là ai?
Tumblr media
Vị Tu nữ đầu tiên của Nam tông Việt Nam đó là cố ni trưởng Diệu Đáng (1924 – 1994). Ni trưởng có thế danh là Lê Thị Tư, tên Pali là Vissutañāṇī (nghĩa là người có trí tuệ lẫy lừng). Ni trưởng được sinh ra trong một gia đình trung lưu trí thức, là con thứ tư của cụ bà Võ Thị Nhung và cụ ông Lê Văn Giảng. Lúc thiếu thời cụ ông lập nghiệp tại thành phố Phnom Penh với nghiệp vụ chuyên môn là một vị bác sĩ thú y. Vì thế, ni trưởng Diệu Đáng được sinh ra và lớn lên tại Campuchia. Đây cũng là thời kỳ chịu ảnh hưởng nền giáo dục thời Pháp thuộc nên ni trưởng giỏi cả ba ngôn ngữ: Pháp, Việt, Khmer. Cuộc sống hằng ngày nơi xứ sở chùa tháp đã gắn liền với tuổi thơ ni trưởng từ những hình ảnh chư Tăng tu học trì bình khất thực đến lời kinh tiếng kệ Pāli vang vọng mỗi sáng chiều. Dù trong môi trường âm hưởng Phật giáo Nam tông Theravāda rất lớn nhưng ni trưởng (cô gái mang tên Nguyễn Thị Tư ấy) vẫn chưa bao giờ nghĩ đến chuyện xuống tóc xuất gia. Bởi một lí do đơn giản là xứ sở chùa tháp Campuchia không có hình bóng sư nữ Phật giáo. Đối với văn hóa Khmer thì chuyện xuất gia tu học chỉ dành ưu tiên cho nam giới; phụ nữ thường chỉ đến chùa cúng dường nghe pháp tu hành theo hạnh người cư sĩ hộ Tăng. Khi về già, các bà thường tu tập theo hình thức thọ trì bát quan trai giới, sống tại tư gia với con cháu. Ni trưởng lúc đó cũng như bao phụ nữ xứ ấy, chỉ thuần túy theo đạo Phật như một truyền thống văn hóa xứ sở. Nhưng cuộc đời này, dòng sinh tử này, khó có thể nhìn thấy phước duyên mỗi chúng sanh sẽ ra sao ngày sau. Giống như có những loại cây dù không thấy hoa trái nhưng hoa quả đã có sẵn trong lõi cây, trong cành nhánh của cây, chỉ chờ hội đủ yếu tố bên ngoại thì tự thân cây sẽ vặn mình ra hoa kết nên những hương trái ngọt ngào. Cũng vậy, hình ảnh ni trưởng Diệu Đáng cũng chỉ chờ đợi ngày hội tụ yếu tố xuất gia. Rồi ngày đó cũng đến. Hôm ấy, thân phụ ni trưởng, ông Lê Văn Giảng lúc bấy giờ là nhà sư Theravāda có đạo hiệu là Hộ Tông (1893 – 1981) và cũng là vị tăng thống (sangharāja) đầu tiên của Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam, Ngài họp các con trong gia đình lại hỏi: “Có ai muốn tu theo không?”. Trong bối cảnh ấy, tâm hồn ni trưởng tựa như cây đang chờ vặn mình ra hoa, ni trưởng không chút phân vân do dự, liền lên tiếng: “muốn”. Sự quyết định xuất gia của ni trưởng lúc đó chỉ mong sống đời độc thân gần gũi với thân phụ để phụng dưỡng báo hiếu cho người. Thế là sau hôm đó, từ cô nữ sinh 17 tuổi đã trở thành vị sư nữ Diệu Đáng tại chùa Sùng Phước, Campuchia. Như vậy, người phụ nữ mang tên Lê Thị Tư có pháp danh Diệu Đáng là vị sư nữ đầu tiên trong Phật giáo Nam tông Việt Nam với giới phẩm là Tu Nữ. Với ý tưởng ban đầu chỉ đơn thuần là vì “chữ hiếu” nhưng khi cất bước vào hành trình thì hoàn to��n khác. Ni trưởng không chỉ phục vụ cho thân phụ mà còn miệt mài học pháp từ các vị trưởng lão thời bấy giờ. Ni trưởng vốn tính siêng năng cần mẫn, tự rèn luyện bản thân mình không bỏ lỡ một cơ hội học và hành giáo pháp. Ngoài giờ thiền tập cố định trong ngày, ni trưởng sẵn sàng bắt tay vào mọi công việc phục vụ Tam Bảo tại các ngôi chùa mà ni trưởng cư ngụ. Bởi lẽ, đây là giai đoạn truyền bá Phật giáo Theravāda về Việt Nam. Nên ngài Tăng thống Hộ Tông thường xuyên về Việt Nam để giảng đạo và thành lập chùa chiền nuôi dạy chư tăng. Trên con đường hoằng đạo, ngài đi tới nơi nào thì ni trưởng Diệu Đáng cũng theo gót ngài đến đó. Có thể xác định rõ nhất là bảy ngôi chùa đã từng có bàn tay ni trưởng góp sức tạo nên. Đó là chùa Bửu Quang (171/10, quốc lộ 1A, tổ 8, khu phố 3, ấp Gò Dưa, phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức, TP. HCM), chùa Nguyên Thủy (33-A đường 10, khu phố 1, Phường Cát Lái, Q.2, TP. HCM), chùa Bửu Long (số 81 Nguyễn Xiển, phường Long Bình, Q.9, TP. HCM), chùa Thiền Quang (Tam Bố, Di Linh), chùa Định Quang (Phi Nôm, tỉnh Lâm Đồng), chùa Bồ Đề (25 Vi Ba, phường 1, TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu). Con đường hoằng pháp độ sanh, tạo dựng chùa chiền nơi những vùng đất chưa từng biết đến Phật giáo nói chung và đặc biệt là hệ phái Nam tông (Theravāda) tại Việt Nam nói riêng thì không dễ chút nào. Phải đương đầu nhiều việc khó khăn để một cơ sở được thành lập, cũng như xây dựng đức tin Tam bảo cho tín đồ Phật tử địa phương. Những thiện sự ấy ni trưởng Diệu Đáng đều tham gia trong đoàn truyền đạo, mở đường cho nhiều người phát khởi niềm tin với đạo Phật nguyên thủy. Sự hiện diện của hệ Phật giáo Nam tông (Theravāda) trong những năm 40 của thế kỷ 20 tại Việt Nam thì quả thật là mới mẻ trong văn hóa Việt Nam. Đặc biệt hơn nữa là hình thức Tu nữ Nam tông thì chưa từng có trước đây trên nước Việt. Ni trưởng Diệu Đáng là người mở đường đầu tiên giới thiệu hình thức Tu nữ Nam tông vào xã hội Phật giáo tại Việt Nam. Chính vì hoàn cảnh xã hội thời đó như thế nên một mình ni trưởng phải kiêm rất nhiều vai trò, vừa là vị thị giả kiêm thư ký thủ quỹ cho ngài Tăng thống trong xây dựng cơ sở, vừa phải chăm coi cả việc hướng đạo cho các tín nữ con đường xuất gia Tu nữ để tạo nên ni chúng Tu nữ Nam tông. Dù giai đoạn đầu chưa có chùa chiền riêng biệt cho Tu nữ nhưng nhiều chùa Nam tông sau khi thành lập đều phân chia một khu vực riêng biệt làm trú xứ cho Tu nữ. Ni trưởng đã sống với hạnh phục vụ Tam bảo như thế suốt một thập niên đầu làm vị Tu nữ. Có lẽ công hạnh hy sinh ấy như một phước duyên đã dẫn ni trưởng bước sang cuộc sống mới. Đó là vào năm 1952, ni trưởng được chọn vào đoàn tham dự kết tập Tam Tạng lần 6 tại thủ đô Yangoon, Miến Điện. Đây là cơ hội cho vị sư nữ trẻ giàu lòng tu học như ni trưởng tiến bước con đường học vấn trong đạo pháp. Thế là sau chuyến đi kết tập Tam tạng lần 6, bao hình ảnh chùa tháp uy nghi và hàng nghìn chư tăng ni Miến Điện đã in sâu vào tâm thức ni trưởng. Trái tim nhiệt thành tu học đã nung nấu khôn nguôi trong tâm tưởng người. Ni trưởng tạm gác lại các vai trò phụng sự trước đây, cất bước sang Miến Điện. Chính xác là năm 1956, ni trưởng đến Sagaing tu học trong trung tâm đào tạo Tu nữ có tên là chùa Tatanabeiman. Vị ni trụ trì chùa này là sư bà Vijjesī, bạn của ni trưởng Diệu Đáng. Sư bà Vijjesī là vị trụ trì đầu tiên của cơ sở Phật học này. Theo lời sư cô Issariyañāni, vị trụ trì hiện nay và cũng là vị phó quản lí ni chúng Tu nữ vùng Sagaing, thì thời ni trưởng Diệu Đáng tu học nơi đây có khoảng 50 - 60 vị ni sinh tu nữ học tại trung tâm này. Vùng đồi Sagaing là một trong ba trung tâm Phật giáo lớn của Miến Điện sau Rangoon và Mandalay. Đây được xem là vùng đất thiêng liêng của xứ Miến. Bởi số lượng chùa chiền và tăng ni chiếm đông hơn nóc dân và lượng người cư sĩ. Nếu nhìn từ góc đồi cao xuống sẽ thấy toàn khung cảnh chùa tháp phủ đầy khu vực. Ni trưởng Diệu Đáng đã từng sôi kinh nấu sử suốt một thập kỷ tại vùng đất thiêng liêng này. Thời ấy, các chương trình Phật học nơi đây đều dạy bằng tiếng Miến Điện. Để vào học chính thức trường Phật học, ni trưởng phải rèn tiếng Miến Điện thông thạo các kỹ năng nghe nói đọc viết mới đủ sức theo kịp chương trình Phật học như người bản xứ. Có lẽ ai đã từng du học Miến Điện sẽ hiểu nổi khó khăn của việc học tiếng Miến Điện đối với người Việt thế nào. Bởi Việt – Miến là hai hệ ngôn ngữ khác nhau khá xa. Mặt khác, ngôn ngữ trung gian bắt cầu cho Việt – Miến thì lại là một chướng ngại không nhỏ đối với ni trưởng. Bởi tiếng Pháp mới là sở trường của ni trưởng. Còn xứ Miến Điện đã từng là thuộc địa của Anh quốc cả 100 năm (1824 – 1948) nên Anh ngữ là ngôn ngữ thông dụng thứ hai của người bản xứ. Đây là yếu tố trở ngại bắt đầu hành trình xứ người của ni trưởng Diệu Đáng. Thế nhưng không gì có thể đánh gục vị Tu nữ tiên phong đầy bản lĩnh ni trưởng. Chất dũng khí của ni trưởng là bộc lộ từ những năm tháng mới vào đạo, ni trưởng không ngại cực nhọc, đã đồng hành cùng sư tổ tăng thống Hộ Tông đi hành đạo khắp nơi hóa độ chúng sinh. Với cá tính đó đã giúp ni trưởng vượt qua mọi rào cản từ ngôn ngữ đến vật thực, thời tiết khắc nghiệt của vùng đồi Sagaing. Ni trưởng hòa nhập vào đời sống văn hóa Miến Điện như một tu sĩ bản xứ trong mọi sinh hoạt học tập chùa chiền. Rồi cái ngày “gạo giã xong, trắng tựa bông” cũng đã đến, ngày 26 tháng 12 năm 1962, tờ báo “Sài Gòn” thời ấy đã cháy lên trang đề “Một Sư Nữ Việt thành công trong việc học đạo ở Miến Điện”. Đó là chủ đề tin tức về ni trưởng Diệu Đáng lãnh bằng Phật học Miến Điện sau sáu năm đèn sách. Thông tin ấy không mấy chốc lan tỏa khắp các chùa chiền tự viện Phật giáo tại Việt Nam, đã làm nhiều trái tim Việt không khỏi rơi lệ xúc động mừng vui cho dân tộc mình, cho nữ giới Phật giáo Việt Nam có vị sư nữ thành đạt như thế. Bản tin vui năm 1962 đó vẫn còn được cất giữ một đoạn ngắn về tin tức ni trưởng. Tuy nhiên, trong trang báo ghi thế danh của ni trưởng (Lê Thị Tư) và tên Pāli (Vitutanyani), chứ không ghi pháp danh Diệu Đáng như Việt Nam thường gọi. Tên Pāli trên trang báo đã viết theo cách phiên âm của người Miến Điện nên bị trại âm trong tên gốc Pāli của ni trưởng là Vissutaññāni. Năm đó, ni trưởng đậu bằng Phật học cấp thứ 2 trong 5 cấp của học vị Dhammacariya - một học vị cao quý tại Miến Điện. Chương trình chủ yếu đi sâu vào Tam tạng chú giải kinh điển nguyên thủy và văn phạm Pali. Mỗi cấp có tên gọi như sau: - Cấp I: Mu-la-dan là chương trình căn bản, chủ yếu là học thuộc lòng 4 môn: Pali văn phạm căn bản, Abhidhammasaṅgaha (Thắng Pháp Tập Yếu Luận), Vinaya (luật), Mātikā và Dhātukathā (đầu đề và bộ thứ 3 trong 7 bộ của tạng A-tỳ-đàm). - Cấp II: A-nge-dan là chương trình sơ cấp gồm 5 môn học. Bốn môn giống như cấp I nhưng học ở mức nâng cao hơn, nghĩa là học phân tích ngữ nghĩa từng câu từ trong bản kinh Pali sang tiếng Miến Điện, và môn thứ 5 là Jātaka (học 35 câu chuyện tiền thân của đức Phật). - Cấp III: A-la-dan là chương trình trung cấp gồm 6 môn. Năm môn đầu giống như môn cấp II nhưng khai triển sâu rộng hơn, có giải thích xuyên qua chú giải, và môn thứ 6 là Yamaka (tức là học bộ thứ 6 trong 7 bộ của tạng A-tỳ-đàm). - Cấp IV: A-kyi-dan là chương trình học cao hơn trung cấp và gần với cấp Dhammacariya. Chương trình gồm 8 môn, cũng giống như chương trình cấp dưới về môn Pāli, Abhidhammasaṅgaha, Vinaya, Jātaka, Yamaka nhưng cách học nâng cao hơn các cấp dưới. Thêm 2 môn khác là môn sáng tác thơ văn Pāli, và Paṭṭhāna (bộ cuối cùng của tạng A-tỳ-đàm). - Cấp V: Dhammacariya là cấp cao trong chương trình Phật học cấp quốc gia ở Miến Điện. Gồm 3 môn là Pārājikapāḷi-aṭṭhakathā (chú giải luật tỳ-kheo), Sīlakkhapāḷi-aṭṭhakathā (chú giải trường bộ kinh), Dhammasaṅganī-aṭṭhakathā (chú giải của bộ Pháp tụ, đây được xem là bộ kinh chứa đựng nội dung nền tảng cho toàn bộ tạng A-tỳ-đàm). Như vậy, ni trưởng Diệu Đáng là vị tu sĩ Việt Nam đầu tiên đỗ đạt bằng Phật học truyền thống Miến Điện. Tính đến thời điểm này, có thể khẳng định rằng ni trưởng Diệu Đáng là vị sư nữ Việt Nam duy nhất có học vị Phật học bằng tiếng Miến Điện, mặc dù từ khi bước vào thế kỷ 21 đến nay đã có nhiều tăng ni Việt Nam đến Miến Điện tu học. Sau chương trình cấp II, ni trưởng chiến thắng phần nền vững chắc của toàn bộ Tam tạng chú giải cũng như văn phạm Pāli, vượt qua những con dốc khúc khuỷu khó khăn nhất của giai đoạn đầu, ni trưởng thẳng tiến bước lên nấc thang cấp trên. Thế nhưng một chướng duyên xen vào làm dừng bước đi của ni trưởng. Ni trưởng phải hồi hương chăm sóc thân mẫu cho đến ngày cụ bà qua đời tại xứ chùa tháp Campuchia. Năm 1966, ni trưởng Diệu Đáng chính thức trở về quê hương Việt Nam, trụ tại tổ đình chùa Bửu Long. Lúc đó ni trưởng đã tròn 25 tuổi đạo và 42 tuổi đời. Ni trưởng được Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam đề cử vào chức danh ni trưởng. Vì vậy ni trưởng Diệu Đáng vừa là trưởng ni của ni chúng Tu nữ chùa Bửu Long, cũng vừa là ni trưởng của ni chúng Tu nữ Nam tông Việt Nam. Ni trưởng bắt đầu mở rộng con đường hoằng pháp hỗ trợ nữ giới xuất gia Tu nữ, cũng như phụng sự Tam bảo, chăm sóc thân phụ. Dù đứng đầu ni chúng của một hệ phái nhưng ni trưởng Diệu Đáng không bao giờ thể hiện quyền lực trong việc giáo dục hội chúng. Và thay vào đó là thái độ lặng thinh, khiêm cung, ít nói, cứ làm việc phụng sự Tam Bảo. Sự ít nói lặng thinh phục vụ của ni trưởng là nét đặc trưng nổi bật nhất in sâu vào lòng hội chúng Tu nữ mỗi khi nhắc về người. Đến năm 1971, một lần nữa ni trưởng rời Việt Nam sang Thái Lan thiền định. Năm 1980, ni trưởng tiếp bước sang Pháp như một cơ hội học hỏi xứ Tây phương. Đến năm 1981, ni trưởng trở về quê hương Việt Nam tiếp tục sự nghiệp đào tạo Tu Nữ, củng cố ni chúng Tu nữ Nam tông. Năm 1994 là năm ni trưởng được 72 tuổi, thân tứ đại bắt đầu báo hiệu sự mệt mỏi già nua của kiếp người. Ni trưởng buông gánh quản chúng, nhiếp tâm vào thiền định để thẩm thấu dòng sinh-trụ-diệt kiếp nhân sinh đến đi theo duyên tác tạo. Cuối năm đó, ni trưởng Diệu Đáng an tịnh ra đi, chia tay ni chúng Tu nữ vào lúc 9 giờ 50 phút ngày 23 tháng 12 năm Giáp Tuất (tức là ngày 23/01/1995). Sự đến và đi của ni trưởng làm hàng hậu tấn Tu nữ Nam tông không khỏi thốt lên: Ôi đẹp biết bao… Hình ảnh ni trưởng dám mạnh mẽ bước đi trên con đường chưa một phụ nữ Việt nào từng đi. Ni trưởng quả thật xứng danh là bậc xuất gia nổi bật cả pháp học và hành, không ngại gian lao, không màng khó nhọc. Ni trưởng một mình lặng lẽ tìm lối đi mới cho hàng tín nữ Phật giáo Theravāda có con đường để tiến bước vào đời sống tu học như một bậc xuất gia truyền thống của đạo Phật Theravāda với chức danh là Tu Nữ. Ni trưởng Diệu Đáng, vị Tu nữ Nam tông đầu tiên của nước Việt đã đến trong rực rỡ huy hoàng trên con đường học vấn và ra đi với tấm gương hoằng pháp thầm lặng. Ni chúng Tu nữ chúng con vẫn luôn khắc ghi bài học thân giáo của ni trưởng về hạnh khiêm cung, ít nói, thinh lặng phụng sự Tam bảo, đúng với tinh thần học để tu của một bậc xuất gia nguyên thủy chơn chánh. (Bài viết dựa theo lời kể của sư bà Diệu Thành, sư bà Diệu Hóa đang trụ xứ tại tổ đình chùa Bửu Long và tín nữ Diệu Nga (Xuân Nga) – là vị tu nữ trẻ thời ni trưởng còn hiện tiền, hiện cô Xuân Nga đang định cư tại Thụy Sĩ, và sư cô Ngọc Sương là ni sinh trường SITAGU tại Sagaing, là người trực tiếp tìm kiếm nguồn tư liệu về ni trưởng Diệu Đáng tại vùng Sagaing, sư cô Diệu Tâm chùa Diệu Quang là vị cố vấn tinh thần cho người viết) Chùa Diệu Quang 16.06.2020 TN. Mỹ Thúy Read the full article
0 notes
Text
Tiểu thuyết Nhà trời (14/4/2019)
Hình như là điềm lành, khi mà mây trời chiều nay bỗng dưng sáng đẹp và kỳ bí hơn mọi ngày, nhân ngày Mõ Làng tình cờ chạm ngõ lối vào lâu đài đồ sộ nguy nga của Kinh Hoa Nghiêm. Bộ kinh từng được học giả Nghiêm Xuân Hồng ví von là Tiểu thuyết Nhà trời kỳ diệu. 
Cơ duyên đến thật tình cờ. Ban đầu chỉ vì muốn truy nguyên lai lịch nguồn cơn của câu kinh “Nhất thiết Duy Tâm Tạo” mà tôi tìm thấy bài viết “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” (của tác giả Nguyễn Thế Đăng). Từ bài viết này, tôi mới biết là trong Kinh Hoa Nghiêm, tại Phẩm Thập Địa, có nêu là: “Tất cả ba cõi duy chỉ Nhất tâm”. Đó là cơ duyên để tôi tìm đọc Phẩm Thập Địa trong bộ Kinh Hoa Nghiêm. Tôi đọc lướt, chỉ cốt tìm ra đúng dòng chữ ấy, như để đảm bảo là tác giả ấy đã không trích sai kinh văn. Chỉ đọc lướt, nhưng tôi kịp bàng hoàng nhận ra một bầu trời kỳ thú vừa quen thuộc vừa lạ lẫm đang hiện ra trước mắt mình. Quen thuộc vì đó là những kiến thức tôi hiểu từ loạt sách và thông điệp tâm linh của Kỷ nguyên Mới. Quen thuộc vì có một số điều đã trở thành niềm tin đầy xác tín của sự nội chứng cá nhân. Lạ lẫm vì ngôn từ mang hơi thở cổ xưa, vừa trừu tượng vừa khó hình dung nhưng lại hàm súc nhiều tầng ý nghĩa, mà kẻ sơ cơ sẽ khó lòng chạm vào.
Thế là, tôi lọ mọ tìm đọc một số bài dẫn nhập vào bộ kinh. Bất ngờ hiểu ra là, hoạt động trao truyền minh triết giữa cõi giới cao hơn với trần thế, thông qua các kênh dẫn, qua sự mặc khải của người thời nay trong trạng thái nhập định đã có lịch sử khá lâu đời và hiện diện rõ nét trong cách ra đời của bộ Kinh Hoa Nghiêm. 
Hiểu một cách nôm na, thì ngay sau khi thành chánh giác, Đức Phật Thích Ca đã trải qua 21 ngày thiền định dưới tán cây bồ đề. Trong 21 ngày ấy, Ngài không hướng ra bên ngoài mà chỉ an trú trong đại định. Ở thế giới bên trong ấy, Ngài đã “gặp gỡ” và thuyết pháp cho vô số chư vị Bồ tát và Đại Bồ tát. Nghe bảo là, chư vị Bồ tát ấy vốn là thân bằng quyến thuộc nhiều đời về phương diện tâm linh của Đức Phật Thích Ca. Họ đã từng gặp Ngài trong các đời. Họ vẫn luôn hướng tâm cầu đạo giải thoát cho mình và cho toàn thể chúng sinh. Chính tâm nguyện cầu đạo chân thành ấy đã đưa họ về tề tựu bên ánh sáng toàn giác của Đức Thích Ca khi Ngài đã thành chánh giác. Đó là sự tề tựu của tâm nguyện, tâm ý, tâm thức. Đó là sự tề tựu của tâm Nhất Như. Đó là sự tề tựu của những câu hỏi lớn về đời về đạo mà chư vị ấy không ngừng đặt ra cho mình trong và ngoài thiền. Khi Phật thành chánh giác, tâm ý của Ngài thấu biết được tiếng lòng của chư vị ấy và Ngài đã dùng tâm ý Nhất Như của bậc đã vượt thoát mê lộ để chia sẻ với những ai mở lòng cầu đạo, cầu pháp miên mật không ngơi nghỉ. Nói một cách khác, khi Ngài thấu suốt chánh giác thì những ai hữu duyên, hữu ý, hữu tình với Ngài cũng tự nhiên được tỉnh giác theo Ngài, tất nhiên là còn tùy vào độ mở lòng và căn cơ của từng vị mà mức độ tỉnh giác sẽ có sự sai biệt.
Nghe bảo rằng, những gì mà Đức Phật Thích Ca trao truyền cho chư vị Bồ tát và Đại Bồ tát thông qua 21 ngày nhập đại định ấy, sau khi xuất khỏi đại định, Ngài đã dành nhiều chục năm để thuyết giảng bằng lời, nhưng vì căn cơ của đại chúng còn nhiều mê mờ nên chưa đủ khả năng tiếp nhận tư tưởng của bộ Kinh Hoa Nghiêm. Đối với người đời thì tư tưởng của Kinh Hoa Nghiêm có màu sắc quá hoang đường, vì kinh ấy giảng về Tâm Nhất Như liên thông giữa muôn người và bao trùm mọi cõi giới. Mãi hơn 500 năm sau đó, bộ Kinh Hoa Nghiêm mới được ra đời nhờ vào công đức kết tập của các vị Đại Bồ tát và thần lực gia trì của chư Phật. 
Những gì mà dòng chảy kiến thức về vũ trụ và nhân sinh của Kỷ nguyên Mới (New Age) hiện nay đã và đang ra sức trao truyền thông qua các kênh dẫn hiện nay, đem lại cho Mõ nhiều hiểu biết kỳ vĩ. Về vũ trụ bên ngoài và mối tương thông với vũ trụ bên trong. Về đường đi của linh hồn từ khi được mặt trời tối cao tự thân phóng quang thành từng cụm hồn rực rỡ chói sáng, rồi từng cụm hồn chói sáng ấy tiếp tục quá trình phân chia thành những đốm lửa nhỏ dần có sức chiếu sáng khiêm tốn dần. Và khi mỗi linh hồn cá thể (trong hình tướng đốm lửa bé xíu) giáng hạ phần tinh anh của mình vào thai nhi đang hình thành trong bụng mẹ, thì phần tinh anh ấy đã bị thế giới hiện tượng này che lấp và chôn vùi vào vô thức. Tôi những tưởng những hiểu biết ấy về Tự Tánh Ánh Sáng của con người là phát hiện mới mẻ của thời đại tân kỳ ngày nay. Mõ đâu có ngờ là Đức Phật Thích Ca đã có cái nhìn thấu suốt như vậy từ rất lâu rồi. Có điều là khi ấy, Ngài biết mà không thể chia sẻ cái biết ấy với chúng ta.
Nhập môn học Kinh Hoa Nghiêm (ngày 1)
Cả ngày nay tôi học kinh Hoa Nghiêm, chủ yếu là đọc quyển Nhập môn Kinh Hoa Nghiêm, là tuyển tập gồm 6 tác phẩm luận giải ngắn về Kinh Hoa Nghiêm, đều có tính dẫn nhập của các tác giả là Đại sư Pháp Tạng - Đại sư Trừng Quán - Đại sư Trạm Nhiên - Sa môn Tĩnh Cư - Học giả Lý Thông Huyền. 
Trong lúc học kinh, tôi khởi tâm muốn giải mã kinh này theo ngôn ngữ và góc nhìn của mình. Tôi cầu xin Ơn Trên ban cho một tín hiệu để tôi biết là có nên làm hay không.
Chiều tối, tôi ra bờ kè khá trễ. Hoàng hôn đang nhạt dần. Nhưng một vùng trời vẫn còn lưu lại thứ ánh sáng đẹp lạ lùng. Lạ nhất là có vùng ánh sáng trắng khác thường. Mặt kênh bữa nay sinh động nhiều sắc màu và nhiều diện mạo bí ẩn. Tôi tạm hiểu đó là sự hoan hỷ chung của cõi giới tinh thần khi ở trần thế có thêm ai đó bắt đầu tiếp cận được kho tàng minh triết của chư Phật.
Thiền tối (ngày 1): 
Tôi niệm “Nam mô Hoa Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ tát Ma ha tát” một lúc. Cảm thọ cho thấy là có sự khai thông ở tầng khá sâu . Niệm xong là 10 giờ kém 5 phút.
Đang chuẩn bị đóng máy vi tính để đi ngủ, thì con chuột máy vi tính chết ngắc, lắc mãi mà không thấy con trỏ trốn ở đâu. Nhìn màn hình đứng yên, đồng hồ chỉ mãi một con số 10:01. Tôi có niệm gọi thiên thần để nhờ hóa giải sự cố này. Tôi loay hoay thay pin cho con chuột và bàn phím. Tình trạng vẫn không thay đổi. Tôi bèn tắt phụp máy vi tính rồi khởi động lại. Thì con chuột sống lại. Tôi nghe lòng mách bảo, đó là dấu hiệu của sự hiện diện bằng năng lượng của Hoa Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ tát.
Chui vào mùng, tôi niệm tiếp “Nam mô Hoa Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ tát Ma ha tát”. Tôi thấy mình chìm sâu. Đến một lúc, tôi giật mình nhận ra mình đang có một tâm trí sáng trong, tĩnh tại lạ lùng. 
Nửa đêm, chợt nghe tiếng sột soạt nhẹ ở đầu nằm. Như là tiếng ngọ nguậy của một chú gián nào đó. Sáng dậy, đúng là có một chú gián nằm ngay đơ ở trong phòng, gần tủ quần áo.
Giấc mơ gần sáng (ngày 2):
Khoảng 5:09 phút sáng, tôi tỉnh như không. Nhưng tôi thiền nằm và ngủ lại. Tôi mơ lạ lắm. 
Tôi mơ thấy đang cầm một tô cơm. Có một phụ nữ xuất hiện và hỏi tôi vì sao không trộn đều mà để riêng hai phần nằm hai góc trong cùng một bát cơm. Có một người đàn ông xuất hiện. Vị thầy này khi nãy có ý khuyên tôi điều gì, hay là chia sẻ với tôi bí kíp gì đó. Giờ đây vị thầy ấy ghé thấp người, dùng thìa múc lấy một vài hạt cơm trắng từ bát cơm của tôi và đưa lên miệng nếm. Lạ quá, hạt cơm trong tô đang có vẻ bình thường và buồn bã nhưng khi vị thầy ấy xúc chiếc thìa vào thì những hạt cơm bỗng trở nên sáng đẹp và ngon lành hơn. Lạ nữa là, vị thầy ấy nếm cơm mà tôi lại cảm nhận được vị ngon lành của những hạt cơm ấy, bằng thị giác và bằng vị giác. Tô cơm của sự thống nhất, hài hòa, hợp nhất. Tô cơm giáo pháp có sự hòa hợp giữa cổ và kim.
Rồi tôi mơ thấy Đức Pháp vương. Hình như Ngài hứa hướng dẫn tôi làm một đề tài nghiên cứu gì đó. Rồi tôi thấy Ngài thò tay vào trong bao tải to, lôi ra vài xấp tiền lẻ rồi chỉ đạo ai đó phân phát cho mọi người. Rồi tôi thấy Ngài lại thò tay vào trong bao tải to, lôi ra những chiếc bánh bao, cũng bảo là để phân phát cho mọi người. Gương mặt Ngài sáng đẹp, vui tươi, ngập tràn yêu thương.
Rồi tôi thấy có người yêu cầu được tôi bảo hộ, trong khi tôi đang đi cùng một người khác và hỗ trợ người này.
Rồi tôi thấy mình ngồi ăn. Trước mặt tôi là một cái bể trong veo vuông vắn đầy nước. Tôi thấy mình vớt thức ăn từ bể nước trong veo này. Đang ăn thì thấy nước trong bể loãng ra. Thì ra, chị tôi đang đổ thêm nước từ thượng nguồn, từ mé bên phải. Tôi thấy mình vội vã vớt lấy phần thức ăn từ trong bể, vì sợ nước cuốn trôi thức ăn đi hay sao đó.
(còn tiếp)
Tài liệu tham khảo:
Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức (Nguyễn Thế Đăng, Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 187) (https://thuvienhoasen.org/a18415/tam-gioi-duy-tam-van-phap-duy-thuc)
Giới thiệu Kinh Hoa Nghiêm (Hoà thượng Thích Trí Quảng) (https://thuvienhoasen.org/a1524/gioi-thieu-kinh-hoa-nghiem)
Nhập môn Kinh Hoa Nghiêm (Đại sư Pháp Tạng - Trừng Quán - Trạm Nhiên - Tịnh Cư - Lý Thông Huyền, Nguyên Huệ dịch, NXB Phương Đông - 2010)
Nghi Thức Sám Hối Trước Khi Tụng Kinh (https://thuvienhoasen.org/p16a517/nghi-thuc-sam-hoi-va-nghi-thuc-tri-tung)
Sơ lược Kinh Hoa Nghiêm (Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ) (https://nhantu.net/TonGiao/PhatHocChiNam/PHCN15.htm)
Thay Lời Tựa (Thích Đức Niệm) (https://www.dharmasite.net/KinhHoaNghiem.htm)
Chúng Tôi Học Kinh Hoa Nghiêm (Tu viện Quảng Đức)(http://www.tuvienquangduc.com.au/Nepsong/023hoanghiem1.html?fbclid=IwAR1iYbmhM8NLdS7mqqIjoIyqwtkSFOls4Jaq9cCTee62XuN5dsClXJsjCS8)
Kinh Hoa Nghiêm (Hán Dịch: Đại-Sư Thật-Xoa-Nan-Đà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh,  Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 – 1983) (https://thuvienhoasen.org/a513/kinh-hoa-nghiem)
Hình mây trời chụp được cùng ngày:
- Hình 1A (gốc):
Tumblr media
- Hình 1B:
Tumblr media
- Hình 1C:
Tumblr media
- Hình 1D:
Tumblr media
- Hình 2A (gốc):
Tumblr media
- Hình 2B:
Tumblr media
- Hình 2C:
Tumblr media
- Hình 2D:
Tumblr media
- Hình 3A (gốc):
Tumblr media
- Hình 4A (gốc):
Tumblr media
- Hình 4B (gốc):
Tumblr media
- Hình 5A (gốc):
Tumblr media
- Hình 6A (gốc):
Tumblr media
- Hình 7A (gốc):
Tumblr media
- Hình 8A (gốc):
Tumblr media
0 notes
theravadavn · 4 years ago
Text
Hành Trình Sang Xứ Phật – Tỳ Khưu Bửu Chơn
#TyKhuuBuuChon #phatgiaonguyenthuy #ducphat #ducphap #ductang #theravada Xem thêm: https://theravada.vn/book/hanh-trinh-sang-xu-phat-ty-khuu-buu-chon/
Tumblr media
Những ký ức được chép trong quyển sách đều do sự nghe thấy của tôi tại mấy nơi mà tôi đã hân hạnh được đặt chơn đến. Ngoài ra, lại có nhiều hình ảnh về những chỗ động tâm và thánh tích trong mấy xứ: Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Xiêm v.v… được in nơi mỗi bài tường thuật cho người đọc dễ lãnh hội và phát tâm cảm thích.
Phi Lộ
Người Trung Huê và Việt Nam, mỗi năm đến tiết thanh minh thường bày ra lễ tảo mộ để tỏ lòng nhớ đến ân đức ông bà, cha mẹ đã quá cố. Cũng như người Pháp thường đến viếng thư viện của văn hào Victor Hugo, hay phòng thí nghiệm của nhà thông thái Pasteur, vì ái mộ sự nghiệp văn chương khoa học của các Ngài. Còn người tu Phật thì lại được hy vọng viếng những nơi thánh tích về Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Hồi xưa đường giao thông bất tiện đã có biết bao nhiêu nhà mộ đạo như thầy Huyền Trang chẳng hạn dám hy sanh mạng sống trải qua bãi sa mạc và nhiều quốc độ dã man rừng rú để sang tận Trung Ấn Độ để chiêm bái mấy chỗ động tâm.
Về phần tôi từ khi xuất gia nương theo chánh Pháp và hấp thụ được chút ít chơn lý giải thoát thì hằng nhớ đến ân đức của đấng Cha lành. Những nhà sư muốn cúng dường Đức Thế Tôn thì chỉ có cách là ráng hành theo lời dạy của Ngài hầu mau dứt khổ, với một di sản vỏn vẹn với tam y và quả bát, giống như loài chim có cái mỏ và cặp cánh, thì mong gì được sang tận xứ Ấn Độ để chiêm bái mấy nơi thánh tích. Đó là không nói đến thời cuộc quốc tế khó khăn hiện nay đã làm trở ngại cho việc xuất dương không nhỏ.
Nhưng bỗng đâu nhóm thiện tín Sài Gòn rất trong sạch với ngôi Tam bảo yêu cầu tôi sang Tích Lan và Ấn Độ để nghiên cứu và học hỏi thêm Phật giáo Nguyên Thủy. Lúc đầu tôi còn do dự vì nghĩ rằng tại Cao Miên cũng có đầy đủ Kinh Luật Pāli, nếu hành giả nào hết lòng tu tập thì cũng được kết quả theo sở nguyện, hơn nữa trong thời buổi vật chất này, cuộc viễn du của một nhà sư thật là cam go bất tiện, nhứt là giới luật cấm nhặt sự mang tiền bạc theo mình. Nhưng tôi sực nhớ lại lúc gần nhập Niết-bàn, Đức Phật có thuyết cho tôn giả Ānanda nghe như vầy: “Này Ānanda, sau khi Như Lai nhập diệt và trong buổi Như Lai nếu có người muốn thấy Như Lai thì nên đi viếng bốn chỗ động tâm sau đây: Chỗ Như Lai giáng sanh tại vườn Lumbini, chỗ Như Lai thành đạo tại Bồ Đề Tràng (Bodhigaya), chỗ Như Lai quay bánh xe Pháp lần đầu tiên tại vườn Lộc Giả (Isipatana) và chỗ Như Lai diệt độ tại rừng Kusinara dưới hai hàng cây song long thọ.
“Những ai có duyên lành đi tới bốn chỗ động tâm ấy để chiêm nghiệm về ân đức của đấng Chánh đẳng Chánh giác và sự vô thường của đời Ngài, rồi phát tâm chán nản thế sự, thì có khi cũng được đắc đạo quả Niết-bàn hay ít ra cũng thoát khỏi bốn đường dữ trong kiếp vị lai”. Vì nhớ đến câu Phật ngôn ấy nên tôi mới quyết dạ hy sinh, không nài khó nhọc, nguyện xông pha đất lạ quê người, nơi mà khí hậu, phong hóa, ngôn ngữ và cách sinh hoạt mỗi mỗi đều khác hẳn xứ ta.
Còn nói qua chuyện xin giấy tờ xuất dương cho một Việt kiều ngụ tại đất Miên, thì đó là một việc hết sức cam go. Người đương sự phải trải qua nhiều cơ sở chuyên trách Pháp-Miên và các lãnh sự quán ngoại quốc: Xiêm, Ấn Độ, Miến Điện. Tích Lan .v.v…Hơn nữa, cuộc xuất ngoại của một nhà sư cần phải được hội Tăng già bổn xứ ưng thuận sau khi biết rõ hạnh kiểm và trình độ học thức về Kinh Luật. Trải qua một thời gian hơn 3 tháng nhứt là nhờ ngài Đốc Phủ Như đã tận tâm lo giấy tờ và thiện tín các nơi hộ độ chi phí mà cuộc xuất dương của tôi mới được thực hiện và buổi khởi hành nhứt định vào lúc 4 giờ chiều ngày 13-6-1952 tại phi trường Pochengtong (Pnom-Penh).
Trước ngày xuất dương có nhiều thiện tín nhứt là thầy Huỳnh-V-Niệm yêu cầu tôi để làm một cuộc lễ tiễn hành, nhưng tôi nghĩ rằng mình tài hèn đức kém không dám nhận lãnh, túng thế nên chư thiện tín mời thỉnh tôi bố thí một thời Pháp tại nhà ông Đốc Phủ Như để nhắc nhở tấm lòng mộ đạo của chư thiện tín trước khi tôi từ giã thủ đô Kim Biên.
Trong hôm ấy thầy H.V.N có đọc một bài diễn văn để tiễn hành tôi như vầy:
Bạch Đại đức,
Trong cơ hội này, chúng tôi được hay tin Ngài sắp đắc kỳ sở nguyện trong cuộc viễn du qua Ấn Độ và Tích Lan để tìm đường tu học, tôi xin thay mặt cho tất cả chư thiện nam tín nữ đang cu hội nơi đây có đôi lời kính xin Ngài hoan hỷ tha thứ cho.
Bạch Đại đức,
Thuở trước kia, vừa được 29 tuổi xuân Ngài còn là một công chức đang sống trong cảnh gia đình đầm ấm, hạnh phúc, no cơm, ấm áo có nhiều hy vọng tương lai tốt đẹp của đời. Bỗng đâu duyên kỳ đã đến nhờ trí huệ xét đoán cao siêu về nỗi vô thường khổ não của vạn vật, nên Ngài đã can đảm chặt đứt các sợi dây trói buộc, từ giã chốn đô thành huyên náo đầy dẫy những điều tội lỗi dấn thân vào chốn rừng sâu núi thẳm quyết dạ hy sinh để nối gót đấng Cha lành. Rồi từ đó trở đi, trải qua nhiều năm, nhiều tháng chúng tôi không có dịp hội kiến cùng Ngài. Có lẽ trong thời kỳ cố gắng trên đường phạm hạnh, Ngài đã có dịp hưởng hương vị thiêng liêng cho đến nỗi không còn màng chi đến việc tế thế độ nhân. Nhưng rất may! Trong mấy năm gần đây chúng tôi rất vui mừng được thấy chí hướng của Ngài có bề thay đổi, chẳng dành thọ hưởng kho tàng Pháp bảo một mình, nên Ngài đã có nhiều cơ hội đem cả tấm lòng bác ái, đứng ra hoằng pháp độ sanh, đúng theo chánh giáo để nhắc nhở, dìu dắt chúng tôi trên đường giải thoát.
Bạch Đại đức,
Đúng lẽ thì chúng tôi phải tạo ra một cuộc lễ long trọng để tiễn hành Ngài vì trong ít hôm nữa Ngài sẽ từ biệt chúng tôi, lên đường sang Ấn Độ và Tích Lan du học, Tích Lan là một căn cứ của Hội Phật giáo Thế giới và nơi mà mùi vị của Phật giáo Nguyên Thủy còn đương nồng hậu, sẽ có dịp được nhận thêm một bực hành giả có đầy đủ nghị lực như Ngài.
Bạch Đại đức,
Nhưng chúng tôi không thể thực hành sự tiễn đưa Ngài y theo ý nguyện, vì hoàn cảnh trái ngược đời và đạo, nên khiến cho Ngài không ưng thuận cho phép chúng tôi làm tròn phận sự của hàng môn đệ. Tuy nhiên, chúng tôi không đành thờ ơ lãnh đạm với một đấng ân nhân cao cả như Ngài, bởi cớ ấy chúng tôi xin kính mấy lời cảm tạ công ơn vô lượng của Ngài đã dạy dỗ chúng tôi từ bấy lâu nay.
Chúng tôi xin cầu nguyện cho Ngài được luôn luôn khỏe mạnh và mau đạt thành đạo quả Niết-bàn, và rất trông mong rằng trong một ngày vị lai Ngài sẽ trở về xứ sở mang theo nhiều tài liệu để chấn hưng Phật giáo, hầu tế độ quần sanh mau được thoát khỏi chốn sông mê bể khổ. Đó là một công trình vĩ đại tương đương với chí khí của Ngài Huyền Trang thuở trước (đọc ngày 1-6-1952).
Thật là:
Trong buổi chia phôi luống chạnh lòng,
Tiễn người tầm đạo, tách rời đông.
Đem theo chánh kiến, y cùng bát,
Coi rẻ kim ngân nhẹ tợ lông.
Ý trước nhận hành gương cứu khổ,
Duyên sau gắng độ giống nòi hồng.
Quay về Phật giáo thời nguyên thủy,
Đức cả công dày rạng núi sông.
Huỳnh Văn Niệm
Sở kiểm soát tài chánh P.Penh
Đại đức Bửu Chơn họa nguyên văn:
Theo dấu người xưa nguyện dốc lòng,
Một hình một bóng giã miền Đông.
Tung mây bay thẳng sang Tây-Trước,
Lướt sóng thuyền đưa tới Xây-Lông (Ceyion)[1]
No đói chỉ nhờ nơi quả bát,
Ấm thân sở cậy lá y hồng.
Mài gươm trí tuệ vào nguyên thủy,
Tam tạng thỉnh về rạng núi sông.
Để đáp lại tâm nhiệt thành của một số đông Phật tử đã hy sinh công của trong cơ hội ấy, và nhứt là muốn bày tỏ sự lợi ích từ cuộc xuất dương, tôi xin cho xuất bản quyển “Hành trình sang xứ Phật” này để cống hiến đến chư độc giả.
Những ký ức được chép trong quyển sách đều do sự nghe thấy của tôi tại mấy nơi mà tôi đã hân hạnh được đặt chơn đến. Ngoài ra, lại có nhiều hình ảnh về những chỗ động tâm và thánh tích trong mấy xứ: Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Xiêm v.v… được in nơi mỗi bài tường thuật cho người đọc dễ lãnh hội và phát tâm cảm thích.
Nhà sư tu hành còn kém khuyết, học hỏi ít oi, ngôn ngữ văn chương không trôi chảy, nếu có điều chi sơ thất trong quyển sách này, xin chư cao Tăng, Đại đức và quý độc giả vui lòng chỉ dạy.
Tác giả
Tỳ khưu Bửu Chơn.
Hành Trình Sang Xứ Phật
1. Khởi hành từ Nam-Vang qua Vọng Các.
Lúc trưa ngày 13-6-1952 lên xe rời khỏi Chùa Mahamontrey, tôi rất thâm cảm tấm lòng từ bi khiêm tốn của các vị Đại đức Maha Sès, Achar Tích, Achar Sim, Hộ Tông và một số đông chư tăng Việt Nam không nệ mệt nhọc trong buổi nắng hè, vui lòng đưa tôi ra tận phi trường Pochengtong. Nối đuôi theo sau đoàn xe của chư tăng, có rất nhiều thiện tín ở phương xa như: Kratié, KG. Cham, KG. Chnang, Sài Gòn… đã tụ họp lại từ mấy hôm trước, vậy đoàn cùng các Phật tử Việt Nam tại Kim Thành tiễn chân tôi sang đất Ấn. Khi 2 giờ rưỡi trưa đoàn xe vào đến phi trường Pochengtong thì tôi thấy đã có nhiều người đang chực sẵn tại đó.
Phần chư tăng thì vị nào cũng tỏ vẻ hoan lạc thỏa thích vì rất hân hạnh được một bạn đồng đạo sang tận Tích Lan tu học, các Ngài cho cuộc hành trình của tôi là bước đầu tiên để khuyến khích nhiều vị Sư khác xuất dương. Bên phía thiện tín thì có người thản nhiên bình tĩnh và cũng có người lo âu về cuộc hành trình xa xôi, khó nhọc của tôi, không biết lúc nào trở về và bề độ nhựt của tôi tại đất khách ra sao? Thấy tấm lòng chiếu cố nhiệt thành của chư Đại đức và của thiện nam tín nữ, tôi cũng bâng khuâng ái ngại nửa mừng nửa lo. Mừng là được đạt kỳ sở nguyện sang tận đất Phật khảo cứu Kinh Luật Nguyên Thủy và chiêm bái mấy chỗ động tâm, còn lo là nỗi cô thân lạ cảnh lạ người, không biết cuộc xuất ngoại của tôi sẽ đem lại kết quả thế nào và có bổ ích chi cho đồng bào? Tôi chỉ biết nguyện thầm ân đức Tam bảo gia hộ tôi đến nơi được an vui khỏe mạnh, tu học dễ dàng, hầu đáp lại mối thạnh tình của một số đông Phật tử đã hy sanh công của lo lắng cho tôi.
Chúng tôi kẻ đứng người ngồi, chuyện trò chờ đợi, mãi tới 3 giờ rưỡi mới thấy dạng phi cơ của hãng Thái-Airways từ Sài Gòn trở lên và đáp xuống phi trường. Sau khi hành khách trình giấy tờ và hành lý cho nhà chức trách khám xong thì đúng 4 giờ chiều, con hạc sắt lại rồ máy cất cánh bay về Vọng Các. Trên phi cơ dòm xuống, trong giờ phút nắng bức này là một cảnh vật linh động đủ màu sắc thiên nhiên của các xứ của miền nhiệt đới. Ngoài mấy cơ sở tân thời của phi trường Pochengtong và những liều tranh lẻ tẻ của nhóm nông dân, thì toàn là đồng ruộng bao la bát ngát, lấp lánh những mảnh gương màn bạc chói ngời, điểm dấu các ao hồ, ngòi rạch, cảnh vật ấy lại thêm phần cảm động khi tôi nhìn về phía nhà ga thấy lố nhố nhóm người đến tiễn chân vẫy tay dở nón. Bay được một đoạn đường mây bắt đầu trở nên đen sẫm, dông mưa ào ạt tuôn xuống, phi công phải cẩn thận cho bớt máy và mãi gần 6 giờ chiều tới Vọng Các, lúc ấy mưa cũng vừa dứt. Bức màn u ám đã gieo rắc mối lo sợ cho hành kh��ch lại nhường chỗ cho một bầu trời quang đãng trong tươi. Thoạt nghe tiếng còi báo động cho biết phi cơ sắp đáp xuống sân bay, phi trường này ở cách xa thủ đô Thái Lan ngót 28 cây số ngàn, lớn hơn phi trường Tân Sơn Nhứt nhiều và kiến trúc rất tối tân, những ghế ngồi trong phòng khách đều bọc toàn bằng da. Cũng như nơi các phi trường khác, ở đây số người đưa rước nhiều gấp bội số hành khách nên nghề buôn bán thực phẩm và nước giải khát rất phồn thạnh. Khi xuống phi cơ và vào đến nhà ga, ai nấy đều có người thân đến rước, riêng tôi chẳng được cái may mắn ấy và đang suy nghĩ không biết chùa nào đặng xin ngụ đỡ vài hôm. Mãi đến một giờ sau tôi mới gặp một người Việt Nam quen là thầy Tám X… cư ngụ tại xứ Thái đã lâu, cũng như đoàn thám hiểm gặp được giếng nước giữa bãi sa mạc, người xứ lạ gặp được bạn đồng hương là một chuyện may vô cùng.
Ở đây người thường nói tiếng Thái hoặc tiếng Anh, thành thử tiếng Pháp của tôi trở nên vô dụng, may thay trước khi xuất dương tôi cũng có học được đôi chút hai thứ tiếng ấy nên dễ bề trao đổi ngôn ngữ với người bổn xứ. Tôi được vào trọ nơi chùa Thep Serin trong ba hôm để chờ chuyến máy bay đưa sang Miến Điện, lúc tôi ở đây mọi việc đều nhờ thầy Tám X… hộ độ và có vài vị cư sĩ Cao Miên đến thăm để đưa tôi đi viếng kinh đô Vọng Các, xem các ngôi chùa, nhất là chùa Phật Ngọc (Wat Préah Keo).
Thái Lan là một nước hoàn toàn theo Phật giáo Nam Tông từ vua chí dân, thảy thảy đều giữ đạo Phật, dân số chừng 18 triệu, trong ấy có trên 5 triệu Hoa kiều cùng một số người Việt Nam và Cao Miên, chư tăng có tới 250.000 vị, Chùa chiền rất nhiều và kiến trúc tương tợ như ở xứ Cao Miên. Theo luật bổn xứ người ngoại quốc mới đến phải trình cho sở Tân đáo và đóng một thứ thuế vào xứ chừng 8 đồng bạc Thái (gần 30 đồng bạc Đông Dương). Những khách ghé tạm để chờ phi cơ đưa sang xứ khác được phép lưu trú đỡ (Visatransit) không quá một tuần lễ. Nước Thái Lan cũng có đầy đủ Kinh Luật như Miến Điện và Tích Lan, Pháp học ở đó được tấn triển khả quan, nhưng Pháp hành thì kém sút hơn hai xứ nói trên và Cao Miên.
2. Từ Vọng Các sang Rangoon
Cách 3 ngày sau có chuyến máy bay sang Miến Điện, đúng 10 giờ sáng thì phi cơ cất cánh và bay mãi tới 1 giờ chiều mới tới thủ đô Rangoon. Phi trường tại đây nhỏ hơn ở Vọng Các, hôm ấy trời cũng mưa dầm, phi cơ vừa đáp xuống thì đã có ông Maṅgala U Bathan chực sẵn tại phi trường để rước tôi. Ông là một thương gia rất tín thành với Phật giáo được thầy Tám X… từ Vọng Các đánh điện văn cho hay trước, ông đưa tôi về Chùa Sasanāyetha ở gần thủ đô Rangoon được sắp đặt theo những điều kiện thuận lợi cho các hành giả chuyên tu về phép thiền định. Vị Sư cả là Đại đức Bhadanta Muninda suốt thông Kinh Luật, giới hạnh trang nghiêm đã xuất gia hơn 20 hạ.
Cũng như ở Thái Lan người Miến lấy Phật giáo làm quốc đạo, phần đông người bổn xứ đều sinh hoạt theo khuôn khổ Phật giáo, ngoài ra có một số ít tín đồ Thiên Chúa giáo. Diện tích xứ Miến Điện lớn hơn xứ Thái Lan nhưng dân số cũng chừng 19 triệu, tăng chúng có lối 180.000 vị và có rất nhiều am thất dành riêng cho các tín nữ (cô diệu)[2] thọ trì thập giới đến học kinh hoặc tham thiền. Tôi cũng có dịp được viếng một ngôi chùa trong ấy có đến 130 tín nữ (cô diệu) từ 10 tuổi sắp lên ở tu học. Nơi Miến Điện pháp hành được tấn triển hơn các xứ trong khối Phật giáo Nguyên Thủy, người Miến lại còn có đức tin trong sạch với ngôi Tam bảo hơn mọi nơi nên bề khất thực của các bực xuất gia rất dễ dàng. Một hôm được viếng chùa Shrewdagoon nhằm ngày bát quan trai, tôi có gặp hơn 50 tín đồ đến nghe một vị Đại đức lão thành thuyết về “minh sát huệ”. Cả thảy thính giả đều là người giữ bát quan trai giới, đến ở luôn tại giảng đường trọn ngày đêm. Hành vi cao thượng của các cư sĩ Miến Điện trong ngày lễ bát quan trai càng khêu gợi đức tin của người tìm đạo. Vì hiện nay trên thế gian khó tìm đâu ra một số người tại gia đông đúc như thế, dám bỏ phế việc đời vào chùa tham thiền, niệm Phật.
Hôm tới Miến Điện tôi nghe người ta cho biết có một vị A-la-hán vừa tịch diệt trước mấy hôm, xác còn quàn mà không hôi thúi, và có nhiều bực khác đắc từ Tu-đà-huờn cho đến A-na-hàm quả, tôi có tọc mạch hỏi thăm coi các ngài hành theo pháp nào thì nhiều người cho biết rằng hành theo pháp Tứ niệm xứ.
Chùa Shrewdagoon một bảo tháp nguy nga đồ sộ có danh tiếng trong hoàn cầu, để thờ tám sợi tóc của Đức Phật. Theo lịch sử Phật giáo sau khi Đức Thế Tôn đắc đạo dưới cội Bồ đề được 3 tuần nhựt và Ngài còn đang vui hưởng hương vị giải thoát, thì một hôm nọ có hai người lái buôn Miến Điện đi ngang qua gặp, họ liền phát tâm trong sạch dâng bánh đến Ngài và xin qui y Nhị Bảo là Phật và Pháp mà thôi, vì lúc ấy chưa có Tăng già. Cúng dường xong hai người lái buôn xin một vật di tích của Ngài để đem về xứ thờ phụng chiêm bái, Đức Phật liền nhổ tám sợi tóc trao cho họ đem về xứ tạo tháp Shrewdagoon thờ cho đến ngày nay.[3]
Một hôm tôi được viếng chùa Donanasari Kudi ở Hangavadi là nơi hội họp của hàng phụ nữ đến học tham thiền, chùa này có thể chứa được gần 200 tín nữ thọ thập giới hoặc bát quan trai giới, y phục của họ toàn là màu cam, dưới mặc một cái cũn, phần trên cái áo tràng chẹt tay và phía ngoài họ choàng một lá y không có may điều. Các cô đều học Pāli trong ba lớp: hạ, trung, thượng. Những giáo sư đều là người nữ trừ ra vị giám đốc là một vị Đại đức đến xét hỏi giảng dạy đôi khi, nhóm tín nữ này được hội Phật giáo Prariyati Sassana hộ độ 4 món vật dụng và 300 đồng bạc Miến mỗi tháng, tiền cung cấp dầu xăng và một chiếc xe hơi để đưa đến nhà các thí chủ lãnh gạo, củi, khô cá và phẩm vật khác đem về chùa nấu lấy mà chi độ. Khi tôi đến viếng thì có chừng 130 tín nữ đang ngụ tại chùa Donanasari Kudi, hôm sau lại được đi viếng chùa Thế Giới Hòa Bình là chỗ đang sửa soạn để kết tập Tam Tạng lần thứ 6 tại Kaba Aye.    
Nói về sự thành lập xã hội Phật giáo Miến Điện.
Không ở đâu hơn xứ Miến Điện được kết quả tốt đẹp về sự thành lập một xã hội căn cứ vào Phật giáo. Mỗi người nào lần đầu tiên đến viếng xứ Miến, đi bằng đường hàng không hoặc đường thủy chẳng hạn sẽ có cảm giác là thường vì thấy những phong cảnh tô điểm với những kiểu tháp đầu nhọn khác nhau, sơn trắng hoặc thếp vàng lố nhố trong những rặng cây. Nếu du khách khi tới Rangoon sẽ thấy sự xa xăm, sự chói sáng dưới ánh thái dương của bảo tháp Shrewdagoon (tháp thờ tóc 8 sợi tóc của Đức Phật) ở trên chót đồi và lố nhố những bảo tháp thếp vàng dọc theo bờ sông Rangoon, những bảo tháp này chẳng những là một phong cảnh tuyệt vời của xứ Miến mà cũng là một biểu hiệu về Phật giáo của đời người Miến. Trong 19 triệu dân có lối 16 triệu tín đồ Phật giáo.
Phật giáo dạy chung cho tất cả thế giới một phong hóa hay là một kỷ luật hoàn toàn tốt đẹp là mỗi người Phật tử ít ra phải giữ ngũ giới hay là thập giới. Tuy nhiên, trong một nước nào hay là một tôn giáo nào cũng có kẻ tốt người xấu, cũng thế, người ta cũng thấy ít người không được tốt của xứ Miến vậy. Dầu sao, xứ Miến cũng có thể nói là một xứ chịu ảnh hưởng của Phật giáo từ nhiều thế kỷ đã qua, do nhờ phái Tăng già dắt dẫn. Nhờ sự dắt dẫn của các nhà sư mà mỗi đứa trẻ đều được xuất gia sa di hoặc tỳ khưu ít ra từ một tuần cho tới một năm. Những đứa bé ấy trước kia đều được vào học trong các chùa địa phương, bắt đầu học chữ Miến và những phép toán, văn chương đạo đức v.v…Các giáo sư đều là nhà sư dạy không cho những trẻ em ấy, nhờ đó mà 56 phần trăm người Miến đều được biết văn chương lỗi lạc. Một khi đứa trẻ đã vào xuất gia rồi thì giao phó cho ông thầy dạy dỗ và có thể tu luôn suốt đời hoặc sau một năm học tập, muốn hoàn tục ra cũng được. Sau khi ra đời tánh tình cử chỉ cũng chịu ít nhiều ảnh hưởng của ông thầy đã huấn luyện. Chư tăng chẳng những phải thực hành về mặt đạo đức mà còn là một bực hướng dẫn về phần tinh thần cho dân chúng nữa.
Trong mỗi làng không có chuyện chi quan trọng mà không cần đến sự hiểu biết của chư tăng, vì vậy mà các Ngài được dân sự Miến, dầu cho trong làng thật nhỏ cũng sùng bái và dâng cúng vật thực hằng ngày. Nếu mỗi khi có cuộc lễ chi thì họ lại càng dâng cúng rất dồi dào, có cả 4 món vật dụng là: y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc men. Nếu có người nào tạo được một bảo tháp hoặc một Tăng đường để được nhiều phước báu đặng mau đến Niết-bàn, thì đối với xã hội Miến, rất được nhiều danh dự hơn người giàu có muôn hộ. Mỗi người Phật tử đều dòm thấy những vật chung quanh là vô thường, vô ngã, vì vậy mà hiện nay dân Miến ít có người giàu có danh tiếng vì họ được hấp thụ một phần ảnh hưởng lớn lao của Phật giáo.
Trên lịch sử từ trước thì người ta nhận biết rằng người Miến là một dân tộc sống về nghề canh nông, cho tới ngày nay họ cũng rất thạnh vượng trong nghề ấy. Đời giản dị trong nghề canh nông của họ lại nảy sanh ra nhiều câu ca dao đã hơn 100 năm về trước như sau:
Ca dao đời nhà nông (dịch):
Khi đã đến mùa mưa tầm tã,
Đôi vợ chồng ẵm cả đứa con.
Vai mang giỏ cũ đã mòn,
Mình mặc rách rưới đầu tròn bịt khăn.
Đi theo bờ ruộng lăng xăng,
Miệng ngậm ống điếu dài nhằn cả gang.
Kia kìa cua ở trong hang,
Hoặc là ốc hến theo đàn lượm vô.
Rau lang rau dệu bắp ngô,
Đem về nấu với ớt khô mắm mòi.
Với cơm đã chín xong rồi,
Dọn ra hủ hỉ xúm ngồi cùng ăn.
Đứa con quá lạnh run lên,
Vào ngồi lòng mẹ lấy khăn trùm mình.
Kia xong công việc gia đình,
Cùng nhau bàn tính chương trình ngày mai.
Bài ca dao trên đây để tỏ cuộc đời giản dị, mộc mạc của nhà nông sống một cách thái bình vui thú. Tuy nhiên, họ cũng có một sự lo lắng là thiếu nước mưa, nếu trời mưa dồi dào thì mùa màng họ rất thạnh vượng.
Phụ nữ Miến rất cực nhọc vất vả về công việc ruộng nương gia đình, họ cũng giúp chồng cày, cấy, gặt, hái v.v… họ lại còn biết thêu dệt những mền chăn để hỗ trợ gia đình và làm ngapi (mắm) để chi dụng mãn năm. Phụ nữ Miến rất tự do và tỏ ra mình không có hấp thụ theo văn minh lố lăng của Âu châu, luôn luôn ăn mặc theo phong hóa nước nhà và theo kỷ luật của Phật giáo. Họ không bị bắt buộc gì về sự kết hôn hay ly dị đều do họ thỏa thuận, chớ không có liên quan gì đến Phật giáo, khi nào họ thôi nhau thì của cải được chia đồng, nếu chồng chết thì phần đông họ vẫn ở vậy và lo làm ăn như lúc chồng còn sống.
Phật tử người Miến vẫn khoan dung đại độ đối với tất cả những người có tôn giáo khác, họ không chấp giai cấp và dòng giống. Về mặt chính trị, kỹ nghệ, thương mãi và xã hội họ cũng đối đãi bình đẳng nhau cả, họ rất trọng quyền lợi của nhau và lòng tự ái của kẻ khác. Họ không khi nào có tên riêng (Surnom) như đạo Gia-tô, tên họ lại không liên quan đến tên của gia quyến, họ chỉ có một tên riêng biệt của mỗi người thôi.
Xứ Miến phía nam giáp ranh với Ấn Độ, phía tây với Tàu, phía bắc với Thái Lan, là xứ dẫy đầy những tháp và lọng, có nhiều sông rạch, ruộng lúa, hột saphir và nhiều thứ rubis. Nhiều dân tộc khác cho xứ Miến là xứ phụ nữ đáng yêu, ông Ptolemy một nhà địa dư học cho là một bán đảo vàng khắp mọi nơi, nếu từ tháng 5 tới tháng 10 thì toàn xứ trở nên xanh um với thửa ruộng đã cấy xong, vì lúa là một hầm vàng của xứ Miến, nên xứ Miến không có ai nạn đói bao giờ. Miến Điện mở mang một xã hội đời sống và tinh thần đều căn bản nơi Phật giáo. Hiện nay họ sống vẫn đầy đủ hạnh phúc, có thể nói họ cười, giỡn, tranh đấu và chết cũng đồng trong một lúc.
Trong trận chiến tranh thế giới thứ nhì, người ta chết hằng vạn, nhưng không làm mất sự vui thú của họ một mảy may nào đó cũng nhờ tinh thần Phật giáo, nên họ luôn luôn được vui cười, họ có thể tự hào rằng: Phật giáo và cơm nước đem lại cho họ muôn vàn hạnh phúc.
Trong 5 hôm ở Rangoon tôi được ông U Ba Than và ông chưởng lý U Tchan Htong hộ độ và mỗi bữa cho xe đến rước tôi đi chiêm bái mấy nơi Phật tích. Đến ngày thứ 6 lúc 10 giờ rưỡi tối mới có chuyến máy bay qua Calcutta.
Từ Rangoon sang Calcutta
Hôm ấy tôi từ giã Rangoon sang Calcutta lối 10 giờ rưỡi đêm.
Ban đêm biết trời ở trên hư không lạnh lắm, hãng máy bay có phát mền nỉ cho hành khách đắp, vì trời khuya gió lạnh phần thì mệt mỏi quá nên tôi ngủ quên mãi đến 4 giờ sáng mới thức dậy và nghe còi báo hiệu cho biết phi cơ sắp đáp xuống phi trường Calcutta. Bên trên nhìn xuống thì toàn là một vùng sáng trắng mênh mông lập lòe của đèn điện trong tỉnh thành xem rất ngoạn mục, đây là giờ phút im lặng nhứt tại một đô thị đông đảo trong khi người người đang yên giấc.
Các hành khách mới đến phải trình giấy thông hành và biên vào 4, 5 mảnh giấy theo luật Chánh phủ Ấn Độ, xong việc phải qua phòng y tế cho quan thầy khám xét giấy chủng đậu và giấy tiêm thuốc ngừa dịch tả, rồi qua phòng thương chánh cho khám hành lý và khai rõ các vật dụng mang theo mình, nhứt là vàng bạc. Ở đây sở thương chánh xét rất gắt gao để đánh thuế những món đồ ngoại quốc nhập cảng, vì phi trường ở xa tỉnh thành ngót 20 cây số nên hành khách phải chờ sáng ra mới có xe của hãng đưa về Calcutta. Hội Đại Bồ Đề được tin trước có cho người đến rước nhưng máy bay đến trễ nên phái đoàn đã trở về. Tôi hết sức lo âu, nhưng cũng may hội ấy lại ở cùng một đường với sở hàng không nên khi xe chạy ngang ngừng lại cho tôi xuống trước cửa chùa.
Theo luật Chánh phủ Ấn, người ngoại quốc chỉ được lưu mãn, nên 3, 4 ngày sau tôi phải rời khỏi Calcutta lúc 8 giờ sáng đặng qua Tích Lan, không được đi chiêm bái mấy nơi động tâm. Đến 1 giờ trưa thì máy bay đáp xuống phi trường Madras, cách tỉnh thành 25 cây số, tôi được người rước về nghỉ tại chi ngành hội Đại Bồ Đề ở đây, cũng đông không thua gì Calcutta, dân số thành Madras có tới 6 triệu, phần nhiều là người Tamil, còn ở Calcutta thì lối 8 triệu thuộc về giống Bengali.
Sáng hôm sau mới có phi cơ bay qua đảo Tích Lan, tối được nhân viên hội Đại Bồ Đề đưa vào một nhà hàng ăn điểm tâm. Tại đây, cách trình bày nơi phòng ăn, sự tiếp khách và các thực phẩm, mỗi mỗi đều khác xứ ta, khi khách ngồi xong thì người bồi đến đặt trên bàn một miếng lá chuối rồi sớt cơm và đồ ăn mỗi món chừng vài muỗng, ai nấy đều ăn theo lối cổ điển, nghĩa là dùng tay trộn cơm và các món ăn lộn chung nhau rồi bóc từng nhúm đút vào miệng nhai ngỗm ngoãm. Ăn xong người khách liếm cả tay rồi mới đi rửa sau, tôi rất bỡ ngỡ vì không quen, nhưng cũng phải ăn theo cách bình dân ấy đặng ra phi trường cho kịp giờ.
Tới 11 giờ rưỡi trưa máy bay mới cất cánh rời khỏi địa phận Ấn Độ, bay ngang qua Ấn Độ Dương để sang Tích Lan. Một giờ rưỡi sau phi cơ đáp xuống phi trường Jeffna, ở đây sự khám xét giấy tờ và hành lý còn gắt hơn ở Ấn Độ để đánh thuế các hàng hóa nhập cảng, hành khách phải đến bác sĩ khám bịnh 3 lần, ai được phép lưu trú lâu (entered visa) đều bị thâu giấy thông hành và nhận giấy tạm 1 tuần rồi sau sẽ đến sở Tân đáo xin nhứt định thời hạn cư ngụ trong xứ. Từ Jeffna tôi phải lên một chiếc phi cơ khác đi Colombo, thủ đô của xứ Tích Lan. Trên không dòm xuống thì toàn là rừng núi xanh um và đầy dẫy những vườn dừa sum suê bao la phủ tất cả xóm làng thành thị, phong cảnh Tích Lan cực đẹp khiến người trong nước tự hào rằng đó là cõi thiên đàng.
Phi cơ vừa đáp xuống thì có bác sĩ Jayavikrama thay mặt ông Malalasekara đến rước tôi về Chùa Vajirāma an nghỉ, chùa này lớn đứng vào bực nhứt ở Colombo thuộc về phái Amarapura Nikaya, có cả thư viện cho người tới xem Kinh hoặc các tạp chí về Phật học.
Tôi quyết sang Tích Lan để nghiên cứu và học hỏi thêm về PGNT, nhưng chùa này không có trường học, nên 4, 5 hôm sau lại sang ngụ tại chùa Dhammaduta Vidyalaya ở Dematagoda cách xa đó chừng 6 cây số, nhằm lúc gần nhập hạ. Tại đây có học đường và luôn cả giáo sư về anh văn nên rất tiện, trường Phật học này có dạy 6 thứ tiếng: Pāli, Tamil, Sanscrit, Hindi, Singalese và Anh ngữ cho nhà sư dễ bề khảo cứu và đi truyền đạo khắp nơi. Vị Sư trưởng tên là Vajirañāna là một tiến sĩ khoa triết học tại Luân Đôn rất cao hạ, kiêm luôn chức giám đốc các Phật học đường trong xứ Tích Lan nên được nhiều người sùng bái, yêu vì.
4. Lịch sử Phật giáo Tích Lan
Tích Lan là một nước vừa được độc lập, dân số chừng 8 triệu người gồm lại có nhiều sắc: Tamil, Anh, Ấn, Hòa Lan, Sihala v.v… Kinh thành Colombo cũng khá to, được xây dọc theo bờ biển dài lối 20 cây số nên khí hậu rất mát mẻ.
Phật giáo Tích Lan chia ra 3 phái: phái Siam Nikaya lâu đời nhứt từ nước Xiêm-la truyền sang trên 200 năm và chư tăng đông hơn hết có trên 15 ngàn vị, phái này có bổn phận gìn giữ và phụng thờ răng nhọn của Đức Phật tại tỉnh Kandy; phái Ramañña Nikaya từ Miến Điện truyền sang cách đây 150 năm và có chừng 3 ngàn vị sư; phái Amarapura Nikaya cũng từ Miến Điện truyền sang và cũng lâu như phái Ramañña Nikaya, số tăng có chừng 2 ngàn vị. Tổng cộng lại xứ Tích Lan có lối 20 ngàn chư tăng đều thuộc về Phật giáo Nam Tông, có nhiều vị sư xuất thân từ các trường cao đẳng hoặc trung học thông suốt 6 thứ tiếng nói trên. Về tôn chỉ thì 3 phái ấy đều giống nhau, nhưng sự thực hành có khác nhau đôi chút, như tỳ khưu, sa di trong phái Siam Nikaya thì cạo lông mi, còn hai phái kia thì để tự nhiên. Phái Ramañña thì không dùng dù mà chỉ lấy lá buôn xòe lớn ra như cây quạt để che nắng, còn phái Amarapura thì đi đầu trần, phái sau này thực hành Kinh Luật đúng đắn hơn mấy phái khác, Đại đức Narada cũng thuộc về phái ấy.
Chùa chiền.
Tại Colombo có ngôi chùa tên là A Dục tự (Asokārāma) kiến trúc cực kỳ xinh đẹp, tốn hơn 1 triệu rupies, bên trong lót toàn bằng đá cẩm thạch, có kim thân của 28 vị Phật tổ quá khứ và hình các Chư Thiên, Phạm Thiên, đục nổi trên mặt tường trông rất mỹ thuật.
Theo cổ truyền sau khi Phật tịch diệt được 218 năm, vua A Dục có cho hai người con là đức Mahinda và công nương Sanghamitta đem Phật giáo qua truyền bá trong đảo Tích Lan. Từ Ấn Độ hai vị ấy có mang theo một nhánh cây Bồ đề được trồng lần đầu tiên tại Anuradhapura mà hiện nay vẫn còn tàng lá sum suê. Về các ngọc Xá lợi thì được chia sớt trong khắp xứ Tích Lan cho dân chúng tạo bảo tháp thờ phụng, hiện nay còn có nhiều bảo tháp ấy, có cái bị sụp đổ vì lâu đời, có cái được tu bổ nên còn nguyên vẹn.
Tại tỉnh Anuradhapura có tháp Maha Cetiya cao đến 60 thước tây, chu vi chừng 300 thước được vô số người tới chiêm bái ngày đêm không ngớt, nhiều nhứt là mấy hôm rằm hoặc 30.
Tại Seruvela thuộc tỉnh Tricomale có một bảo tháp thờ xương trán Đức Thế Tôn rất nguy nga đồ sộ.
Tại Mahintale cũng có nhiều bảo tháp và trái núi mà trước kia đức Mahinda đã bay đến phóng hào quang ra sáng lòa trong xứ, cái động đá của Ngài ngự tham thiền hiện nay vẫn còn.
Trong tỉnh Hatton có trái núi Siri Pada cao hơn 2.000 thước, sử truyền rằng khi Đức Phật Thích Ca bay qua Tích Lan lần thứ nhì, Ngài có để lại trên chót núi ấy một cái dấu chơn mà hiện nay người bổn xứ hay tới chiêm bái, núi này cao nhứt trong đảo Tích Lan. Lúc Đức Phật qua Tích Lan đầu tiên tại xứ Mahinyangama có cho đức vua mấy sợi tóc để tạo tháp phụng thờ, bây giờ tháp ấy đã hư sụp và chính phủ Tích Lan đang định tu bổ lại.
Cách tỉnh thành Kandy độ 15 cây số có trái núi Aloka Vihara rất đẹp đẽ và là chỗ Đại đức Buddhagosā đã hội tất cả chư tăng trong đảo Tích Lan để kết tập Tam Tạng lần thứ tư theo yêu cầu của vua Devanampa Tissa, chính trong kỳ này Kinh Luật Pāli được chép ra bằng chữ Tích Lan lần thứ nhứt sau khi Phật nhập diệt hơn 900 năm. Tại Kandy ở giữa xứ Tích Lan có đền thờ răng nhọn của Đức Phật tổ, đền thờ ấy trước kia là một đền vua được dâng vào Tam bảo sau lúc ngài thăng hà. Mỗi năm tới tháng 7 thì có cử hành cuộc lễ Perahara, kiệu răng nhọn ra khỏi đền cho người chiêm bái. Cuộc lễ vô cùng long trọng có cả 60 thớt voi mang đồ trang sức quý giá, sau mỗi cặp voi có 10 người đánh trống, thổi kèn và cầm đuốc đi theo, con tượng sau cùng mang một cái bành đặc biệt hơn các con khác, trên bành có để tháp đựng răng nhọn. Cuộc lễ dàn ra hơn một cây số rưỡi, hàng vạn người từ các nơi hội đến nghinh lễ, mỗi người đều cầm hoa đi theo hàng ngũ một cách cung kính.
Đền thờ Xá lợi.
Đền này ở trong đền thành vua trước kia, cất làm hai tầng. Tầng trên là chỗ thờ Xá lợi, mỗi ngày chia ra làm 4 thời cho dân chúng vào chiêm bái bảo tháp chớ không được xem Xá lợi, vì phải có nhiều chìa khóa mới mở tới bên trong. Sớm mai từ 5 tới 6 giờ, trưa từ 10 tới 11 giờ, chiều từ 2 tới 3 giờ và tối từ 7 tới 8 giờ. Người đi lễ mang theo bông hoa khi vào trước điện thì quỳ xuống dâng bông cho vị thượng tọa rồi đảnh lễ lui ra một phía nhường chỗ cho vô số người khác vào chiêm bái, trong lúc hành lễ đều có kèn trống giúp thêm vẻ trang nghiêm long trọng.
Đức Xá lợi được giữ rất cẩn thận và cơ hội để cho người xem không có nhứt định trước, trong một hoặc hai năm không chừng, chỉ khi nào có các thương khách ngoại quốc hoặc do lời yêu cầu của quần chúng thì mới có lịnh mở tháp cho xem. Tin khai tháp được loan trên mặt báo 3 ngày trước, rồi mỗi ngày Xá lợi được thỉnh ra giữa giảng đường cho người xem. Phải có 90 cái chìa khóa do nhiều vị Đại đức giữ, khi hội đủ các ngài mới có thể mở tới Xá lợi để trong nhiều ngăn nắp rất kiên cố. Đầu tiên phải mở 3 vòng cửa mới tới chỗ để tháp Xá lợi, tháp cao độ 1 thước rưỡi Tây an vị trong cái cũi bằng đồng. Muốn mở cũi phải cần đến 2 cái chìa khóa thật to do 2 vị bác sĩ cất giữ, kế đó một vị thượng tọa đem lại một cái chìa khác đặng mở nắp tháp. Tháp làm bằng đồng pha vàng màu lóng lánh vô cùng đẹp đẽ, bên trong có vô số bửu vật do tín đồ thập phương cúng dường Xá lợi. Xong lại có hai vị thượng tọa khác đem chìa đến mở thêm hai ngăn tháp nữa cũng chứa đầy ngọc ngà châu báu, sau rốt một vị thượng tọa khác đến mở nắp tháp cuối cùng mới tới đức Xá lợi. Răng nhọn dài độ ba phân rưỡi hoặc bốn phân tây hơi cong một chút, to bằng cỡ ngón tay út màu lóng lánh như vàng hoặc như ngà voi đã lên nước, vì tôi là nhà sư ngoại quốc nên được hân hạnh đứng gần xem rõ.
Khi mở ngăn tháp sau cùng thì chư tăng và những người có phận sự đều đứng cung kính yên lặng chiêm ngưỡng về ấn đức của Phật, công chúng không được đến gần. Xong việc vị thượng tọa cao hạ nhứt mới thỉnh Xá lợi để qua một tháp nhỏ lộng kiếng rồi mới để ra giữa giảng đường cho ai nấy cùng xem, mỗi lần xem có hàng vạn người nên Chánh phủ phải phái cảnh sát đến giữ trật tự. Mỗi nhóm người vào chiêm bái chỉ được vài phút rồi phải lui ra nhường chỗ cho nhóm khác, nhiều lúc hết giờ mà người xem còn sót lại rất đông nên phải hoãn lại 4, 5 hôm đặng làm vừa lòng hàng tứ chúng.
Cách tỉnh thành Kandy chừng hai cây số có một tịnh thất của hai nhà sư người Đức ở tu pháp thiền định. Một ngài lấy danh hiệu là Ñānnatiloka tu đã lâu năm và có nhiều thanh danh trên thế giới, nhiều tác phẩm về Phật giáo Nam Tông do ngài soạn ra bằng tiếng Đức và được phiên dịch ra tiếng Anh và Pháp.
Tại Dodanduvva thuộc tỉnh Galles, Đại đức Ñānnatiloka có sáng tạo một chỗ tham thiền trên cù lao rất thanh tịnh dành riêng cho các nhà sư ngoại quốc đến hành đạo, hiện đã có một vị người Hòa Lan, một vị người Tiệp Khắc và một vị người Anh.
Đi vòng quanh Tích Lan.
Lúc nghỉ học và nhân dịp có phái đoàn chư tăng đi chiêm bái các nơi Phật tích trong toàn xứ Tích Lan, tôi cũng xin nhập đoàn đặng đi xem xét khảo cứu tường tận những cổ tích. Cuộc hành trình phải cần lối 20 ngày và tốn phí ngót 100 rupies (chừng 500 đồng bạc ta).
Theo phong tục người bổn xứ sự đi chiêm bái các thánh địa đem lại rất nhiều hạnh phúc, vì đó hễ lúc nào đường giao thông thuận tiện thì họ họp lại từng đoàn mướn xe, sắp đặt vật thực, lũ lượt kéo nhau lên đường. Đi tới chỗ nào có suối nước bóng cây thì họ mới dừng lại nấu nướng ăn uống rồi tiếp tục đi nữa cho tới khi viếng đủ các nơi Phật tích.
5. Chiêm bái mấy chỗ động tâm và đi vòng quanh Ấn Độ
Vào tháng 11 sau khi ra hạ, hội Đại Bồ Đề Tích Lan có tổ chức cuộc đi vòng quanh Ấn Độ để chiêm bái mấy chỗ động tâm, cuộc hành trình kéo dài hơn một tháng rưỡi tổn phí hết 800 rupies (chừng 4.000$ đông dương), nếu đi riêng một mình thì sở tổn phải lên gấp hai.
Tất cả phái đoàn gồm lại 29 người, có 6 vị sư kể luôn tôi do ông Karunaratna là đại biểu của hội làm hướng đạo, đó cũng là một dịp may cho tôi vì được người giải thích rành rẽ mỗi khi tới chỗ nào có thánh tích.
Phái đoàn khởi hành nhằm ngày 1 tháng 11 – 1952 DL, một hôm trước chúng tôi được hội Đại Bồ Đề mời tới xem chớp bóng mấy chỗ sắp đi viếng, có ông Karunaratna giải thích rành rẽ, xong việc lại có thỉnh chư tăng đến tụng kinh cầu an cho phái đoàn đi đường dễ dàng.
Đúng 7 giờ tối, tàu hỏa rời khỏi nhà ga Colombo chạy đi Talamana thuộc miền ranh giới Tích Lan để chuyển sang tàu thủy vượt biển qua xứ Ấn Độ, tỉnh thành ở xứ Colombo chừng 340 cây số ngàn. Phái đoàn nhờ mướn luôn một toa xe hạng nhì nên cuộc hành trình khỏi chật vật, mỗi toa đều có giường cho hành khách đi đường xa nghỉ đêm, ngoài tiếng động cơ phì phịch, tiếng cọ xát giữa bánh xe và đường sắt, thỉnh thoảng một tiếng hét của còi báo hiệu làm cho hành khách giật mình, bên ngoài là một cảnh trời tinh khiết êm đềm, muôn sao lấp lánh, khiến cho người lữ khách nhiều thú vị thần tiên trong đêm tối ở xứ Tích Lan.
Con rắn sắt khổng lồ băng đồng lướt bụi, uốn éo theo những khúc quanh, mãi gần sáng mới tới Talamana. Đúng 6 giờ sáng hành khách mới được xuống xe để sang qua tàu thủy sau khi sở thương chánh và cảnh sát khám xét xong. Tàu chạy ngót hai tiếng rưỡi đồng hồ mới tới Dhamuskodi, một hải cảng địa đầu của Ấn Độ. Phái đoàn phải dừng lại để tới 12 giờ trưa mới lo xong giấy tờ rồi lên xe lửa sang thành Madras, cách xa chừng 800 cây số, tàu hỏa phải chạy suốt một ngày một đêm cho tới 9 giờ sáng hôm sau mới đỗ vào ga Madras.
Thành Madras được xây dọc theo bờ biển dài ngót 40 cây số, dân cư trên 6 triệu, phần đông là người Tamil, ở đây phụ nữ thường xỏ lỗ mũi một bên, hai bên hoặc ngay chính giữa để đeo dây vàng thòng xuống tới môi, còn phần đông đàn ông đều đeo bông. Chúng tôi được đưa vào nghỉ trong các gian phòng của hội Đại Bồ Đề Madras xa ga xe lửa chừng 200 thước, phái đoàn được đưa đi xem nhiều vật quí vô giá trong viện cổ tang và các thú lạ tại vườn bách thú.
Cách đây độ 15 cây số là vườn Adyar trụ sở của hội Thông thiên học, trong vườn có một thư viện chứa nhiều tác phẩm và kinh sách cổ điển lâu trên ngàn năm. Một bảo tháp rất đẹp được dựng lên tại đây để thờ Đức Phật. Nhờ ở gần mé biển nên có một khí hậu rất mát mẻ, dân sự theo đạo Gia-tô rất đông[4], nên có nhiều đền thờ nguy nga đồ sộ, trái lại chẳng thấy có một cái chùa Phật nào, trừ ra hội Đại Bồ Đề.
Vào lúc 7 giờ tối hôm 4-11-1952, phái đoàn lại ra ga đi Calcutta, cách xa ngót 1.700 cây số, xe lửa phải chạy hết hai ngày đêm và tới nơi lúc 12 giờ trưa. Hội Đại Bồ Đề có phái Đại đức Jinaratna đến rước chúng tôi về an nghỉ, đây là hội ngành của hội Đại Bồ Đề trên toàn xứ Ấn Độ cất làm ba tầng có nhiều phòng cho khách nghỉ tạm. Phía trước nhà hội có một ngôi chùa hai tầng, tầng trên thờ Phật, tầng dưới là giảng đường, trước chùa có một cái hồ rộng độ 80 thước vuông để người ra tắm gội khi trời nóng. Tỉnh thành Calcutta vô cùng rộng lớn, dài trên 60 cây số và rộng 40 cây, nằm dọc theo bờ biển Bengale khí hậu rất nóng, dân cư gần 8 triệu phần đông là người Bengali. Cách chùa độ 3 cây số có một cái đài kỷ niệm nữ hoàng Victorya cất toàn bằng đá cẩm thạch trắng trên một khu đất chừng hai cây số vuông. Cũng cách chùa chừng một cây số về phía đông có một cái đền thờ lộng lẫy của nhóm tu Lõa Thể (Jainisme).
Lúc 7 giờ tối 7-11-1952 có ông D.Valisinha tổng thư ký hội Đại Bồ Đề tới khai Xá lợi của hai vị đại A-la-hán Mục Kiền Liên và Xá lợi Phất cho chúng tôi xem và chiêm ngưỡng tại chùa Siridhamma, trong chùa có chừng 6, 7 vị sư ở hoằng pháp tại xứ Ấn Độ: 1 vị người Ấn trước kia là một tiến sĩ luật xuất gia, 1 vị người Anh cử nhân văn chương, 1 vị người Népal, còn bao nhiêu đều là nhà sư Tích Lan.
Chiều hôm sau phái đoàn có dịp chứng kiến một cuộc lễ dâng Tam Tạng Pháp Bảo và kim thân Phật vào chùa do hội Hymalayan của người Tây Tạng tổ chức. Đây là một cơ hội cho tôi thấy tận tường phẩm cách và những nghi lễ của các nhà sư Tây Tạng. Người họ hơi mập, mặc y phục bề bộn, bẩn thỉu, mũi trẹt, mí mắt dày và híp lại mường tượng như người Tàu, Nhựt, Mông cổ… nước da ngăm, cạo tóc nhưng để râu, đầu đội mão cao nhọn ở phía trên có một chùm lông túa ra trông rất lạ mắt, có vị cầm kèn dài độ hai thước tây phải có hai người đỡ lên, vị thì ôm mõ, vị mang phèn la, chiêng v.v… Khi kim thân được an vị xong, một sư trưởng lại dâng rượu cúng Phật rồi đọc kinh bằng tiếng Tây Tạng trong lúc trống kèn nổi lên vang rền giống như những cuộc hành lễ trong các chùa Việt Nam, mỗi nhà sư đều giữ một phần âm nhạc mà họ cho là rất quan trọng. Than ôi! Cũng vì sự chia rẽ và hiểu sai Chánh pháp nên ngày nay trên toàn cõi Á Châu, mỗi tông mỗi phái thật hành giáo lý của đức Bổn Sư theo thể thức riêng của mình, khiến có nhà khảo cứu Phật học người Âu thốt rằng: “Phật giáo! Một kẻ khách quan khi nghe đến hai danh từ ấy không khỏi hoang mang ngờ vực vì những hành động và nghi lễ phức tạp của tín đồ chia ra nhiều tông phái, không khác nào một đám rừng rậm có nhiều loại cây lẫn lộn rất khó cho người tìm được ngõ ra vào”.
Đến 9 giờ tối 8-11-1952 thì phái đoàn lại từ giã Calcutta để qua thành Vương Xá (Radjagahs) thuộc miền Trung Ấn Độ cách xa chừng 450 cây số. Tàu chạy suốt đêm mãi tới 8 giờ sáng hôm sau mới tới ga Bukkatiapur, từ đây phải sang qua xe lửa nhỏ chạy thêm 60 cây số nữa mới tới thành Vương xá, thủ đô của vua Tần-Bà-Sa và A-Xà-Thế thuở trước, chúng tôi gặp bên vệ đường vô số thánh tháp bằng gạch đã sụp đổ. Bây giờ người bổn xứ không còn theo Phật giáo nữa mà hầu hết đều thuộc Ấn Độ giáo hoặc Hồi giáo, chỉ có một ngôi chùa do người Miến Điện dựng lên để duy trì Phật giáo tại đây. Lúc phái đoàn tới chùa thì trời sắp tối nên đồng an nghỉ đợi sáng ra mới đi viếng các nơi. Vị sư trụ trì tại đây là người Miến, biết nói tiếng Anh rất vui vẻ. Ngài cho biết rằng tại đây không có tín đồ Phật giáo, mà chỉ có trên 3.000 người mộ đạo từ phương xa đến viếng hằng năm.
Sáng ra, sau khi điểm tâm xong, chúng tôi được đưa đi xem cảnh điêu tàn của những đền đài vua A-Xà-Thế. Đây là một khu vực rộng rãi bao la gồm toàn những đống gạch đá hư đổ và chân tường trơ trọi đã trải qua biết bao nhiêu cảnh tang thương, khi phồn thạnh lúc điêu vong do luật vô thường chi phối. Đi thêm chừng nửa cây số thì gặp một cái tháp toàn bằng đá xanh do vua A-Xà-Thế dựng lên để thờ Xá lợi Đức Phật. Xa một đổi nữa thì tới chùa Trúc Lâm (Veluvan) của vua Tần-Bà-Sa dâng cho Tăng hội thuở trước, nhưng hiện nay là một cánh đồng không mông quạnh ít người lai vãng. Đi một chặng nữa thì tới suối Ôn Tuyền (Tapoda), suối này do 10 cái mọi lớn bằng ống tre cho nước chảy ra nóng gần như nước sôi, Chánh phủ có cho cất nhiều buồng tắm cho dân chúng tùy tiện. Tôi cũng có vào tắm thấy trong mình khỏe khoắn lạ thường, tục truyền rằng suối này từ dưới đáy quả địa cầu chảy ngang qua địa ngục Đồng Sôi (Lohakambhi) nên nước mới nóng như thế. Người bổn xứ tin rằng suối này có thể chữa khỏi bịnh hoạn cho những ai xuống tắm, nên chi hằng buổi có cả trăm người đến tắm khỏi tốn kém chi. Tắm xong chúng tôi lại trèo qua chót núi Papphali Guhara là nơi mà Đại đức Ca-Diếp thường ngồi tham thiền khi trước, lúc Đại đức Ca-Diếp lâm bịnh, Đức Thế Tôn có ngự đến đây thuyết cho ngài nghe về bảy nhân sanh quả Bồ đề (Sattasambojjanga). Trong động nhìn xuống thấy toàn là đồng ruộng mênh mông xanh tốt của xứ Ma-Kiệt-Đà (Magodha), khiến cho tôi sực nhớ lại trước kia, lúc đi ngang qua chỗ này Đức Phật có dạy cho tôn giả Ānanda nên cắt y theo hình thửa ruộng ấy, gọi là phước điền y mà bây giờ các nhà sư Nguyên Thủy còn mặc.
Bữa sau chúng tôi đi viếng núi Kicchakuta là nơi trước kia Đức Phật thường ngự đến, dọc đường phái đoàn có ghé lại động Satta Panna Guha là chỗ hội của 500 vị đại A-la-hán do Ngài Ca-Diếp chủ tọa sau khi Phật Niết-bàn 100 ngày để kết tập Tam Tạng Pháp bảo lần thứ nhứt bằng khẩu truyền. Đi một đoạn nữa chúng tôi gặp những chân tường bằng gạch đã sụp đổ và được người cho biết rằng đó là ngục thất mà trước kia hoàng tử A-Xà-Thế vì nghe lời Đề-Bà-Đạt-Đa, nên đành giam hãm vua cha cho đến chết để đoạt ngôi. Đi lần tới thì gặp một cái bảo tháp thờ Xá lợi của Đức Phật tổ do vua A-Xà-Thế sáng tạo. Lúc 218 năm sau vua A Dục cho đào tháp đem Xá lợi ra rồi tạo thêm 84.000 thánh tháp khác cho dân chúng thờ phụng. Cách đây một đổi là cảnh rừng hoang nằm dưới chơn núi Kicchakuta mà trước kia là ngôi chùa Ajivakarama của vị đại thần Ajivaka dâng cho Đức Thế Tôn. Từ đây chúng tôi phải khó nhọc trèo núi hơn hai cây số mới tới chỗ Phật thường ngự hồi xưa, phía dưới có một cái động của đức Ānanda để hầu Phật, phái đoàn lên tới nơi thì trời vừa xế bóng, chúng tôi đồng thành tâm đảnh lễ một ngôi tháp đã hư sập trên chót núi. Chỗ này trước kia Đức Thế Tôn có ngự đến thuyết pháp về Anādādiya Sutta[5] cho bốn vị Tứ Đại Thiên Vương nghe, xong lại chúng tôi trèo xuống viếng động của đức A-nan rồi vội vã trở về vì trời sắp tối, mà chỗ này là một cảnh hoang vu nguy hiểm, người người vừa đi vừa tụng kinh mãi gần 9 giờ đêm mới về tới nhà trọ.
Sáng bữa sau chúng tôi lại đi viếng học đường (Nalanda) ở cách chùa hơn 10 cây số, phải đi tàu hỏa và lúc tới nơi mỗi người phải lấy một cái vé giá 2 annas (chừng 6 cắc tiền ta) để vào cổng. Chỗ này khi xưa nào là vô số tăng đường, trai đường nguy nga đồ sộ mà nay chỉ còn lại những đống gạch đá vụn đã bị phong sương bao phủ trải qua một thời gian dày dặn. Trên một khu vực rộng lớn toàn là những chân tường dày lối 8, 9 tấc tây, lúc trở về tình cờ chúng tôi gặp một vị tỳ khưu và một vị sa di là người Anh nên dùng tiếng Anh để giao thiệp, nhưng thấy ông ta bỡ ngỡ và nhờ một vị tỳ khưu cho biết rằng ông ấy là người Pháp tên Adam, trước kia làm kỹ sư tại sở hàng không Paris hơn tám năm. Vì ông nhận thức cuộc đời là khổ nên qua Ấn Độ xuất gia sa di hơn một tuần nay và còn đang học hỏi kinh luật để thọ cụ túc giới theo luật tỳ khưu. Tôi liền nói tiếng Pháp thì ông hết sức mừng rỡ hỏi thăm về tôi, sau khi biết tôi là người Việt Nam ông lại càng thỏa thích vì tại đây ít khi gặp được một người biết tiếng Pháp để trò chuyện, nhứt là bàn về Phật giáo, còn vị tỳ khưu là một cử nhơn văn chương người Ấn xuất gia lấy pháp danh là Kasyap.
Viếng bồ đề đạo tràng (Bodh Gaya)[6]
Sáng hôm sau lúc 8 giờ phái đoàn lại từ giã thành Vương Xá để sang xứ Uruvela cách xa 130 cây số chiêm bái Bồ Đề Đạo Tràng là nơi Đức Phật Thích Ca đắc đạo, chúng tôi tới tỉnh Gaya rồi phải đi thêm 13 cây số nữa mới tới nơi. Hội Đại Bồ Đề có xe hơi chực sẵn để rước chúng tôi về nhà trọ ở cách Bodh Gaya chừng 150 thước, nhà trọ này do hội Đại Bồ Đề sáng tạo coi rất rộng rãi mỹ thuật có thể chứa được nhiều du khách. Gần bên là một ngôi chùa Tây Tạng có 20 nhà sư Đại Thừa ở tu, tôi vào chùa thấy vô số cốt Phật, thánh thần, trống kèn, chuông mõ bề bộn như các chùa ở xứ ta, xa đó chừng 500 thước là một ngôi chùa Trung Huê với vài vị sư, và cách xa 2 cây số nữa mới đến một ngôi chùa Nguyên Thủy do các người ở Miến Điện ở để trông nom Bồ Đề tràng.
Nói về bốn chỗ động tâm thì chỉ có Bồ Đề tràng là quan trọng hơn hết, vì chính tại chỗ này Đức Thích Ca đã đắc quả Chánh đẳng Chánh giác và thường thuyết về Tứ niệm xứ kinh (Sati Pathna Sutta), theo kinh giảng thì thuở trước tại xứ này phần đông đều hành theo pháp Tứ niệm xứ nên khỏi bị sa đọa và được sanh về cõi trời sau khi thác. Nhưng hiện nay trái hẳn hầu hết người bổn xứ đều theo Hồi giáo hay Ấn Độ giáo, họ chặt cây bồ đề và đốt gốc rễ hết ba lần cốt ý làm tiêu diệt di tích của Phật giáo, tuy nhiên cây vẫn mọc như thường và bây giờ lớn khoảng hai ôm. Hơn nữa, họ tàn phá luôn cả một cái bảo tháp cao gần 50 thước do vua A Dục dựng lên hồi xưa và th��nh thoảng lại tàn sát, đánh đập chư tăng ngoại quốc đến ở tu gần đó. Cách đây chừng mấy chục năm có 4 nhà sư Tích Lan đến ngụ trong một kiểng chùa gần đó, bị bọn Hồi giáo tuôn vào giết hết hai, ba vị, còn một vị bị trọng thương trốn thoát. Bồ Đề tràng là một di tích tinh thần cao cả của đấng Cha lành mà chẳng có một người Ấn Độ nào để ý tới.
Than ôi! Đã ngót 2.500 năm qua, xứ Ấn Độ bị thời gian thay đổi màu sắc nhiều lần, người trong xứ vì thời cuộc và hoàn cảnh nên phải chịu ảnh hưởng của ngoại đạo không nhỏ. Khởi đầu là một sự cưỡng bách tinh thần do bọn chinh phục đem vào, nhưng lần lần thành thói quen, các con cháu hiện nay đều giữ đạo của tổ tiên thuở trước như: Hồi giáo, Bà-la-môn giáo, Gia-tô giáo v.v… Rốt cuộc Phật giáo trên đất Ấn phải điêu vong, một phần lớn do sự tàn sát phá hoại của bọn xâm lăng Hồi giáo từ miền Trung Đông kéo sang từ lối thế kỷ thứ VIII sau Phật Niết-bàn. Hơn nữa, những kiểu mẫu chùa chiền và tổ chức Tăng già theo qui củ khiến cho giặc dễ nhận biết mà tàn sát phá hoại. Còn phái Bà-la-môn thì sống rời rạc không tổ chức nên dễ trà trộn với thường dân đặng lánh nạn. Trạng thái vô thường của đạo Phật trên đất Ấn hiện nay không khác gì tình cảnh đạo Gia-tô, hội thánh căn bản thì ở tại thành Rome nhưng các thánh tích về đức Christ lại còn ở Jérusalem thuộc xứ Palestine giữa các quốc độ theo Hồi giáo. Có một điều khác nhau là các tín đồ nhà Phật không hề dùng võ lực để đoạt lại những thánh tích của Đức Thế Tôn, còn nhóm Gia-tô Âu châu trong những thế kỷXIII, XIV, XV đã bao lần đem binh sang Palestine công phạt bọn Hồi giáo và Do Thái để đoạt các di tích của đức Christ, nhưng các cuộc viễn chinh đều thất bại và hao hơn 20 triệu sinh linh.
Cách đây độ 60 năm ông Dhammapala người Tích Lan tới chiêm bái Bồ Đề tràng phát tâm cảm động vì cảnh điêu vong của Phật giáo nên cố gắng sáng lập ra hội Đại Bồ Đề. Ông đã gặp biết bao trở ngại và phải nhờ tới sự can thiệp của Chánh phủ mãi tới ngày 28 Mai 1953 mới được thu hồi Bồ Đề tràng về cho các Phật tử thế giới và giao phó cho hội Đại Bồ Đề trông giữ.
Xa Đại Bồ Đề tràng chừng 200 thước thì tới sông Ni Liên (Nerañjara) nơi Đức Bồ tát xuống tắm trước khi thành đạo, trước kia nước dưới sông luôn luôn lưu thông tràn tới bờ vừa cho con quạ đậu trên đất chúi mỏ xuống uống được, nhưng hiện nay là một bãi cát trắng phau với vài dòng nước sâu tới đầu gối. Thật ra, luật vô thường đã làm cho biển cạn non mòn đến thế. Tôi cùng ít người trong phái đoàn lội qua sông rộng độ một cây số rưỡi, chỗ thì sâu, chỗ thì cạn, chỗ là bãi cát trồi lên, mới qua tới xóm của nàng Sujata đã dâng cơm trộn sữa dê cho đức Bồ tát trước khi thành đạo. Trước kia xóm này rất phồn thạnh nhưng nay chỉ còn có một trụ đá trơ trọi để làm dấu tích, lúc trở về vì trời nóng tôi liền thay y ra tắm thấy trong người khỏe khoắn lạ thường.
Chung quanh Bồ Đề tràng có nhiều tháp nhỏ thờ các vị đại A-la-hán, trước cội Bồ đề có một cái bảo tọa bằng đá chạm trổ khéo léo bề dài độ 2 thước rưỡi tây, bề ngang 1m50 do vua A Dục tạo ra để kỉ niệm nơi đức Thích Ca tĩnh tọa. Còn cái bảo tọa đầu tiên mà đức Chánh Biến Tri ngồi đắc đạo thì nay đã chìm sâu dưới quả địa cầu.
Mỗi đêm tôi đều ra một nơi thanh vắng gần đó để niệm kinh và cầu nguyện sự an vui cho tất cả chúng sanh, nhứt là các thiện tín có tâm trong sạch hộ độ tôi được đến chốn này. Vì gần tới tháng 11 nên tiết trời lạnh thấu xương, với bộ tam y mỏng manh tôi cũng ráng chống chọi với phong sương để làm tròn bổn phận.
Bỗng đâu tôi nhớ lại những lời đầu tiên của Đức Chánh Biến Tri khi vừa thành đạo như vầy: “Anekajāti saṃsāraṃ, sandhavissaṃ anibbissaṃ, gahakāraṃ gavesanto, dukkhā jāti punappunaṃ. Gahakāraka ditthosi, puna gehaṃ na kāhasi, sabbe te phāsukā bhaggā, gahakūtaṃ visaṅkhataṃ, visaṅkhāragataṃ cittaṃ, tanhānaṃ khayamajjhagāti”. Nghĩa: “Khi Như Lai chưa thành bực Đại giác và đang tìm thợ cất nhà là cái tâm ái dục mà chưa gặp đặng, thì Như Lai phải chịu sanh tử luân hồi khổ não trong vô số kiếp. Này anh thợ cất nhà, nhưng bây giờ Như Lai bắt được người rồi. Người không sao dựng lại cái nhà ngũ uẩn của Như Lai được nữa. Vì sườn nhà là phiền não ta đã bẻ gãy, cái nóc là vô minh ta cũng phá tan, Như Lai đã đắc pháp ‘Vô vi Niết-bàn’.
Viếng vườn Lộc Giả.
Sáng hôm 15-11-1952 vào lúc 12 giờ trưa phái đoàn từ giã Bodhi Gaya để sang vườn Lộc Giả (Isipatana Miggadāyavana) thuộc xứ Bénarès cách xa chừng 220 cây số là nơi Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên cho năm thầy Kiều Trần Như nghe, vườn Lộc Giả bây giờ lấy tên mới là Sarnath ở cách thành Bénarès chừng 8 cây số, tại đây có một ngôi chùa làm toàn bằng đá cẩm thạch. Còn có một tòa lầu hai tầng gồm lại có 64 cái phòng có cả dưỡng đường và đại học đường do vua thương mãi Birla cất cho Phật tử thập phương đến ngụ để học tập hoặc chiêm bái thánh tích. Gần đó có một bảo tháp cao độ 40 thước, châu vi 100 thước do vua A Dục dựng lên kỷ niệm nơi Đức Thế Tôn quay bánh xe pháp lần thứ nhứt và vô số Tăng đường đã sụp đổ.
Sử chép rằng một hôm nọ bọn Hồi giáo vì ganh ghét sự phồn thạnh của đạo Phật nên cùng nhau âm mưu bao vây Tăng đường tàn sát hàng ngàn vị sư trong lúc các ngài đang thọ thực, chỉ có một số ít trốn khỏi. Ngoài ra, chúng lại tiêu hủy các tịnh thất, trai đường và đập vỡ những kim thân Phật, cái thì gãy cổ, sứt tay, bể mũi, gãy chân, mà hiện nay Chánh phủ Ấn cho sở khảo cổ đem vào chưng trong bảo tàng viện rất lớn được cất gần nơi đó.
Lúc viếng vườn Lộc Giả. Tôi có nhớ bài Phật ngôn như vầy:
“Evamme suttaṃ ekaṃ samayaṃ bhagavā bārānasīyaṃ viharati Isipatane Migadāye tatra kho Bhagavā pañca vaggiye bhikkhū amantesi. Dve me bhikkhave anta pabbajītena na sevitabbā katame dve? Yo cāyaṃ kāmesu kāmasukhallikānuyoko hīno gamo pothujjaniko anariyo anatthasañhito yo cāyaṃ attakilamathānuyogo dukkho anariy anatthasañhito. Ete te kho bhikkhave ubho ante anupagamma majjhimā patipadā tathagatena abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñānakaranī upasamāya abhiññāya saṃbodhāya nibbānāya saṃvattati. Katamā ca sā bikkhave majjhimā patipadā tathāgatena abhisaṃbuddhā cakkhukaraṇῑ ñānakaraṇῑ upasamāya abhiññāya saṃbodhāya nibbānāya saṃvattati? Ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo, seyyathῑdaṃ? Sammādiṭṭhi, sammāsaṅkappo, sammāvācā sammākammanto, sammāājῑvo, sammāvāyāmo, sammāsati, sammāsamādhi. Ayaṃ kho sā bhikkhave majjhimā patipadā tathagatena abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñānakaranī upasamāya abhiññāya saṃbodhāya nibbānāya.    
Nghĩa: Ta là Ānanda đã nghe như vầy: “Một thuở nọ đức Thế Tôn ngự tại vườn Lộc Giả thuộc xứ Baranasῑ. Lúc ấy Ngài kêu năm anh em Kiều Trần Như mà thuyết rằng: này các thầy tỳ khưu, có hai điều thái quá mà bậc xuất gia cần phải xa lánh. Hai điều ấy như thế nào? Một là đời sống luông tuồng theo ngũ dục, say mê trong ngũ dục, thật xấu xa thô bỉ thấp hèn vô ích. Hai là tư cách theo khổ hạnh, hành hạ xác thân cho kiệt quệ, không thanh cao mà cũng chẳng bổ ích vào đâu. Này các tỳ khưu Như Lai đã tìm ra con đường trung đạo, không dùn quá hay thẳng quá theo hai cách ấy. Nhờ hành theo con đường giữa mà Như Lai đã phát sanh trí tuệ diệt trừ phiền não thống khổ làm cho thân tâm trở nên thanh tịnh. Mà con đường trung đạo ấy là như thế nào? Chính là Đạo bát chánh: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Này các tỳ khưu, nhờ hành theo con đường giữa ấy mà Như Lai phát sanh trí tuệ, thấu rõ ba tướng của vạn vật làm cho thân tâm yên lặng, đắc pháp thần thông, diệt trừ phiền não thống khổ”.  
Đi xa độ một cây số, cổ tháp xây toàn bằng gạch để kỷ niệm chỗ Đức Phật gặp năm ông Kiều Trần Như lần đầu tiên. Tại đây nơi nhà trọ của hội Đại Bồ Đề có hai vị sư Tích Lan ở để duy trì Phật giáo. Chiêm bái xong, chúng tôi lại trở ra viếng thành Bénarès nằm dựa bờ sông Hằng Hà. Thành này rất lâu đời và có một lịch sử vĩ đại nhứt về tôn giáo trong xứ Ấn Độ. Đây là nơi tự cổ chí kim đã nảy ra vô số đạo giáo như: đạo Lõa thể, Khổ hạnh, Đa thần giáo và nhiều tông phái của Bà-la-môn giáo. Còn đạo Phật thì chỉ thạnh hành trong khi đức Như Lai giáng thế và phải suy vong sau khi một thời gian Ngài nhập diệt. Hiện nay, mỗi khi người khách để chơn vào xứ thì có cảm giác rằng mình đang ở giữa bầu không khí huyền bí lạ lùng.
Về sông Hằng Hà, trong kinh giải rằng bề dài của nó tới 500 do tuần (mỗi do tuần chừng 16 cây số ngàn), bề ngang 1 do tuần và bề sâu cũng 1 do tuần. Người Ấn rất tin vào sự huyền bí của sông ấy. Bây giờ sông đã cạn và hẹp nhỏ lại, nhưng dân sự vẫn tấp nập xuống tắm để rửa tội rất đông. Trên bờ lúc nào cũng có cả trăm cả ngàn người chực sẵn thay phiên nhau xuống tắm và có bán đủ thứ nhang đèn lễ vật dùng vào việc tế rửa tội. Người chết mà xác được rửa nước sông Hằng thì sẽ được nhiều phước lành. Thật hết sức dị đoan huyền bí làm cho con người hoang mang điên đảo không nhỏ. Nhưng cái đó chẳng riêng gì xứ Ấn Độ. Sự tin tưởng vô căn cứ ấy vẫn lan tràn khắp vũ trụ. Mà hễ tà đạo tấn triển thì nhân loại càng thêm thống khổ vì không còn tin nơi cái nghiệp. Trong hồi đại chiến thứ nhứt, vì theo khoa phù thủy của lão Raspoutine mà Nga hoàng Nicolas III phải mất ngôi. Dân Nga nổi loạn tàn sát tất cả hoàng tộc rồi lập chánh thể Cộng sản cho tới nay. Bên Pháp còn có nhiều người đến Nhà thờ Đức Bà Notre Dame De Lourdes cầu nguyện cho khỏi bịnh tật.
Hôm ấy, phái đoàn có mướn một chiếc ghe đưa theo dòng sông xem người bổn sứ tắm rửa tội. Trên bờ rải rác có nhiều đống lửa tung khói mùi tanh khét. Đó là những xác chết được đem lên thiêu sau khi được rửa tội bằng nước sông Hằng. Thiêu xong, thân nhơn lại đùa cả tro tàn xuống sông cho người chết được an vui. Trong khi ấy, chúng tôi thấy một người ẵm đứa bé vừa chết đem rửa tội để vào ghe đưa ra giữa sông, đoạn cột xác lại vào một tảng đá to xô ùm xuống nước. Làm vậy, thân quyến tin rằng đứa bé được sanh về cõi Thiên đàn.
Thấy trời sắp tối, chúng tôi cho ghe vào bến rồi về nhà trọ của hội Đại Bồ Đề an nghỉ. Lúc đi ngang qua các đường phố, chúng tôi có gặp một nhà tu lỏa thể đang ngồi trần truồng trước cửa chùa của họ. Đầu tóc rối bơm, râu ria xồm xoàm, mình thoa đầy tro và cứt bò. Người ấy đang ngồi lim dim, miệng tụng lầm thầm cái chi không biết và có năm, ba người xúm xít chung quanh để cầu ông ta ban phước lành cho.
Đến xứ Kusinara.
           Lúc 12 giờ trưa ngày 17-11-1952, phái đoàn rời khỏi Bénarès đặng sang xứ Kusinara, nơi Đức Phật nhập Niết-bàn cách xa 340 cây số (215 dặm Anh). Chúng tôi phải đi tàu hỏa hết 180 dặm mới tới ga Gorakhpur, rồi từ đây đi xe hơi 35 dặm nữa mới tới Kusinara. Hai bên đường toàn là cảnh hoang vu, đồng khô cỏ cháy, cây cối u sầu còi cọc như còn mang lấy một vết thương đau khổ về những giờ phút cuối cùng của đấng Chí tôn Chí thánh.
Hiện nay chẳng còn thành quách chi cả. Chỉ có một nhà trọ với 5 vị sư Miến Điện ở tu hành gần chỗ đức Thế Tôn nhập diệt. Ngoài ra, còn có một bảo tháp mà phía sau có một gian phòng để che đậy nắng mưa cho một kim thân Phật tổ bằng đá, bề dài hơn 6 thước, nằm nghiêng mặt về hướng tây. Phòng này rất hẹp, đủ chỗ cho vài người vô thôi, nên sự lễ bái không được thong thả. Sau khi lên nhang đèn và đảnh lễ kim thân xong, tôi sực nhớ lại lời dạy cuối cùng của đức Như Lai trước khi nhập diệt: “‘Handa dāni bhikkhave āmantayāmi vo vayadhammā saṅkhārā appamādena sampādethāti’. Ayam tathāgatassa pacchimā vācā”. Nghĩa: “Này các tỳ khưu, Như Lai cho các ngươi biết rằng những pháp hữu vi đều không bền vững. Vậy các ngươi chớ nên giải đãi và hãy mau chóng cố gắng làm tròn phận sự của mình. Đây là lời dặn cuối cùng của Như Lai”.
Lễ xong, chúng tôi đi quanh kim thân thấy có vô số báu vật và y bát của tín thí dâng cúng. Riêng tôi có mang theo một lá y mới do Thiện Tín Kim Biên dâng để thay đổi trong lúc đi đường. Nhưng thấy cảnh động lòng, tôi thành tâm đem y ra đắp lên kim thân rồi cầu nguyện cho quả phước mau thành tựu đến các thí chủ.
Rồi phái đoàn lại đi viếng nơi làm lễ trà tỳ kim thân Đức Phật ở trong thành vua Mala cách xa chừng 2 cây số. Đây cũng là một cánh đồng ruộng mênh mông chỉ còn trơ trọi có một bảo tháp đã sụp đổ mà hội khảo cổ đang đào sâu xuống đáy đặng tìm các báu vật. Chúng tôi cũng lần mò vào tận trung tâm bảo tháp để chiêm ngưỡng. Gần bên tháp có một cây bồ đề kỷ niệm chỗ thiêu táng Đức Thế Tôn. Dưới cội cây có một vị sư người Tàu tu theo phái Đại Thừa đã hơn 25 năm và bây giờ ông được 50 tuổi. Nguyên trước kia, ông là con nhà phú giả, từ Trung Hoa qua chiêm bái mấy chỗ động tâm rồi phát đức tin trong sạch trở về từ biệt gia đình qua đây ẩn dật tu hành. Ông có làm một cái lều nhỏ trên chắn ba cây bồ đề đặng ở tham thiền. Kế đó, chúng tôi đi xem một trụ đá kỷ niệm chỗ con rạch mà trước kia Đức Phật dạy tôn giả Ānanda đi múc nước cho Ngài dùng trong khi đang bịnh kiết lỵ.
Nhà trọ nơi đây rất hẹp nên phái đoàn phải lên xe trở ra nhà ga cho kịp tàu hỏa. Tối hôm ấy đi về phía vườn Lumbini cách xa chừng 100 cây số, nơi đức Bồ tát giáng sanh trong kiếp chót.
           Viếng vườn Lumbini.
Bữa 18-11-1952, lúc 7 giờ tối thì tàu hỏa rời khỏi ga Gurakhpur đi Nawatanwa cách xa đó lối 100 cây số. Lúc tới nơi, phái đoàn được vào nghỉ tại nhà trọ của hội Đại Bồ Đề, trong ấy có một vị sư người Tích Lan coi sóc.
Sáng hôm sau, cơm nước xong độ 10 giờ, chúng tôi đồng đi viếng vườn Lumbini ở xa ga Nawtanwa chừng 25 cây số. Đoạn đường này rất cam go vì không lưu thông đặng nên phải đi bộ hoặc cưỡi ngựa, hay là đi xe bò, mướn người võng tới giá rất mắc. Nhưng ai nấy đều thích đi bộ nên chỉ mướn theo vài người khiêng vác hành lý và vật thực thôi. Chỗ này đường sá quạnh hiu vắng vẻ nên vấn đề vật thực cần phải sắp đặt châu đáo hơn các nơi khác để phòng ngừa cơn bất trắc. Đi mãi hơn 6 giờ chiều mới tới nơi. Chúng tôi đi theo đường xe bò, lội theo bờ ruộng và băng qua ba con sông nước cạn tới bắp vế. Nhờ hết mùa mưa nên chúng tôi băng qua sông rất dễ, thỉnh thoảng lại trải qua mấy bãi cát trắng phau và những cánh đồng ruộng màu vàng ánh trong mùa lúa chín. Khi qua hết hai con sông thì ông trưởng phái đoàn cho biết rằng đã vào tới địa phận xứ Nepal (trước kia là xứ Ca-tì-la-vệ). Nhờ đồng trống nên khi còn 1 cây số thì đã thấy hai hòn núi rất cao, giữa có hai tòa tháp bằng gạch cách nhau chừng 300 thước. Đó là ranh giới giữa hai xứ bên nội và bên ngoại của đức Bồ tát mà trước kia gọi là vườn Lumbini. Gần đó có một nhà trọ rộng rãi do Chánh phủ Nepal tạo riêng cho những người đi chiêm bái nghỉ ngơi. Xứ này nằm dưới ngọn núi Hy Mã Lạp Sơn nên khí hậu lạnh lắm.
Hôm ấy, phần thì đói và mệt mỏi nên ai nấy đều nghỉ sớm. Còn tôi, vì cảm thích được may mắn đến nơi thánh địa nên không ngủ, lần mò ra ngoài đến một nơi bằng thẳng gần thạch trụ kỷ niệm chỗ đức Bồ tát giáng sanh đặng ngồi niệm kinh. Mãi tới 11 giờ đêm, phần ở nơi trống trải tuyết lạnh thấu xương, phần tam y mỏng manh lại không chiếu không mền nên phải trở về nhà trọ, thân tâm khoan khoái lạ thường. Tôi nhớ lại câu của đức Bồ tát giáng sanh đi bảy bước rồi ứng thinh lên nói rằng: “Aggohamasmi lokassa jeṭṭhohamasmi lokassa seṭṭhomasmi lokassa. Ayamantimā jāti natthi dāni punabbhavo”. Nghĩa: “Ta đây là cao thượng, là đàn anh, là một bực quý cao hơn tất cả chúng sanh trên thế gian. Kiếp này là kiếp chót của ta luôn cả cảnh giới để luân hồi cũng không còn nữa”.
Sáng ra, chúng tôi lại đi xem xét tường tận thì gặp rất nhiều dấu vết của vô số tăng đường, trai đường hồi Phật giáo còn phồn thạnh mà nay chỉ là những đống gạch ngói ngổn ngang và chơn tường sụp đổ. Nơi giữa cảnh điêu tàn hiu quạnh ấy có một cây trụ đá lớn hơn một ôm, cao lối 5 thước do đức vua A Dục dựng lên cách đây hơn 2300 năm đặng kỷ niệm nơi đức Bồ tát giáng sanh.
Viếng xong, phái đoàn trở về nhà trọ lo sắp đặt cơm nước. Nhân dịp ấy, tôi trèo lên gác trên ngắm xem phong cảnh dãy Hy Mã Lạp Sơn có tiếng là hùng vĩ đẹp đẽ nhứt trên thế gian. Một lớp tuyết trắng dày luôn bao phủ vô số chót núi cao chọc trời, khiến người nhìn lâu có cảm giác rằng mình đang đứng trước một kỳ quan vĩ đại lạ thường không sao tưởng tượng đặng. Từ nhà trọ tới cánh rừng nằm dưới chơn núi cách xa 60 cây số và từ đây phải đi thêm 150 cây số nữa mới tới núi. Tuy còn xa núi như thế mà trời lạnh đến nứt cả da. Theo kinh chép lại thì trên dãy Hy Mã Lạp Sơn có bốn cái hồ rộng lớn vô cùng, chứa nhiều báu vật.
           Viếng chùa Kỳ Viên (Jetavana).
           Qua ngày 21-11-1952, lúc 2 giờ trưa, phái đoàn rời khỏi ga Nawtanwa để sang xứ Savathi (Xá Vệ) cách xa chừng 160 cây số để viếng Kỳ Viên tịnh xá do vị trưởng giả Cấp Cô Độc đã xuất ra hết 540 triệu đồng vàng cất lên để dâng cho Đức Phật.
Khi tàu ngừng tại ga Balrampur thì vào độ nửa đêm, phải chờ tới sáng mới mướn xe đưa vô chùa còn xa chừng 16 cây số.
Cũng như mấy nơi thánh tích khác, đoạn đường này toàn là đồng bằng, cây cỏ xanh um vắng vẻ không có nhà cửa, xóm làng chi cả. Lúc đến nơi, chúng tôi thấy một đám rừng toàn là những cây cao thấp lớn nhỏ mọc xen kẽ giữa mấy đống gạch ngói và chơn tường sụp đổ của cảnh tịnh xá nguy nga đồ sộ nhứt trong thời kỳ Phật còn tại thế. Trước khi vô đến chùa, chúng tôi thấy hồ Bokkharani bây giờ đã cạn khô. Trước kia, ông Đề Bà Đạt Đa khi biết ăn năn về những hành vi ác độc của mình, định xuống hồ này tắm gội sạch sẽ đặng vào sám hối với Phật. Nhưng khi đi gần tới hồ thì bị đất nẻ ra chôn sống.
Đi một đổi nữa thì gặp một cây bồ đề thật già ở trước cửa chùa. Có tích như vầy: “Một hôm, có người bạch Phật nên làm cách nào để cúng dường đức Như Lai bằng vật thực khi Ngài vắng mặt. Ngài dạy nên cúng dường cây bồ đề thì cũng được phước như bố thí đến Ngài vậy”. Người bổn xứ liền sang tận Bodh Gaya chiết một nhánh cây bồ đề cái đem về trồng trước cửa chùa mà hiện nay vẫn còn sống nhưng đã còi cọc. Đây là cây bồ đề lâu đời nhứt được trồng từ lúc đức Thế Tôn còn tại thế. Vào trong ranh chùa, vị trưởng phái đoàn chỉ cho chúng tôi những chỗ mà trước kia là cốc liêu của các vị đại A-la-hán: Angulimala, Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ca Diếp, A Nan. Cái tịnh thất ở giữa là của Đức Phật, gần đó có một cái bảo tọa rất lớn mà trước kia Ngài thường ngự để thuyết pháp. Chắc chỗ này rộng lắm mới có thể chứa được cả muôn ngàn thính giả như trong kinh đã nói và trong chùa có ít nhứt là 500 vị tỳ khưu.
Cách xa chùa Kỳ Viên chừng một cây số là kinh đô xứ Savatthi trước kia có dân cư nhiều nhứt xứ Ấn Độ, lối 60 triệu mà hết 50 triệu theo đạo Phật, còn bao nhiêu thì thuộc về các ngoại đạo. Nhưng đô thành huyên náo phồn thạnh ấy bây giờ trở nên một cảnh điêu tàn gần như bị thời gian che lấp ít ai để ý tới.
Tôi đương suy nghĩ đâu đâu bỗng phái đoàn cho biết sắp hết giờ nên cần trở về nhà ga gấp để đáp chuyến xe sang Lucknou cách xa 220 cây số, rồi từ đây lên tàu hỏa đi thêm 260 cây số nữa mới tới chỗ Đức Phật ngự trên cung trời Đạo Lợi thuyết pháp cho Phật mẫu nghe trong ba tháng hạ rồi trở xuống. Chỗ này hiện giờ chỉ còn một cây bồ đề và một trụ đá do vua A Dục dựng lên làm kỷ niệm. Ngoài ra, lại có vô số chân tường sụp đổ ngói gạch ngổn ngang trong vùng ấy.
            Viếng đền thờ Birla ở Delhi.
           Rời khỏi xứ Sangkassa, phái đoàn lại trở về nhà ga đặng đáp tàu hỏa sang Delhi, Thủ đô của xứ Ấn Độ cách xa 310 cây số. Tàu khởi hành lúc 7 giờ tối bữa 24-11-1952 đến 7 giờ sáng hôm sau, 25-11 mới tới nơi.
Kinh đô Delhi thật vô cùng rộng lớn, kiến trúc tối tân, dân số lối 6 triệu. Muốn đi xem khắp tỉnh thành, phi cơ phải bay đến 15 hoặc 20 phút. Tại đây có rất nhiều đền đài và cổ tích rất lâu đời. Hôm sau, phái đoàn được đi xem các cung điện của vua chúa thời xưa, xem tháp Kutab minar cao lối 75 thước và huê viên kỷ niệm chỗ thiêu táng thánh Cam Địa (Ganđhi).
Sau cùng, chúng tôi được vào xem một đền thờ của đạo Bà-la-môn do vua thương mãi Birla cất. Đền này thật vô cùng nguy nga đồ sộ, kiến trúc mỹ thuật tinh xảo không thua gì một đền vua. Trong ranh đền có nào là nhà trọ cho khách thập phương yên nghỉ, nào là thư viện cho người xem kinh đọc sách, nhà cho khách giải lao và nhiều cảnh vật tuyệt đẹp giúp tài liệu hữu ích cho các nhà nhiếp ảnh. Trong đền có quân lính canh gác khi vào người khách phải cởi giày, lột nón cho người giữ rồi lấy một cái thẻ để lúc ra về đổi lại. Đền thờ cất hai tầng. Tầng dưới để chứa báu vật và chia ra nhiều phòng để kinh sách hoặc làm việc. Tầng trên để thờ các vị thần. Có ba nóc cao vọi. Cái giữa thờ đức Vishnou có nhiều tay, cái bên tả thờ đức Siva có nhiều đầu và cái bên hữu đức Krishna thổi ống sáo.[7]
Vào lúc 11 giờ đêm phái đoàn từ giã Delhi đi qua Agra viếng đền Tajh Mahal cách xa gần 200 cây số là một kỳ quan vĩ đại kiến trúc theo Hồi giáo do vua Shah Jahan cho dựng lên gần mé sông Yamuna cách đây độ 300 năm.[8] Đền Tajh Mahal cất toàn bằng đá cẩm thạch trắng ráp lại, là một công trình tạo tác hết sức quan trọng trên đất Ấn Độ do hơn 20.000 nhơn công xây dựng trong 17 năm trường, sở tốn không sao kể siết.[9]
Dự lễ an vị Xá lợi tại Sanchi.
Tới bữa 27-11, lúc 7 giờ chúng tôi sang xứ Sanchi cách xa độ 455 cây số dự lễ an vị Xá lợi của hai vị đại A-la-hán Xá lợi Phất và Mục Kiền Liên. Sáng bữa 28-11 mới tới nơi và chúng tôi ở luôn 3 hôm tại đây chờ dự cuộc Hội nghị Phật giáo Quốc tế.
Hai vị Xá lợi này do một nhà khảo cổ người Anh tìm được trên núi Sanchi từ lâu đem về để tại bảo tàng viện Luân Đôn. Mãi đến khi Ấn Độ được độc lập, Chánh phủ Anh mới giao lại cho hội Đại Bồ Đề, hội này cho dựng lên một bảo tháp trên núi Sanchi gần chỗ đào được và mới tổ chức cuộc lễ an vị hôm nay.
Lễ này được cử hành hết sức long trọng, có vô số đại diện quốc tế đến dự và do hai vị thủ tướng Nehru (Ấn Độ) và U Nu (Miến Điện) đến khai mạc. Chỗ hành lễ trước kia chỉ là một khóm rừng nhờ sự bảo trợ của Chánh phủ Bhopal mà nay trở nên một tỉnh thành phồn thạnh huyên náo có đến một triệu dân thuộc về nhiều nước trên thế giới. Có cả một cơ binh coi giữ trật tự, có máy điện, máy nước, máy truyền thanh và luôn cả một hội chợ triễn lãm về kỹ nghệ thương mãi trưng bày nhiều vật quí lạ trong xứ làm cho cuộc lễ thêm phần long trọng. Lúc này nhằm giữa mùa đông nên Chánh phủ có dạy che trại vải dành riêng cho khách thập phương tới dự. Khi phái đoàn Cao Miên đọc diễn văn trên máy truyền thanh thì được các hội viên vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt, vì xứ Cao Miên đã rộng rãi dâng cho quỹ tổ chức lễ an vị một số tiền hơn 50.000 rupies (chừng 250.000$ xứ ta) và 10 thùng báu vật do bá tánh cúng dường trong lúc đức Xá lợi quang lâm đến kim thành.
Trên một con đồi cao có một cái cổ tháp do vua A Dục cho xây đã trên 2.000 năm toàn bằng đá xanh ráp lại bề cao chừng 13 thước và bề kính độ 30 thước. Cách đó 80 thước có một bảo tháp do hội Đại Bồ Đề sáng tạo kiến trúc theo kiểu tối tân tốn kém ngót 203.500 rupies (hơn 1 triệu bạc ta).
Tối hôm 30-11-1952 cuộc lễ an vị Xá lợi khởi hành, các viên quan quý chức và vô số tín đồ sắp hàng dài từ chân núi kéo lên. Người đi đầu là thủ tướng Miến U Nu đội tháp Xá lợi đến trước cửa tháp. Tới đây thủ tướng Ấn Néhru cắt dây khai mạc bảo tháp mới rồi tự mình nghinh tháp Xá lợi vào trong chuyển sang vị thượng tọa Vajiranānā, một bác sĩ triết học kiêm chức chánh Chủ tịch hội Đại Bồ Đề Tích Lan. Ngài Vajiranānā đón nghinh rồi đem an vị đức Xá lợi trên bảo đoàn. Chư tăng liền tụng kinh cung nghinh Xá lợi bằng tiếng Pāli nghe vang rền trong khắp vùng ấy, bấy nhiêu đó đủ chứng minh rằng đã trải qua mấy ngàn năm mà ân đức cao cả của hai vị đại A-la-hán Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất hãy còn ghi tạc trong trí não người đời. Chỉ với một chút xương tàn mà cũng kích thích mạnh mẽ đức tin và tâm nhiệt thành của khắp hàng Phật tử, huống hồ là ân huệ vô lượng của Đức Thích Ca Mâu Ni?
Viếng động Ajanta.
Vào bữa 1-12-1952 lúc 12 giờ trưa chúng tôi đáp tàu hỏa sang xứ Jalgoan ở xa chừng 400 cây số và tới 10 giờ sáng hôm sau thì tới nơi. Phái đoàn phải mướn autobus đi thêm 60 cây số nữa mới tới động Ajanta, từ ga Jalgoan tới tỉnh thành Bombay còn xa chừng 420 cây số.
Động Ajanta là một kỳ quan vĩ đại hiếm có trên thế gian, tất cả có 31 cái động kiến trúc liên tiếp nhau dọc theo một dãy núi, do các vị quốc vương trước kia của Ấn Độ đã tạo ra để kỉ niệm Phật giáo, có động làm đến một hoặc hai đời vua mới xong. Mỗi cái bề cao lối 14 thước, bề cao 8 hay 10 thước, có cái làm đến hai tầng toàn là đục vào trong núi, chạm trổ rất công phu mỹ thuật không thể tưởng tượng đặng. Hiện nay có rất nhiều nhà khảo cổ Âu-Mỹ-Á đến tận nơi xem xét để kinh nghiệm về cách kiến trúc chạm trổ của động Ajanta.
Trong động phần nhiều tối đen lạnh lùng khiến cho du khách có cảm giác rằng mình đang ở trong một cảnh hết sức uy nghiêm huyền diệu. Chánh phủ có làm tạm một cái máy điện cho các người đến chiêm bái hoặc các nhà khảo cổ mướn để soi sáng bên trong, muốn xem rõ những hình tượng chạm trổ trên vách đá, người khách phải dùng đèn pile và phải có phép của Chánh phủ mới được vào nhiếp ảnh thâu thập tài liệu. Có vài cái động đã sụp đổ về phía mặt tiền, có cái làm chưa xong còn bỏ dở, công cuộc tạo tác rất công phu tốn kém, vì phải đục vào trong núi rồi lấy đá vụn đem đổ một nơi xa, không biết bao nhiêu năm mới rồi.
Bấy nhiêu đó đủ chứng tỏ sự đúng đắn của câu phương ngôn Pháp “Muốn thì được”. Vì người đời mỗi khi có đức tin mạnh mẽ với một lý tưởng hoặc một chủ nghĩa nào rồi, thì dầu phải làm cho biển cạn non mòn họ cũng không nản chí.
Viếng động Ellora.
Sau khi viếng xong động Ajanta phái đoàn lại trở về nhà ga để đáp xe lửa sang xứ Manmad bữa 2-12 lúc 10 giờ đêm. Từ nhà ga Manmad đến động Ellora còn xa 142 cây số, chúng tôi phải sang qua xe lửa một lần và xe hơi một lần mới tới nơi.
Động này gồm lại 26 cái, kiến trúc cũng tương tợ như Ajanta nhưng không phải thuộc về Phật giáo mà là do các tín đồ Bà-la-môn giáo tạo ra để kỉ niệm và thờ phụng các vị thần của họ. Có động đục từ dưới một trái núi phủng lên tới trên không, rất mỹ thuật đẹp đẽ, có khi hết 2, 3 đời vua mới làm xong một cái động.
Đến tỉnh thành Bombay.
Sáng chúa nhựt 4-12-1952, lúc 5 giờ mọi người lại khuân hành lý ra tàu hỏa để viếng tỉnh thành Bombay. Đây là một đô thị đẹp nhứt của xứ Ấn Độ được dựng dọc theo bờ biển Oman, bề dài tới 3, 4 chục cây số, dân cư hơn 5 triệu. Tại đây có rất nhiều đền tháp thuộc về các đạo giáo khác nhau và có một nhà trọ của hội Đại Bồ Đề, toàn dân trong xứ đều theo Hồi giáo hoặc Bà-la-môn giáo chớ chẳng mấy ai mộ đạo Phật. Xa nhà ga chừng một cây số có một ngôi chùa tên là Mahajana Vihara do hội Đại Bồ Đề sáng tạo để tìm cách hoằng dương chánh pháp.
Bữa 6-12 phái đoàn lại rời khỏi Bombay đặng trở về Madras cách xa 1.400 cây số, vì dọc đường không có Phật tích nên tàu chạy luôn 2 đêm 1 ngày mới tới nơi vào lúc 6 giờ sáng hôm 8-12. Đến đây là kết thúc cuộc hành trình vòng quanh xứ Ấn Độ, phái đoàn phải ở lại vài hôm đợi chuyến phi cơ về Colombo.
6. Thỉnh Ngọc Xá lợi Đức Phật Tổ
           Về đến Colombo tôi cũng luôn luôn cố gắng nghiên cứu học hỏi kinh luật đến giáp năm. Khi gần về xứ, muốn đáp lại đức tin trong sạch của chư thiện tín Việt Nam ở Saigon và Kim Biên đã hy sanh công của rất nhiều vào công cuộc xuất dương sang xứ Phật, tôi tìm cách yêu cầu các vị giáo tông thuộc nhiều phái ở Tích Lan, đặng thỉnh một hòn ngọc Xá lợi của Đức Phật Tổ về xứ cho hàng tứ chúng phụng thờ chiêm bái. Tôi phải vận động nhiều nơi vì nếu chỗ này không được thì còn chỗ khác. Nhưng phước thay! Còn vài ba hôm nữa lên đường thì có đức Giáo tông Vipassi thuộc phái Siam Nikaya hiến cho một hòn ngọc đức Phật tổ bằng cỡ hột gạo.
Tôi rất thỏa thích về sự kết quả ấy nhưng bỗng đâu dịp may đưa đến dồn dập bất ngờ, khi còn một ngày nữa hồi hương tôi được vị thượng tọa phái Ramañña Nikaya pháp danh là Gunasiri trụ trì chùa Mirissa đánh điện văn cho tôi hay Ngài sẽ hiến cho một viên ngọc Xá lợi Đức Phật tổ nhỏ cỡ hột mè, chùa Ngài ở xa Colombo chừng 150 cây số.
Ceylon Télegram
Nagathero 174 dématagoda road maradana
Bringing relic prepare casket
Gurnasiri from mirissa.
Nghĩa: Sửa soạn tháp tôi đem Xá lợi biếu.
Trước kia tôi cũng có yêu cầu Đại đức Narada thuộc phái Amapura Nikaya Bauy cho một đức Xá lợi đem về xứ Việt Nam cho hàng tứ chúng thờ phụng, vì trong xứ ta chẳng có nơi nào thờ Xá lợi cả. Trái lại trên đảo Tích Lan, trong dịp đi viếng mấy nơi thánh tích tôi gặp rất nhiều tháp thờ Xá lợi được dựng lên khắp nơi cho các tín đồ chiêm bái, nhứt là bảo tháp Maha Cetiya tại tỉnh Anuradhapura luôn luôn có hàng trăm hàng ngàn người tới lui tấp nập để cúng dường Xá lợi.
May thay, khi gần về xứ Đại đức Narada lại cho tôi hay rằng Ngài mới thỉnh được hai vị Xá lợi Đức Phật tổ nơi chùa Kosgoda do vị thượng tọa Siri Sumanarevata Nayaka Thera thỉnh từ Ấn Độ đã lâu đời. Quí giá hơn nữa là Đại đức Narada được người thỉnh sang Tân-Gia-Ba truyền bá Chánh pháp. Thừa dịp ấy, tôi yêu cầu Ngài tiện đường sang viếng Việt Nam trước để tìm cách củng cố nền móng Phật giáo Nguyên Thủy, sau nữa, mang ngọc Xá lợi sang biếu. Như vậy, cuộc lễ cung nghinh sẽ được chánh thức và thêm phần long trọng hơn là tự tôi thỉnh về.
Trong khi sang viếng Đông Dương nhằm lúc hạ tuần tháng sáu 1953 dương lịch, Đại đức Narada có hiến cho nhóm PGNT Kỳ Viên một vị Xá lợi, một vị nữa cho đức Từ cung Hoàng thái hậu để riêng cho Phật giáo Đại thừa toàn quốc Việt Nam. Ngài cũng hiến một hột Xá lợi khác cho xứ Cao Miên mà trước kia Ngài có đến ở hoằng Pháp trong một thời gian.
Khi gần trở về xứ đức Phó Giáo tông phái Siam Nikaya tại Kandy Tích Lan có biếu cho ngọc Xá lợi của Đức Phật Tổ Thích Ca cỡ bằng hột gạo (vì tôi có yêu cầu Ngài trước) hiện nay Ngọc Xá lỵ ấy đương để thờ tại chùa Roka-Kandal Kratié.
Lúc đúng một năm, tôi lo giấy tờ về xứ cho kịp dự lễ cung nghinh Xá lợi được cử hành trọng thể tại chùa Kỳ Viên tự vào những ngày 21-22-23 tháng 6 năm 1953 và bắt đầu hoạt động làm cho Phật giáo chánh truyền mau tấn triển trên đất Việt.
– CHUNG –
T.B. Do quả phước thanh cao của sự “Hành trình sang xứ Phật” chiêm bái 4 chỗ động tâm và các nơi thánh tích khác. Tôi xin hồi hướng phần phước thanh cao này cho thân phụ đã hóa vãng và mẫu thân còn hiện tiền xin cho các vị ân nhân ấy hằng được sự an vui. Và cũng xin hồi hướng cho tất cả chư thiện tín các nơi nhứt là Cần Ché hết lòng hộ độ tôi về nền tài chánh trong cuộc xuất dương được thành tựu mỹ mãn, luôn cả chư thiện tín hảo tâm xuất của cải ra để in cuốn ký sự này. Xin cho các vị kể trên đây hoan hỷ thọ lãnh phước báu này và xin cho hằng được sự an vui vĩnh viễn.
ĐĐ. Nāga Thera
[1] Tích Lan đảo.
[2] Nơi các xứ theo PGNT không có Tỳ khưu Ni sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn được 1.000 năm (ngày nay các vị ấy được gọi là Tu nữ (nun)).
[3] Hôm ấy tình cờ tôi gặp một nhà Sư người Mỹ đã xuất gia theo Phật giáo Nguyên Thủy và đang học tham thiền.
[4] Đạo Gia-tô được truyền vào đây hồi thế kỷ XV, XVI bởi các nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha và Hòa Lan có thủy quân ủng hộ. Bị ngoại ban xâm chiếm và muốn được bảo vệ yên ổn, dân chúng xin vào đạo ấy rất nhiều, hơn nữa tôn chỉ về linh hồn và đức thượng đế tạo tác của Bà-la-môn giáo và Gia-tô giáo có nhiều chỗ giống nhau nên hai đạo ấy rất dễ dung hòa.
[5] Kinh này phải giảng cho hàng tứ chúng khi ở nơi thành nếu có sự ghê gớm phát sanh thì nên niệm ân đức Tam bảo thì khỏi sợ ngay.
[6] Bồ Đề Đạo Tràng nghĩa là nơi Bồ tát Sĩ Đạt Ta tĩnh tọa trường kỳ với chí nguyện đến khi nào đạt được quả Phật toàn giác thì Ngài mới chịu đứng dậy.
[7] Có nhiều nơi thờ 3 vị Vishnou-Brahma-Siva đều là các vị thần do sự tưởng tượng tạo ra. Đức Brahma thần tạo tác ra vạn vật ở giữa, đức Vishnou thần bảo tồn vạn vật ở bên mặt và đức Siva thần hủy diệt vạn vật bên trái.
[8]  (2)Vua Shah Jahan cho xây đền Tajh Mahal để thờ bà hoàng hậu yêu quí nhứt của ngài là Mounfaz Mahal thăng hà trong khi lâm bồn vào năm 1631.
[9]  (3)Về vấn đề nhơn công, có lẽ vua Shal Jahan cũng lạm dụng quyền thế ép bức dân chúng như vua Tần Thủy Hoàng xây Vạn lý trường thành mới làm xong việc đại sự như thế.
Xem thêm: https://theravada.vn/book/hanh-trinh-sang-xu-phat-ty-khuu-buu-chon/
0 notes
letyourmindpe14 · 6 years ago
Text
PGĐ Quỹ Đầu tư Tín dụng tỉnh Vĩnh Phúc: ‘Tìm mọi cách chữa bệnh cho con gái, cuối cùng tôi tìm ra phương thuốc cho chính mình’
Tumblr media Tumblr media
Trong kiếp nhân sinh, thật vụng về nếu so sánh gánh nặng cuộc đời của những người làm cha, làm mẹ. Cũng chẳng dễ cân đong sức nặng đặt lên vai khi chứng kiến con gái nhỏ bé sống héo hắt, đau đớn bởi một căn bệnh y học hiện đại không thể chữa. Nhưng người cha trong câu chuyện dưới đây đã không cam tâm chấp nhận giới hạn của khoa học hiện hữu, bằng tình yêu thương con gái vô bờ bến, anh đã tìm ra phương thuốc nhiệm màu…
Năm 2012
Tai họa từ đâu giáng xuống đứa con gái 10 tuổi của tôi. Cháu đang khoẻ mạnh bỗng nhiên mắc bệnh suy giảm tiểu cầu vô căn. Vì căn bệnh quái ác ấy mà con tôi bị xuất huyết ngoài da và suy giảm tiểu cầu liên tục. Mỗi lần con lả đi, tôi lại tất tưởi đưa con xuống Bệnh viện huyết học Trung ương cấp cứu.
Ròng rã hơn một năm trời qua rất nhiều lần xét nghiệm và lên phác đồ điều trị nhưng bệnh vẫn không khỏi. Bác sĩ chỉ có thể truyền máu khi tình trạng nguy cấp và cho uống thêm vài loại thuốc. Tuy thuốc có thể hạn chế tiểu cầu suy giảm nhưng nó lại có tác dụng phụ, khiến cháu trở nên rất yếu và bị phù do tích nước.
Trong nước chữa không khỏi, tôi gửi hồ sơ bệnh án của con sang Đức với hy vọng rằng, nền y học tiên tiến của họ có thể chữa được. Nhưng hy vọng càng nhiều, thất vọng càng lớn. Bệnh viện bên đó trả lời rằng, hiện thế giới chưa tìm ra phương pháp chữa trị cho con tôi.
Không đầu hàng trước số phận, tôi chuyển sang dùng biện pháp Đông - Tây y kết hợp mà bệnh của con vẫn vậy. Thậm chí, gia đình tôi còn mời một vị sư từ Bình Định ra giúp đỡ. Nhưng sau 6 tháng, dù rất thành tâm và nhiệt tình, vừa tụng kinh, vừa chỉnh lại phong thuỷ, vừa cho cháu uống thuốc từ các loại lá cây bình thường đến Hồng Sâm, nhung hươu tươi… cuối cùng vị ấy cũng chủ động nói với gia đình tôi là không giúp gì hơn được nữa và xin phép cáo lui.
Tumblr media
Gia đình anh Phùng Anh Việt và con gái.
Tumblr media
Cứ tìm, cứ chữa, cứ hy vọng và cứ liên tục thất vọng, đó là hoàn cảnh của gia đình tôi trong những năm ấy.
Cứ tìm, cứ chữa, cứ hy vọng và cứ liên tục thất vọng, đó là hoàn cảnh của gia đình tôi trong những năm ấy. Một người anh hàng xóm rất thân thiết với gia đình tôi nhắc nhở rằng, nếu tôi cứ tiếp tục như thế thì sẽ có thể bị lừa rất nhiều tiền. Tôi cảm ơn anh và nói rằng tôi chấp nhận điều đó, bởi vì nếu không thử thì coi như chúng tôi đầu hàng và sinh mệnh của con tôi sẽ rất nguy hiểm. Bề ngoài thì nói cứng như vậy, nhưng vợ chồng tôi cũng đã phải ôm nhau mà khóc và tự nhủ rằng sẽ chữa bệnh cho con gái đến cùng, nhưng cũng phải sẵn sàng nếu số mệnh không mỉm cười với cháu.
Con đường dài tìm kiếm chân lý
Tumblr media
Tôi quyết định chọn Pháp môn trì tụng Thần Chú Đại Bi bởi vì nghe nói Bồ Tát Quan Thế Âm có thể cứu khổ cứu nạn cho con người thế gian.
Giữa lúc tuyệt vọng ấy, một người bạn của tôi làm ở Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam nói với tôi rằng, bệnh của con người là do nợ nghiệp tạo ra, muốn khỏi bệnh, thì phải tu Phật. Quả thực, dù gia đình tôi đã có tâm kính ngưỡng Phật, nhưng chỉ biết thắp hương và đi lễ chùa cầu Phật phù hộ, chứ thực tình chưa hiểu biết gì về tu luyện và Pháp lý nhà Phật.
Nhưng còn nước còn tát, tôi không bỏ qua cơ hội, sau khi bàn bạc với gia đình, tôi quyết định thử trước, nếu thấy hiệu quả sẽ đồng hành cùng con. Nhưng tu luyện không phải trò đùa con trẻ mà là chuyện nghiêm túc phi thường, không phải cứ muốn tu là tu được ngay. Nhất là giữa thời đại loạn bát nháo này, một số người mang danh Phật để khuấy đảo xã hội, để cầu danh cầu lợi thì để tìm được Pháp môn tu luyện chân chính quả là gian nan.
Tôi tích cực tìm hiểu những giáo lý Phật Pháp của rất nhiều môn phái, nhưng tôi vẫn chỉ như người mới đi rừng lần đầu, hoàn toàn là mò mẫm đường đi và chỉ biết rằng Phật Pháp là tốt. Sau một hồi đắn đo, tôi quyết định chọn Pháp môn trì tụng Thần Chú Đại Bi bởi vì nghe nói Bồ Tát Quan Thế Âm có thể cứu khổ cứu nạn cho con người thế gian. Cùng lúc đó, nghe ai mách ở đâu có thuốc Nam có thể chữa bệnh cho con là tôi lại mua về cho cháu uống. Rồi hơn một năm nữa trôi qua cứ tụng niệm Thần Chú Đại Bi và uống thuốc, mà bệnh của con tôi vẫn không thuyên giảm...
Tumblr media Tumblr media
Cánh cửa này đóng lại, cánh cửa khác sẽ mở ra
Người có tâm thì trời không phụ. Đến khoảng giữa năm 2016, tôi tình cờ đọc được những bài chia sẻ của người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp về kỳ tích họ đạt được khi tu luyện như: khỏi bệnh bại liệt, ung thư, hết nghiện ma tuý, v.v... Tôi rất ngạc nhiên. Nhưng lúc đó, tôi đã không tin.
Tuy nhiên, do tò mò, tôi đã tìm đọc bằng được cuốn sách “Chuyển Pháp Luân”, càng đọc tôi càng bị cuốn hút. Dù tôi chỉ hiểu được ý nghĩa bề mặt của câu chữ nhưng những đạo lý được giảng rất giản dị, dễ hiểu lại vô cùng sâu sắc.
Tumblr media Tumblr media
Những chuyện về tâm linh từ trước đây tôi thấy huyền hoặc thì nay được giải khai rất rõ ràng. Còn có vô số kiến thức về khoa học mà tôi chưa bao giờ nghe hoặc đọc được ở bất cứ nơi đâu đều nằm trong cuốn sách ấy.
Nhưng vốn cố chấp và đa nghi, tôi vẫn nghĩ mình trải nghiệm như lời nói trong sách mình mới tin. Cũng chẳng mất gì, bất quá chỉ là mất chút thời gian, tôi đi tìm những người tu luyện Pháp Luân Công nơi tôi sống để kiểm chứng. Trong những người tôi gặp gỡ, tôi ấn tượng nhất với cụ ông 77 tuổi. Cụ chia sẻ rằng, cụ bị tai biến mạch máu não, tắc nghẽn mạch vành tim, được gia đình đưa ra Bệnh viện tim Hà Nội mổ, nhưng khi hội chẩn lần cuối thì bệnh viện trả cụ về, với lý do nếu mổ cho cụ, thì tỉ lệ tử vong trên bàn mổ là rất cao. Tuy nhiên, chỉ sau 4 tháng rưỡi tu luyện, bệnh của cụ đã khỏi hoàn toàn. Nói về sự thần kỳ của việc tu luyện, khuôn mặt cụ đẫm nước mắt vì xúc động, vừa đứng lên cụ vừa nói: “Quý vị xem, tôi có còn là người có bệnh không?”.
Tumblr media Tumblr media
Hân hoan tột cùng vì được mắt thấy tai nghe về một trường hợp khỏi bệnh thần kỳ nhờ tu luyện Đại Pháp, về nhà tôi kể lại chuyện ấy cho gia đình nghe. Nhưng mọi người không tin còn bảo rằng, thời buổi bây giờ lừa đảo nhiều lắm, khéo mà chả có bệnh cũng nhận có bệnh để lừa đảo. Tôi thực sự cụt hứng, nhưng vì muốn kiểm chứng sự thật tôi nhờ anh trai tôi là bác sỹ, đi cùng đến nhà ông cụ ấy lần nữa.
Đến nơi, điều trước tiên làm tôi kinh ngạc chính là ông cụ cách đây chưa đầy 5 tháng bị bệnh viện trả về, đang cuốc đất ngoài vườn! Sau phút giây ngại ngần, tôi bày tỏ nguyện vọng muốn xem hồ sơ bệnh án của cụ và được ông vui vẻ đồng ý. Lúc ra về, anh trai tôi khẳng định hồ sơ bệnh án của ông ấy là thật. Vậy là, sự nghi ngờ trong tôi được trút xuống, tôi hoàn toàn bị thuyết phục!
Tumblr media
Cảnh tuỳ tâm chuyển
Thời gian thấm thoắt trôi qua, tôi đã đọc sách Đại Pháp được 3 tháng và luyện công được một tháng. Bỗng một hôm, tôi giật mình nhận ra rằng cái lưng vốn bị thoát vị đĩa đệm và cái cổ vốn bị thoái hoá đốt sống của tôi hết đau từ lúc nào không hay.
Tuy nhiên vì là một cán bộ đảng viên nên tôi vẫn phải tìm hiểu xem pháp luật của Việt Nam quy định về vấn đề Pháp Luân Công như thế nào. Tôi có hỏi một số người quen làm việc tại ngành tư pháp và ngành công an, và tôi đã nhận được câu trả lời thích đáng. Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định người dân được quyền tự do tín ngưỡng, pháp luật Việt Nam không cấm luyện tập Pháp Luân Công. Trong kinh sách Đại Pháp, Đại sư Lý Hồng Chí cũng giảng rất rõ ràng rằng Pháp Luân Công không ghi danh, không có tổ chức, không thu tài chính và yêu cầu người tu luyện Đại Pháp không được tham dự vào chính trị.
Tumblr media
Hơn nữa, người tu luyện Đại Pháp hành xử phải theo nguyên lý Chân - Thiện - Nhẫn, lấy thiện đãi người, buông bỏ những tham cầu thái quá ở đời. Như vậy làm sao có chuyện người tu luyện đi đấu tranh, đi tranh giành quyền lực chính trị hay bất cứ gì khác.
Có người e ngại vì nghe tin Pháp Luân Công bị đàn áp ở Trung Quốc. Thực tế, môn tu luyện tốt đẹp này được chào đón nồng nhiệt ở hơn 114 quốc gia; người sáng lập ra Pháp môn, Đại sư Lý Hồng Chí, đã được đề cử giải ‘Nobel hoà bình'. Luật pháp ở Trung Quốc không cấm tu luyện Pháp Luân Công. Tuy nhiên, do lo sợ hão huyền về việc những người tu luyện làm chính trị, do khác biệt về ý thức hệ tư tưởng giữa một bên phỉ báng Thần Phật với một bên là những người tu luyện tín ngưỡng tôn thờ Thần Phật, một số cá nhân và tổ chức của ĐCS Trung Quốc với sự đứng đầu là Giang Trạch Dân đã lợi dụng quyền lực, đứng trên luật pháp ��ể thực hiện cuộc đàn áp, bức hại những người tu luyện Pháp Luân Công một cách man rợ. Thậm chí, họ đã lợi dụng cuộc đàn áp này để mổ cướp nội tạng của hàng triệu người tu luyện thiện lương để thu lợi bất chính. Đó là tội ác man rợ nhất trong lịch sử loài người đã bị thế giới và nhiều luật sư nhân quyền vạch trần, lên án.
Trải qua nhiều thử thách, cuối cùng, tôi cũng đã khẳng định được rằng Pháp Luân Công là chính Pháp.
Tumblr media
Và tôi cũng nhận ra không phải cứ cạo đầu, lên chùa quy y là tu luyện, sống giữa đời thường, tu tâm sửa tính cũng có thể khiến người ta thăng hoa về cảnh giới tư tưởng, và chính lúc đó bệnh tật sẽ rời xa.
Cuộc sống luôn kỳ diệu khi có tình yêu và niềm tin
Tôi nghe được những lời đồn đoán bảo tu Pháp Luân Công là không được thờ cúng tổ tiên, bỏ bê gia đình, nhưng qua trải nghiệm tu luyện thực tế thì tôi thấy những người tu luyện chân chính vẫn sinh hoạt bình thường như hàng triệu người khác, chỉ có điều, trong tâm chúng tôi luôn nhắc mình phải tu sửa và hướng đến cội nguồn Chân - Thiện - Nhẫn.
Sau một thời gian tu luyện, bao nhiêu thứ vốn trước đây ngùn ngụt trong tôi, thì nay hầu như đều mai một. Nào là danh lợi tình; nào là tham sân si; nào là đố kỵ, tranh đấu; nào là tự mãn, kiêu căng; nào là hiển thị, khoe khoang; nào là truy cầu, vun vén, v.v… Tất cả những thứ ấy cứ nhạt nhoà dần, cứ từng bước rời bỏ tôi mà đi. Còn về cái được, có muốn kể ra cũng không kể hết. Không khí gia đình tôi trở về an hoà, yên ổn. Mỗi khi nhớ lại quãng thời gian trước khi tu luyện Đại Pháp, tôi vẫn không khỏi rùng mình, thảng thốt.
Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media
Khoảng tháng 9 năm 2016, tôi đã đưa cho con gái đọc “Chuyển Pháp Luân” và hướng dẫn con luyện công. Để theo dõi hiệu quả tu luyện của con gái, hai vợ chồng tôi đưa cháu đi xét nghiệm máu. Mức tiểu cầu của cháu trước khi tu luyện là 24 đơn vị/cm3, trên người xuất hiện rất nhiều chỗ xuất huyết dưới da. Nhưng thật diệu kỳ! Sau một tháng rưỡi cháu tu luyện, tiểu cầu máu của cháu đã tăng lên mức 68 đơn vị/cm3 và các vết xuất huyết của cháu gần như không còn.
Một năm nữa đã trôi qua, mặc dù con gái tôi vẫn cần ba ngày để luyện đủ 5 bài công pháp nhưng cháu không còn phải đi viện nữa. Hiện tượng phù nề do uống thuốc cũng biến mất. Sức khoẻ và tinh thần của cháu được cải thiện và nâng cao rõ rệt; chế độ ăn uống, sinh hoạt cá nhân và việc học hành của cháu đã trở về bình thường. Hè năm 2017, con gái tôi đ�� thủ khoa trong kỳ thi vào lớp 10 của trường THPT Nguyễn Thái Học.
Tumblr media
Ảnh anh Phùng Anh Việt cùng vợ và hai con.
Mới chỉ một năm kể từ khi hai bố con tôi cùng tu luyện Đại Pháp, gia đình tôi đã được hưởng hồng ân hạo đãng của Đại Pháp. Không còn cảnh luôn ở trong tình trạng sẵn sàng đưa nhau đi cấp cứu, không còn cảnh vợ chồng tôi phải khóc thầm khóc trộm vì lo cho tính mạng của con gái, không còn phải xin nghỉ việc và bán hết tài sản này đến tài sản kia để lo tiền chữa bệnh, cũng không còn cái không khí nặng nề, u ám khi trong nhà có người bệnh nặng… Nhưng tất cả những điều đó đều quá nhỏ bé so với việc chúng tôi được thăng hoa về tư tưởng, chuyển biến về tâm tính, cải biến về thân thể, được chứng ngộ rất nhiều những điều thần kỳ mà chỉ những người thực tu Đại Pháp mới có thể cảm nhận được.
Ngẫm lại cả chặng đường tìm kiếm phương thuốc chữa bệnh cho con, tôi xúc động từ trong tâm khảm. Bởi tình yêu vô điều kiện dành cho con gái mình, sẵn sàng “thử" kể cả những điều chưa bao giờ biết chỉ để tìm cho con một con đường sống, tôi đã gặp được điều tốt lành nhất. Rồi niềm tin kiên định vào những giá trị thiện lương đã đưa tôi đến đích... Những mất mát, vất vả trong suốt cả chặng đường trở nên quá nhỏ bé so với những gì tôi nhận được. Chẳng phải khi bản thân thật tâm sẵn sàng hy sinh cho người khác, thì cũng chính là lúc cuộc sống trao tặng lại mình những món quà còn to lớn hơn? Trước đây tôi cứ như một con thiêu thân bay đi tìm ánh sáng, giờ tôi mới vỡ lẽ, khi tu sửa bản thân, tâm sẽ như một ngọn đèn, tự phát ra ánh sáng mà chẳng sợ bóng tối bủa vây…
Tôi mong rằng có nhiều người hơn nữa hiểu đúng về Đại Pháp, nhiều người hơn nữa đắc được lợi ích từ Đại Pháp như gia đình tôi.
Phùng Anh Việt Cử nhân học viện Tài chính Hà Nội - Thạc sỹ Quản trị Kinh doanh Đại học Bách khoa Hà Nội – Phó Giám đốc Quỹ đầu tư Phát triển và Bảo lãnh Tín dụng tỉnh Vĩnh Phúc.
from Đại Kỷ Nguyên - Feed - https://ift.tt/2OzzwDc via IFTTT
0 notes
beatyroseflower · 6 years ago
Text
PGĐ Quỹ Đầu tư Tín dụng tỉnh Vĩnh Phúc: ‘Tìm mọi cách chữa bệnh cho con gái, cuối cùng tôi tìm ra phương thuốc cho chính mình’
Tumblr media Tumblr media
Trong kiếp nhân sinh, thật vụng về nếu so sánh gánh nặng cuộc đời của những người làm cha, làm mẹ. Cũng chẳng dễ cân đong sức nặng đặt lên vai khi chứng kiến con gái nhỏ bé sống héo hắt, đau đớn bởi một căn bệnh y học hiện đại không thể chữa. Nhưng người cha trong câu chuyện dưới đây đã không cam tâm chấp nhận giới hạn của khoa học hiện hữu, bằng tình yêu thương con gái vô bờ bến, anh đã tìm ra phương thuốc nhiệm màu…
Năm 2012
Tai họa từ đâu giáng xuống đứa con gái 10 tuổi của tôi. Cháu đang khoẻ mạnh bỗng nhiên mắc bệnh suy giảm tiểu cầu vô căn. Vì căn bệnh quái ác ấy mà con tôi bị xuất huyết ngoài da và suy giảm tiểu cầu liên tục. Mỗi lần con lả đi, tôi lại tất tưởi đưa con xuống Bệnh viện huyết học Trung ương cấp cứu.
Ròng rã hơn một năm trời qua rất nhiều lần xét nghiệm và lên phác đồ điều trị nhưng bệnh vẫn không khỏi. Bác sĩ chỉ có thể truyền máu khi tình trạng nguy cấp và cho uống thêm vài loại thuốc. Tuy thuốc có thể hạn chế tiểu cầu suy giảm nhưng nó lại có tác dụng phụ, khiến cháu trở nên rất yếu và bị phù do tích nước.
Trong nước chữa không khỏi, tôi gửi hồ sơ bệnh án của con sang Đức với hy vọng rằng, nền y học tiên tiến của họ có thể chữa được. Nhưng hy vọng càng nhiều, thất vọng càng lớn. Bệnh viện bên đó trả lời rằng, hiện thế giới chưa tìm ra phương pháp chữa trị cho con tôi.
Không đầu hàng trước số phận, tôi chuyển sang dùng biện pháp Đông - Tây y kết hợp mà bệnh của con vẫn vậy. Thậm chí, gia đình tôi còn mời một vị sư từ Bình Định ra giúp đỡ. Nhưng sau 6 tháng, dù rất thành tâm và nhiệt tình, vừa tụng kinh, vừa chỉnh lại phong thuỷ, vừa cho cháu uống thuốc từ các loại lá cây bình thường đến Hồng Sâm, nhung hươu tươi… cuối cùng vị ấy cũng chủ động nói với gia đình tôi là không giúp gì hơn được nữa và xin phép cáo lui.
Tumblr media
Gia đình anh Phùng Anh Việt và con gái.
Tumblr media
Cứ tìm, cứ chữa, cứ hy vọng và cứ liên tục thất vọng, đó là hoàn cảnh của gia đình tôi trong những năm ấy.
Cứ tìm, cứ chữa, cứ hy vọng và cứ liên tục thất vọng, đó là hoàn cảnh của gia đình tôi trong những năm ấy. Một người anh hàng xóm rất thân thiết với gia đình tôi nhắc nhở rằng, nếu tôi cứ tiếp tục như thế thì sẽ có thể bị lừa rất nhiều tiền. Tôi cảm ơn anh và nói rằng tôi chấp nhận điều đó, bởi vì nếu không thử thì coi như chúng tôi đầu hàng và sinh mệnh của con tôi sẽ rất nguy hiểm. Bề ngoài thì nói cứng như vậy, nhưng vợ chồng tôi cũng đã phải ôm nhau mà khóc và tự nhủ rằng sẽ chữa bệnh cho con gái đến cùng, nhưng cũng phải sẵn sàng nếu số mệnh không mỉm cười với cháu.
Con đường dài tìm kiếm chân lý
Tumblr media
Tôi quyết định chọn Pháp môn trì tụng Thần Chú Đại Bi bởi vì nghe nói Bồ Tát Quan Thế Âm có thể cứu khổ cứu nạn cho con người thế gian.
Giữa lúc tuyệt vọng ấy, một người bạn của tôi làm ở Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam nói với tôi rằng, bệnh của con người là do nợ nghiệp tạo ra, muốn khỏi bệnh, thì phải tu Phật. Quả thực, dù gia đình tôi đã có tâm kính ngưỡng Phật, nhưng chỉ biết thắp hương và đi lễ chùa cầu Phật phù hộ, chứ thực tình chưa hiểu biết gì về tu luyện và Pháp lý nhà Phật.
Nhưng còn nước còn tát, tôi không bỏ qua cơ hội, sau khi bàn bạc với gia đình, tôi quyết định thử trước, nếu thấy hiệu quả sẽ đồng hành cùng con. Nhưng tu luyện không phải trò đùa con trẻ mà là chuyện nghiêm túc phi thường, không phải cứ muốn tu là tu được ngay. Nhất là giữa thời đại loạn bát nháo này, một số người mang danh Phật để khuấy đảo xã hội, để cầu danh cầu lợi thì để tìm được Pháp môn tu luyện chân chính quả là gian nan.
Tôi tích cực tìm hiểu những giáo lý Phật Pháp của rất nhiều môn phái, nhưng tôi vẫn chỉ như người mới đi rừng lần đầu, hoàn toàn là mò mẫm đường đi và chỉ biết rằng Phật Pháp là tốt. Sau một hồi đắn đo, tôi quyết định chọn Pháp môn trì tụng Thần Chú Đại Bi bởi vì nghe nói Bồ Tát Quan Thế Âm có thể cứu khổ cứu nạn cho con người thế gian. Cùng lúc đó, nghe ai mách ở đâu có thuốc Nam có thể chữa bệnh cho con là tôi lại mua về cho cháu uống. Rồi hơn một năm nữa trôi qua cứ tụng niệm Thần Chú Đại Bi và uống thuốc, mà bệnh của con tôi vẫn không thuyên giảm…
Tumblr media Tumblr media
Cánh cửa này đóng lại, cánh cửa khác sẽ mở ra
Người có tâm thì trời không phụ. Đến khoảng giữa năm 2016, tôi tình cờ đọc được những bài chia sẻ của người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp về kỳ tích họ đạt được khi tu luyện như: khỏi bệnh bại liệt, ung thư, hết nghiện ma tuý, v.v… Tôi rất ngạc nhiên. Nhưng lúc đó, tôi đã không tin.
Tuy nhiên, do tò mò, tôi đã tìm đọc bằng được cuốn sách “Chuyển Pháp Luân”, càng đọc tôi càng bị cuốn hút. Dù tôi chỉ hiểu được ý nghĩa bề mặt của câu chữ nhưng những đạo lý được giảng rất giản dị, dễ hiểu lại vô cùng sâu sắc.
Tumblr media Tumblr media
Những chuyện về tâm linh từ trước đây tôi thấy huyền hoặc thì nay được giải khai rất rõ ràng. Còn có vô số kiến thức về khoa học mà tôi chưa bao giờ nghe hoặc đọc được ở bất cứ nơi đâu đều nằm trong cuốn sách ấy.
Nhưng vốn cố chấp và đa nghi, tôi vẫn nghĩ mình trải nghiệm như lời nói trong sách mình mới tin. Cũng chẳng mất gì, bất quá chỉ là mất chút thời gian, tôi đi tìm những người tu luyện Pháp Luân Công nơi tôi sống để kiểm chứng. Trong những người tôi gặp gỡ, tôi ấn tượng nhất với cụ ông 77 tuổi. Cụ chia sẻ rằng, cụ bị tai biến mạch máu não, tắc nghẽn mạch vành tim, được gia đình đưa ra Bệnh viện tim Hà Nội mổ, nhưng khi hội chẩn lần cuối thì bệnh viện trả cụ về, với lý do nếu mổ cho cụ, thì tỉ lệ tử vong trên bàn mổ là rất cao. Tuy nhiên, chỉ sau 4 tháng rưỡi tu luyện, bệnh của cụ đã khỏi hoàn toàn. Nói về sự thần kỳ của việc tu luyện, khuôn mặt cụ đẫm nước mắt vì xúc động, vừa đứng lên cụ vừa nói: “Quý vị xem, tôi có còn là người có bệnh không?”.
Tumblr media Tumblr media
Hân hoan tột cùng vì được mắt thấy tai nghe về một trường hợp khỏi bệnh thần kỳ nhờ tu luyện Đại Pháp, về nhà tôi kể lại chuyện ấy cho gia đình nghe. Nhưng mọi người không tin còn bảo rằng, thời buổi bây giờ lừa đảo nhiều lắm, khéo mà chả có bệnh cũng nhận có bệnh để lừa đảo. Tôi thực sự cụt hứng, nhưng vì muốn kiểm chứng sự thật tôi nhờ anh trai tôi là bác sỹ, đi cùng đến nhà ông cụ ấy lần nữa.
Đến nơi, điều trước tiên làm tôi kinh ngạc chính là ông cụ cách đây chưa đầy 5 tháng bị bệnh viện trả về, đang cuốc đất ngoài vườn! Sau phút giây ngại ngần, tôi bày tỏ nguyện vọng muốn xem hồ sơ bệnh án của cụ và được ông vui vẻ đồng ý. Lúc ra về, anh trai tôi khẳng định hồ sơ bệnh án của ông ấy là thật. Vậy là, sự nghi ngờ trong tôi được trút xuống, tôi hoàn toàn bị thuyết phục!
Tumblr media
Cảnh tuỳ tâm chuyển
Thời gian thấm thoắt trôi qua, tôi đã đọc sách Đại Pháp được 3 tháng và luyện công được một tháng. Bỗng một hôm, tôi giật mình nhận ra rằng cái lưng vốn bị thoát vị đĩa đệm và cái cổ vốn bị thoái hoá đốt sống của tôi hết đau từ lúc nào không hay.
Tuy nhiên vì là một cán bộ đảng viên nên tôi vẫn phải tìm hiểu xem pháp luật của Việt Nam quy định về vấn đề Pháp Luân Công như thế nào. Tôi có hỏi một số người quen làm việc tại ngành tư pháp và ngành công an, và tôi đã nhận được câu trả lời thích đáng. Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định người dân được quyền tự do tín ngưỡng, pháp luật Việt Nam không cấm luyện tập Pháp Luân Công. Trong kinh sách Đại Pháp, Đại sư Lý Hồng Chí cũng giảng rất rõ ràng rằng Pháp Luân Công không ghi danh, không có tổ chức, không thu tài chính và yêu cầu người tu luyện Đại Pháp không được tham dự vào chính trị.
Tumblr media
Hơn nữa, người tu luyện Đại Pháp hành xử phải theo nguyên lý Chân - Thiện - Nhẫn, lấy thiện đãi người, buông bỏ những tham cầu thái quá ở đời. Như vậy làm sao có chuyện người tu luyện đi đấu tranh, đi tranh giành quyền lực chính trị hay bất cứ gì khác.
Có người e ngại vì nghe tin Pháp Luân Công bị đàn áp ở Trung Quốc. Thực tế, môn tu luyện tốt đẹp này được chào đón nồng nhiệt ở hơn 114 quốc gia; người sáng lập ra Pháp môn, Đại sư Lý Hồng Chí, đã được đề cử giải ‘Nobel hoà bình’. Luật pháp ở Trung Quốc không cấm tu luyện Pháp Luân Công. Tuy nhiên, do lo sợ hão huyền về việc những người tu luyện làm chính trị, do khác biệt về ý thức hệ tư tưởng giữa một bên phỉ báng Thần Phật với một bên là những người tu luyện tín ngưỡng tôn thờ Thần Phật, một số cá nhân và tổ chức của ĐCS Trung Quốc với sự đứng đầu là Giang Trạch Dân đã lợi dụng quyền lực, đứng trên luật pháp để thực hiện cuộc đàn áp, bức hại những người tu luyện Pháp Luân Công một cách man rợ. Thậm chí, họ đã lợi dụng cuộc đàn áp này để mổ cướp nội tạng của hàng triệu người tu luyện thiện lương để thu lợi bất chính. Đó là tội ác man rợ nhất trong lịch sử loài người đã bị thế giới và nhiều luật sư nhân quyền vạch trần, lên án.
Trải qua nhiều thử thách, cuối cùng, tôi cũng đã khẳng định được rằng Pháp Luân Công là chính Pháp.
Tumblr media
Và tôi cũng nhận ra không phải cứ cạo đầu, lên chùa quy y là tu luyện, sống giữa đời thường, tu tâm sửa tính cũng có thể khiến người ta thăng hoa về cảnh giới tư tưởng, và chính lúc đó bệnh tật sẽ rời xa.
Cuộc sống luôn kỳ diệu khi có tình yêu và niềm tin
Tôi nghe được những lời đồn đoán bảo tu Pháp Luân Công là không được thờ cúng tổ tiên, bỏ bê gia đình, nhưng qua trải nghiệm tu luyện thực tế thì tôi thấy những người tu luyện chân chính vẫn sinh hoạt bình thường như hàng triệu người khác, chỉ có điều, trong tâm chúng tôi luôn nhắc mình phải tu sửa và hướng đến cội nguồn Chân - Thiện - Nhẫn.
Sau một thời gian tu luyện, bao nhiêu thứ vốn trước đây ngùn ngụt trong tôi, thì nay hầu như đều mai một. Nào là danh lợi tình; nào là tham sân si; nào là đố kỵ, tranh đấu; nào là tự mãn, kiêu căng; nào là hiển thị, khoe khoang; nào là truy cầu, vun vén, v.v… Tất cả những thứ ấy cứ nhạt nhoà dần, cứ từng bước rời bỏ tôi mà đi. Còn về cái được, có muốn kể ra cũng không kể hết. Không khí gia đình tôi trở về an hoà, yên ổn. Mỗi khi nhớ lại quãng thời gian trước khi tu luyện Đại Pháp, tôi vẫn không khỏi rùng mình, thảng thốt.
Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media
Khoảng tháng 9 năm 2016, tôi đã đưa cho con gái đọc “Chuyển Pháp Luân” và hướng dẫn con luyện công. Để theo dõi hiệu quả tu luyện của con gái, hai vợ chồng tôi đưa cháu đi xét nghiệm máu. Mức tiểu cầu của cháu trước khi tu luyện là 24 đơn vị/cm3, trên người xuất hiện rất nhiều chỗ xuất huyết dưới da. Nhưng thật diệu kỳ! Sau một tháng rưỡi cháu tu luyện, tiểu cầu máu của cháu đã tăng lên mức 68 đơn vị/cm3 và các vết xuất huyết của cháu gần như không còn.
Một năm nữa đã trôi qua, mặc dù con gái tôi vẫn cần ba ngày để luyện đủ 5 bài công pháp nhưng cháu không còn phải đi viện nữa. Hiện tượng phù nề do uống thuốc cũng biến mất. Sức khoẻ và tinh thần của cháu được cải thiện và nâng cao rõ rệt; chế độ ăn uống, sinh hoạt cá nhân và việc học hành của cháu đã trở về bình thường. Hè năm 2017, con gái tôi đỗ thủ khoa trong kỳ thi vào lớp 10 của trường THPT Nguyễn Thái Học.
Tumblr media
Ảnh anh Phùng Anh Việt cùng vợ và hai con.
Mới chỉ một năm kể từ khi hai bố con tôi cùng tu luyện Đại Pháp, gia đình tôi đã được hưởng hồng ân hạo đãng của Đại Pháp. Không còn cảnh luôn ở trong tình trạng sẵn sàng đưa nhau đi cấp cứu, không còn cảnh vợ chồng tôi phải khóc thầm khóc trộm vì lo cho tính mạng của con gái, không còn phải xin nghỉ việc và bán hết tài sản này đến tài sản kia để lo tiền chữa bệnh, cũng không còn cái không khí nặng nề, u ám khi trong nhà có người bệnh nặng… Nhưng tất cả những điều đó đều quá nhỏ bé so với việc chúng tôi được thăng hoa về tư tưởng, chuyển biến về tâm tính, cải biến về thân thể, được chứng ngộ rất nhiều những điều thần kỳ mà chỉ những người thực tu Đại Pháp mới có thể cảm nhận được.
Ngẫm lại cả chặng đường tìm kiếm phương thuốc chữa bệnh cho con, tôi xúc động từ trong tâm khảm. Bởi tình yêu vô điều kiện dành cho con gái mình, sẵn sàng “thử" kể cả những điều chưa bao giờ biết chỉ để tìm cho con một con đường sống, tôi đã gặp được điều tốt lành nhất. Rồi niềm tin kiên định vào những giá trị thiện lương đã đưa tôi đến đích… Những mất mát, vất vả trong suốt cả chặng đường trở nên quá nhỏ bé so với những gì tôi nhận được. Chẳng phải khi bản thân thật tâm sẵn sàng hy sinh cho người khác, thì cũng chính là lúc cuộc sống trao tặng lại mình những món quà còn to lớn hơn? Trước đây tôi cứ như một con thiêu thân bay đi tìm ánh sáng, giờ tôi mới vỡ lẽ, khi tu sửa bản thân, tâm sẽ như một ngọn đèn, tự phát ra ánh sáng mà chẳng sợ bóng tối bủa vây…
Tôi mong rằng có nhiều người hơn nữa hiểu đúng về Đại Pháp, nhiều người hơn nữa đắc được lợi ích từ Đại Pháp như gia đình tôi.
Phùng Anh Việt Cử nhân học viện Tài chính Hà Nội - Thạc sỹ Quản trị Kinh doanh Đại học Bách khoa Hà Nội – Phó Giám đốc Quỹ đầu tư Phát triển và Bảo lãnh Tín dụng tỉnh Vĩnh Phúc.
from Đại Kỷ Nguyên - Feed - https://ift.tt/2OzzwDc via https://ift.tt/2OzzwDc https://www.dkn.tv from Đại Kỷ Nguyên https://ift.tt/2DPKane via IFTTT
0 notes
phamthituong · 4 years ago
Text
Giải Về Cõi Trời – Tỳ Khưu Giới Nghiêm
Tumblr media
“Biên soạn tập sách: “Giải về Cõi Trời” này, tuy chưa đầy đủ lắm, song cũng có thể là chút ít tư liệu cho những ai muốn tìm hiểu về Cõi Trời một cách đúng đắn và chính xác hơn. Dường như trước đây ai cũng hiểu khái quát, rằng là Cõi Trời là nơi đẹp lắm, tuyệt mỹ lắm, kỳ thú lắm, hạnh phúc và an lạc lắm! Thế thôi! có người lại hiểu lầm, cứ đinh minh Cõi Trời chỉ có 1 ông, một vị thần hay một vị thượng đế nào đó; và mọi quyền tài phán, định đoạt vận mệnh vui khổ, hèn sang, phước tội của con người đều ở trong tay ông ta cả.” TỲ KHƯU GIỚI NGHIÊM THITASĪLO
Một trong những chương trình hoạt động của Ban Phật giáo Nam tông Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, là sưu tập và xuất bản lại những tác phẩm, dịch phẩm của chư vị Trưởng lão tiền bối có công khai sơn Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam như Ngài Hộ Tông, Ngài Bửu Chơn, Ngài Giới Nghiêm, Ngài Tịnh Sự, Pháp sư Thong Kham v.v…
Có một số kinh sách đã được chính thức xuất bản trước năm 1975, nhưng vì thời đó phương tiện in ấn còn thô sơ nên có nhiều sai sót. Một số khác còn là bản thảo, hoặc chỉ mới quay roneo, in lụa để kịp thời phát hành nội bộ trong các dịp lễ, chưa có ý định nhuận sắc để xuất bản. Vì vậy Ban Phật giáo Nam Tông cần phải tu thư và nhuận sắc lại trước khi xin xuất bản.
Riêng về các dịch phẩm của Ngài Giới Nghiêm, Thượng tọa Giới Đức đã tự nguyện dành nhiều thời gian và công sức để nhuận sắc cuốn Mi Tiên Vấn Đáp và Giải Về Cõi Trời. Bản thân tôi cũng đã nhuận sắc cuốn Tứ Niệm Xứ và Giải Về Bạn. May mắn thay lúc còn sanh tiền, Ngài thường giao cho chúng tôi nhuận sắc hầu hết những tác phẩm của Ngài. Nhờ được sống nhiều năm gần gũi bên Ngài nên chúng tôi dễ dàng thưa hỏi lại những đoạn văn khó hiểu, những ngôn từ trong cách dụng ngữ riêng của Ngài nên chúng tôi đã làm quen được với cốt cách, ý tứ và văn phong trong các tác phẩm của Ngài. DO đó, bây giờ chúng tôi mới dám tự nguyện thực hiện công việc khó khăn này, sợ rằng người khác khó có thể nắm bắt được những chỗ khúc mắc về căn ngôn, ngữ nghĩa trong các bản thảo này.
Vì việc làm khó khăn như vậy, chúng tôi chân thành mong được sự cộng tác và góp ý của chư Tăng, Tu nữ, và Phật tử để cho chương trình giới thiệu lại các tác phẩm của chư Tôn đức tiền bối được hoàn chỉnh và hiệu quả hơn.
Trân trọng,
Trưởng Ban Phật giáo Nam Tông
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam
Hòa Thượng Viên Minh
TIỂU SỬ CỐ HÒA THƯỢNG THIỀN SƯ GIỚI NGHIÊM
HÒA THƯỢNG THIỀN SƯ GIỚI NGHIÊM, thế danh Nguyễn Đình Trấn, sanh ngày 05-05-1922 (nhằm ngày 09-04 Nhâm Tuất) tại làng Giạ Lê Thương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Đình Tải. Thân mẫu là cụ bà Huỳnh Thị Thành.
Ngài sanh ra trong một gia đình theo đạo Phật lâu đời. Năm 09 tuổi, Ngài vào một ngôi chùa hẻo lánh ở làng Bãng Lãng – Huế, để tu học và thọ giới Sa di. Năm 1942, Ngài thọ Tỳ kheo giới tại chùa Phổ Đà – Đà Nẵng thuộc hệ phái Bắc truyền. Năm 1944, Ngài du học tại Campuchia và năm 1947, Ngài được Hòa thượng Niếp-Tích truyền giới tỳ kheo và theo học đạo với Vua Sãi Campuchia là Trưởng lão Hòa thượng Chuon-Natch. Các năm kế tiếp, Ngài du học tại Thái Lan, Miến Điện và được Hòa thượng thiền sư Mahasi Sayadaw truyền thọ pháp hành Tứ Niệm Xứ.
Năm 1954, Ngài dự hội nghị kết tập Tam tạng kinh điển (Pāḷi) lần thứ VI tại Rangon, Miến Điện.
Trở về quê hương 1957, Ngài cùng các vị cao tăng thành lập Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam.
Từ 1964-1974, Ngài liên tục giữ chức vụ Tăng thống GHTGNTVN nhiều nhiệm kỳ.
Năm 1979, được sự cung thỉnh của Mặt Trận Đoàn Kết Dân Tộc Cứu Nước Campuchia, Ngài cùng phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam qua Campuchia để truyền Cụ Túc giới cho 07 vị sư sãi lãnh đạo, phục hồi Phật giáo Campuchia sau pháp nạn. Tại Giới đàn này, Ngài được cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng.
Năm 1980, Ngài tham gia Ban vận động thành lập GHPGVN và được suy cử chức Phó Chủ tịch Thường trực Hồi đồng Trị sự GHPGVN.
Hơn nửa thế kỷ xuất gia hành đạo, hoằng pháp và phục vụ cho xã hội, Ngài đã để lại cho hậu thế nhiều công đức và nhiều công trình Phật sự to lớn.
Ngài là vị thiền sư đầu tiên tạo được nhiều thiền viện, trong đó có thiền viện Phước Sơn và nhiều ngôi Tam Bảo trên toàn quốc. Ngài cũng đã trước tác nhiều kinh sách có giá trị, và đào tạo nhiều đệ tử trở thành tằng tài cho Giáo hội.
Ngày 09-08-1984, Ngài giã từ cõi thế, an nhiên thị tịch lúc 10 giờ 30 tại chùa Phật Bảo. Thọ mạng được 63 tuổi, 38 hạ lạp.
Hằng năm vào ngày 13-07 Âl, lễ tưởng niệm Hòa thượng được long trọng tổ chức tại chùa Phật Bảo – Tân Bình, TPHCM.
LỜI TỰA
Biên soạn tập sách “Giải về Cõi Trời” này, chúng tôi có nhã ý cúng dường pháp thí trong ba ngày 24, 25, 26 tháng 3 năm 1961 (tức ngày 8, 9, 10 năm Tân Sửu) tại Tam Bảo Tự – Đà Nẵng để cầu quốc thái dân an và và kỷ niệm “Đệ bát chu niên” ngày Phật giáo Việt Nam truyền bá đến Trung Việt.
Toàn thể Tăng và cư sĩ Phật tử thuộc Tổng hội Phật giáo Nguyên thủy Trung phần [1], sau khi nghe đại đức Hộ Tông – Tăng thống Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam – tại Sài Gòn quang lâm về đây, đã giảng giải ý nghĩa trọng đại của buổi lễ, đồng thời đã từ tâm ban rải một thời pháp sách tấn, khuyến hóa mọi người tinh cần tu tập. Đại Đức Tăng thống cũng kêu gọi tài thí rất trọng thể để hoàn thiện quy mô ngôi chùa có tính lịch sử, là dấu ấn hoằng pháp đầu tiên tại đất miền trung.
Xét thấy đây là cơ hội tốt để tôi ấn hành tập sách bé nhỏ này, để góp phần pháp thí cho trọn vẹn ý nghĩa lời pháp trong câu: “Tài, Pháp – nhị thí thỉ thành công, phước huệ song tu phương tác Phật”; giả nghĩa cho rõ là tài thí và pháp thí mà đầy đủ, trọn vẹn; phước và huệ mà cùng tu mới mong thành Phật!
Biên soạn tập sách: “Giải về Cõi Trời” này, tuy chưa đầy đủ lắm, song cũng có thể là chút ít tư liệu cho những ai muốn tìm hiểu về Cõi Trời một cách đúng đắn và chính xác hơn. Dường như trước đây ai cũng hiểu khái quát, rằng là Cõi Trời là nơi đẹp lắm, tuyệt mỹ lắm, kỳ thú lắm, hạnh phúc và an lạc lắm! Thế thôi! có người lại hiểu lầm, cứ đinh minh Cõi Trời chỉ có 1 ông, một vị thần hay một vị thượng đế nào đó; và mọi quyền tài phán, định đoạt vận mệnh vui khổ, hèn sang, phước tội của con người đều ở trong tay ông ta cả! Đọc tập sách này, mọi người mới thấy ra rằng, hóa ra Cõi Trời không chỉ có “một ông”,“một ngài”  mà có vô lượng chúng hữu tình cộng cư ở đấy. Và Cõi Trời chẳng ai chiếm lấy một mình được. Bất cứ ai, bất cứ  “nhân loại” nào, chúng sanh nào, hữu tình nào có tu hành, biết làm phước, biết trì giới, có tham thiền, có đức tin, biết làm lành, lánh ác đều có thể hóa sanh lên Cõi Trời  này để thọ hưởng phước quả mỹ diệu, thắng xa cõi Người. Đành rằng, các Cõi Trời chưa phải là cứu cánh cho những người hành đạo giải thoát; nhưng cũng là nơi xứng đáng cho chúng ta “nhàn cư”, “an cư”, “lạc cư” tạm thời khi chưa hành trì, công phu đến chổ rốt ráo! Nó như là phần thưởng khuyến khích, an ủi cho những kẻ khởi tâm tu tập về giai doạn sơ thiện, hướng thiện trên lộ trình bỏ mê tầm giác. Chư vị Bồ tát có đại nguyện Chánh Đẳng Giác trong nhiều kiếp miệt mài bồi bổ công hạnh Ba la mật, đôi khi mệt mỏi – các ngài đều lựa chọn các Cõi Trời  Dục giới, thường là Đẩu suất đà thiên để nghỉ ngơi một thời gian! Vậy Cõi Trời  là cõi của phước quả; ai tích lũy được nhiều tín, thí, giới  – thì được hóa sanh lên 6 Cõi Trời  Dục giới để thọ hưởng phước báu của mình như định luật nhân quả tự nhiên – chứ chẳng có ai mời, ai rước, ai đưa cả! Nếu ai tu tập đắc định, đắc thiền thì hóa sanh các Cõi Trời cao hơn, có thể là trời Sắc giới hoặc Vô sắc giới – tùy đề mục quán tưởng, định thiền.
Cuối cùng, tôi và toàn thể thí chủ nhất tâm hồi hướng phần phước của tài thí và pháp thí thanh cao này đến cho tất cả chúng sanh, nhất là ân nhân nhiều đời của chúng ta được an sinh, hạnh phúc và tấn hóa.
Nguyện cầu cho quốc dân, đất nước Việt Nam được thanh bình an lạc.
Nguyện cầu Tam Bảo chứng minh và chư thiên hộ trì cho tất thảy thí chủ, kẻ công người của, đã thành tâm và hoan hỷ phần phước sự hôm nay sớm thoát ly sinh tử luân hồi, chứng quả Vô sanh bất diệt Đại Niết bàn!
Mong thay,
Tỳ Kheo Giới Nghiêm
#phatgiaonguyenthuy #Tykhuugioinghiem #ducphap #tinhtam #theravada Theo nguồn: https://theravada.vn/book/giai-ve-coi-troi-ty-khuu-gioi-nghiem/ Nguồn ảnh: Instagram Dhammanamo
from Theravada https://theravadavn.tumblr.com/post/626030604695322624
0 notes
hoangviettravel · 5 years ago
Text
Tour  Du Lịch Ấn Độ: Hành Hương Ấn Độ – Nepal 10 ngày 9 đêm
  Hà Nội
 10 Ngày 9 Đêm
Phương  Tứ động tâm là bốn thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đời và sự nghiệp hoằng hóa của đức Phật Thích Ca. Tứ động tâm gồm: Lumbini (Lâm Tỳ Ni) nơi Phật đản sanh, Bodh Gaya (Bồ Ðề Ðạo Tràng) nơi Phật thành đạo, Sarnath (Lộc Uyển) nơi Phật chuyển pháp luân – thuyết pháp lần đầu  cho năm anh em Kiều Trần Như và Kushinagar (Câu Thi Na) nơi Phật nhập niết bàn. Hàng năm, tứ động tâm thu hút hàng triệu lượt du khách hành hương đến Ấn Độ hành hương em bái.Cùng Hoàng Việt Travel, mỗi ngày sẽ là một điều bất ngờ mới cho mỗi du khách khi chiêm bái các địa điểm Phật tích và để hiểu thêm Phật giáo tại Ấn Độ, khám phá sự kỳ bí và huyền diệu của Phật pháp nơi đây…
Lịch Khởi Hành: 
NGÀY KHỞI HÀNH:
Thứ hai 14/11/2019
Thứ ba 24/12/2019
GIÁ:  34.900.000
Tour: Hành Hương Ấn Độ – Nepal
LỊCH TRÌNH TOUR:
Ngày 1:  Hà Nội/ HCM – Kul – Delhi
10h05 Xe và hướng dẫn viên đón đoàn tại điểm hẹn từ thành phố ra sân bay quốc tế theo chuyến bay đi Delhi, Transit tại Kuala Lumpur.
22h35 đến Delhi. Xe đón đoàn về khách sạn, nhận phòng nghỉ đêm tại Delhi.
Ngày 2: Delhi – Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng) | (Ăn sáng/ trưa/ tối)
Ăn sáng, đoàn sẽ làm thủ tục nối chuyến bay từ Delhi đi Gaya,
Đến sân bay Gaya, xe đón đoàn về khách sạn ăn trưa, sau đó nhận phòng nghỉ ngơi.
Chiều: đoàn đến Bồ Đề Đạo Tràng, và sẽ bắt đầu thăm viếng Bồ Đề Đạo Tràng
•    Tham quan và đảnh lễ tại tháp Đại Giác – nơi này ghi dấu các sự kiện quan trọng sau khi Đức Phật đắc đạo thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Tháp Đại Giác được vua A Dục xây dựng vào thế kỷ thứ 3 trước CN và là một trong những công trình kiến trúc bằng gạch lâu đời và đồ sộ nhất vẫn còn tồn tại ở miền Đông Ấn Độ. Tháp chính của đền có chiều cao lên đến 55 mét, đã qua nhiều lần trùng tu trong các thế kỷ trước đó. Tháp trung tâm được bao quanh bởi 4 tháp nhỏ hơn  với kiến trúc tương tự. Tâm điểm chính của điện thờ là pho tượng Phật bằng đá  mạ vàng và được chế tác vào thế kỷ thứ 10 sau CN. Nơi đây là nơi thu hút và cũng đã để lại rất nhiều ấn tượng sâu sắc đến tất cả Phật Tử.
•    Cội Bồ Đề linh thiêng nơi Đức Phật Thích Ca sau 49 ngày thiền định đã đắc đạo thành Phật….
•    Làng Sujata: cách Bồ Đề Đạo Tràng khoảng 2 km, đảnh lễ đền thờ Mục nữ dâng sữa Sujata để thể hiện lòng tri ân đối với người đã cúng dường bát cháo sữa cho Thái Tử Siddahartha khi ngài bị kiệt sức bên dòng sông Ni Liên Thiền.
•    Sông Ni Liên Thiền: nơi Thái Tử thả bình bát và phát nguyện thành đạo.
•    Thăm Việt Nam Phật Quốc Tự ngôi chùa Việt Nam đầu tiên do Thầy Huyền Diệu  xây dựng trên Đất Phật.
Buổi tối đoàn tự do tham quan hoặc mua sắm quà tặng Phật giáo tại các cửa hàng ở đây. Ăn tối và nghỉ đêm tại Bồ Đề Đạo Tràng.
Ngày 3: Bodhgaya – Rajgir – Nalanda – Bodhgaya | (Ăn sáng/ trưa/ tối)
Sau khi ăn sáng, đoàn khởi hành đi Rajgir trên đường ghé thăm Viện Đại học Nalanda: trường đại học Phật giáo đầu tiên và lớn nhất thế giới với tổng diện tích 49 km2, được thành lập 400 năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Sau khi tham quan Nalanda, đoàn sẽ tiếp tục đến thành phố Rajgir (Vương Xá thành), kinh đô đầu tiên của vương quốc cổ Magadha (Ma Kiệt Đà), nơi Đức Phật thường đi khất thực và là trung tâm nghiên cứu Phật Giáo qua nhiều thế kỷ. Đến nơi quý khách sẽ ngồi cáp treo tham quan:
•    Đỉnh núi Linh Thứu (Gijjhakuta): là ngọn núi nhỏ như hình con kên kên tọa lạc ở phía Nam thành Vương Xá. Đây là nơi mà Đức Phật từng thuyết giảng Bát Nhã Tâm Kinh, Diệu Pháp Liên Hoa và cũng là nơi Đức Phật rất thích ngồi thiền mỗi ngày. Và đây là nơi đã từng diễn ra Linh Sơn hội chư thượng Phật. “Nam Mô Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát” chính là nơi này.
•    Viếng thăm vườn Trúc Lâm Tịnh Xá: nơi Đức Phật thuyết pháp cho chư tăng vào thời gian đầu Tăng đoàn được thành lập.
•    Đoàn đi thăm vườn Xoài, Jivakameavan Gardens. Tương truyền rằng ngài Jivaka (bác sỹ Kỳ Bà) là một thầy thuốc lừng danh tại thành Vương Xá và cũng là một Phật tử tại gia. Trong thời gian Đức Phật lưu giảng tại đây, ông Jivka chính là người đến chữa trị cho Phật khi Đức Phật bị thương. Ông đã trồng một vườn xoài rất lớn và cúng dường cho Phật để làm bệnh viện đầu tiên của Tăng đoàn xây dựng trên khu vườn Xòai.
Đoàn quay lại Bồ Đề Đạo Tràng. Dùng bữa tối và nghỉ ngơi tại Bồ Đề Đạo Tràng.
Ngày 4: Bodhgaya – Varanasi | (Ăn sáng/ trưa/ tối)
Sau bữa sáng đoàn sẽ khởi hành đi Varanasi (240km/5 tiếng), đoàn ăn trưa trên đường đi.
•    Thăm quan đảnh lễ Vườn Lộc Uyển (Sarnath) cách thành phố Vanarasi 13km, được mệnh danh là thánh địa Đệ Tam Đại Động Tâm, nơi Đức Phật đã chuyển Pháp Luân, giảng bài pháp đầu tiên trong cuộc đời hành đạo.
•    Tham quan đại tháp Dhamekh – tòa tháp này được vua A Dục xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước CN để ghi nhận nơi Đức Phật lần đầu tiên giảng bài Pháp Tứ Diệu Đế cho 5 anh em nhà Kiều Trần Như .
•    Tham quan Tịnh Xá Mulagandhakuti – thờ Xá Lợi Phật…Ăn tối và nghỉ đêm tại Varanasi.
Ngày 5: Varanasi – Kushinagar | (Ăn sáng/ trưa/ tối)
•    05h00: Đoàn khởi hành viếng Sông Hằng khúc, là sông được cho là linh thiêng nhất của người Ấn Giáo – gần đạo tràng của thần hủy diệt – thần Shiva…
•    07h10: Đoàn lên xe trở lại khách sạn dùng bữa sáng.
•    Đoàn khởi hành đi Kushinagar – nơi Đức Phật nhập niết bàn.
Trưa đến Kushinagar, đoàn sẽ ăn trưa và nhận phòng nghỉ ngơi. Chiều đoàn đến đảnh lễ chiêm bái thánh tích Đệ Tứ Đại Động Tâm – Nơi Đức Phật nhập Niết Bàn. 
•    Đền Đại Niết Bàn (Mahaparinirvana Temple) – nơi Đức Phật nhập diệt. 
•    Tháp Trà Tỳ (Mukatabandha Vihara): nơi làm lễ trà tỳ kim thân của ngài.
Ăn tối và nghỉ đêm tại Kushinagar.
Ngày 6: Kushinagar – Lumbini | (Ăn sáng/ trưa/ tối)
Sau bữa sáng đoàn khởi hành đi Lumbini. Hiện nay, thuộc phần đất của Nepal. Đoàn làm thủ tục nhập cảnh sang Nepal. Đến nơi đoàn đi ăn trưa. Chiều đoàn tham quan:
•    Nơi Thái Tử Sĩ Đạt Đa đản sanh
•    Trụ đá Vua a Dục dựng lên để đánh dầu nơi Phật Đản Sanh
•    Hồ nước thiêng Hoàng hậu tắm trước khi đản sanh Thái Tử và Thái tử tắm sau khi đản sanh . 
Sau đó, đoàn tham dự lễ chúc Phúc tại chùa cổ Nepal theo nghi lễ kinh Pali, đoàn thắp nến cần nguyện tại chùa Tây tạng. Ăn tối và nghỉ đêm tại Lumbini.
Ngày 7: Lumbini – Sravasti – Lucknow – Agra | (Ăn sáng/ trưa/ tối)
Sau bữa sáng đoàn khởi hành đi Sravati. Đến nơi đoàn ăn trưa, về khách sạn nghỉ ngơi. Chiều đoàn thăm quan:
•    Tham quan rừng Thệ Đa hay Kỳ Viên Tịnh Xá (Jetavana Vihara): nơi đức Phật đã thuyết Pháp tại đây cho tăng đoàn trong những mùa an cư kiết hạ.
•    Cây Bồ Đề Ananda: được trồng làm biểu tượng hiện thân của Đức Phật
•    Thăm bảo tháp nơi Đức Phật lên Cung Trời Đao Lợi thuyết kinh Địa Tạng độ thánh mẫu Maya.Thăm phế tháp Sudatta nền nhà ngài Cấp Cô Độc, phế tháp ngài Vô Não.
Đoàn khởi hành về Lucknow, nối chuyến bay về Delhi, ngủ đêm tại Delhi.
Ngày 8: Thăm Quan Taj Mahal | (Ăn sáng/ trưa/ tối)
Đoàn rời Delhi đến Taj Mahal vào buổi sáng, đoàn sẽ thăm quan và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của kỳ quan thế giới thứ 6 – đền Tajmahal – là biểu tượng tình yêu của nhân loại.
•    Ăn trưa, tham quan xưởng điêu khăc đá sau đó quay về Delhi, ăn tối, nghỉ đêm tại Delhi.
Ngày 9: Delhi – Việt Nam | (Ăn sáng/ trưa/ tối)
Sau bữa sáng, đoàn tham quan thủ đô Delhi.
•    Thăm India Gate, Tham quan dinh Tổng thống President House, tòa nhà Quốc hội Parliament House.
•     Ăn tối tại nhà hàng.  Sau đó, xe đưa đoàn ra sân bay đáp chuyến bay về Việt Nam, đoàn quá cảnh tại  Kuala Lumpur.
Ngày 10: Việt Nam (Ăn trên máy bay)
Đoàn sẽ về đến Việt Nam. Xe đón đoàn đưa về địa điểm ban đầu. Đoàn sẽ chia tay và kết thúc chuyến trải nghiệm, khám phá Ấn Độ đầy ý nghĩa.
VỀ CHÍNH SÁCH:
     Gía đã bao gồm:
Vé máy bay quốc tế khứ hồi: Hà Nội hoặc TP Hồ Chí Minh – Delhi (áp dụng cho vé đoàn trên 10 khách); thuế xăng dầu, hành lý gửi 25kg
Bảo hiểm tai nạn khi đi du lịch, mức trách nhiệm tối đa 10.000$/vụ tại nạn.
Vé máy bay 2 chặng nội địa Ấn Độ:Delhi – Gaya; Lucknow – Delhi; Tất cả thuế sân bay và phụ phí xăng dầu; hành lý gửi 15kg
Trưởng đoàn đi cùng từ Việt Nam và Hướng dẫn viên tiếng Anh tại Ấn Độ.
Visa nhập cảnh Ấn Độ 01 lần; Visa cửa khẩu Nepal.
Xe chất lượng cao tại Việt Nam và Ấn Độ theo lịch trình.
Khách sạn 3,4* tiêu chuẩn Ấn Độ (2 người/phòng, lẻ ngủ ghép 3).
Nước uống trên xe 01 chai/khách/ngày.
Các bữa ăn theo chương trình thực đơn phong phú hợp khẩu vị (khẩu vị Thái, Nhật, Hoa).
Vé tham quan vào cửa 01 lần các điểm có trong chương trình.  
            Không bao gồm:
Phụ thu visa với 1 số Quốc tịch không phải Việt Nam (nếu có)
Hộ chiếu còn hạn sử dụng trên 06 tháng .Visa tái nhập Việt Nam (nếu mang hộ chiếu nước ngoài)
Visa tái nhập cảnh cho khách không dùng Quốc tịch Việt Nam
Vé lẻ nếu đoàn khởi hành tại mỗi đầu TP dưới 10 khách, phụ thu từ 60-95$/ vé khứ hồi 
iền bồi dưỡng cho hướng dẫn địa phương và tài xế địa phương (Thông thường 06 USD/ngày/người). Thuế VAT.
Các chi phí cá nhân phát sinh ngoài chương trình.
Tiền phục vụ khuân vác, điện thoại, giặt ủi, hành lý quá cước qui định.
      Lưu:
               Thủ tục làm visa (10 ngày)
Thông tin cá nhân: thông tin thân nhân, fom khai do Lantours cung cấp.
04 hình 4 x 6 nền trắng, chụp thẳng. Hộ chiếu (bản gốc, còn kì hạn ít nhất là 6 tháng)
      GHI CHÚ:
Trật tự các điểm tham quan có thể thay đổi tùy theo tình hình thực tế của chuyến đi, nhưng vẫn đảm bảo thực hiện đầy đủ các điểm tham quan đã ghi trong chương trình.
Phụ thu nếu đoàn dưới 15 khách:
Đoàn dưới 15 khách phụ thu 1,5 triệu/ khách
Đoàn dưới 10 khách phụ thu 2,5 triệu/ khách
Đoàn dươi 6 khách sẽ dùng dịch vụ cho khách đi lẻ tính vào thời điểm quý khách đặt dịch vụ tour 
3. Nếu Quý khách có nhu cầu bố trí cho trẻ em ngủ giường riêng hoặc yêu cầu sử dụng phòng đơn,vui lòng thông báo khi đăng ký tour và thanh toán phần chi phí phụ thu tại thời điểm đăng ký.
Lưu chính sách và thay đổi tour:
Hủy tour từ  14 ngày đến 19 ngày so với ngày khởi hành phí phạt = 50% tổng giá tour chương trình (bao gồm vé máy bay).
Hủy tour từ  09 ngày đến 13 ngày so với ngày khởi hành phí phạt = 75% tổng giá tour chương trình (bao gồm vé máy bay).
Hủy tour dưới 08 ngày trước ngày khởi hành phí phạt = 100% tổng giá tour chương trình (bao gồm vé máy bay).
Chính sách có thể thay đổi vào các dịp lễ tết hoặc mùa cao điểm.
      5. Hủy tour trước 20 ngày phí đổi 10% giá tour lần 1, từ lần thứ 2 phí đổi 30% giá tour.
Tham khảo thêm: https:https://hoangviettravel.vn/tour-hanh-huong-an-do-nepal/
0 notes