#bình bát Phật giáo
Explore tagged Tumblr posts
thptngothinham · 15 days ago
Text
Hướng dẫn làm văn phân tích đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều (Nguyễn Du) có kèm theo một số bài văn mẫu tham khảo hay. Hướng dẫn phân tích đoạn trích Trao duyên (Nguyễn Du) gồm những gợi ý chi tiết giúp em làm tốt các bước phân tích đề, lập dàn ý và sơ đồ tư duy kèm theo một số mẫu bài văn tham khảo hay do THPT Ngô Thì Nhậm sưu tầm và tổng hợp. Hướng dẫn phân tích đoạn trích Trao duyên (Truyện Kiều) Đề bài: Phân tích đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. 1. Phân tích yêu cầu đề bài - Yêu cầu đề bài: phân tích nội dung, nghệ thuật của đoạn trích Trao duyên. - Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: từ ngữ, các chi tiết tiêu biểu trong đoạn trích Trao duyên. - Phương pháp lập luận chính: Phân tích. 2. Luận điểm phân tích Trao duyên - Luận điểm 1: Kiều trao duyên cho Vân, nhờ cậy Thúy Vân thay mình trả nghĩa chàng Kim. - Luận điểm 2: Tâm trạng của Thúy Kiều khi trao kỉ vật và dặn dò em - Luận điểm 3: Tâm trạng của Thúy Kiều khi trở về thực tại, hướng về tình yêu của mình và Kim Trọng. 3. Sơ đồ tư duy phân tích Trao duyên >>> Xem chi tiết sơ đồ tư duy bài Trao duyên đầy đủ nhất tương ứng với các dạng đề phân tích khác nhau 4. Kiến thức mở rộng về bài Trao duyên - Ý nghĩa nhan đề: + Chữ "duyên" theo giáo lí của nhà Phật là nguyên do tạo ra số phận, sau này được hiểu rộng hơn là sự định sẵn từ kiếp trước cho tình cảm của hai người (thường là tình cảm vợ chồng). + Trao duyên là một sự hi sinh rất lớn, một điều khó khăn, nhất là với những người có đời sống nội tâm sâu sắc như Thuý Kiều. -> Nhan đề gây cho ta nhiều bâng khuâng: Tại sao lại trao duyên? Trao đi một tình yêu đẹp, thiêng liêng, chung thủy => Phản ánh được một nghịch cảnh éo le, một bi kịch đầy nước mắt. - Giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Trao duyên + Giá trị nội dung: Thể hiện bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh của Thúy Kiều khi phải dứt lòng trao lại cho Thúy Vân mối tình đầu tiên. Lời nhờ cậy đầy đau khổ khiến cho Kiều như đứt từng khúc ruột. Thế nhưng, trong hoàn cảnh ấy, Kiều không còn sự lựa chọn nào khác tốt hơn.Nhân cách cao đẹp của Kiều thể hiện rõ bởi sự hi sinh hạnh phúc cá nhân, quên đi bản thân mình, quên đi mối tình đẹp đẽ của mình với Kim Trọng đề đổi lấy hạnh phúc và sự bình yên cho gia đình. Giữa chữ “tình” và chữ “hiếu”, Kiều buộc lòng phải chọn chữ “hiếu” vì nàng không thể giương mắt nhìn cha và em bị hành hạ tới chết được. + Giá trị nghệ thuật Thể thơ lục bát của dân tộc rất giàu nhạc tính cùng với cách ngắt nhịp đầy dụng ý, Nguyễn Du đã tạo nên nhịp điệu của tâm trạng, của những nỗi đau đớn trong suy nghĩ của Kiều khi trao duyên.Bên cạnh đó, các biện pháp ẩn dụ, điệp từ, vận dụng nhuần nhuyễn các thành ngữ đã xây dựng thành công diễn biến tâm lí phức tạp, giằng xé, đau khổ của Kiều qua những lời độc thoại nội tâm khéo léo. Lập dàn ý phân tích đoạn trích Trao duyên 1. Mở bài - Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều: + Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc danh nhân văn hóa thế giới, một nhân cách lớn, một nhà văn, nhà thơ vĩ đại. + Truyện Kiều được xem là kiệt tác của nền văn học được dịch ra nhiều thứ tiếng. - Giới thiệu đoạn trích Trao duyên: + Vị trí: Đoạn trích từ câu 723 đến 756 trong tác phẩm “Truyện Kiều” phần gia biến và lưu lạc. + Nội dung: Thuật lại diễn biến tâm trạng của Kiều trong đêm cuối cùng trao duyên cho Thúy Vân nhờ em trả nghĩa với chàng Kim hộ mình. Tham khảo các cách mở bài Trao duyên hay theo các dạng đề 2. Thân bài phân tích Trao duyên * Khái quát về hoàn cảnh diễn ra cuộc trao duyên - Sau đêm thề nguyện giữa Kim Trọng và Thúy Kiều, Kim Trọng phải về gấp hộ tang chú ở Liễu Dương. Tai nạn ập đến nhà Kiều vì sự vu oan của thằng bán tơ. Cha và em trai bị đánh đập tàn nhẫn, của cải bị cướp sạch. Kiều buộc phải bán mình chuộc tội cho cha và em. Công việc nhà tạm ổn, nhưng mối tình của mình thì lỡ dở. Chỉ còn lại một đêm ở nhà, ngày mai phải đi theo Mã Giám Sinh. Thúy Kiều đã cậy nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng. * Kiều trao duyên cho Vân, nhờ cậy Vân thay mình trả nghĩa chàng Kim
- Lời nhờ cậy của Kiều + "Cậy": một thanh trắc với âm điệu nặng nề, gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói, còn mang hàm nghĩa là trông mong, giúp đỡ, hi vọng tha thiết, sự gửi gắm đầy tin tưởng. + Chịu: nài ép, bắt buộc, không thể từ chối. -> Vân bị ép vào một thế dù không muốn cũng phải nhận tình yêu mà Kiều trao. => Lời lẽ cậy nhờ của Kiều rất đẹp đẽ và chính xác, chặt chẽ. - Hành động nhờ cậy: + “ngồi lên”, “lạy”, “thưa”: Kính cẩn trang trọng với người bề trên hoặc người hàm ơn. -> Sự thay bậc đổi ngôi, đi ngược với lễ giáo phong kiến nhưng chấp nhận được, bởi: Kiều coi Vân như ân nhân của mình. Kiều trân trọng tình yêu với Kim Trọng. => Qua cách nói thể hiện sự thông minh, khéo léo của Thúy Kiều - Lí lẽ trao duyên của Kiều: + Kiều kể về tình yêu với Kim Trọng, nguyên nhân sự tan vỡ và quyết định của mình: “khi ngày... chén thề”, nguyên nhân tan vỡ: “Sự đâu... bất kì”, quyết định khó xử: “Hiếu tình... vẹn hai”. + “Giữa đường đứt gánh tương tư”, “Mối tơ thừa”, “Quạt ước, chén thề” -> Thành ngữ, những điển tích, những ngôn ngữ giàu hình ảnh đã vẽ nên một mối tình nồng thắm nhưng mong manh, dang dở và đầy bất hạnh của Kim - Kiều. + Những lí do khiến Kiều trao duyên cho em: Gia đình Kiều gặp biến cố lớn “sóng gió bất kì”, Kiều buộc phải chọn hoặc “hiếu” hoặc “tình”, Kiều chọn hi sinh tình.-> Gợi ra tình cảnh ngang trái, khó xử của mình để em thấu hiểu.“Ngày xuân em hãy còn dài”-> Vân vẫn còn trẻ, còn cả tương lai phía trước.“Xót tình máu mủ thay lời nước non”-> Kiều thuyết phục em bằng tình cảm ruột thịt.“Thịt nát xương mòn”, “Ngậm cười chín suối”: nói về cái chết đầy mãn nguyện.-> Kiều viện đến cả cái chết để thể hiện sự cảm kích thật sự của mình khi Vân nhận lời. => Cách lập luận hết sức chặt chẽ, thấu tình cho thấy Thúy Kiều là người sắc sảo tinh tế, có đức hi sinh, một người con hiếu thảo, trọng tình nghĩa. * Tâm trạng của Kiều khi trao kỉ vật và dặn dò Vân - Kiều trao kỉ vật + Chiếc vành, bức tờ mây -> Kiều trao những kỉ vật gắn bó đơn sơ mà thiêng liêng, gợi quá khứ hạnh phúc giữa mình với Kim Trọng cho Vân. + “giữ - của chung - của tin” “Của chung” là của Kim, Kiều nay là cả của Vân nữa“Của tin” là những vật gắn bó gợi tình yêu thiêng liêng của Kim - Kiều: mảnh hương, tiếng đàn. => Sự giằng xé trong tâm trạng Thúy Kiều: Kiều chỉ có thể gửi gắm mối duyên dang dở cho Vân chứ không thể trao hết tình yêu mặn nồng xưa kia giữa nàng và Kim Trọng. - Lời dặn dò của Kiều với Vân: + Kiều dự cảm về cái chết : hiu hiu gió, hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài, người thác oan -> Dự cảm không lành về tương lai, sự tuyệt vọng tột cùng. Kiều tưởng tượng ra cảnh mình chết oan, chết hận. Hồn không sao siêu thoát được bởi trong lòng đang nặng lời thề ước với Kim Trọng. => Sự đau đớn, đầy tuyệt vọng của Kiều, tấm lòng thủy chung một lòng hướng về Kim trọng của Kiều. + Thúy Kiều dặn dò Thúy Vân “Đền nghì trúc mai”: Đền ơn đáp nghĩa.“Rưới xin giọt nước”: Tẩy oan cho chị. -> Nỗi bứt rứt, dằn vặt trong lòng Kiều, Kiều như càng nhớ, càng thương Kim Trọng hơn bao giờ hết. * Tâm trạng của Thúy Kiều khi trở về thực tại, hướng về tình yêu của mình và Kim Trọng - Lời thơ chuyển từ đối thoại sang độc thoại - “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi lỡ làng” -> Nàng ý thức rõ về cái hiện hữu của mình. => Gợi tả số phận đầy đau khổ, dở dang, bạc bẽo, lênh đênh trôi nổi. - Nghệ thuật đối lập: quá khứ với hiện tại -> Khắc sâu nỗi đau của Kiều trong hiện tại. - Hành động + Lạy: cái lạy tạ lỗi, vĩnh biệt (khác với cái lạy nhờ cậy lúc đầu) + Tự nhận mình là người phụ bạc -> Day dứt, mặc cảm. + Hai lần gọi tên Kim Trọng: tức tưởi, nghẹn ngào, đau đớn đến mê sảng. + “Kim Lang”: cách gọi thân mật như vợ chồng. -> Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác, đó chính là lòng vị tha, đức hy sinh cao quý. - Từ cảm thán (Ôi, hỡi, thôi thôi): tiếng kêu đầy tuyệt vọng, tố cáo xã hội phong kiến tàn bạo bất công chà đạp số phận con người. 3. Kết bài - Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Trao duyên.
+ Giá trị nội dung: thể hiện bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh của Thúy Kiều khi phải dứt lòng trao lại cho Thúy Vân mối tình đầu tiên; nhân cách cao đẹp của Kiều khi hi sinh hạnh phúc cá nhân để đổi lấy hạnh phúc và sự bình yên cho gia đình. + Đặc sắc nghệ thuật: Thể thơ lúc bát giàu nhạc tính, hình thức độc thoại và kết hợp sử dụng giữa ngôn ngữ trang trọng với lối nói dân giản dị, các biện pháp ẩn dụ, điệp từ, vận dụng nhuần nhuyễn các thành ngữ. - Nêu cảm nhận đánh giá của em về đoạn trích. Bài văn mẫu đặc sắc phân tích đoạn trích Trao duyên Truyện Kiều đỉnh cao trong đời thơ Nguyễn Du cũng là đỉnh cao của văn học Việt Nam, tác phẩm để lại những giá trị sâu sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Cuộc đời nàng Kiều trải qua biết bao truân chuyên, biến cố, phải trải qua biết bao khoảnh khắc đau lòng mà có lẽ đau lòng nhất chính là khoảnh khắc trao duyên cho em. Toàn bộ suy nghĩ tâm trạng của nàng được tái hiện chân thực qua đoạn trích Trao duyên. Tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đang tươi đẹp, nồng nàn thì Kim Trọng phải về Liêu Dương hộ tang chú. Trong khi đó tai họa đổ ập xuống gia đình nhà Kiều, của cải bị bọn tay sai vét sạch; cha và em trai Thúy Kiều bị bắt, bị đánh, bọn quan lại đòi đút lót "có ba trăm lạng việc này mới xuôi". Trước biến cố đau lòng đó, một người giàu tình cảm, giàu đức hy sinh như nàng không còn cách nào khác là phải bán mình chuộc cha và em. Nhưng còn mối tình với Kim Trọng? Nàng hết sức đau khổ và cuối cùng quyết định nhờ em thay mình lấy Kim Trọng. Dựa vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du dựng lại chi tiết trao duyên thật sống động. "Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân" thì thấy chị mình đang thổn thức giữa đêm khuya, nàng ghé hỏi han. Thúy Kiều thật khó nói nhưng thương cha, nàng bán mình, thương người tình nàng đành cậy em: "Cậy em em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa, Giữa đường đứt gánh tương tư, Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em." Từ "cậy" hàm chứa niềm tin mà người được nhờ không thể thoái thác được, lại thêm một cử chỉ thiêng liêng là "lạy". Thuở đời chị lại lạy sống em bao giờ, vậy mà chỉ để trao duyên với Kim Trọng, nàng đã làm như vậy với chính em gái của mình. Trước nước mắt, Thúy Kiều đã kể lể sự tình cho cô em nghe: "Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề Sự đâu sóng gió bất kì Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai" Thúy Kiều đã kể nhanh những sự kiện mà Thúy Vân cũng đã chứng kiến, chuyện gặp chàng Kim trong buổi chiều thanh minh, chuyện thề nguyện hẹn ước với Kim Trọng. Nhưng có một chi tiết mà một người đơn giản như Thúy Vân không bao giờ biết được: "Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai" Qua lời Thúy Kiều, Nguyễn Du đay nghiến cả một xã hội, "hiếu - tình" là hai giá trị tinh thần không thể đặt lên bàn cân được. Một xã hội bắt con người phải lựa chọn những giá trị không thể lựa chọn được thì xã hội ấy là một xã hội tàn bạo. Thúy Kiều đã cay đắng chọn chữ "hiếu" cho nên đã hi sinh chữ "tình". Mỗi lời của nàng không phải là nước mắt mà là máu đang rỉ ra trong lòng: "Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non Chị dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây" Hai chị em đều "xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê" vậy mà nàng nói "ngày xuân em hãy còn dài" đau đớn biết chừng nào. Lời lẽ của nàng vì lo cho Kim Trọng, mong sao cho chàng Kim có hạnh phúc. Trong đau khổ tuyệt vọng, nàng còn lo cho hạnh phúc của người khác. Biết là em thuận lòng, nàng trao cho em những kỉ vật giữa nàng và chàng Kim. "Chiếc vành với bức tờ mây Duyên này thì giữ, vật này của chung" Tình cảm vẫn còn trừu tượng, chứ kỉ vật của tình yêu thì cứ hiển nhiên hiện ra đó, nên Thúy Kiều trao "chiếc vành với bức tờ mây" cho em thì nàng đau đớn đến tột độ. Mỗi lời của nàng nặng như chì, nàng trao duyên, trao kỉ vật mà uất giận cuộc đời. Cái xã hội bắt con người phải chung cả cái không thể chung được thì có đáng nguyền rủa không? Đây chính là lời tố cáo vọng đến thấu trời của Nguyễn Du đối với xã hội đã chà đạp lên hạnh phúc của con người. Nàng
dặn em giữ gìn kỉ vật và còn dặn em hãy thương lấy linh hồn vật vờ đau khổ của chị trên cõi đời đen bạc này: "Mai sau dù có bao giờ. Đốt lò hương ấy, so tơ phím này Trông ra ngọn cỏ lá cây Thấy hiu hiu gió thì hay chị về Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai" Thúy Kiều tưởng tượng nàng chỉ còn là bóng ma. Lời lẽ huyền hồ bóng ma nàng sẽ hiện lên trong hương trầm và âm nhạc. Hồn ma còn mang nặng lời thề với Kim Trọng, cho nên dầu "thịt nát xương mòn" thì hồn nàng vẫn quanh quẩn với "ngọn cỏ lá cây", với "hiu hiu gió",... Tình của người bạc mệnh vẫn còn làm chấn động cả vũ trụ. Đau đớn tột cùng trước sự đổ vỡ của tình yêu nàng quên rằng Thúy Vân trước mặt mà than khóc với Kim Trọng: "Trăm nghìn gửi lại tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi Phận sao phận bạc như vôi Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng" Trước nỗi đau xót này, nàng chỉ trách mình là "phận bạc", "hoa trôi", nhưng hình ảnh đó làm động lòng thương lên hết chúng ta. Đối với Kim Trọng, nàng mặc cảm tội lỗi chính là đã "phụ chàng" khiến nàng chết ngất trong tiếng kêu thương: "Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây!" Bằng nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, sự phối hợp linh hoạt các hình thức ngôn ngữ và diễn đạt tâm trạng, cảm xúc của Thúy Kiều khi trao duyên cho em. Đoạn trích cho thấy bi kịch tình yêu và bi kịch thân phận của người phụ nữ hồng nhan bạc mệnh. Qua đó, ta thấy bút pháp miêu tả nội tâm đặc sắc của Nguyễn Du. 7+ bài văn mẫu phân tích đoạn trích Trao duyên hay nhất Dưới đây là 7 mẫu bài văn phân tích Trao duyên hay và đầy đủ ý được THPT Ngô Thì Nhậm tổng hợp dành cho các em đọc tham khảo trước khi làm bài để vừa nắm chắc cách trình bày lại vừa có thêm những vốn từ ngữ hay, phong phú cho bài văn của mình. 1. Phân tích đoạn trích Trao duyên Mẫu số 1 Trong suốt chiều dài lịch sử văn học, có rất nhiều những thành tựu văn học rực rỡ thời kì trung đại của những nhà tác giả lớn như: Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Bỉnh Khiêm… Đóng góp vào trong dòng chảy văn học ấy ta không thể không nhắc đến đại thi hào Nguyễn Du. Ông không những là một nhân cách lớn mà đồng thời còn là một nhà văn, nhà thơ vĩ đại. Những sáng tác của Nguyễn Du bao gồm cả sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm nhưng tiêu biểu nhất là tác phẩm Đoạn trường tân thanh hay còn được biết nhiều hơn dưới tên Truyện Kiều. Đoạn trích Trao duyên là một trong những đoạn trích tiêu biểu thể hiện được tài năng cũng như tư tưởng nhân đạo của tác giả. Truyện Kiều của Nguyễn Du được viết bằng chữ Nôm dựa trên cốt truyện có sẵn của Thanh Tâm Tài Nhân là Kim Vân Kiều truyện. Thế nhưng, điều đáng nói là bằng sự sáng tạo của người nghệ sĩ, Nguyễn Du đã biến một cốt truyện bình thường trở thành một kiệt tác. Nếu như Kim Vân Kiều truyện là một câu chuyện “tình khổ” thì Truyện Kiều của Nguyễn Du lại là một khúc ca đau lòng thương người bạc mệnh, nói lên những điều trông thấy trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Đoạn trích nằm ở câu thơ 723 đến câu 756, trong phần gia biến và lưu lạc. Đây cũng chính là mở đầu cho nỗi đau khổ dằng dặc của Kiều trong suốt 15 năm lưu lạc. Sau khi tạm chia tay Kiều, Kim Trọng trở về quê để chịu tang chú. Thế nhưng trong thời gian đó, gia đình của Kiều có biến, cha và em bị bắt. Là người con có hiếu, Thúy Kiều đã quyết định bán mình để chuộc cha và cũng vì thế mà nàng không thể giữ trọn lời thề thủy chung với Kim Trọng. Kiều một mình chịu đựng nỗi đau: Một mình nàng ngọn đèn khuya Áo đầm giọt lệ, tóc se mái đầu. Kiều ngổn ngang bao nỗi băn khoăn, trăn trở và cuối cùng nàng quyết định nhờ em mình là Thúy Vân chắp mối tơ duyên với Kim Trọng mặc dù vô cùng đau khổ và dằn vặt: Hở môi ra cũng thẹn thùng Để lòng lại phụ tấm lòng với ai. Vượt lên trên tất cả, Kiều đã quyết định trao duyên cho em cùng muôn vàn đau khổ, rơi vào mối mâu thuẫn: lí trí bắt buộc phải trao nhưng tình cảm lại không thể. Trao duyên còn là đứng trước nỗi đau của một bi kịch kép: tình yêu tan vỡ và bi kịch của một cuộc đời lầm than. Tất cả xảy ra
khi Kiều còn đang ở độ tuổi rất trẻ vì vậy, Nguyễn Du đã viết nên đoạn trích bằng tất cả niềm cảm thông, thấu hiểu và thương xót của mình. Thúy Kiều mở lời nhờ cậy em một cách vừa từ tốn, trang trọng nhưng cũng vô cùng khéo léo, tinh tế và sắc sảo: Cậy em em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa Giữa đường đứt gánh tương tư Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em. Từ “em” được nhắc đi nhắc lại hai lần, đi liền với từ “cậy”, “chịu” và cử chỉ kì lạ: “ngồi lên”, “lạy”, “thưa” khiến cho lời nhờ cậy trở nên tha thiết, đưa Thúy Vân đến với không gian trang trọng, thiêng liêng của buổi trao duyên. Trong lời mình, Thúy Kiều đã dùng chữ “cậy” thay cho chữ “nhờ” khiến cho lời lẽ trở nên tha thiết và có sức nặng đồng thời thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối của nàng dành cho em. Kiều muốn Vân biết rằng em chính là chỗ bấu víu, trông cậy duy nhất của chị. Đồng thời, Kiều cũng hiểu rằng việc Vân nhận lời giúp mình cũng là một sự san sẻ. Cũng chính vì thế, thay bằng lối giao tiếp thông thường, Kiều quỳ xuống lạy em như lạy một ân nhân cứu mạng của cuộc đời mình. Ngay từ những lời đầu tiên, với từng lời nói và cử chỉ ta thấy được tấm lòng tha thiết của Kiều nhưng vô cùng sắc sảo, mặn mà. Sau đó Kiều đã tâm sự với Thúy Vân về mối tình của mình với Kim Trọng: Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề Kiều nói rõ cho em sự dang dở của mình trong mối tình với Kim Trọng. Câu thơ đã sử dụng cách nói tượng trưng thể hiện sự đau khổ của Thúy Kiều về mối tình đầu dang dở với chàng Kim. Kiều còn gọi mối tình của mình với Kim Trọng là “mối tơ thừa” bởi nàng hiểu với mình, mối tình ấy là tất cả thế nhưng đối với Thúy Vân thì đó lại là điều trói buộc, trái ngang. Kiều không muốn Thúy Vân phải bận lòng, băn khoăn quá nhiều. Nàng cũng muốn tùy em xử trí: “mặc em”. Lời nói của Kiều tưởng như vô cùng dứt khoát và mạnh mẽ thế nhưng, bên trong đó là một nỗi đau đến đứt ruột bởi mối tình của Thúy Kiều với Kim Trọng là mối tình đầu sâu đậm không dễ nguôi ngoai. Kiều đã kể lại cho em về buổi gặp gỡ, thề nguyền đính ước với chàng Kim. Thúy Kiều gọi Kim Trọng một cách rất trân trọng cùng với sự nối tiếp của các hình ảnh: “quạt ước”, “chén thề” gợi về những kỉ niệm giữa hai người. Qua đó Kiều muốn khẳng định một cách chắc chắn với Thúy Vân rằng mối tình của mình với Kim Trọng là mối tình sâu sắc chứ không phải trăng gió vật vờ. Đồng thời khi hồi tưởng lại mối tình xưa, Thúy Kiều thể hiện tình cảm tha thiết và đầy nuối tiếc mà tất cả hiện lên như vừa mới hôm qua. Kiều còn nói với em về cảnh ngộ hiện tại của mình: Sự đâu sóng gió bất kì, Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai. Nàng muốn Vân hiểu những bất hạnh bất ngờ ập tới khiến cho Kiều vô cùng rối bời, Kiều muốn em hiểu rằng mình đang làm tròn chữ hiếu và mong em giúp mình làm trọn chữ tình. Qua đó ta còn thấy một Thúy Kiều muốn sống khao khát sống trọn tình vẹn nghĩa nhưng cuộc đời đầy đau khổ bất hạnh lại không cho phép nàng. Không những thế, Kiều còn nói đến hoàn cảnh hiện tại của Vân để rồi cất lời nhờ em: Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non. Kiều nhắc đến tình máu mủ để nói việc mình nhờ cậy em cũng là hợp với đạo lí. Kiều cũng nói đến lời nước non để chứng minh rằng tình cảm của mình với Kim Trọng là tình cảm thiêng liêng rất xứng đáng với em. Kiều cũng nói với em những lời rất tội nghiệp để thuyết phục hoàn toàn Thúy Vân: Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây. Dù có ở thế giới khác đi chăng nữa thì Kiều cũng cảm thấy mãn nguyện khi đã trao duyên được cho em. Nhưng mặt khác, hai chữ “thơm lây” khiến cho Kiều trở thành một người ngoài cuộc bởi hạnh phúc bây giờ đã trao lại cho Thúy Vân. Qua đây ta cũng thấy được thân phận và số phận của Kiều khi thốt ra những lời như thế. Nếu như không có sóng gió bất ngờ xảy ra thì Kiều đã được hưởng những hạnh phúc ấy và bởi vậy, lời nói của Kiều có gì đó thật xót xa, hạnh phúc mới chớm nở thì đã tàn. Sau khi mở lời nhờ cậy em, Kiều đã trao lại cho em những kỉ vật đính ước và tha thiết tâm sự với em: Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung. Dù em nên vợ nên chồng Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên. Mất người còn chút của tin, Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa. Thúy Kiều trao lại cho em những kỉ vật là chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền. Đó là những tín vật của tình yêu gợi lại mối tình đầu. Nhìn thấy những kỉ vật Kiều như được sống lại với kỉ niệm tình yêu của mình. Trong hoàn cảnh hiện tại khi Kim Trọng đang ở nơi xa thì những kỉ vật ấy là chỗ bấu víu duy nhất của Thúy Kiều nên không dễ dàng gì để trao lại cho em. Cũng vì thế mà Kiều thốt lên những lời đầy lạ lùng: “Duyên này thì giữ vật này của chung”. Chính sự không rõ ràng trong hai từ “của chung” ấy đã thể hiện sự lúng túng và ngập ngừng của Thúy Kiều, cho thấy tâm trạng của nàng khi trao lại kỉ vật cho em: lí trí mách bảo phải trao nhưng tình cảm thì lại không thể. Trao lại kỉ vật cho em nhưng tâm hồn Kiều không thể nguôi ngoai: Mai sau dù có bao giờ Đốt lò hương ấy, so tơ phím này, Trông ra ngọn cỏ lá cây Thấy hiu hiu gió thì hay chị về. Hồn còn mang nặng lời thề Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai. Dạ đài cách mặt khuất lời Rưới xin chén nước cho người thác oan. Kiều tự nhận mình là người mệnh bạc, coi mình như đã chết. Những hình ảnh trong câu thơ gợi ra một Thúy Kiều đang ở trong một thế giới khác, không thể trở lại hòa nhập với cuộc sống và số phận của nàng vô cùng mong manh. Ngay cả khi ở thế giới bên kia thì Kiều cũng không thể thanh thản mà còn nặng lòng với tình duyên, cuộc sống và nàng coi mình là người thác oan, nỗi đau tức tưởi nhưng đồng thời cũng vô cùng bất lực. Trong tận cùng đau khổ, Kiều hướng về Kim Trọng với những tâm sự tha thiết: Bây giờ trâm gãy gương tan, Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân. Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi! Phận sao phận bạc như vôi Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây. Thúy Kiều tâm sự với chàng Kim nhưng Kim Trọng đang ở phương xa và thực chất đây là những lời độc thoại, thể hiện sự tự ý thức sâu sắc của Thúy Kiều về nỗi đau thân phận mình. “Gương gãy”, “trâm tan” là những hình ảnh diễn tả một cách cảm động và xót xa về bi kịch của Thúy Kiều. Đằng sau đó ta thấy một Thúy Kiều nặng tình nặng nghĩa với chàng Kim. Đi liền với nỗi đau về tình yêu còn là nỗi đau về thân phận bạc bẽo. Thành ngữ “bạc như vôi” như có gì đó oán trách, đi liền với nó là tâm trạng gần như bất lực “Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng”. Kết thúc đoạn thơ, Thúy Kiều cất lên tiếng gọi Kim Trọng tha thiết khiến cho lời than như một tiếng nấc được thốt ra nghẹn ngào. Trong lời than ấy, Kiều đã gọi Kim Trọng là Kim lang, coi Kim Trọng giống như chồng của mình. Điều này tưởng như phi lí bởi Kiều đã trao duyên cho em nhưng lại rất có lí bởi Kiều đã thể hiện tình cảm chân thật của mình mà quên đi tất cả mọi thứ xung quanh. Nàng mắc phải một mặc cảm là mình đã phụ tình Kim Trọng. Người đau khổ nhất lúc này đó chính là Thúy Kiều nhưng nàng đã quên đi những đau khổ ấy để chỉ nghĩ về Kim Trọng. Thúy Kiều không chỉ nặng tình mà còn nặng nghĩa. Những câu thơ cuối là những câu cảm thán khiến cho đoạn thơ như những tiếng than đứt ruột. Bi kịch, đau khổ và cả tình yêu nồng nàn của Thúy Kiều được đẩy lên đến đỉnh điểm, qua đó bộc lộ được những nét đẹp trong tâm hồn của nàng. Đoạn trích Trao duyên đã khái quát lên bi kịch đau khổ của Thúy Kiều đó là bi kịch về tình yêu tan vỡ và bi kịch cuộc đời mỏng manh. Qua đó tác giả đã làm bật lên được vẻ đẹp của Thúy Kiều: thủy chung da diết nhưng cũng sắc sảo mặn mà. Nguyễn Du đã một lần nữa khẳng định được tài năng miêu tả tâm lí nhân vật vô cùng sống động, chân thực và phong phú. Nguyễn Du như hóa thân vào nhân vật để nhân vật tự thốt lên từ tận đáy lòng. Qua đoạn trích, nội tâm nhân vật Thúy Kiều được khám phá một cách toàn diện. Tác giả đã sử dụng thể thơ lục bát kết hợp với ngôn ngữ uyển chuyển, mềm mại, tinh tế để có thể miêu tả được những rung động, đau khổ trong lòng nhân vật. Đằng sau tất cả những
điều đó là một tấm lòng nhân hậu, tinh thần nhân đạo và con mắt nhìn thấu sáu cõi của Nguyễn Du. 2. Phân tích đoạn trích Trao duyên Mẫu số 2 Bằng sự xót thương, đồng cảm cùng tấm lòng nhân đạo sâu sắc, đại thi hào Nguyễn Du đã xây dựng thành công nhân vật Thúy Kiều - hình tượng đại diện cho vẻ đẹp, số phận đau khổ, bi đát của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Trích đoạn “Trao duyên” từ câu 723 đến câu 756 của tác phẩm đã thể hiện rõ điều này. Đây là những câu thơ có vị trí “bản lề”, đánh dấu sự mở đầu, bước ngoặt định mệnh của 15 năm lưu lạc trong cuộc đời của Thúy Kiều. Trước hết, Thúy Kiều đã thuyết phục Thúy Vân bằng những hành động, lời nói, cử chỉ sâu sắc, tinh tế cùng lí do trao duyên hợp tình, hợp lí. Là người con gái thông minh, nhạy bén, khi trao duyên cho em, Thúy Kiều đã có những lời lẽ, hành động đặc biệt khác thường: “Cậy em, em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa Giữa đường đứt gánh tương tư, Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.” Tác giả đã sử dụng hàng loạt từ ngữ miêu tả hành động để tái hiện không gian của sự kiện “trao duyên”: “cậy” thể hiện sự nhờ vả, tin cậy, “chịu lời” mang sắc thái bị nài ép mà chấp nhận, “mặc” mang ý nghĩa phó thác, phó mặc. Qua hệ thống ngôn từ tinh tế, khéo léo, sắc sảo đó, chúng ta có thể thấy được Kiều là một người hết sức khôn khéo. Hành động của nàng cũng thể hiện sự trang trọng: em - “ngồi lên”, chị - “lạy”, “thưa”. Những từ ngữ trên đã tái hiện thành công không khí trang trọng của sự kiện “trao duyên”, đồng thời Kiều cũng thấu hiểu rằng nàng là người chịu ơn, mang ơn đối với Thúy Vân. Để thuyết phục em, Kiều đã gợi lại tình yêu tươi đẹp của mình: Kể từ khi gặp chàng Kim, Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề. Tác giả đã điểm xuyết những kỉ niệm của mối tình Kim - Kiều khắc cốt ghi tâm qua những hình ảnh ước lệ: “quạt ước”, “chén thề”. Nhưng đứng trước bi kịch tình yêu tan vỡ “đứt gánh tương tư”, nàng đã thuyết phục em bằng những lí lẽ: “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?”. Vì bán mình chuộc cha, nàng đã phần nào làm tròn chữ hiếu với cha mẹ, nhưng lại đánh mất mối tình cùng Kim Trọng. Không chỉ dùng câu chuyện tình yêu để lay động em gái, nàng vin vào tuổi xuân của em và tình chị em máu mủ để trao lại mối tình còn dang dở: “Ngày xuân em hãy còn dài/ Xót tình máu mủ, thay lời nước non”. Như vậy, qua những câu thơ đầu tiên, chúng ta có thể thấy được Kiều đã đưa ra những lí lẽ thuyết phục, thấu tình đạt lí, thể hiện nàng là người con gái tinh tế, sắc sảo. Sau khi lay động Thúy Vân bằng cả lí trí và trái tim, Thúy Kiều trao kỉ vật cho em: Chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh tượng trưng, ước lệ về kỉ niệm tình yêu sâu nặng, thề ước thiêng liêng giữa Kim Trọng và Thúy Kiều. Chúng ta có thể cảm nhận được, những kỉ vật ấy đã trở thành sinh mệnh của tình yêu, sinh mệnh của sự sống trong trái tim Thúy Kiều: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”. “Của tin” là tín vật minh chứng cho tình yêu giữa Kim và Kiều, “của chung” là của Kim Trọng - Thúy Vân - Thúy Kiều. Nói về điều này, Hoài Thanh đã viết “Của chung là của ai. Bao nhiêu đau đớn trong hai tiếng đơn sơ thế!”, “Đó là của chung, của chàng, của chị, hay còn là của em… Đó là của tin để lại cho nhau. Hồn chị gửi cả trong ấy”. Với tâm trạng đầy tiếc nuối, xót xa, cách Thúy Kiều trao kỉ vật cho em đầy sự nâng niu, trân trọng. Nàng chợt nhận ra trao đi kỉ vật là vĩnh biệt tình yêu. Biết bao nhiêu đau đớn, biết bao nhiêu xót xa thể hiện qua hai từ “của tin”, “của chung”. Kiều như muốn níu giữ lại hương vị tình yêu trong niềm tiếc nuối vô hạn. Cấu trúc câu thơ thể hiện sự mâu thuẫn giằng xé giữa lí trí và tình cảm: vừa níu giữ, vừa dứt khoát gửi trao mối tình dang dở: gửi trao những kỉ vật thiêng liêng và trao tình duyên cho em. Biết bao tiếc nuối, xót xa được thể hiện qua tâm trạng của Thúy Kiều: kỉ vật gợi kí ức, kí ức gợi kỉ niệm, trao đi kỉ vật nhưng vẫn không quên được mối tình sâu sắc đó. Mai sau dù có bao giờ, Đốt lò hương ấy, so tơ phím này. Trông ra ngọn cỏ lá cây, Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai. Dạ đài cách mặt khuất lời, Rưới xin giọt nước cho người thác oan. Sau khi trao đi kỉ vật tình yêu và hồi tưởng lại những kí ức tươi đẹp trong quá khứ, Kiều đau đớn, xót xa quay trở về thực tại. Lời thơ chuyển từ đối thoại sang độc thoại nội tâm. Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng một loạt từ ngữ, hình ảnh, điển tích với tần suất dày đặc: “đốt hương”, “ngọn cỏ”, “lá cây”, “hiu hiu gió”, “hồn nặng lời thề”, “nát thân bồ liễu”, “dạ đài”, “cách mặt khuất lời”, “người thác oan” để thể hiện sự tự ý thức của Thúy Kiều về bi kịch tình yêu dang dở, tan vỡ và bi kịch thân phận trái ngang, lênh đênh trôi nổi. Kiều nói với Vân như nói với chính mình. Hàng loạt từ ngữ gợi tả về cái chết được sử dụng để thể hiện dường như với nàng lúc này, viễn cảnh tương lai thật mịt mờ, xa xăm. “Mai sau dù có bao giờ” - câu thơ như một tiếng than, lại như một câu hỏi xoáy vào tâm can, vừa thể hiện sắc thái lo lắng, vừa hi vọng, nhưng hi vọng vừa lóe lên chợt hóa thành ảo vọng: “Đốt lò hương ấy, so tơ phím này”. Những kỉ vật tình yêu hạnh phúc trong quá khứ trở thành nỗi đau khắc sâu vào tâm trạng thực tại của mình. Kiều nhận ra tương lai thật mịt mù, mơ hồ, nàng tưởng tư��ng ra cái chết trong tương lai, linh hồn cũng không siêu thoát được vì vẫn mang nặng lời thề với Kim Trọng: “Rưới xin giọt nước cho người thác oan”. Kiều nghĩ đến viễn cảnh tang thương khi mất đi tình yêu, bởi với nàng, mất đi sự tự do là mất đi lí tưởng, mất đi tình yêu chính là mất đi tri kỉ. Say đắm trong tình yêu, Kiều đã cột chặt sinh mệnh của mình cùng mối tình tươi đẹp đó. Trong khoảnh khắc ấy, chúng ta có thể cảm nhận được tận sâu nỗi đau trong trái tim của nàng. Tuy nhận ra bi kịch, tuyệt vọng và đau đớn, nhưng Kiều vẫn khao khát được trọn vẹn trong tình yêu ấy. Càng đi sâu vào dòng độc thoại nội tâm, nàng Kiều càng chìm sâu vào bi kịch, nàng không còn tỉnh táo nữa mà tâm sự với Kim Trọng trong nỗi tuyệt vọng: “Bây giờ trâm gãy gương tan, Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân! Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi. Phận sao phận bạc như vôi? Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng. Nàng quay trở về thực tại và ý thức sâu sắc về bi kịch số phận qua hàng loạt thành ngữ: “trâm gãy gương tan” chỉ sự chia lìa, tan vỡ, “phận bạc như vôi” nhấn mạnh sự bạc bẽo, bất hạnh, “nước chảy hoa trôi” thể hiện số phận long đong, chìm nổi. Trong trích đoạn “Trao duyên”, chúng ta có thể thấy được diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật. Thúy Kiều không chỉ đối thoại với Thúy Vân khi trao duyên, đối thoại với chính mình khi hồi tưởng về quá khứ, ngẫm về số phận mà còn đối thoại với chàng Kim trong sự thức tỉnh về bi kịch hiện tại: “Trăm nghìn gửi lạy tình quân”. Đó không phải là cái lạy của kẻ bề dưới đối với bề trên, càng không phải là cái vái lạy của kẻ chịu ơn, mà là cái lạy tạ lỗi nhưng cũng là lời vĩnh biệt tức tưởi nghẹn ngào, thể hiện Thúy Kiều hướng về Kim Trọng trong sự xót xa, cầu khẩn. Nàng tưởng tượng chàng Kim đang ở trước mắt và bất giác chìm sâu vào tuyệt vọng: “Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” Hai câu cuối vỡ òa thảng thốt, Kiều đã không kìm nén được lòng mình mà thốt lên lời than vãn bi ai. Các từ cảm thán “ôi”, “hỡi’ đã nhấn mạnh nàng gọi tên Kim Trọng hai lần trong sự chua xót, bẽ bàng. Đặc biệt, từ “phụ” đã nhấn mạnh nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều. Dù là người mệnh bạc, bán mình chuộc cha để làm tròn chữ hiếu nhưng Kiều tự nhận mình là kẻ “phụ bạc”. Nhịp thơ 3/ 3 và 2/2/2 như tiếng nấc nghẹn ngào thể hiện sự đau đớn. Đoạn thơ đã làm nổi bật hơn nữa vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách cùng tình yêu sâu nặng của Thúy Kiều. Như vậy, qua đoạn trích “Trao duyên”, chúng ta có thể thấy được tình yêu sâu nặng cùng bi kịch của Thúy Kiều. Đối với nàng, tình và hiếu luôn thống nhất chặt chẽ. Tất cả đã được thể hiện thông qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế của đại thi hào Nguyễn Du. 3. Phân tích Trao duyên để làm rõ khoảnh khắc Kiều trao duyên cho Vân - Bài mẫu số 3 Truyện
Kiều đỉnh cao trong đời thơ Nguyễn Du cũng là đỉnh cao của văn học Việt Nam, tác phẩm để lại những giá trị sâu sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Cuộc đời nàng Kiều trải qua biết bao truân chuyên, biến cố, phải trải qua biết bao khoảnh khắc đau lòng mà có lẽ đau lòng nhất chính là khoảnh khắc trao duyên cho em. Toàn bộ suy nghĩ tâm trạng của nàng được tái hiện chân thực, đầy đủ qua đoạn trích Trao duyên.  Trao duyên được trích trong phần gia biến và lưu lạc, sau khi gia đình gặp cơn tai biến, Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh với giá vàng ngoài bốn trăm để lo cho cha và em thoát nạn. Đêm cuối cùng trước khi phải đi cùng Mã Giám Sinh, Thúy Kiều đã trò chuyện với em là Thúy Vân và trao duyên mình với Kim Trọng cho em. Để thuyết phục em đồng ý thay mình trả nghĩa cho chàng Kim, Thúy Kiều nhờ cậy hết sức chân thành: Cậy em em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Thúy Kiều đã sử dụng ngôn từ hết sức tinh tế, hết sức cẩn trọng để đạt được hiệu quả cao nhất. Ngoài ra, nàng cũng rất hiểu cho tình thế của Thúy Vân, đây là câu chuyện rất đột ngột với Thúy Vân, đó là chuyện không phải dễ dàng có thể chấp nhận. Là cậy chứ không phải bất từ ngữ nào khác, cậy gửi gắm sự tin tưởng, sự trông mong tha thiết của Kiều với em. Chịu lời - nhận làm một việc với thái độ miễn cưỡng, nàng hiểu cho tình cảm của Thúy Vân khi phải nghe những điều mình chuẩn bị giãi bày. Cặp từ "lạy, thưa" thoạt nhìn có vẻ phi lí trong lễ giáo phong kiến vì chị làm sao có thể lạy, thưa với em. Nhưng nó l��i là hợp lý trong tư thế người cậy nhờ và kẻ được nhờ cậy. Cách dùng từ của Kiều đã đặt Thúy Vân vào tình thế khó có thể từ chối trước những điều éo le, nghịch cảnh sắp nói. Để thuyết phục em, Kiều đã đưa ra lí lẽ về tình thế éo le của bản thân: “Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề Sự đâu sóng gió bất kì Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Nhắc lại chuyện tình cảm của mình và Kim Trọng hẳn lòng Kiều cũng nhói đau, hàng loạt hình ảnh thể hiện tình yêu đôi lứa được nói đến: "quạt ước" - tặng quạt để ngỏ ý hẹn ước trăm năm, "chén thề" - uống rượu thề nguyền chung thủy. Những lời hẹn thề sắt son, những tưởng cả hai sẽ được hưởng hạnh phúc mãi mãi nào ngờ gia đình gặp biến cố khiến tình duyên lỡ dở. Hai câu thơ sau đã chỉ rõ nguyên nhân khiến Thúy Kiều phải bội ước. Gia đình gặp biến cố lớn, là chị cả trong gia đình, Thúy Kiều lúc này bị đặt giữa mâu thuẫn: chuyện gia đình và chuyện tình cảm, chọn chữ hiếu thì nàng bội nghĩa tình, lời hẹn thề với Kim Trọng, nhưng nếu trọn chữ tình thì lại trở thành kẻ đại bất hiếu. Và cuối cùng nàng đã quyết định: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Trong đau đớn, dằn vặt nàng vẫn hết sức bản lĩnh, bình tĩnh để đưa ra cách giải quyết phù hợp nhất: “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”. Keo loan được làm từ máu của con chim loan, dùng keo loan để chắp vá cho mối duyên của em và Kim Trọng. Hai chữ “tơ thừa” như nhấn mạnh vào nỗi đau đớn của Thúy Kiều nhưng đồng thời cho thấy sự tội nghiệp của nàng Vân. Biết bao đau đớn, biết bao tủi hờn trong chuyện tình duyên này. Kiều luôn tỏ ra là người rất am hiểu tâm lí và tình thế của Thúy Vân, nếu ở trên là mặc em, gần như giao phó, thì câu thơ dưới lại như một lời mong mỏi, tha thiết: “Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non”. Thúy Kiều mong Vân vì tình chị em ruột thịt mà em có thể trả nghĩa cho Kim Trọng thay mình, nếu vậy: “Chị dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”. Trong nàng bao giờ cũng vậy, luôn có dự cảm không lành cho tương lai của chính mình. Đồng thời với lập luận như vậy kiến Vân không nỡ từ chối lời đề nghị của mình. Bằng lối lập luận chặt chẽ, sắc sảo vừa cho thấy sự thông minh của Thúy Kiều, vừa thực hiện được mục đích khiến Vân trả nghĩa cho Kim Trong cho nàng. Sau lời nhờ cậy em, Thúy Kiều bắt đầu trao kỉ vật cho Thúy Vân và dặn dò chuyện tương lai. Từng kỉ vật khi xưa của nàng và Kim Trọng đều được nâng niu, giữ gìn, mỗi kỉ vật gắn liền với một niềm hạnh phúc mà cả cuộc đời này nàng sẽ không bao giờ quên. Là chiếc
vành mà Kim Trọng đã trao cho Thúy Kiều, là bức tờ mây – thư từ với những lời yêu thương họ dành cho nhau. Nhưng đó đâu phải đã hết họ còn có chung những kỉ niệm “phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa” và giờ đây Thúy Kiều trao lại hết cho em, nàng trao kỉ vật cũng đồng nghĩa với việc trao duyên. Nhưng khi nàng trao kỉ vật vẫn có sự mâu thuẫn, giằng xé giữa lí trí và tình cảm: lí trí thì nàng muốn trao hết cho em, nhưng tình cảm dường như không muốn: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”, nàng vừa muốn trao, vừa muốn giữ, giữ lại một chút gì đó cho bản thân. Tâm lí này cũng thật dễ hiểu, bởi trong tình yêu nhu cầu sở hữu rất cao, mấy ai có đủ dũng khí để trao duyên, vậy mà, Kiều đã phải làm, nên hành động muốn giữ lại một chút của chung cho mình là hoàn toàn dễ hiểu và hợp quy luật tâm lí. Đồng thời nàng cũng mong họ có cuộc sống êm đềm, hạnh phúc nhưng lại cũng muôn họ không bao giờ quên mình: “Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”. Thúy Kiều rõ ràng có sự ích kỉ, mềm yếu nhưng chính trong đó lại thấy tình cảm nàng dành cho Kim Trọng rất sâu nặng và trong giây phút trao duyên này nàng rất đau đớn, mất mát, hụt hẫng. Trao kỉ vật đau đớn, xót xa bao nhiêu thì những lời dặn dò chuyện mai sau càng quặn thắt bấy nhiêu: “Mai sau dù có bao giờ Đốt lò hương ấy so tơ phím này”. Sau này, mỗi khi đốt hương, đánh đàn, linh hồn của nàng sẽ trở về, khi đó nàng chỉ mong Thúy Vân hãy rưới giọt nước để giải oan cho chị “rưới xin giọt nước cho người thác oan”. Ta thấy rằng ở bất cứ đâu trong Kiều cũng luôn mang khao khát hạnh phúc, sum họp: "Hồn còn mang nặng lời thề Nát thân bồ liễu, đền ghì trúc mai." Dù nàng có bị vùi dập thịt nát xương mòn nhưng lòng vẫn nặng lời thề với Kim Trọng. Bởi vậy khi Kim Trọng và Thúy Vân được hưởng hạnh phúc thì Thúy Kiều cũng sẽ trở về để chung hưởng hạnh phúc ấy. Mâu thuẫn này đã cho thấy sự tiếc nuối và đau khổ của nàng Kiều đồng thời cho thấy tình cảm sâu nặng nàng dành cho Kim Trọng. Tám câu thơ cuối, nàng Kiều trở về với thực tại đau đớn, xót xa: tình yêu dang dở, tan vỡ, mãi mãi không thể hàn gắn. “Bây giờ trâm gãy gương tan Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi” Thành ngữ “trâm gãy gương tan” là sự tan vỡ trong tình yêu cũng là sự tan nát trong cõi lòng Thúy Kiều. Nàng thức tỉnh nỗi đau thân phận: “Phận sao phận bạc như vôi Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng Ôi Kim lang, hỡi Kim lang Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây” Hai từ ôi, hỡi trong câu thơ sáu chữ đã cho thấy lời gọi tha thiết, khắc khoải và nỗi đau đến tột cùng của Kiều. Câu kết là lời nhận tội, tự trách của Thúy Kiều “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”. Bằng nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, sự phối hợp linh hoạt các hình thức ngôn ngữ đã diễn đạt tâm trạng, cảm xúc của Thúy Kiều khi trao duyên cho em. Đoạn trích Trao duyên đã cho ta thấy bi kịch tình yêu và bi kịch thân phận của người phụ nữ hồng nhan, bạc mệnh trong xã hội phong kiến, đồng thời trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của Thúy Kiều. Văn mẫu đề tài liên quan: Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều 4. Phân tích Trao duyên: Cái nhìn hiện thực về con người của Nguyễn Du - Bài mẫu số 4 Trao duyên - một hành động “trả nghĩa chàng Kim” của Thúy Kiều thể hiện một nét đẹp trong đạo sống của người xưa, “tình” thường gắn liền với “nghĩa”. Đó là một đặc điểm quan trọng trong quan niệm truyền thống về tình yêu. Đó là cái nhìn hiện thực của Nguyễn Du về con người. Nhưng bên cạnh đó, ta còn thấy một nàng Kiều thiết tha với tình yêu, thiết tha với cuộc sống riêng tư. Điều đó được thể hiện qua nỗi đau đớn của nàng vì tình yêu tan vỡ. Chiều sâu và sự chân thành trong tình cảm của nàng Kiều được bộc lộ sâu sắc khi nàng đối diện với kỉ vật, kỉ niệm tình yêu. Mối tình Kim - Kiều là mối tình đẹp vượt lễ giáo phong kiến. Mối tình của đôi tài tử - giai nhân ấy đã có những kỉ niệm trong sáng, đẹp đẽ, sâu nặng thiết tha. Kỉ niệm chính là hiện thân của tình yêu. Kỉ vật gắn với kỉ niệm, là một dạng vật chất hoá của kỉ niệm. Cho nên, rải rác suốt trong đoạn Trao duyên, Thuý Kiều đã nhắc tới, đã sống và đau đớn với những kỉ vật và kỉ niệm ấy.
Trước hết, kỉ niệm được Kiều nhắc đến một cách tế nhị khi nói với Thuý vân về mối tình của mình: Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề Ngôn ngữ khách quan, chữ “khi” lặp lại như dư âm của cái đã qua, lời lẽ có vẻ thanh thản. Nhưng cái thiết tha, cái chiều sâu của tình cảm lại nằm ở kỉ niệm “gặp chàng Kim”. Đó là kỉ niệm của phút giây gặp gỡ ban đầu mà “nghìn năm hồ dễ mấy ai quên”. Cả một vùng trong sáng của kí ức hiện về. Nhưng lúc này Kiều còn đủ lí trí để kìm nén, để không bị kỉ niệm cuốn vào tâm tưởng. Nhưng đến câu: “Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề” thì kỉ niệm của ngày trao quạt cho nhau để hẹn ước, đêm dưới trăng uống rượu nguyện thề thuỷ chung tự nó nói lên sự sâu nặng của một mối tình: trong sáng mà m��nh liệt, thiết tha. Mối tình vàng đá ấy tưởng cầm nắm trong tay bỗng chốc bị xã hội dập vùi tan vỡ. Tình yêu vẫn tiếp tục hiện về với kỉ vật: Chiếc vành với bức tờ mây Duyên này thì giữ, vật này của chung. Khi trao kỉ vật cho Thuý Vân, nỗi mất mát hiện hữu quá rõ. Cầm đến kỉ vật, kỉ niệm tình yêu sống dậy đối lập với hiện thực phũ phàng, Thuý Kiều không còn đủ lí trí để kìm nén được nữa, giọng nói của nàng run lên: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”, nghe như có tiếng nấc nghẹn ngào trong đó. Hoài Thanh đã cảm thông nỗi đau đớn của nàng Kiều ở hai từ “của chung” – “Bao nhiêu đau đớn dồn vào hai tiếng đơn sơ ấy”. Đau đớn vì duyên thì trao cho em mà tình yêu thì không trao được. Kỉ vật với Thuý Vân chỉ đơn giản là vật làm tin nhưng với Thuý Kiều nó lại là tình yêu. Trao duyên cho em, con người đạo lí ở Thuý Kiều mách bảo cần phải trao kỉ vật. Vả lại, khi tình yêu tan vỡ, giữ kỉ vật chỉ thêm đau nhưng Thuý Kiều không chỉ là con người của đạo lí mà còn là con người của tình riêng. Thuý Vân giữ kỉ vật trong khi chính Kiều mới là người giữ kỉ niệm của tình yêu. Cuộc chia lìa giữa kỉ niệm và kỉ vật là cuộc chia lìa giữa linh hồn và thể xác. Đau đớn dồn vào hai chữ “của chung” là vì như thế. Nguyễn Du như hoá thân để cảm thông, chia sẻ đến tận cùng nỗi đau với nhân vật của mình, từ đó cất lên tiếng nói nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Càng lúc, nỗi đau đớn càng lớn, kỉ vật, kỉ niệm tình yêu cứ chập chờn: Mất người còn chút của tin Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa “Ngày xưa”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền”,… có một đôi lứa thiếu niên bên nhau, nàng đánh đàn cho chàng nghe trong khói hương trầm thơm ngát. Bao nhiêu thi vị của mối tình đầu giờ chỉ còn là vô vọng. - Đốt lò hương ấy, so tơ phím này… - Hồn còn mang nặng lời thề … “Lò hương”, “phím đàn”, “lời thề” là những kỉ niệm sâu nặng, thiết tha đối lập với hiện thực phũ phàng, tương lai mù mịt khiến Thuý Kiều rơi vào trạng thái đau đớn tột độ. Nguyễn Du thật tinh tế, sâu sắc khi biểu đạt nội tâm con người đối diện với kỉ vật, kỉ niệm tình yêu trong hoàn cảnh trao duyên. Thân phận đau khổ nhưng nhân cách sáng ngời. Nàng ứng xử theo văn hoá của thời trung đại nhưng không thôi nghĩ về thân phận và tình yêu riêng tư. Điều đó khiến nàng Kiều “người” hơn, gần chúng ta hơn, sống động và chân thực hơn. //Trọng tâm của đoạn trích không chỉ có chuyện trao duyên mà còn chất chứa bao tâm tư trĩu nặng của Thúy Kiều từ đó cho ta thấy nhân cách cao đẹp của nhân vật Thúy Kiều. Các em có thể tìm hiểu thêm qua đề văn phân tích vẻ đẹp nhân cách của Thúy Kiều qua Trao duyên. Phân tích đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều (Nguyễn Du) 5. Phân tích đoạn trích Trao duyên theo tuần tự hay nhất - Bài mẫu số 5 Duyên phận là của trời cho, không được cưỡng cầu và càng không nên ép buộc, nhờ vả. Thế nhưng Thúy Kiều trong đoạn trích "Trao duyên" (Truyện Kiều) của Nguyễn Du đã cho mình cái đặc quyền đi "nhờ", "cậy" duyên như vậy. Tác giả đã phân tích thành công tâm trạng chua xót, đầy đớn đau của Thúy Kiều khi phải trao mối duyên đầu với Kim Trọng cho em gái là Thúy Vân. Một nghịch cảnh trớ trêu, bất hạnh. Đã gọi là duyên thì đến rất tự nhiên, đi tìm cũng không được, duyên đến thì giữ, duyên đi thì buông tay. Đó là duyên phận của mỗi người, mỗi cuộc đời khi gặp gỡ nhau. Trong tình yêu thì chữ ''duyên" này càng lớn lao và quan trọng.
Nhưng Thúy Kiều trong đoạn trích "Trao duyên" đã phải mang chữ duyên của mình gửi nhờ một người khác. Nguyễn Du đã chua xót khi khắc họa tâm trạng của Thúy Kiều lúc này: Cậy em em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa Chỉ với hai câu thơ nhưng biết bao chua xót và dằn vặt, biết bao nước mắt và đau đớn. Từ "cậy" được đặt lên đầu câu diễn tả hoàn cảnh ngặt nghèo, khó thưa, khó gửi của Thúy Kiều. Vốn dĩ Thúy Kiều là chị, sẽ không có chuyện "thưa", "lạy" Thúy Vân bất cứ việc gì; nhưng trong hoàn cảnh này, nàng đã phải làm những việc tưởng chừng như nghịch lý như vậy. Mối duyên với chàng Kim là mối duyên trời cho, nhưng số phận của Thúy Kiều giờ nổi trôi, bấp bênh, nàng không muốn phụ chàng, nên đã muốn cậy nhờ em gái nối tiếp mối duyên dở dang ấy. Câu thơ như cứa vào lòng người đọc nỗi chua xót cùng cực. Từ "cậy" là điểm nhấn, là sự thành công về mặt ngôn ngữ của Nguyễn Du. Thúy Kiều bắt đầu giãi bày nỗi lòng của mình bằng những câu thơ như dao cắt: Giữa đường đứt gánh tương tư Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề Sự đâu sóng gió bất kì Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai. Đến đây thì người đọc đã thực sự hiểu hết ý nghĩa của từ "cậy", nó không còn là nhờ nữa mà mang tính chất ép buộc, bắt buộc phải làm. Thúy Kiều hiểu được hoàn cảnh, hiểu được nỗi đau của bản thân mình. Nàng đã hi sinh chữ tình vì chữ hiếu, quyết phụ chàng Kim, chứ không thể phụ cha mẹ. Một người con gái yếu đuối, mỏng manh nhưng rất mực hiếu thảo. "Gánh tương tư" đã đứt gánh, mối duyên đã vỡ, nhưng Kiều không muốn chàng Kim đau lòng, nàng chỉ mong Thúy Vân có thể nối lại mối duyên này. Mặc dù "trao duyên" cho em gái nhưng lòng nàng đau như cắt. Những hẹn ước, những mong chờ, những kỉ niệm cứ như xát muối vào trong trái tim người con gái mỏng manh ấy. Thúy Kiều đã rất khéo léo khi "cậy" duyên em gái, đã đem chuyện máu mủ để ép Thúy Vân nên Thúy Vân không thể từ chối được: Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non Chị dù thịt nát xương tan Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây Thúy Kiều và Thúy Vân đều đang "đến tuổi cập kề'' nhưng nàng lại nhắn nhủ với Thúy Vân "ngày xuân em còn dài", có thể gánh tiếp mối duyên với chàng Kim, với người mà Kiều yêu thương. Một sự chua xót đến đau lòng khi Kiều nhắc đến cái chết, một dự liệu chẳng lành hay là một cuộc đời sẽ chẳng bình an mà nàng sắp phải mang. Thúy Vân có thể giúp đỡ thì dù mai này có chết Kiều vẫn "ngậm cười chín suối". Qua đây chúng ta thấy được tấm lòng, sự lương thiện, sống và yêu hết lòng mình. "Trao" đi mối duyên mà bản thân nâng niu, trân trọng là điều đau đớn, chua xót mà Kiều phải gánh chịu. Nhưng đây là con đường Kiều phải chọn để đi, vì không còn lựa chọn nào khác nữa. Kiều mong em gái có thể giữ lấy mối duyên mà cô phải buông bỏ, để không phụ tấm lòng của Kim Trọng. Và dường như cái chết càng hiện rõ nét trong những lời nói của Kiều: Mai sau dù có bao giờ Đốt lò hương ấy so tơ phím n��y Trông ra ngọn cỏ lá cây Thấy hiu hiu gió thì hay chị về Hồn còn mang nặng lời thề Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai Dạ đài cách mặt khuất lời Rày xin chén nước cho người thác oan. Sống trong xã hội nhiều bất công, những người đáng lẽ ra phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn lại phải lựa chọn con đường đi nhiều nước mắt. Cái chết không phải là kết thúc đối với Kiều, vì nàng còn mang nặng món nợ lớn với đời, với Kim Trọng. Thúy Kiều chỉ có thể bất lực với tình yêu của mình, mong Kim Trọng có thể hiểu được. Sự bế tắc và đau khổ trong lòng Thúy Kiều dường như chồng chất và đè nén không thể thoát ra được. Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ có sát khí mạnh, cứa vào lòng người đọc một nỗi đau tận trái tim. Thương cho cô gái yếu đuối, với trái tim yêu chân thành nhưng lại rơi vào bế tắc cùng cực như vậy. Đoạn trích "Trao duyên" thực sự khiến người đọc không kìm được cảm xúc khi nghĩ đến thân phận và nỗi đau mà người con gái hiếu thảo ấy phải gánh chịu. Xã hội bất công, lòng người bạc bẽo đã đẩy những phận người thấp cổ bé họng vào con đường không lối. Thúy Kiều và mối tình đứt gánh ấy là minh chứng cho điều đó.
 * Tâm trạng của Kiều xuyên suốt tác phẩm, nó như đọng lại trong tâm trí ta vậy. Bạn đọc có thể tham khảo thêm nội dung phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên để hiểu sâu sắc hơn diễn biến tâm trạng của Kiều trong đoạn trích này! 6. Phân tích đoạn trích Trao duyên để thấy tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du - Bài mẫu số 6 Trong suốt chiều dài lịch sử văn học, có rất nhiều những thành tựu văn học rực rỡ thời kì trung đại của những nhà tác giả lớn như: Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Bỉnh Khiêm… Đóng góp vào trong dòng chảy văn học ấy ta không thể không nhắc đến đại thi hào Nguyễn Du. Ông không những là một nhân cách lớn mà đồng thời còn là một nhà văn, nhà thơ vĩ đại. Những sáng tác của Nguyễn Du bao gồm cả sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm nhưng tiêu biểu nhất là tác phẩm Đoạn trường tân thanh hay còn được biết nhiều hơn dưới tên Truyện Kiều. Đoạn trích Trao duyên là một trong những đoạn trích tiêu biểu thể hiện được tài năng cũng như tư tưởng nhân đạo của tác giả. Truyện Kiều của Nguyễn Du được viết bằng chữ Nôm dựa trên cốt truyện có sẵn của Thanh Tâm Tài Nhân là Kim Vân Kiều truyện. Thế nhưng, điều đáng nói là bằng sự sáng tạo của người nghệ sĩ, Nguyễn Du đã biến một cốt truyện bình thường trở thành một kiệt tác. Nếu như Kim Vân Kiều truyện là một câu chuyện “tình khổ” thì Truyện Kiều của Nguyễn Du lại là một khúc ca đau lòng thương người bạc mệnh, nói lên những điều trông thấy trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Đoạn trích nằm ở câu thơ 723 đến câu 756, trong phần Gia biến và lưu lạc. Đây cũng chính là mở đầu cho nỗi đau khổ dằng dặc của Kiều trong suốt 15 năm lưu lạc. Sau khi tạm chia tay Kiều, Kim Trọng trở về quê để chịu tang chú. Thế nhưng trong thời gian đó, gia đình của Kiều có biến, cha và em bị bắt. Là người con có hiếu, Thúy Kiều đã quyết định bán mình để chuộc cha và cũng vì thế mà nàng không thể giữ trọn lời thề thủy chung với Kim Trọng. Kiều một mình chịu đựng nỗi đau: Một mình nàng ngọn đèn khuya Áo đầm giọt lệ, tóc se mái đầu. Kiều ngổn ngang bao nỗi băn khoăn, trăn trở và cuối cùng nàng quyết định nhờ em mình là Thúy Vân chắp mối tơ duyên với Kim Trọng mặc dù vô cùng đau khổ và dằn vặt: Hở môi ra cũng thẹn thùng Để lòng lại phụ tấm lòng với ai. Vượt lên trên tất cả, Kiều đã quyết định trao duyên cho em cùng muôn vàn đau khổ, rơi vào mối mâu thuẫn: lí trí bắt buộc phải trao nhưng tình cảm lại không thể. Trao duyên còn là đứng trước nỗi đau của một bi kịch kép: tình yêu tan vỡ và bi kịch của một cuộc đời lầm than. Tất cả xảy ra khi Kiều còn đang ở độ tuổi rất trẻ vì vậy, Nguyễn Du đã viết nên đoạn trích bằng tất cả niềm cảm thông, thấu hiểu và thương xót của mình. Thúy Kiều mở lời nhờ cậy em một cách vừa từ tốn, trang trọng nhưng cũng vô cùng khéo léo, tinh tế và sắc sảo: Cậy em em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa Giữa đường đứt gánh tương tư Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em. Từ “em” được nhắc đi nhắc lại hai lần, đi liền với từ “cậy”, “chịu” và cử chỉ kì lạ: “ngồi lên”, “lạy”, “thưa” khiến cho lời nhờ cậy trở nên tha thiết, đưa Thúy Vân đến với không gian trang trọng, thiêng liêng của buổi trao duyên. Trong lời mình, Thúy Kiều đã dùng chữ “cậy” thay cho chữ “nhờ” khiến cho lời lẽ trở nên tha thiết và có sức nặng đồng thời thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối của nàng dành cho em. Kiều muốn Vân biết rằng em chính là chỗ bấu víu, trông cậy duy nhất của chị. Đồng thời, Kiều cũng hiểu rằng việc Vân nhận lời giúp mình cũng là một sự san sẻ. Cũng chính vì thế, thay bằng lối giao tiếp thông thường, Kiều quỳ xuống lạy em như lạy một ân nhân cứu mạng của cuộc đời mình. Ngay từ những lời đầu tiên, với từng lời nói và cử chỉ ta thấy được tấm lòng tha thiết của Kiều nhưng vô cùng sắc sảo, mặn mà. Sau đó Kiều đã tâm sự với Thúy Vân về mối tình của mình với Kim Trọng: Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề Kiều nói rõ cho em sự dang dở của mình trong mối tình với Kim Trọng. Câu thơ đã sử dụng cách nói tượng trưng thể hiện sự đau khổ của Thúy Kiều về mối tình đầu dang dở với chàng Kim.
Kiều còn gọi mối tình của mình với Kim Trọng là “mối tơ thừa” bởi nàng hiểu với mình, mối tình ấy là tất cả thế nhưng đối với Thúy Vân thì đó lại là điều trói buộc, trái ngang. Kiều không muốn Thúy Vân phải bận lòng, băn khoăn quá nhiều. Nàng cũng muốn tùy em xử trí: “mặc em”. Lời nói của Kiều tưởng như vô cùng dứt khoát và mạnh mẽ thế nhưng, bên trong đó là một nỗi đau đến đứt ruột bởi mối tình của Thúy Kiều với Kim Trọng là mối tình đầu sâu đậm không dễ nguôi ngoai. Kiều đã kể lại cho em về buổi gặp gỡ, thề nguyền đính ước với chàng Kim. Thúy Kiều gọi Kim Trọng một cách rất trân trọng cùng với sự nối tiếp của các hình ảnh: “quạt ước”, “chén thề” gợi về những kỉ niệm giữa hai người. Qua đó Kiều muốn khẳng định một cách chắc chắn với Thúy Vân rằng mối tình của mình với Kim Trọng là mối tình sâu sắc chứ không phải trăng gió vật vờ. Đồng thời khi hồi tưởng lại mối tình xưa, Thúy Kiều thể hiện tình cảm tha thiết và đầy nuối tiếc mà tất cả hiện lên như vừa mới hôm qua. Kiều còn nói với em về cảnh ngộ hiện tại của mình: Sự đâu sóng gió bất kì, Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai. Nàng muốn Vân hiểu những bất hạnh bất ngờ ập tới khiến cho Kiều vô cùng rối bời, Kiều muốn em hiểu rằng mình đang làm tròn chữ hiếu và mong em giúp mình làm trọn chữ tình. Qua đó ta còn thấy một Thúy Kiều muốn sống khao khát sống trọn tình vẹn nghĩa nhưng cuộc đời đầy đau khổ bất hạnh lại không cho phép nàng. Không những thế, Kiều còn nói đến hoàn cảnh hiện tại của Vân để rồi cất lời nhờ em: Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non. Kiều nhắc đến tình máu mủ để nói việc mình nhờ cậy em cũng là hợp với đạo lí. Kiều cũng nói đến lời nước non để chứng minh rằng tình cảm của mình với Kim Trọng là tình cảm thiêng liêng rất xứng đáng với em. Kiều cũng nói với em những lời rất tội nghiệp để thuyết phục hoàn toàn Thúy Vân: Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây. Dù có ở thế giới khác đi chăng nữa thì Kiều cũng cảm thấy mãn nguyện khi đã trao duyên được cho em. Nhưng mặt khác, hai chữ “thơm lây” khiến cho Kiều trở thành một người ngoài cuộc bởi hạnh phúc bây giờ đã trao lại cho Thúy Vân. Qua đây ta cũng thấy được thân phận và số phận của Kiều khi thốt ra những lời như thế. Nếu như không có sóng gió bất ngờ xảy ra thì Kiều đã được hưởng những hạnh phúc ấy và bởi vậy, lời nói của Kiều có gì đó thật xót xa, hạnh phúc mới chớm nở thì đã tàn. Sau khi mở lời nhờ cậy em, Kiều đã trao lại cho em những kỉ vật đính ước và tha thiết tâm sự với em: Chiếc vành với bức tờ mây Duyên này thì giữ, vật này của chung. Dù em nên vợ nên chồng Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên. Mất người còn chút của tin, Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa. Thúy Kiều trao lại cho em những kỉ vật là chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền. Đó là những tín vật của tình yêu gợi lại mối tình đầu. Nhìn thấy những kỉ vật Kiều như được sống lại với kỉ niệm tình yêu của mình. Trong hoàn cảnh hiện tại khi Kim Trọng đang ở nơi xa thì những kỉ vật ấy là chỗ bấu víu duy nhất của Thúy Kiều nên không dễ dàng gì để trao lại cho em. Cũng vì thế là Kiều thốt lên những lời đầy lạ lùng: “Duyên này thì giữ vật này của chung”. Chính sự không rõ ràng trong hai từ “của chung” ấy đã thể hiện sự lúng túng là ngập ngừng của Thúy Kiều, cho thấy tâm trạng của nàng khi trao lại kỉ vật cho em: lí trí mách bảo phải trao nhưng tình cảm thì lại không thể. Trao lại kỉ vật cho em những tâm hồn Kiều không thể nguôi ngoai: Mai sau dù có bao giờ Đốt lò hương ấy, so tơ phím này, Trông ra ngọn cỏ lá cây Thấy hiu hiu gió thì hay chị về. Hồn còn mang nặng lời thề Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai. Dạ đài cách mặt khuất lời Rưới xin chén nước cho người thác oan. Kiều tự nhận mình là người mệnh bạc, coi mình như đã chết. Những hình ảnh trong câu thơ gợi ra một Thúy Kiều đang ở trong một thế giới khác, không thể trở lại hòa nhập với cuộc sống và số phận của nàng vô cùng mong manh. Ngay cả khi ở thế giới bên kia kia thì Kiều cũng không thể thanh thản mà còn nặng lòng với tình duyên, cuộc
sống và nàng coi mình là người thác oan, nỗi đau tức tưởi nhưng đồng thời cũng vô cùng bất lực. Trong tận cùng đau khổ, Kiều hướng về Kim Trọng với những tâm sự tha thiết: Bây giờ trâm gãy gương tan, Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân. Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi! Phận sao phận bạc như vôi Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây. Thúy Kiều tâm sự với chàng Kim nhưng Kim Trọng đang ở phương xa và thực chất đây là những lời độc thoại, thể hiện sự tự ý thức sâu sắc của Thúy Kiều về nỗi đau thân phận mình. “Gương gãy”, “trâm tan” là những hình ảnh diễn tả một cách cảm động và xót xa về bi kịch của Thúy Kiều. Đằng sau đó ta thấy một Thúy Kiều nặng tình nặng nghĩa với chàng Kim. Đi liền với nỗi đau về tình yêu còn là nỗi đau về thân phận bạc bẽo. Thành ngữ “bạc như vôi” như có gì đó oán trách, đi liền vói nó là tâm trạng gần như bất lực “Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng.” Kết thúc đoạn thơ, Thúy Kiều cất lên tiếng gọi Kim Trọng tha thiết khiến cho lời than như một tiếng nấc được thốt ra nghẹn ngào. Trong lời than ấy, Kiều đã gọi Kim Trọng là Kim lang, coi Kim Trọng giống như chồng của mình. Điều này tưởng như phi lí bởi Kiều đã trao duyên cho em nhưng lại rất có lí bởi Kiều đã thể hiện tình cảm chân thật của mình mà quên đi tất cả mọi thứ xung quanh. Nàng mắc phải một mặc cảm là mình đã phụ tình Kim Trọng. Người đau khổ nhất lúc này đó chính là Thúy Kiều nhưng nàng đã quên đi những đau khổ ấy để chỉ nghĩ về Kim Trọng. Thúy Kiều không chỉ nặng tình mà còn nặng nghĩa. Những câu thơ cuối là những câu cảm thán khiến cho đoạn thơ như những tiếng than đứt ruột. Bi kịch, đau khổ và cả tình yêu nồng nàn của Thúy Kiều được đẩy lên đến đỉnh điểm, qua đó bộc lộ được những nét đẹp trong tâm hồn của nàng. Đoạn trích Trao duyên đã khái quát lên bi kịch đau khổ của Thúy Kiều đó là bi kịch về tình yêu tan vỡ và bi kịch cuộc đời mỏng manh. Qua đó tác giả đã làm bật lên được vẻ đẹp của Thúy Kiều: thủy chung da diết nhưng cũng sắc sảo mặn mà. Nguyễn Du đã một lần nữa khẳng định được tài năng miêu tả tâm lí nhân vật vô cùng sống động, chân thực và phong phú. Nguyễn Du như hóa thân vào nhân vật để nhân vật tự thốt lên từ tận đáy lòng. Qua đoạn trích, nội tâm nhân vật Thúy Kiều được khám phá một cách toàn diện. Tác giả đã sử dụng thể thơ lục bát kết hợp với ngôn ngữ uyển chuyển, mềm mại, tinh tế để có thể miêu tả được những rung động, đau khổ trong lòng nhân vật. Đằng sau tất cả những điều đó là một tấm lòng nhân hậu, tinh thần nhân đạo và con mắt nhìn thấu sáu cõi của Nguyễn Du. 7. Phân tích đoạn trích Trao duyên để cảm nhận nỗi lòng Kiều - Bài mẫu số 7 Cuộc đời của con người tài sắc Thuý Kiều từ khi gia đình có tai biến đã trải qua nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn được ghi dấu bằng một niềm đau. Trong Truyện Kiều, có thể nói “trao duyên” là niềm đau lớn nhất. Bởi với Thuý Kiều, trao duyên - dù cho chính em gái mình - cũng nghĩa là hết. Phải chọn tình hay hiếu, Thuý Kiều có băn khoăn nhưng không oán hờn bởi nàng biết và nàng hiểu “làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Nhưng khi phải từ bỏ lời thề vàng đá, Thuý Kiều đã day dứt và day dứt suốt đời. Trong Truyện Kiều, đoạn Trao duyên có vai trò như một cái bản lề khép mở hai phần đời đối lập của Kiều: hạnh phúc và đau khổ. Không những thương, Vân còn rất hiểu lòng Kiều. Có lẽ vì vậy mà sau đó, chuyện tình duyên khó trao, khó nhận nhưng Vân đã bằng lòng với nỗi niềm cảm thông mà chẳng nói thêm gì (có ý kiến cho rằng: Thuý Vân chỉ biết bằng lòng vì lời nói rất đỗi thuyết phục của Thuý Kiều). Chỉ chờ có vậy, Thuý Kiều đã mở đầu câu chuyện mà đáng lí ra chẳng ai nói đến bao giờ: "Cậy em em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa" Nghe xong Thuý Vân chắc sẽ rất bất ngờ. Lời chị khẩn khoản, thiết tha chắc không thể chỉ là chuyện bình thường. Trong nhóm các từ biểu đạt sự nhờ vả, Nguyễn Du đã chọn được hai từ đắt nhất và cũng hợp với hoàn cảnh nhất: cậy và chịu. Cậy không chỉ là nhờ. Cậy còn là trông đợi và tin tưởng.
Cũng vậy, chịu không chỉ là nhận lời, chịu còn là nài ép. Chuyện chưa nói ra nhưng Kiều biết người nhận không dễ dàng chịu nhận nên nàng đã chủ động đưa Vân vào thế khó xử, tiến thoái lưỡng nan. Lời xưng hô nghiêm cẩn và trang trọng của Thuý Kiều lại càng có tác dụng gây áp lực đối với Thuý Vân. “Chọn” và “đặt vấn đề” một cách nhanh chóng và kĩ càng, Thuý Kiều dường như ngay lập tức tiếp lời như thể nếu để lâu sẽ không thể nào nói được: "Giữa đường đứt gánh tương tư, Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em" Vậy là cái điều tưởng như khó nhất, Thúy Kiều đã nói. Thúy Vân hết sức ngỡ ngàng nhưng cũng nhanh chóng hiểu nỗi niềm của chị. Đoạn thơ ngắn gọn, hướng vào những chuyện riêng tư. Tình yêu dở dang, tan vỡ được thông tin ngắn gọn trong một thành ngữ nặng nề, chắc nịch (đứt gánh tương tư). Câu thơ thứ 4 lại hay ở hai chữ tơ thừa. Với Thuý Kiều, tình yêu chưa thể coi là đã đủ mặn mà nhưng với em (Thuý Vân) nó chỉ là sự nối tiếp. Lời Kiều sâu sắc và cũng thật xót xa. Những câu thơ tiếp điểm qua những biến cố đời Kiều. Những biến cố ấy, Thuý Vân đều chứng kiến, thấu hiểu và cảm thông “khi gặp gỡ chàng Kim” và cả “khi sóng gió bất kì”. Tám câu thơ đầu, ngoài lời trao duyên, Thuý Kiều chủ yếu nói về những bất hạnh của mình. Nhưng để trao duyên, Thuý Kiều còn phải chọn những lời lẽ thuyết phục:  "Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ thay lời nước non. Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây." Đoạn thơ sử dụng nhiều thành ngữ, lời lẽ ý vị, kín đáo, vẹn tình. Người “nhận” có ba lí do để không thể khước từ. Trước hết, không cách nhau nhiều về tuổi tác nhưng phải nhắc đến hai chữ ngày xuân với Kiều sao giờ quá nặng nề. Rõ ràng xét về ngày xuân (hiểu là sự trong trắng tinh khôi) thì giờ đây Thuý Kiều đâu thể xứng đáng với Kim Trọng bằng Thuý Vân. Kiều dù sao cũng mang danh là đã có chồng. Lí do thứ hai lại càng thuyết phục hơn. Kiều đang nhờ Vân một điều mà chẳng ai nhờ vả bao giờ. Đã khó nhờ, khó nhận thì vả chăng chỉ có là tình chị em máu mủ mới dễ đồng cảm, để rồi “chấp nhận” cho nhau. Lí do thứ ba nghe sao như một lời khẩn cầu đầy chua xót: "Chị dù thịt nát xuơng mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây." Không hẳn là lí do nhưng lại hoàn toàn hợp lí. Câu thơ khẩn cầu như một lời trăng trối. Và có ai lại đang tâm từ chối ước nguyện của người thân sắp phải thuộc về hoàn cảnh bấp bênh, khôn lường bất trắc? Người ta nói Nguyễn Du là người sâu sắc nước đời là ở những chỗ như vậy. Duyên đã được trao, người “nhận” cũng không có lí do gì để từ chối. Thuý Kiều trao kỉ vật cho em: "Chiếc vành với bức tờ mây, Duyên này thì giữ, vật này của chung" Thuý Kiều mất bao công sức để thuyết phục Thuý Vân nhưng chính lúc Thuý Vân chấp nhận thì cũng là lúc Thuý Kiều bắt đầu chới với để cố níu mình lại với tình yêu. Duyên đã khó trao, tình làm sao trao được ? Tìm về với những kỉ vật thiêng liêng (chiếc vành, bức tờ mây, mảnh hương nguyền) cũng là để được về với tình yêu của nàng. Những kỉ vật đẹp đẽ đó gắn liền với những ngày đẹp nhất đời Kiều. Nó thiêng liêng khi nó chỉ là của riêng nàng và Kim Trọng. Tình yêu không có người thứ ba, khi có người thứ ba, sự thiêng liêng bắt đầu đổ vỡ. Câu thơ “Duyên này thì giữ vật này của chung” thể hiện tâm trạng của Kiều xiết bao đau đớn. Tình yêu và niềm tin đối với Thuý Kiều giờ đây đã hoàn toàn trượt mất. Cố níu kéo tình yêu bằng kỉ vật (dù chỉ trong tâm tưởng), Thuý Kiều đành ngậm ngùi đau xót nghĩ về tương lai: "Mai sau dù có bao giờ, Đốt lò hương ấy so tơ phím này. Trông ra ngọn cỏ lá cây, Thấy hiu hiu gió thì hay chị về" Thuý Kiều như chìm trong tê dại, mê man trong cảm giác xót xa. Nhưng ngay trong lúc tưởng chừng như đã hoàn toàn cách biệt âm dương thì lời thề vàng đá của Kiều vẫn không hề thay đổi: "Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai" Tìm về tình yêu bằng cảm giác từ cõi tâm linh, Thuý Kiều vẫn không quên nghĩ về sự tủi hổ, bất hạnh của mình: "Dạ đài cách mặt khuất lời, Rày xin chén nước cho người thác oan". Đoạn thơ cuối là cảm giác trở về của Thuý Kiều từ cõi hư không.
Thời gian không còn là thời gian tâm trạng, nó là thời gian khách thể. Trở về với hiện thực, Thuý Kiều xót xa chấp nhận sự phũ phàng của định mệnh, chấp nhận “trâm gãy bình tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”. Đoạn thơ dùng nhiều thành ngữ để nói tới cái “nhất thành bất biến” không thể thay đổi, chuyển dời. ý thức về hiện tại, Kiều chỉ còn biết thương mình, oán hờn số phận. Ngay trong lúc tưởng chừng Kiều sẽ buông xuôi, thì suy nghĩ của nhân vật lại rẽ sang hướng khác: "Ôi Kim lang ! Hỡi Kim lang Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây" Câu thơ thực chất là tiếng kêu thảng thốt, là tiếng nấc nghẹn ngào của người con gái đã hoàn toàn tuyệt vọng. Thúy Kiều sau đó xa cách Kim Trọng mười lăm năm nhưng trong mười lăm năm ấy không lúc nào nàng nguôi nhớ đến mối tình đầu. Song có lẽ không cần phải đợi đến mười lăm năm. Ngay trong ngày phải đau đớn “trao duyên”, người đọc có thể thấy tình yêu trong lòng người con gái ấy không gì có thể chia cắt nổi. Đoạn trích bộc lộ nỗi đau, tình yêu và số phận bi kịch của Kiều. Qua nghệ thuật miêu tả nội tâm tài tình của Nguyễn Du, nỗi đau và vẻ đẹp tâm hồn của nàng Kiều – người con gái tài sắc, tình nghĩa vẹn toàn - đã được thể hiện một cách tinh tế và toả sáng lấp lánh. 8. Phân tích đoạn trích Trao duyên - Mẫu số 8 Con người khi đứng trước sự lựa chọn của bên nghĩa bên tình thì rất khó lựa chọn. Tuy nhiên thì công đức sinh thành bao giờ cũng cao cả vậy cho nên nếu là một người con hiếu thảo yêu thương cha mẹ của mình thì dẫu cho tình yêu kia có đẹp đến mấy thì vẫn quyết định chọn chữ nghĩa để trả ơn bố mẹ. Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đã chọn chữ "nghĩa" lớn lao ấy. Thế nhưng nàng vẫn muốn bù đắp cho tình cảm kia của mình. Vì thế nàng quyết định trao duyên cho em gái là Thúy Vân. Đoạn trích trao duyên thể hiện được tất cả những tâm trạng của Thúy Kiều khi trao duyên của mình cho nàng Thúy Vân. Duyên là một thứ để cho con người ta gặp gỡ, để mà yêu nhau và nếu có phận thì sẽ có thể bên nhau đến trọn đời. Và đặc biệt cái duyên cái nợ là do ông tơ bà nguyệt se tơ kết tóc nối duyên. Thế nhưng ở đây Thúy Kiều đã như đoạt lấy cái quyền hành ấy mà để nối duyên của mình cho em. Nàng có duyên với chàng Kim Trọng nhưng lại không có phận vì thế cho nên nàng muốn nối duyên cho em. Vì trong thâm tâm nàng đó như một cái để nàng đền đáp những ân tình của chàng Kim mà chàng đã trao cho nàng. Trao duyên đi lòng nàng không khỏi đau xót vì tình yêu duy nhất và đầu tiên của nàng đã không thành. Phải chăng tình đầu là dang dở. Với hai câu thơ đầu ta thấy được những hành động của Thúy kiều thật khác bình thường. Nàng như đang hạ thấp bản thân mình để cầu xin em, trao duyên nhưng cũng là cầu xin em giúp chị và chấp nhận: "Cậy em em có chịu lời. Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa" Là một người chị đáng ra chẳng bao giờ phải cậy nhờ hay vái lạy em mình cả thế nhưng ở đây Kiều trao duyên hay chính là đang nhờ Thúy Vân thay mình đền đáp tấm chân tình với Kim Trọng. Những từ "cậy", "ngồi lên", "lạy", "thưa" là những từ để chỉ thái độ kính trọng của người dưới đối với người trên thế mà ở đây bị xáo trộn. Thúy Kiều là chị nhưng lại phải lạy em cậy nhờ. Cái "cậy" kia mang ý nghĩa ép buộc Thúy Vân phải làm nhiều hơn là nhờ. Nói là nhờ thì lại rất bình thường nhưng nói là cậy thì cái nhờ vả kia lại nặng hơn gấp bội. Dùng ngôn ngữ như thế tác giả có ý muốn nói đến sự cậy nhờ em của Thúy Kiều. Nàng thành khẩn giống như cầu xin em mình để đền đáp tình cảm cho chàng Kim. Nàng cậy nhờ rồi nàng nói lên những lời tâm tư tình cảm của bản thân mình. Đó là những tâm sự tận sâu trong đáy lòng của nàng: "Giữa gió bất kì, Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai" Nàng như thể hiện được cái nỗi đau xót của bản thân mình khi tình duyên lỡ dở. Chính vì chữ hiếu mà nàng hi sinh chữ tình phụ chàng Kim. Và có lẽ thế nàng vừa đau xót cho thân mình vừa đau đớn cho cuộc tình dang dở. Chàng Kim ấy vẫn đang chịu tang nơi quê nhà không hề hay biết những chuyện nơi đây. Nàng chỉ mong Vân có thể nối duyên bù đắp những gì của mình vẫn còn dang dở. Chính
vì thế mà Kiều mong Vân chấp nhận sự cậy nhờ của mình mà chắp mối tơ loan với chàng Kim Trọng. Sự ngậm ngùi ấy được phát ra từ những câu thơ trên. Dù cho là chị em nữa nhưng phải gượng ép trao đi thứ mình không muốn trao và thứ mà người ta không muốn nhận thì chẳng khác nào mất đi một thứ quý báu. Vân ngây thơ phúc hậu cũng chỉ biết là Thúy Kiều cậy nhờ mình chứ nào đâu hiểu hết được "Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai". Vốn dĩ chữ tình và chữ hiếu không thể đặt lên bàn mà cân cho được. Thúy Kiều vịn vào tình cảnh của gia đình hiện tại và thêm nữa là tình máu mủ ruột già. Điều đó càng làm cho Thúy Vân có muốn từ chối cũng không thể nào từ chối được: "Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non Chị dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây!" Rõ ràng cả hai chị em cùng đến tuổi xuân xanh đang tràn đầy sức sống của tuổi thanh xuân, tuổi biết yêu thương lấy một người nào đó. Vậy mà Kiều lại nói là tuổi xuân của Thúy Vân còn dài trong khi mình thì nào có khác đâu. Nói như thế để cho thấy Kiều như đã xác định được con đường mà nàng sắp phải đặt chân đến, không yên bình như những ngày tháng trước đây nữa mà sóng gió có thể mang cô đi bất cứ lúc nào. Kiều mong vân xót tình chị em máu mủ ruột già mà hãy chấp nhận lời thay chi làm trọn lời hẹn thề với chàng Kim. Nếu được như thế thì ngay cả khi những sóng gió kia bủa vây lấy nàng cướp nàng đi khỏi thế gian này. Mặc cho sang thế giới bên kia không còn nguyên vẹn thì Kiều cũng cảm thấy thơm lây cái sự hi sinh của em gái cho mình. Khi đã trao duyên xong nàng như cảm thấy được những tâm trạng đang bủa vây đến nàng. Nàng đã hoàn thành xong cái đền đáp ơn nghĩa với Kim Trọng nhưng lòng lại thấy buồn vì vừa trao đi, mất đi một tình yêu đầu êm đềm dịu ngọt. Hơn nữa tình yêu ấy mới bắt đầu: "Chiếc vành với bức tờ mây Duyên này thì giữ vật này của chung Dù em nên vợ nên chồng Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên Mất người còn chút của tin Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa" Chiếc vành với tờ mây kia chính là những kỉ vật tình yêu của hai người. Họ đã cùng nhau thề nguyền sống chết, họ đã có với nhau những ngày tháng hạnh phúc những niềm vui tràn ngập vậy mà giờ đây cái xã hội kia đã buộc Kiều chọn chữ hiếu mà hi sinh chữ tình. Nàng chỉ mong mai này khi chàng Kim và em của nàng có thành duyên vợ chồng rồi thì mong họ hãy nhớ đến nàng. Những kỉ vật tình yêu của nàng với chàng Kim chỉ mong tham lam giữ thành của chung của ba người. Dẫu đã trao cho Thúy Vân những kỉ vật ấy nhưng nàng vẫn luyến tiếc và mong rằng nó sẽ là của chung. Nguyễn Du không đặt những kỉ vật ấy vào trong cùng một câu thơ mà lại chia ra thành mấy câu thơ. Có lẽ làm như thế để cho chúng ta thấy được cảm xúc đau buồn của nàng Kiều khi phải trao lại những kỉ vật ấy một cách đầy luyến tiếc cho em gái mình. Nàng như cố níu giữ lấy những kỉ vật tình yêu thế nhưng nàng cũng buộc mình phải đưa cho Vân những kỉ vật ấy nếu không thì sẽ không thể nào mà đền đáp tấm ân tình của chàng Kim Trọng được. Có thể nói qua những câu thơ trên tâm trạng của Thúy Kiều được hiện thật sự rất rõ nét. Đó chính là tâm trạng mong muốn trở lại những ngày tháng trước đây. Đ��ng thời luyến tiếc với những kỉ vật tình yêu ấy. Kiều đau đớn như nghĩ đến cái chết, có lẽ là nàng tưởng tượng ra cảnh mai này Kim và Vân sống hạnh phúc mà nàng phải chứng kiến cảnh yêu thương của họ thì nàng sống không bằng chết. Hay từ khi xác định bán thân nàng đã quyết định chọn cái chết để kết thúc cuộc đời này. Tuy vậy nàng vẫn mong rằng: "Mai sau dù có bao giờ Đốt lò hương ấy so tơ phím này Trông ra ngọn cỏ lá cây Thấy hiu hiu gió thì hay chị về Hồn còn mang nặng lời thề Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai Dạ đài cách mặt khuất lời Rày xin chén nước cho người thác oan" Sự bất công của xã hội và sự mất đi tình yêu của Kiều sẽ khiến cho nàng cảm thấy thật sự đau oan khuất mà cứ vấn vương trên cõi trần không thể siêu thoát. Mai sau nếu thấy hiu hiu gió thì có thể cảm nhận là nàng đang về. Cơn gió kia thể hiện sự vương vấn cõi trần này của nàng.
Lời thề với chàng Kim thì dẫu cho Kiều có nát thân liễu yếu thì cũng không thể nào đền đáp được cho chàng Kim. Khi ấy chỉ mong Kim và Vân hãy rót một chén rượu cho người thác oan là Thúy Kiều. Có thể nói cuộc sống của con người ai mà chẳng sợ chết người ta nghĩ đến cái chết chỉ khi trong họ thật sự cảm thấy rất đau khổ không thể nào có thể chịu đựng được nữa thì họ mới dám nghĩ đến. Kiều ý thức được nỗi đau trong mình, nàng như biết trước con đường mà nàng sắp đi khổ cực và gian truân đến mức nào. Cũng có thể chết bất cứ lúc nào. Như vậy qua đây ta thấy được những tâm tư của nàng Thúy kiều. Tình đầu là thứ tình cảm thiêng liêng đẹp đẽ nhất, duyên phận vốn trớ trêu với con người. Chính vì thế chữ tình kia không trọn cho phận má đào. Cô không muốn chàng Kim đợi chờ mình mà mong rằng Thúy Vân em cô sẽ giúp cho anh có một cuộc sống hạnh phúc. Dẫu biết vậy nhưng nàng không khỏi đau khổ khi trao duyên. -/- Trên đây là những gợi ý chi tiết của THPT Ngô Thì Nhậm giúp các em có thể viết được một bài văn hay phân tích Trao duyên trích Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ngoài ra, các em có thể tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu 10 hay khác được chúng tôi tổng hợp và cập nhật thường xuyên. Chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao !
0 notes
mayniemphattuhuyen · 2 months ago
Text
MỘT CÂU PHẬT HIỆU NIỆM ĐẾN CÙNG, ĐỪNG THAY ĐỔI, ĐỪNG BỎ MẤT, THÌ THÀNH CÔNG.
Tumblr media
Một câu Phật hiệu niệm đến cùng, đừng thay đổi, đừng bỏ mất, thì thành công thôi. Lão Hòa thượng ở nơi đó đã biểu diễn 92 năm, vậy là quý vị uổng phí 92 năm rồi. Cho nên cần phải nhìn ra được, cần phải có thể lĩnh hội ở trong tâm, cần phải y giáo phụng hành. Phương pháp này quá hay rồi! Chỉ một câu Nam Mô A Mi Đà Phật, hoặc là đơn giản một chút, bốn chữ, A Mi Đà Phật, là có thể thành công, thì có thể chứng được thanh tịnh, bình đẳng, giác. Thanh tịnh là thành tựu Giới Luật, bình đẳng là thành tựu Giáo Lý, giác là Đại triệt Đại ngộ, thành Phật rồi. Quả báo sau khi thành Phật, là ở nửa phần trước của đề kinh, Đại Thừa, Vô Lượng Thọ, Trang Nghiêm. Quý vị xem chỗ này đều nói đến thanh tịnh, trang nghiêm, Đại Thừa là trí huệ, Tự tánh Bát-nhã hiện tiền, ‘Vô Lượng Thọ’ là phước đức, ‘Trang Nghiêm’ là tốt đẹp, chính là Thế giới Cực Lạc, chính là Thế giới Hoa Tạng, đạt được tất cả rồi. Một bộ kinh, quý vị cần phải tin, một câu Phật hiệu, có thọ dụng lớn như vậy. Biểu diễn của lão Hòa thượng, ngày ngày ngài đang biểu diễn, quý vị đều không thấy ra. Vì vậy hương quang, chẳng có gì không đang làm Phật sự, quý vị phải hiểu thể hội được điều này. Trước mắt chúng ta cũng là như vậy, mọi thứ cũng đang làm Phật sự, chỉ là quý vị biết. Nếu quý vị không biết vậy chính là lục đạo, quý vị biết thì là Phật sự.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Trích đoạn: Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú, tập 287
Chủ giảng: Đại Lão HT Tịnh Không
0 notes
ynghiacuocsong60 · 2 months ago
Video
youtube
Đối Diện Với Khổ Đau: 5 Cách Chữa Lành Tâm Hồn Theo Phật Giáo | Lời Phật... Cuộc sống không phải lúc nào cũng màu hồng. Ai rồi cũng sẽ trải qua những nỗi đau (từ khóa chính), từ những chuyện nhỏ nhặt như thất tình (từ khóa ngách) đến những mất mát lớn lao như sinh ly tử biệt (từ khóa ngách). Phật giáo, với triết lý nhân sinh sâu sắc, không chỉ giúp ta hiểu bản chất của khổ đau mà còn chỉ ra con đường vượt qua khổ đau để tìm thấy bình an và hạnh phúc đích thực. Bài viết này sẽ cùng bạn khám phá cách đối diện với khổ đau (từ khóa chính) một cách tích cực thông qua các phương pháp thực tiễn như thiền chánh niệm (từ khóa ngách), tu tập Bát Chánh Đạo (từ khóa ngách), và phát triển lòng từ bi (từ khóa ngách). Bằng cách áp dụng lời Phật dạy vào đời sống hàng ngày, bạn sẽ học cách chấp nhận sự vô thường, buông bỏ những tham – sân – si, và từng bước chuyển hóa khổ đau thành động lực để trưởng thành và sống một cuộc đời ý nghĩa hơn.
0 notes
dodongtuongphat · 4 months ago
Text
Tranh Đồng Quê Bằng Đồng Dát Vàng không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc mà còn là biểu tượng của vẻ đẹp làng quê Việt Nam, nơi lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống qua từng chi tiết chạm khắc tinh xảo. Với sự kết hợp giữa chất liệu đồng bền b�� và lớp vàng sang trọng, mỗi bức tranh không chỉ mang lại vẻ đẹp thẩm mỹ mà còn thể hiện sự quý phái, đẳng cấp. Đây là lựa chọn lý tưởng để trang trí không gian sống, làm quà tặng ý nghĩa, hoặc trưng bày trong các không gian sang trọng, thể hiện tình yêu và niềm tự hào về quê hương đất nước. Tranh Đồng Quê Bằng Đồng Dát Vàng chính là sự kết tinh hoàn hảo của nghệ thuật và truyền thống, mang lại sự bình an, may mắn và thịnh vượng cho người sở hữu.
4o
giới thiệu về đồ đồng tường phát, có từ khoá đỉnh đồng, tượng đồng, tranh đồng, đồ thờ bằng đồngChatGPT
Giới thiệu về Đồ Đồng Tường Phát
Đồ Đồng Tường Phát là cơ sở sản xuất và kinh doanh các sản phẩm đồ đồng uy tín tại Việt Nam, nổi tiếng với chất lượng vượt trội và sự tinh xảo trong từng sản phẩm. Với nhiều năm kinh nghiệm trong nghề, Đồ Đồng Tường Phát đã khẳng định vị thế của mình trên thị trường bằng những sản phẩm độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa Việt. Chúng tôi chuyên cung cấp các sản phẩm như đỉnh đồng, tượng đồng, tranh đồng, và đồ thờ bằng đồng với cam kết bảo hành trọn đời.
Sản phẩm nổi bật
Đỉnh Đồng:
Đỉnh đồng tại Tường Phát được chế tác từ chất liệu đồng cao cấp, mang lại độ bền vững và vẻ đẹp sang trọng. Các mẫu đỉnh đồng đa dạng về kiểu dáng và kích thước, phù hợp với mọi không gian thờ cúng và trang trí nội thất. Đỉnh đồng không chỉ là vật phẩm thờ cúng mà còn là biểu tượng của sự trang nghiêm và tôn kính đối với tổ tiên.
Tượng Đồng:
Tượng đồng của Tường Phát được chạm khắc tinh xảo bởi những nghệ nhân lành nghề. Các bức tượng không chỉ thể hiện vẻ đẹp chân thực của các nhân vật lịch sử, tôn giáo mà còn mang lại sự linh thiêng, bình an cho gia chủ. Chúng tôi cung cấp đa dạng các loại tượng như tượng Phật, tượng Thánh Gióng, tượng Bác Hồ và nhiều tượng danh nhân khác.
Tranh Đồng:
Tranh đồng là một trong những sản phẩm nghệ thuật độc đáo của Tường Phát, thể hiện cảnh sắc và đời sống văn hóa của người Việt. Các bức tranh đồng được chạm khắc tỉ mỉ, dát vàng hoặc bạc để tăng tính thẩm mỹ và giá trị nghệ thuật. Những bức tranh đồng quê, tranh chữ, tranh tứ quý... không chỉ là vật phẩm trang trí mà còn là quà tặng ý nghĩa.
Đồ Thờ Bằng Đồng:
Đồ thờ bằng đồng của Tường Phát bao gồm nhiều sản phẩm như bát hương, lư đồng, mâm bồng, chân nến... Tất cả đều được chế tác từ đồng nguyên chất, đảm bảo độ bền và vẻ đẹp lâu dài. Các sản phẩm đồ thờ của chúng tôi không chỉ đáp ứng nhu cầu thờ cúng mà còn thể hiện lòng thành kính và hiếu đạo của con cháu đối với tổ tiên.
1 note · View note
vu-tat-thanh · 5 months ago
Text
Phong Thủy Bàn Thờ Tam Cấp: Bí Quyết Bày Trí Để Gia Đình Bình An
Trong văn hóa thờ cúng của người Việt Nam, bàn thờ tam cấp giữ vai trò cực kỳ quan trọng, biểu trưng cho sự tôn kính đối với tổ tiên và các vị thần linh. Bài viết trên Phong Thủy Đại Nam cung cấp hướng dẫn chi tiết về cách bày trí bàn thờ tam cấp theo phong thủy, giúp gia đình duy trì sự hài hòa và linh thiêng trong không gian thờ cúng. Việc bày trí bàn thờ đúng cách không chỉ thể hiện lòng thành kính mà còn mang lại nhiều tài lộc và may mắn cho gia đình.
Nến: Trên bàn thờ tam cấp nên sử dụng nến chuyên dụng cho thờ cúng (dạng sáp hoặc dạng thạch).
Hoa tươi và cây xanh: Hoa dùng để thờ cúng thường là hoa cúc, hao ly hoặc hoa sen.
Các lễ vật: Trái cây, bánh kẹo, rượu, nước và các đồ cúng khác.
Vị trí bàn thờ
Vị trí đặt bàn thờ tam cấp rất quan trọng, cần lưu ý những điều sau đây:
Vị trí cao và trang trọng: Bàn thờ nên được đặt ở vị trí cao, thường là phòng khách hoặc phòng thờ riêng, gần tường, tránh đặt dưới cầu thang, đối diện hoặc gần nhà vệ sinh và nhà bếp.
Tránh nơi ồn ào: Không đặt bàn thờ ở nơi có nhiều người qua lại, tiếng ồn lớn để duy trì sự trang nghiêm và tĩnh lặng.
Độ cao phù hợp: Đảm bảo bàn thờ có độ cao phù hợp, không quá thấp cũng không quá cao so với tầm mắt người đứng thắp hương.
Hướng
Hướng tốt: Hướng tốt để đặt bàn thờ tam cấp thường là các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên và Phục Vị hợp theo tuổi của gia chủ.
Tránh hướng xấu: Tránh các hướng Tuyệt Mệnh, Ngũ Quỷ, Lục Sát và Họa Hại.
Đối diện cửa chính: Thường thì bàn thờ nên hướng ra cửa chính để đón nhận năng lượng tích cực và tài lộc.
Nguyên tắc
Cân đối và hài hòa: Khi bố trí các vật phẩm trên bàn thờ gia chủ cần chú ý phải cân đối, không quá nhiều hoặc quá ít.
Sạch sẽ và ngăn nắp: Bàn thờ luôn phải được giữ sạch sẽ, các vật phẩm thờ cúng phải được sắp xếp ngăn nắp theo trình tự.
Thường xuyên thắp hương: Duy trì việc thắp hương đều đặn để giữ sự linh thiêng và kết nối tâm linh. 
Chiều từ cao đến thấp
Khi thờ cúng, cần đặc biệt chú ý đến cách bày bàn thờ tam cấp. Loại bàn thờ này có các tầng thờ khác nhau, thể hiện địa vị trong tín ngưỡng thờ cúng. Do đó, việc sắp xếp không đúng tầng có thể ảnh hưởng đến phúc khí của người thờ cúng.
Đối với những gia đình sử dụng bàn thờ tam cấp kết hợp thờ Phật và gia tiên:
Tầng trên cùng: Trưng bày tranh ảnh của đức Phật và các tín ngưỡng tôn giáo khác.
Tầng thứ hai: Dùng để đặt bát hương, tượng của các thần linh mà gia chủ tín ngưỡng và thờ cúng.
Tầng thứ ba: Dùng để đặt di ảnh hoặc bài vị cùng bát hương của gia tiên.
Đối với những gia đình sử dụng bàn thờ tam cấp chỉ để thờ gia tiên:
Tầng trên cùng: Đặt di ảnh hoặc bài vị của các vị có vai vế lớn như ông tổ, bà tổ của dòng họ.
Tầng thứ hai: Dành để di ảnh hoặc bài vị của ông bà đã khuất.
Tầng thứ ba: Dùng để đặt bát hương, nhang, đèn và các vật phẩm thờ cúng khác như mâm cơm.
Chiều từ trái sang phải
Việc sắp xếp bàn thờ tam cấp cần phải tuân thủ những điều sau:
Dựa trên thuyết Nam Tả – Nữ Hữu, bên trái sẽ đặt di ảnh của ông, bên còn lại là của bà.
Khi thờ cúng các vị thần linh nên để bát hương ở giữa.
Thờ cúng người đã khuất là nam mang họ cha thì nên để bát hương bên phải.
Đối với thờ cúng bà tổ hay gái trẻ đã mất thì nên để bát hương bên trái.
Kích thước
Kích thước bàn thờ cần tuân thủ theo thước Lỗ Ban để đảm bảo phong thủy tốt:
Chiều ngang: Thường từ 1m07 đến 1m93, tùy thuộc vào không gian và nhu cầu thờ cúng.
Chiều cao: Thường từ 1m27 đến 1m47, đảm bảo thuận tiện cho việc thắp hương và cúng bái.
Chiều sâu: Thường từ 49,5m đến 61m, đủ rộng để bày biện các vật phẩm thờ cúng.
Việc bày trí bàn thờ tam cấp đúng phong thủy không chỉ giúp gia đình giữ được sự tôn nghiêm và linh thiêng mà còn mang lại tài lộc, bình an và may mắn. Chính vì lý do đó, gia chủ nên tuân thủ các nguyên tắc trên để tránh phạm kỵ.
Những lưu ý khi sắp xếp bàn thờ tam cấp
Bố trí vật phẩm thờ cúng:
Đèn thờ, nến, hương: Đặt hai bên bài vị hoặc tượng tổ tiên.
Lọ hoa: Đặt phía bên trái của bát hương.
Đĩa trái cây: Đặt phía bên phải của bát hương.
Các lễ vật khác: Trái cây, bánh kẹo, rượu, nước sắp xếp từ trái sang phải, đảm bảo cân đối và hài hòa.
Hướng dẫn bảo quản bàn thờ tam cấp
Giữ gìn vệ sinh
Thường xuyên lau chùi bàn thờ để giữ sạch sẽ, tránh bụi bẩn.
Dùng khăn mềm và nước sạch để lau chùi, tránh dùng hóa chất mạnh.
Bảo quản bát hương
Không di chuyển bát hương tùy tiện, chỉ làm khi thật cần thiết và với các nghi lễ phù hợp.
Thường xuyên rút chân hương để giữ bát hương gọn gàng, không để chân hương quá nhiều.
Thay hoa và nước cúng
Hoa tươi và nước cúng cần được thay thường xuyên, tránh để hoa héo và nước cũ.
Sử dụng hoa tươi và sạch, tránh hoa giả.
Kiểm tra và bảo dưỡng đèn thờ
Đèn thờ cần được kiểm tra và bảo dưỡng định kỳ để đảm bảo hoạt động tốt.
Nếu sử dụng đèn dầu, cần đổ dầu mới thường xuyên và đảm bảo an toàn khi thắp sáng.
Thực hiện nghi lễ thắp hương đúng cách
Thắp hương vào các dịp lễ tết, ngày giỗ, ngày rằm và mùng một.
Khi thắp hương, nên cúng bái với tâm thành kính.
Kiểm tra và thay mới các vật phẩm thờ cúng
Kiểm tra và thay mới các vật phẩm thờ cúng như nến, hương, lọ hoa và các lễ vật khác khi cần thiết để đảm bảo các vật phẩm luôn trong tình trạng tốt nhất.
Việc sắp xếp và bảo quản bàn thờ tam cấp đúng cách không chỉ giữ được sự tôn nghiêm và linh thiêng mà còn mang lại tài lộc, bình an và may mắn cho gia đình. 
Giải đáp một số câu hỏi khi bày bàn thờ tam cấp
Việc bày trí bàn thờ tam cấp không chỉ đòi hỏi sự tỉ mỉ và cẩn trọng mà còn cần tuân theo những quy tắc nhất định để đảm bảo tính linh thiêng và phong thủy. Hãy cùng Phong Thuỷ Đại Nam giải đáp cho một số câu hỏi thường gặp khi bày bàn thờ tam cấp.
Bàn thờ tam cấp có thể đặt ở phòng khách không?
Phần lớn các ngôi nhà đều có thiết kế phòng thờ gia tiên riêng, thường nằm ở tầng cao nhất và khá rộng rãi.. Tuy nhiên, dựa vào mệnh của chủ nhà và hướng phong thủy của ngôi nhà, bàn thờ tam cấp cũng có thể được đặt ở phòng khách.
Có cần phải thay bát hương thường xuyên không?
Bát hương không cần phải thay thường xuyên, tuy nhiên cần giữ cho bát hương sạch sẽ và gọn gàng:
Rút chân hương định kỳ: Thường xuyên rút chân hương để tránh bát hương đầy và giữ sự gọn gàng.
Chỉ thay bát hương khi cần thiết: Chỉ thay bát hương khi bát hương bị hư hỏng hoặc khi có nghi lễ đặc biệt.
Thực hiện nghi lễ khi thay bát hương: Khi thay bát hương, cần thực hiện các nghi lễ thờ cúng một cách trang trọng và đúng cách.
Có thể tự làm bàn thờ tam cấp không?
Gia chủ có thể tự làm bàn thờ tam cấp nếu có đủ kiến thức và tay nghề, nhưng cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
Chất liệu: Sử dụng chất liệu gỗ tốt, bền đẹp và trang trọng.
Kích thước: Đo đạc kích thước phù hợp theo thước Lỗ Ban để đảm bảo phong thủy.
Thiết kế: Thiết kế phải tuân theo truyền thống, đảm bảo ba cấp bậc rõ ràng và có không gian đủ để bày biện các vật phẩm thờ cúng.
Trang trí: Trang trí bàn thờ một cách trang nhã, không quá cầu kỳ nhưng vẫn giữ được sự tôn nghiêm.
Làm sao để biết kích thước bàn thờ phù hợp?
Kích thước và kiểu dáng của bàn thờ có thể ảnh hưởng đáng kể đến vận may của gia chủ. Vì vậy, nên chọn bàn thờ có kích thước chuẩn theo thước Lỗ Ban để thu hút may mắn và tài lộc. Bên cạnh đó, việc chọn kích thước và kiểu dáng bàn thờ tam cấp cần dựa vào diện tích và phong cách thiết kế của phòng thờ:
Đối với phòng có diện tích nhỏ: Ngang từ 107cm 107cm đến 133cm và sâu từ 48cm đến 67cm.
Đối với phòng có diện tích vừa: Ngang từ 148 đến 167cm và sâu từ 61cm đến 69cm.
Đối với phòng có diện tích lớn: Ngang từ 175cm đến 193cm và sâu từ 87cm đến 89cm.
Có cần phải thắp hương hàng ngày không?
Thắp hương hàng ngày không phải là bắt buộc, nhưng nó thể hiện lòng thành kính và sự tôn nghiêm đối với tổ tiên và các vị thần linh:
Thắp hương hàng ngày: Thắp hương mỗi ngày vào buổi sáng hoặc buổi tối để duy trì sự kết nối tâm linh và giữ không gian thờ cúng linh thiêng.
Thắp hương vào các dịp đặc biệt: Thắp hương vào các dịp lễ, tết, ngày giỗ, ngày rằm và mùng một.
Sử dụng nhang có hương thơm: Sử dụng nhang có hương thơm dễ chịu để tạo không gian thanh tịnh và linh thiêng.
Hy vọng thông qua bài viết của Phong Thuỷ Đại Nam, gia chủ sẽ biết cách bày bàn thờ tam cấp. Việc sắp xếp đúng cách theo phong thủy và truyền thống không chỉ giúp duy trì sự hài hòa trong không gian thờ cúng, đồng thời mang lại nhiều may mắn, tài lộc cho gia đình mà còn giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa tâm linh độc đáo, góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần của mỗi gia đình Việt.
Tumblr media
1 note · View note
menh69 · 6 months ago
Text
Tìm Hiểu Về Phật Bản Mệnh Tuổi Mão Mới 2024
Tumblr media
Phật bản mệnh là nhóm 8 vị Bản tôn quan trọng, đồng thời là những người hộ mệnh tôn chủ phù trợ cho 12 con giáp. Vậy phật bản mệnh tuổi Mão là ai? Tuổi Mão nên thờ vị Phật nào?" thì hãy cùng Mệnh 69 khám phá sâu hơn thông qua nội dung của bài viết dưới đây nhé!
Phật bản mệnh tuổi Mão là ai?
Tumblr media
Phật bản mệnh tuổi Mão Phật bản mệnh tuổi Mão là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Ngài là vị Bồ Tát đại diện cho trí tuệ, sự sáng suốt và thông minh. Ngài là hiện thân của trí tuệ uyên thâm, giúp người tuổi Mão tăng cường trí tuệ, khai mở tâm trí, hóa giải hung khí, mang lại bình an và may mắn trong cuộc sống. Theo đạo Phật, người tuổi Mão thường được coi là được bảo hộ bởi một vị Phật, và theo cuốn Pháp Uyển Châu Lâm, Văn Thù Bồ Tát được xem là vị Phật bản mệnh cho người tuổi Mão. Văn Thù Bồ Tát không chỉ là vị Phật hộ mệnh mà còn tượng trưng cho trí tuệ hoàn hảo và sự khôn ngoan siêu việt. Người tuổi Mão có những đặc tính nhanh nhẹn, mưu trí, nhạy bén nhưng đôi khi thiếu quyết đoán. Văn Thù Bồ Tát được thờ cũng như một nguồn ánh sáng trí tuệ, giúp bổ sung và củng cố tính cách của người tuổi Mão. Việc thờ Phật bản mệnh này có thể giúp họ phát triển trí tuệ, sáng suốt, và khả năng xoay chuyển khó khăn trong cuộc sống. Vì vậy, người tuổi Mão có thể lựa chọn thờ tượng Văn Thù Bồ Tát để nhận được sự hộ mệnh và sự trí tuệ từ ngài. Tượng Văn Thù Bồ Tát có thể được thờ độc lập hoặc cùng với tượng Phật Thích Ca Mâu Ni và Phổ Hiền Bồ Tát. Thông qua việc thờ Phật, người tuổi Mão hy vọng có thể hướng đến sự giáo hóa tâm linh và sự phát triển cá nhân tích cực. Hình tượng Phật Văn Thù Bồ Tát: Ngài thường được tạc trong tư thế ngồi trên lưng sư tử, tay phải cầm kiếm trí tuệ tượng trưng cho trí tuệ sáng suốt, dẹp tan phiền não, tay trái cầm kinh Bát Nhã biểu tượng cho sự giác ngộ. Ngài cũng có thể được tọa trên tòa sen, tay cầm hoa sen hoặc ấn tam muội. Ý nghĩa của Phật Văn Thù Bồ Tát đối với người tuổi Mão: Gia hộ bình an: Ngài giúp người tuổi Mão tránh được tà ma, bệnh tật, tai ương, mang lại sức khỏe và bình an trong cuộc sống. Tăng cường trí tuệ: Ngài giúp người tuổi Mão thông minh, sáng suốt, học hành thi cử đỗ đạt, thành công trong công việc. Hóa giải hung khí: Ngài giúp người tuổi Mão hóa giải những điều xui xẻo, hung khí, mang lại may mắn và tài lộc. Mang lại sự bình an nội tâm: Ngài giúp người tuổi Mão có tâm trí thanh tịnh, an nhiên, tránh được phiền não, lo âu. Cách thỉnh Phật Văn Thù Bồ Tát: Người tuổi Mão nên thỉnh tượng Phật Văn Thù Bồ Tát bằng chất liệu phù hợp với bản mệnh như: đá thạch anh, đá ngọc bích, đá phỉ thúy,... Nên thỉnh tượng Phật tại các cửa hàng uy tín, chất lượng. Khi thỉnh Phật cần phải khai quang, điểm nhãn để tượng Phật được linh thiêng. Nên đặt tượng Phật tại vị trí trang trọng, sạch sẽ trong nhà. Nên thường xuyên lau dọn tượng Phật, dâng hương, hoa quả để thể hiện lòng thành kính. Lưu ý thỉnh Phật Văn Thù Bồ Tát: Khi thỉnh Phật bản mệnh, người tuổi Mão nên chọn ngày lành tháng tốt để cầu mong sự may mắn, bình an. Nên chọn tượng Phật được làm từ chất liệu tốt, Nên trì tụng kinh Bát Nhã để cầu mong được Phật Văn Thù Bồ Tát gia hộ. Niệm Phật thường xuyên để cầu bình an, may mắn. Sống thiện tâm, tích đức, giúp đỡ người khác. Tránh làm những điều ác, trái với đạo đức.
Mặt phật bản mệnh tuổi mão - Mặt phật Văn Thù Bồ Tát
Tumblr media
Phật bản mệnh tuổi Mão Vị phật Văn Thù Bồ Tát là vị phật quan trọng trong Phật giáo Đại Thừa, thường được tôn vinh trong các kinh điển Phật giáo. Văn Thù Bồ Tát, là một trong Đẳng giác Bồ Tát và thuộc hàng Bồ Tát thượng thủ, có tiềm năng trở thành Phật. Ngài biểu tượng cho Trí Tuệ, có khả năng chuyển hóa vô minh và phiền não, cũng như hiểu rõ mọi chân lý và đạt được giải thoát. Văn Thù Bồ Tát là Bồ Tát thân cận của Phật Thích Ca Mâu Ni, thường xuất hiện để giới thiệu thời pháp của Phật hoặc thay Đức Phật diễn đạt Chánh pháp. Trong Kinh Kim Cương, ngài được coi là một vị thần thiền định, mang ý nghĩa vô cùng quan trọng. Văn Thù Bồ Tát tuổi mão đại diện cho Trí Tuệ, Bát Nhã và Giải Thoát, hướng dẫn chúng sinh sử dụng lòng nhẫn để nuôi dưỡng lòng từ bi, và sử dụng trí tuệ tinh thông để vượt qua vô minh và phiền não mang lại may mắn bình an. Hình tượng phật Văn Thù Bồ Tát thường được thể hiện trong tư thế. - Tư thế Ngồi trên Sư Tử Xanh: Văn Thù Bồ Tát thường được thể hiện ngồi trên lưng sư tử xanh, biểu tượng của sức mạnh và quyền lực. - Tay Phải Cầm Thanh Gươm Bốc Lửa: Trong tay phải, Bồ Tát cầm thanh gươm bốc lửa giữa đỉnh đầu. Thanh gươm tượng trưng cho trí tuệ, khả năng chặt đứt vô minh và phiền não, giúp giải thoát khỏi khổ đau và bất hạnh. - Tay Trái Ôm Cuốn Kinh Bát Nhã: Tay trái ôm cuốn kinh Bát Nhã, tượng trưng cho sự giác ngộ và sáng suốt thông qua việc tu học và nghiên cứu các giáo lý Phật pháp. - Thanh Tịnh và Hoa Sen Xanh: Đôi khi, Bồ Tát có thể được thể hiện cầm hoa sen xanh, biểu tượng cho thanh tịnh và trí tuệ trong tình thức nhẹ nhàng và tinh tế. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát có trí tuệ vô lượng, ánh sáng trí tuệ của ngài giúp chúng sinh có năng lực tự giải thoát khỏi phiền não, tham sân, si. Người thờ tượng ngài sẽ được ngài phù hộ, độ trì, được lĩnh ngộ trí tuệ của ngài, từ đó có năng lực tự chuyển hóa cuộc sống của bản thân, có cuộc sống và sự nghiệp suôn sẻ, thành công.
Ý nghĩa của Phật bản mệnh tuổi Ất Mão 1975
Tumblr media
Phật bản mệnh tuổi Mão Người tuổi Ất Mão sinh năm 1975 mang theo mệnh Thủy (Đại Khê Thủy – nước khe lớn) và là Đắc Đạo Chi Thố (thỏ đắc đạo). Với sự hộ mệnh của Văn Thù Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Dược Sư Như Lai, và Hư Không Tạng Bồ Tát, người tuổi này được ban tặng trí tuệ, phúc lợi, sức khỏe, nét mặt tinh anh thông thái và độ bền lâu. Tính cách của người tuổi Ất Mão thường được mô tả là ôn hòa, mềm mỏng, nhưng vẫn rất bản lĩnh và kiên định trong việc theo đuổi mục tiêu. Họ thông minh và có sự thành thạo trong nhiều lĩnh vực, mang lại sự phú quý, nhưng đôi khi có thể thiếu kiên nhẫn và dễ bỏ dở công việc. Người tuổi Ất Mão thường có sở thích về văn chương và chính trị, đồng thời thích giúp đỡ những người gặp khó khăn. Tính cách này thường ưa cuộc sống an toàn, hòa bình, ít tham gia vào tranh đấu và không chủ trương vụ lợi cá nhân. Họ cũng có số sống xa cha mẹ, và để sống lâu, cần tích nhiều phúc đức. Trong khoảng từ 45-55 tuổi, người tuổi Ất Mão cần đề phòng về tai nạn và nguy cơ mất mát tài chính. Mặc dù cuộc sống không gặp nhiều trở ngại, nhưng cũng cần đề phòng về sức khỏe. Phật bản mệnh của họ, Văn Thù Bồ Tát, được coi là người hộ mệnh mang lại bình an, sự thuận lợi trong cuộc sống và công việc, và giúp hóa giải vận hạn cũng như khắc phục những khó khăn trong gia đình. Những ai tận hiến tâm linh và thờ Phật bản mệnh sẽ được ngài bảo vệ, che chở, và duy trì trạng thái bình an trong mọi tình huống. Họ sẽ được ban tặng sức khỏe mạnh mẽ, giảm nhẹ khỏi tai nạn và ác nghiệp, đồng thời tránh xa được sự hại từ kẻ tiểu nhân, trù ếm, và những rủi ro liên quan đến tài chính hay phá sản. Ngài cũng giúp họ giải quyết những thách thức trong tình duyên, công việc, học hành thi cử của bạn được suôn sẻ thành công.
Kết luận
Tumblr media
Phật bản mệnh tuổi Mão Phật bản mệnh tuổi Mão là Văn Thù Bồ Tát, người hộ mệnh mang lại bình an, sự thịnh vượng và giúp người tuổi Mão vượt qua những thách thức trong cuộc sống. Với tính cách ôn hòa, mềm mỏng và sự kiên định trong mục tiêu, người tuổi Mão có thể tận hưởng sự hỗ trợ và sự bảo vệ từ Văn Thù Bồ Tát. Hy vọng thông tin này đã giúp làm sáng tỏ về vị Phật hộ mệnh và giá trị tâm linh mà người tuổi Mão có thể đón nhận từ việc thờ Phật bản mệnh của mình. Read the full article
0 notes
devatravel60 · 7 months ago
Text
youtube
DU LỊCH BÌNH BIÊN MÔNG TỰ TRUNG QUỐC
Du lịch Bình Biên và Mông Tự ở Trung Quốc mang đến cho du khách những trải nghiệm đầy màu sắc và độc đáo về văn hóa, thiên nhiên và lịch sử của đất nước này.
Bình Biên, địa điểm đầu tiên trong hành trình du lịch của bạn, nằm tại tỉnh Shaanxi, phía Tây Trung Quốc. Với vẻ đẹp hoang sơ và hùng vĩ của những ngọn núi đá vôi và thảo nguyên xanh bát ngát, Bình Biên thu hút du khách bởi cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp và bình dị. Du khách có thể tham gia vào các hoạt động như leo núi, thám hiểm hang động hay thảo nguyên trekking để khám phá vẻ đẹp hoang sơ của núi rừng và thảo nguyên nơi đây.
Tumblr media
Ngoài ra, Bình Biên cũng nổi tiếng với di tích lịch sử và văn hóa đáng giá như Đại Bảo Tượng Phật, một công trình kiến trúc tôn giáo lớn và quan trọng, cùng với Lăng mộ Đông Hán, nơi lưu giữ những bí mật của quá khứ. Du khách có cơ hội khám phá lịch sử và văn hóa độc đáo của Trung Quốc thông qua những di tích này.
Xem thêm: Du lịch Nhật Bản
Về ẩm thực, Bình Biên cũng không làm bạn thất vọng. Các món ăn đặc sản như Mì Bình Biên, được chế biến từ nguyên liệu tự nhiên và độc đáo của địa phương, hay các món hải sản tươi ngon là điều không nên bỏ qua. Du khách có thể thưởng thức những hương vị độc đáo và trải nghiệm văn hóa ẩm thực độc đáo của vùng đất này.
Tiếp theo, hành trình của bạn sẽ dẫn bạn đến Mông Tự, một vùng đất nông thôn phía Bắc Trung Quốc. Mông Tự nổi tiếng với cảnh quan đồng bằng mênh mông và văn hóa truyền thống của người Mông Cổ. Ở đây, du khách có cơ hội tham gia vào các trò chơi truyền thống như đua ngựa, cuộc thi bắn cung, hoặc tham quan những trại ngựa của người Mông Cổ. Cảm nhận sự kỳ diệu của văn hóa dân gian thông qua âm nhạc, vũ đạo và ẩm thực truyền thống của người Mông Cổ.
Du lịch Bình Biên và Mông Tự không chỉ là hành trình khám phá vẻ đẹp tự nhiên và lịch sử của Trung Quốc, mà còn là cơ hội để du khách trải nghiệm sâu sắc về văn hóa đa dạng và phong phú của đất nước này.
0 notes
phuongdg · 7 months ago
Text
Thôi nôi là gì? Ý nghĩa của việc cúng thôi nôi cho trẻ đầy tháng
Tumblr media
Thôi nôi được coi là dấu mốc quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của trẻ. Tuy nhiên không phải ai cũng hiểu rõ thôi nôi là gì? Nguồn gốc? Ý nghĩa? Các nghi thức trong lễ cúng thôi nôi là gì? Tất cả sẽ được chúng tôi giải đáp ngay sau đây.
Đầy tháng thôi nôi là gì? 
Thôi nôi là gì? Cúng thôi nôi hay cúng bà mụ là phong tục đã được người Việt gìn giữ từ nhiều đời nay. Thời điểm khi trẻ tròn 12 tháng tuổi sẽ không nằm nôi nữa và đây cũng là lúc các gia đình sẽ sắm lễ và làm lễ thôi nôi cho bé. Phong tục cúng bái, làm lễ sẽ thay đổi tùy theo tập quán của mỗi vùng.
Tumblr media
Thôi nôi - thời điểm bé tròn 12 tháng tuổi Nguồn gốc Trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt Nam thì phong tục cúng thôi nôi này đã bắt đầu từ lâu và nó được lưu truyền qua nhiều thế hệ, từ ông bà tổ tiên cho đến nay. Trong buổi tiệc này ngoài việc chuẩn bị tiệc để chiêu đãi khách khứa thì gia đình còn sẽ chuẩn bị mâm lễ vật để cúng cho Thánh Mẫu, Thập Nhị Tiên Nương và 3 Đức Ông.
Tumblr media
Nguồn gốc lễ thôi nôi Theo như quan niệm dân gian của người Việt và được ghi lại trong thư tịch Phật giáo thì đứa trẻ được sinh ra là nhờ vào các vị Đại Tiên (bao gồm có Thánh Mẫu - bà chúa đầu thai và các Đức Ông - Thập Nhị Tiên Nương đã nặn ra đứa bé). Mỗi bà sẽ phụ sẽ phụ trách nặn ra một bộ phận cho bé như: mắt, tay, mũi, miệng… Vậy nên đứa bé có xinh hay không đều là do các Mụ Bà nặn ra. Do đó, khi đầy cữ (bé 3 ngày tuổi), đầy tháng (bé 1 tháng tuổi), thôi nôi (bé 12 tháng tuổi) thì các gia đình thường cúng để tạ ơn Mụ Bà đã nặn ra bé. Đặc biệt là cầu mong các Mụ luôn che chở và ban phước lành để bé có thể phát triển khỏe mạnh, gặp được nhiều may mắn trong cuộc sống. Cách tính Lễ cúng thôi nôi cho bé sẽ được tính dựa theo lịch Âm. Quy luật tính lâu nay theo như ông bà ta sẽ là “gái lùi 2 và trai lùi 1”. Điều này có nghĩa là nếu như con bạn là con gái thì lễ cúng thôi nôi sẽ lùi 2 ngày, còn nếu như là con trai thì sẽ lùi 1 ngày (sau khi bé tròn 1 năm được tính theo Âm lịch).
Ý nghĩa lễ thôi nôi là gì?
Những tiệc cúng được coi là một phần trong bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam. Mỗi một bữa tiệc, mỗi lễ cúng đều có mục đích riêng biệt của nó nhưng tất cả là đề hướng về mong ước tốt lành và may mắn. Cụ thể, tiệc cúng thôi nôi cho bé mang một số ý nghĩa như sau: Tỏ lòng biết ơn  Lễ cúng thôi nôi không chỉ là dịp để gia đình vui vẻ và chia sẻ niềm hạnh phúc với những người thân yêu. Nó còn là cơ hội để bày tỏ lòng biết ơn đối với 12 Bà Mụ - 12 vị thần bảo hộ đã che chở cũng như bảo vệ bé trong suốt 12 tháng đầu đời; giúp cho bé vượt qua được những nguy hiểm và phát triển mạnh mẽ. Cầu bình an cho bé Lễ cúng thôi nôi cũng là dịp để các gia đình cầu mong cho bé được bình an, khỏe mạnh, may mắn và hạnh phúc trong cuộc đời. Cha mẹ và người thân mong ước bé sẽ trưởng thành với những phẩm chất tốt đẹp, đạt được những thành công và hạnh phúc trong tương lai.
Tumblr media
Cúng thôi nôi - ba mẹ mong bé được bình an Dấu mốc quan trọng Lễ cúng thôi nôi còn đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của bé. Khi bé tròn 1 tuổi và không còn nằm nôi nữa thì đó cũng là thời điểm bé bắt đầu chủ động tiếp xúc với thế giới xung quanh. Đây là dấu mốc cho sự phát triển vượt bậc của bé trên con đường trưởng thành.
Lưu ý khi làm lễ thôi nôi cho bé 
Cúng thôi nôi cần chuẩn bị gì? Mỗi một vùng miền, địa phương thì sẽ có những cách cúng thôi nôi khác nhau cho bé. Tuy nhiên, mọi người đều sẽ chuẩn bị mâm lễ cúng cơ bản như sau: Mâm ông Táo: Ông Táo trong phong tục của người Việt Nam chính là người sẽ nắm tất cả những thông tin trong gia đình. Mỗi gia đình thường sẽ có một bàn thờ dành riêng cho ông Công, ông Táo. Khi cúng thôi nôi cho bé thì bàn ông Công, ông Táo hay các mâm khác thì đều cần phải có bát nhang đèn, nến, hoa quả, xôi chè, trầu cau…
Tumblr media
Mâm cúng thôi nôi Mâm gia tiên: Mâm gia tiên chính là mâm cúng dành cho ông bà, tổ tiên trong gia đình. Thường thì sẽ chuẩn bị: gà luộc, rượu, xôi, ngũ quả, nhang, giấy tiền vàng bạc… Đây đều là những món đồ cúng quen thuộc trong tất cả các dịp lễ lộc, cúng viếng của người Việt. Mâm thần tài, thổ địa: Không phải gia đình nào cũng thờ thần tài, thổ địa nhưng vẫn cần phải chuẩn bị một mâm riêng cho thổ địa - người canh giữ đất đai, nhà cửa. Mâm bà Mụ: Mâm cũng này được chuẩn bị cầu kỳ và kỹ lưỡng nhất. Mâm bà Mụ cần phải chuẩn bị: ngũ quả, gà, xôi, cháo trắng, heo quay, bánh kẹo, tiền vàng, hoa cát tường, đèn, nền, muối, trà, nước, rượu… Một số nghi thức trong tiệc thôi nôi là gì? Nghi thức khấn vái Sau khi chuẩn bị đầy đủ các lễ vật thì người lớn trong gia đình sẽ thực hiện cách cúng đầy năm cho trẻ. Đó là thắp nhang, bái lạy và đọc lời khấn như: ��Hôm nay, ngày (mùng)… tháng… (âm lịch), gia đình cháu (nêu họ tên)… bày làm mâm lễ vật, trước cung thỉnh (...) trước về chứng minh nhận lễ mừng cho cháu (… ) tròn một năm tuổi, sau tiếp tục phù trợ cho cháu (tên… ) khỏe mạnh, chóng lớn, ngoan hiền, phù trợ cho gia đình luôn ấm no, hạnh phúc… ”. Nghi thức cho bé bốc đồ vật Trong lễ cúng thôi nôi thì nghi thức cho bé bốc đồ vật cũng được xem như một lời dự đoán về nghề nghiệp tương lai của bé. Mỗi một món đều đều sẽ có một ý nghĩa riêng. Thông thường thì ba mẹ sẽ đưa ra 12 món để cho bé lựa chọn.
Tumblr media
Nghi thức chọn đồ vật để đoán tương lai Một số đồ vật được bày như: gương, lược, hòm thuốc, tiền, bút viết, sách vở, máy tính bỏ túi, ô tô, máy ảnh, bộ đồ chơi làm bếp, bút vẽ… Dưới đây là ý nghĩa của một số món đồ: Cây viết: Thường có liên quan tới nghề viết lách nên tương lai bé có thể sẽ thành nhà báo, nhà văn hay nhà viết kịch… Quyển sách, vở: Tương lai bé là người chăm chỉ học hành và yêu thích sự khám phá. Máy tính: Bé có thiên hướng yêu thích những con số nên có khả năng thành công ở các lĩnh vực như: kinh tế, tài chính và kinh doanh… Hay bé có xu hướng trở thành một nhà toán học ở trong tương lai. Ống nghe bác sĩ: Tương lai có thể bé sẽ đi theo ngành bác sĩ, y tá hay dược sĩ…  Bộ đồ chơi bếp: Tương lai bé có thể thành một đầu bếp giỏi. Tiền: Dấu hiệu cho thấy bé sẽ làm việc với tiền trong tương lai như làm trong ngành ngân hàng, kế toán, lãnh đạo... Máy ảnh: Trong tương lai bé có thể sẽ làm bạn với chiếc máy ảnh trong suốt sự nghiệp như: nhiếp ảnh gia, phóng viên... Nghi thức mừng tuổi Sau khi hoàn tất nghi lễ cúng thôi nôi thì cả gia đình thường sẽ cùng nhau gửi những lời chúc tốt đẹp nhất đến bé thông qua những chiếc phong bao lì xì hoặc các món quà tặng ý nghĩa. Tất cả đều cầu mong bé được bình an, khỏe mạnh, hạnh phúc và có được một tương lai tươi sáng. Có thể bạn quan tâm: Văn hoá là gì? Bản chất và chức năng của văn hoá Hoa rơi cửa Phật, vạn sự tùy duyên là gì? Lễ cúng thôi nôi là một dịp trọng đại để tỏ lòng biết ơn với các vị thần cũng như cầu mong cho bé được bình an, khỏe mạnh. Hy vọng bài viết này sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về nghi thức truyền thống thôi nôi là gì. Read the full article
0 notes
thaiantravel2 · 8 months ago
Text
Tour Hà Khẩu - Thạch Lâm - Côn Minh - Di Lặc - Mông Tự 5 ngày 4 đêm
Tour Hà Khẩu - Thạch Lâm - Côn Minh - Di Lặc -  Mông Tự 5 ngày 4 đêm của Thái An Travel mang đến cho du khách một trải nghiệm độc đáo qua vùng đất phong phú văn hóa và thiên nhiên hùng vĩ của Trung Quốc. Với lịch khởi hành đặc biệt vào tháng 4 này, du khách có cơ hội chiêm ngưỡng thành phố Côn Minh rực rỡ mùa phượng tím.
Khám phá Hà Khẩu, cửa ngõ giao thương sôi động, nơi hòa quyện giữa truyền thống và hiện đại. Tiếp tục hành trình đến Côn Minh, thành phố của mùa xuân vĩnh cửu, nổi tiếng với khí hậu dễ chịu và cảnh quan ngoạn mục. Chuyến đi này hứa hẹn sẽ là một cuộc phiêu lưu khám phá không thể quên trong lòng mỗi du khách. Cùng Thái An Travel khám phá ngay hôm nay!
Tham khảo lịch trình mới nhất các Tour du lịch hấp dẫn tại THÁI AN TRAVEL:
- Tour Côn Minh mùa phượng tím
- Tour Côn Minh - Đại Lý - Lệ Giang - Shangrila
- Tour Quý Châu hoa đỗ quyên 4 ngày 3 đêm
Tour Hà Khẩu - Thạch Lâm - Côn Minh - Di Lặc - Mông Tự 5 ngày 4 đêm
Thời gian: 5 ngày 4 đêmPhương tiện: Ô tôKhởi hành : 26/04/2024
Lịch trình Tour Hà Khẩu - Thạch Lâm - Côn Minh - Di Lặc - Mông Tự 5 ngày 4 đêm
NGÀY 1 Tour Hà Khẩu - Thạch Lâm - Côn Minh - Di Lặc - Mông Tự 5 ngày 4 đêm: HÀ KHẨU – THẠCH LÂM ( Ăn trưa, ăn tối)
05h30:   Quý khách có mặt tại cửa khẩu  Lào Cai  tự túc dùng bữa sáng.
06h30:   Quý khách chuẩn bị tư trang hành lý, di chuyển ra cửa khẩu Quốc tế Lào Cai
06h50:    HDV đón đoàn tại Cửa khẩu làm thủ tục xuất cảnh sang Trung Quốc.
10h00:    Xe đón Quý khách tại thị trấn Hà Khẩu lên xe khởi hành đi Mông Tự
11h30:    Đoàn ăn trưa sau đó tiếp tục lên xe khởi hành đi Thạch Lâm
16h00:    Quý khách về đến Thạch Lâm. Quý khách nhận phòng khách sạn nghỉ ngơi. 
19h30:   Đoàn ăn tối Sau đó Quý khách sẽ tự do dạo chơi khám phá thành phố Thạch Lâm về đêm. 
NGÀY 2 Tour Hà Khẩu - Thạch Lâm - Côn Minh - Di Lặc - Mông Tự 5 ngày 4 đêm: THẠCH LÂM – CÔN MINH ( Ăn sáng, trưa, tối)
06h30:    Đoàn ăn sáng tại khách sạn, làm thủ tục trả phòng.
08h00:   Quý khách tham quan khu phong cảnh cấp 4A – Đại quan viên Hạnh Lâm: Hắc Thạch Tinh, Bát Tiên Quá Hải, Hạnh Lâm Tự
Trưa: Ăn trưa tại nhà hàng 
Sau bữa trưa, đoàn di chuyển về Côn Minh ( 120km)
Chiều: Đoàn tham quan và chụp hình với :
-   Con đường hoa Phượng Tím Jiaochang Middle - tận hưởng vẻ đẹp rực rỡ của hoa phượng tím mà bấy lâu nay được biết đến là loài hoa có nguồn gốc từ Nam Phi xa xôi. Từ giữa tháng 4 – tháng 5 là thời điểm hoa phượng tím bung nở, nhuộm tím các con đường ở Côn Minh trong đó Jiaochang Middle là con đường 400m nổi tiếng với 2 hàng phượng tím đẹp như trong mơ tại “Thành phố hoa Côn Minh”
-   Tham quan và chụp hình tại Công viên Thúy Hồ - nơi được coi là “viên ngọc xanh” giữa lòng thành phố Côn Minh Ăn tối và nghỉ đêm tại Côn Minh
NGÀY 3 Tour Hà Khẩu - Thạch Lâm - Côn Minh - Di Lặc - Mông Tự 5 ngày 4 đêm: CÔN MINH -  DI LẶC ( Ăn sáng, trưa, tối)
Sáng: Ăn sáng xong đoàn trả phòng 
Tham quan : 
-   Chùa Viên Thông Sơn – ngắm hoa hải đường .  Viên Thông Sơn là ngôi chùa Phật giáo nổi tiếng tọa lạc tại ngọn núi cùng tên núi Viên Thông - Là ngọn núi có địa hình độc đáo với hình dáng như chiếc lá liễu, trải dài từ đông sang tây và hẹp từ bắc xuống nam, với tổng diện tích 26 ha. Một trong những thắng cảnh đẹp nhất nhì trong hệ sinh thái du lịch Côn Minh
-   Chợ hoa Đấu Nam – chợ hoa lớn nhất châu Á
Ăn trưa tại nhà hàng
Sau đó đoàn tiếp tục di chuyển về thành phố Di Lặc (130km)
Chiều : Đoàn tham quan :
-   Công viên Thái Bình Hồ - là công viên lớn nhất thành phố Di Lặc với muôn loài hoa khoe sắc bốn mùa rực rỡ  
Sau đó đoàn về nhận phòng khách sạn nghỉ ngơi, trải nghiệm tắm khoáng nóng Ăn tối nghỉ đêm tại Di Lặc
NGÀY 4 Tour Hà Khẩu - Thạch Lâm - Côn Minh - Di Lặc - Mông Tự 5 ngày 4 đêm: DI LẶC -  MÔNG TỰ ( Ăn sáng, trưa, tối)
Sáng: Đoàn dùng bữa sáng tại khách sạn. Sau đó làm thủ tục trả phòng 
Khởi hành đi tham quan : 
-    Đông Phong Vận Di Lặc – là công trình gạch gốm độc đáo tại Di Lặc , nơi đây được xây dựng như một “thị trấn mộng mơ” với hồ nước nhân tạo, những cây cầu gỗ, những con đường đá... Tới đây, du khách sẽ được chiêm ngưỡng các công trình kiến trúc xây dựng bằng gạch nung đỏ và đất sét. Các tòa nhà được làm chủ yếu bằng gạch đỏ sản xuất tại địa phương, có tính nghệ thuật cao. Mỗi góc ở Đông Phong Vận đều là phông nền chụp ảnh rất đẹp. Du khách nên đi xe điện để di chuyển từ cổng đến điểm tham quan chính ở Đông Phong Vận do quãng đường khá xa.
-   Tham quan nhà máy sản xuất rượu vang đỏ. Nhà máy rượu vang đỏ Vân Nam" là cơ sở sản xuất rượu vang đỏ lớn nhất ở Tây Nam Trung Quốc, nằm trong khu vực trồng nho lớn nhất ở phía nam sông Dương Tử. Hơn 100 loại nho làm rượu quý hiếm được trồng trong hơn 40.000 mu vườn nho trong công viên
Sau đó di chuyển về Mông Tự Ăn tối nghỉ đêm tại Mông Tự
NGÀY 5 Tour Hà Khẩu - Thạch Lâm - Côn Minh - Di Lặc - Mông Tự 5 ngày 4 đêm: MÔNG TỰ - HÀ KHẨU ( Ăn sáng, trưa)
Ăn sáng xong đoàn trả phòng 
Khởi hành đi tham quan :
-    Lầu Chu Tử – Mông Tự, một vùng đất nhỏ tại tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, từng được biết đến với sự thuần mộc và những danh thắng tuyệt vời. Được ví như một viên ngọc nhỏ giữa lòng Trung Hoa, nơi này không chỉ kết hợp với nhiều địa điểm nổi tiếng mà còn có những kiến trúc đẹp mắt, gây ấn tượng mạnh mẽ cho du khách. Mặc dù bạn có thể thăm Lầu Chu Tử Mông Tử vào bất kỳ thời điểm nào trong năm, tuy nhiên, với khí hậu cận nhiệt đới gió mùa, tháng 3 đến tháng 4 và tháng 9 đến tháng 12 được xem là thời gian tốt nhất để tránh mùa hè ẩm và nóng.
-   Tham quan Vườn lựu Mông Tự - Vườn lựu Vạn Mẫu – nơi đây được coi là quê hương của cây lựu ở Trung Quốc. Ăn trưa – thưởng thức đặc sản Bún Qua Cầu. 
Sau đó đoàn di chuyển về Hà Khẩu, làm thủ tục nhập cảnh về lại Việt Nam. Quý khách đón xe bus về lại điểm xuất phát. Kết thúc chương trình 
GIÁ Tour Hà Khẩu - Thạch Lâm - Côn Minh - Di Lặc - Mông Tự 5 ngày 4 đêm TRỌN GÓI DÀNH CHO 01 KHÁCH: 
Khởi hành từ Lào Cai : 5.490.000vnd/khách
Khởi hành từ Hà Nội: 5.990.000vnd/khách
( Áp dụng cho khách lẻ ghép đoàn)
Tour Hà Khẩu - Thạch Lâm - Côn Minh - Di Lặc - Mông Tự 5 ngày 4 đêm BAO GỒM :
1.    Vận chuyển: +  Xe tham quan tại Trung Quốc: Ô tô du lịch có điều hòa phục vụ theo chương trình. 2.    Lưu trú: Khách sạn tiêu chuẩn  3-4 sao của Trung Quốc. Ngủ 02 khách/phòng. Nếu lẻ nam nữ phụ thu phòng đơn 3.    Các bữa ăn: + Tại Trung Quốc: 04 bữa sáng + 07 bữa chính (1 bữa đặc sản Bún qua cầu) 4.    Vé tham quan theo chương trình. 5.    HDV du lịch tiếng việt/tiếng trung 6.    Nước uống 7.    Bảo hiểm du lịch 8.    Visa nhập cảnh theo đoàn tại Cửa khẩu.
Tour Hà Khẩu - Thạch Lâm - Côn Minh - Di Lặc - Mông Tự 5 ngày 4 đêm KHÔNG BAO GỒM:
1. Chi phí cá nhân, đồ uống và các bữa ăn ngoài chương trình 2. Chi phí ngủ phòng đơn: 450.000đ/khách/đêm 4. Tiền Tip cho HDV và Lái Xe 5USD/người/ngày 5. Phương tiện vận chuyển ở phía Việt Nam (Bảng giá xe đi từ các tỉnh ở cuối chương trình)
GIẤY TỜ ĐỂ XIN CẤP VISA ( Gửi trước ít nhất 07 ngày)
1.    Scan mặt hộ chiếu còn hạn trước 6 tháng. 2.    Ảnh 4x6 phông nền trắng, mặc áo màu (Không mặc áo màu trắng, khi chụp ảnh không: đeo kính, đeo đồ trang sức, đội mũ, nhìn nghiêng và nhớ vén tóc lộ lông mày, lộ tai)
LƯU Ý khi đi Tour Hà Khẩu - Thạch Lâm - Côn Minh - Di Lặc - Mông Tự 5 ngày 4 đêm
1.  Lịch trình có thể thay đổi để phù hợp với chương trình thực tế khi đi tham quan nhưng vẫn giữ nguyên các điểm. 2.  Các dịch vụ được đặt và thanh toán trước nên nếu Quý khách không sử dụng dịch vụ sẽ không được hoàn lại. 3. Mọi sự thay đổi phải được thống nhất với trưởng đoàn, chúng tôi không đáp ứng các thay đổi của cá nhân. 4.  Nếu các thay đổi làm ảnh hưởng tới lịch trình, dịch vụ (bỏ điểm tham quan, bỏ dịch vụ…) Quý khách phải chấp nhận các phát sinh đó.Các thay đổi phải dựa trên tính khả thi và tình hình thực tế. 5.  Trong hành trình, Quý Khách không được tự động nhận thêm người nhà hoặc người quen lên xe mà không có sự thỏa thuận dịch vụ với chúng tôi trước đó – chúng tôi có quyền từ chối cung cấp dịch vụ cho các trường hợp trên. 6.  Quy định chung của khách sạn, nhận phòng 12:00 – 14:00, trả phòng trước 12:00. 7.  Hành trình tham quan thường là không có thời gian nghỉ trưa và thường phải đi bộ nhiều. 8.  Chúng tôi không chịu trách nhiệm bất cứ sự chậm trễ cung cấp hồ sơ hoặc đặt cọc từ phía Quý khách. 9.  Quý khách không được phép tách đoàn dù bất kỳ nguyên nhân nào. Nếu Quý khách tự ý tách đoàn sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý của nước sở tại về quy định xuất nhập cảnh. 10. Trường hợp Quý khách không được xuất cảnh và nhập cảnh vì lý do cá nhân, công ty sẽ không chịu trách nhiệm và sẽ không hoàn trả tiền tour. 11. Đối với trường hợp khách làm phẫu thuật thẩm mỹ khuôn mặt, bắt buộc phải làm lại hộ chiếu. Trường hợp khách không làm lại hộ chiếu công ty sẽ không chịu trách nhiệm về vấn đề xuất nhập cảnh của khách. Mọi chi phí về hủy phạt dịch vụ khách hàng sẽ phải tự chịu trách nhiệm. 12. Không nhận khách là phụ nữ có thai từ 05 tháng trở lên tham gia các tour nước ngoài vì lý do an toàn cho khách hàng (Khách khi đăng ký tour có trách nhiệm thông báo cho nhân viên Công ty khi có thành viên trong gia đình đang mang thai, Công ty sẽ không chịu trách nhiệm khi khách hàng không thông báo). 13 Trường hợp Quý khách không được xuất cảnh và nhập cảnh vì lý do cá nhân (như hình ảnh, thông tin giấy tờ trong bản gốc bị mờ, không rõ ràng, passport hết hạn, không đúng quy định,…) Công ty sẽ không chịu trách nhiệm và sẽ không hoàn trả tiền tour. HDV Công ty sẽ hỗ trợ và tìm biện pháp giải quyết tốt nhất cho Quý khách, mọi chi phí phát sinh do khách hàng chi trả. 14.Quý khách nộp Hộ chiếu còn hạn ít nhất 6 tháng + 2 ảnh thẻ 4 x 6cm nền trắng 15.Giá tour áp dụng cho khách đăng ký trước tối thiểu 15 ngày. Sau 15 ngày giá có thể thay đổi tùy thuộc vào tình trạng chỗ. 16.Đoàn đi ghép nên nếu số lượng khách đăng ký không đủ để khởi hành thì đoàn sẽ rời lịch sang ngày gần nhất có thể.
Giới thiệu điểm đến trong Tour Hà Khẩu - Thạch Lâm - Côn Minh - Di Lặc - Mông Tự 5 ngày 4 đêm
Tour Hà Khẩu - Thạch Lâm - Côn Minh - Di Lặc - Mông Tự 5 ngày 4 đêm: Con đường hoa Phượng Tím Jiaochang Middle
Hoa phượng tím đang rực rỡ khoe sắc tại thành phố Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Loài hoa này xuất xứ từ Nam Mỹ và thích hợp với khí hậu nhiệt đới. Phượng tím, không phổ biến nhưng lại cuốn hút với vẻ đẹp nhẹ nhàng, mộng mơ và ý nghĩa của sự thương nhớ và trung thành.
Có hàng trăm cây hoa phượng tím dọc hai bên đường, đi bộ dọc con đường giống như đi dưới đám mây màu tím, đó là lý do tại sao nó còn được gọi là “Đại lộ hoa phượng tím”. Hàng năm, khung cảnh tuyệt đẹp này thu hút rất nhiều khách du lịch và các nhiếp ảnh gia.
Tour Hà Khẩu - Thạch Lâm - Côn Minh - Di Lặc - Mông Tự 5 ngày 4 đêm: Công viên Thái Bình Hồ
Công viên Thái Bình Hồ ở Di Lặc là một thiên đường nghỉ dưỡng tuyệt vời để thư giãn và khám phá. Với diện tích rộng lớn và thiết kế đẹp mắt, công viên mang đậm nét văn hóa và kiến trúc truyền thống của đất nước.
Giữa lòng công viên nổi bật một bức tranh tạo hình người con gái trẻ trung trong trang phục của dân tộc Di. Theo lời kể của người dân nơi đây, bức họa khổng lồ này được lấy cảm hứng từ Thái Bình công chúa - con gái út của Võ Tắc Thiên. 
Đến với Công viên Thái Bình Hồ, quý khách sẽ được trải nghiệm không gian xanh mát, độc đáo và tận hưởng những cảnh quan tuyệt đẹp bao quanh. Hồ nước trong công viên tạo nên một không gian thanh bình, mang lại sự tĩnh lặng và hòa mình vào thiên nhiên. Không chỉ sở hữu không gian check in gần gũi thiên nhiên, du khách còn được trải nghiệm tàu điện và những khu vui chơi (lái xe tốc độ, bắn súng, ngắm các loài động vật...) tại đây. 
Tour Hà Khẩu - Thạch Lâm - Côn Minh - Di Lặc - Mông Tự 5 ngày 4 đêm: Đông Phong Vận
Đông Phong Vận là 1 trong những làng gốm có lịch sử lâu đời của dân tộc Miêu, các công trình kiến trúc được xây dựng bằng gạch nung đỏ và đất set mang sắc màu của Ai Cập. Nơi đây được bao trùm bởi thảo nguyên hoa lavender rất rộng lớn với sắc tím bao trùm cả 1 vùng trời.
Đến với khu bảo tàng Kính vạn hoa, du khách sẽ được chiêm ngưỡng bộ sưu tập những chai rượu ủ lâu năm với hương thơm cuốn hút và lâu đài hình ngọn lửa làm bằng gạch đỏ nổi bật hơn hết. Nơi đây còn được mệnh danh là lâu đài cổ tích gần gũi nhất với trái tim bạn của Đông Phong Vận, do đó mà nơi đây thu hút nhiều khách du lịch đến Tour du lịch Vân Nam tới check-in.
Tour Hà Khẩu - Thạch Lâm - Côn Minh - Di Lặc - Mông Tự 5 ngày 4 đêm: Chợ hoa Đấu Nam
Được mệnh danh là thủ phủ của các loài hoa khu vực Châu Á, Chợ hoa Đấu Nam thuộc thành phố Côn Minh, Trung Quốc, là chợ hoa tươi lớn nhất Châu Á. Không chỉ cung cấp hoa tươi cho các tỉnh thành của Trung Quốc mà còn xuất khẩu tới hơn 50 quốc gia.
Chợ hoa Đấu Nam là một thiên đường, nhất là đối với những ai yêu hoa và thích chụp ảnh. Bạn có thể hóa trang thành một nhân vật cổ trang yêu hoa với đầy sắc màu. Không cô gái nào có thể cưỡng lại sự cám dỗ của thế giới hoa này.  Bởi tại chợ hoa Đấu Nam, bạn có thể mua tất cả các loại hoa mà bạn muốn vì hầu như loại nào cũng có. Thậm chí có những loài hoa lạ mà bạn sẽ khá thích thú khi nhìn thấy lần đầu.
Tour Hà Khẩu - Thạch Lâm - Côn Minh - Di Lặc - Mông Tự 5 ngày 4 đêm: Lầu Chu Tử
Lầu Chu Tử nằm trong khu Vườn Lựu Mông Tự trấn Tân An, phía đông nam huyện Mông Tự, thủ phủ của Châu Hồng Hà. Mặc dù gọi là lầu nhưng đây thực chất là tòa tháp kiểu lầu các, được khánh thành vào tháng 10 năm 2009. Chư Tử Lầu tập hợp kiến trúc đặc trưng của văn hóa thế giới, lấy văn hóa Lựu làm nét chính với các bức phù điêu xuyên suốt các ô cửa. 
Lầu Chu Tử không chỉ là một điểm du lịch nổi bật ở Tour Mông Tự mà còn là một bảo tàng nghệ thuật, lưu giữ và kể lại những truyền thống và câu chuyện độc đáo của vùng này, làm cho hành trình du lịch trở nên trọn vẹn và đáng nhớ.
Kết luận
Quý khách có muốn được tận mắt chứng kiến vẻ đẹp trên nền di sản Trung Hoa, quý khách có muốn được tìm hiểu những công trình có quy mô to lớn, hay đắm mình vào những câu chuyện lịch sử Trung Hoa.
Hãy cùng đăng ký Tour Côn Minh - Đại Lý - Lệ Giang - Shangrila của THÁI AN TRAVEL khám phá Đại Lý - Lệ Giang- Côn Minh để có trọn vẹn những trải nghiệm đó trong chuyến đi.
Tham khảo các tour du lịch Trung Quôc giá tốt khác  năm 2023 được nhiều du khách yêu thích và lựa chọn:
- Tour Phượng Hoàng cổ trấn đường bộ
- Tour Nam Ninh - Quế Lâm 4N3Đ
- Tour Côn Minh - Lệ Giang - Shangrila đường bộ 6 ngày 5 đêm
- Tour Hà Nội - Côn Minh - Lệ Giang - Sanggri La
- Tour Trương Gia Giới - Phượng Hoàng Cổ Trấn
- Tour Bắc Kinh - Tây An 6 ngày 5 đêm từ Hà Nội
Vậy nên nếu muốn đăng ký tour du lịch Trung Quốc với lịch trình phù hợp, hãy gọi ngay cho THÁI AN TRAVEL chúng tôi để được tư vấn thêm nhé!
https://thaiantravel.com/ - Đơn vị lữ hành uy tín chuyên tour & sự kiện du lịch -Dịch vụ đặt phòng, combo du lịch - Chuyên villa, Tour nước ngoài, Tour du lịch Hàn Quốc, Tour Thái Lan, Tour Dubai, Tour du lịch Trung Quốc,  Tour du lịch Singapore
Thái An Travel
- Hotline: 0862.880.833
- Địa chỉ: Số 27 Lô 5 Đền Lừ 2, Hoàng Mai, Hà Nội.
0 notes
menh360 · 8 months ago
Link
0 notes
buddhistbooks · 8 months ago
Text
Tumblr media
GẶP ĐƯỢC CHÚ ĐẠI BI, PHẢI THẬT SỰ KHẮC CỐT GHI TÂM!
Chúng ta được nghe đến danh hiệu của Chú Ðại Bi thì mỗi người phải sanh tâm hoan hỷ, vui mừng, phải trân quí và phải biết đó là điều khó tìm khó gặp! Không dễ gì mà gặp được Chú Ðại Bi, nay gặp được rồi thì phải thật sự khắc cốt ghi tâm, chớ nên xem nhẹ mà thờ ơ bỏ qua!
TÌM HIỂU Ý NGHĨA CHÚ ĐẠI BI...!!!
1. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da – con xin nương tựa, kính cẩn dâng tâm, thân, mạng vào chư Phật, quy y Tam Bảo khắp mười phương.
2. Nam mô a rị da – con xin nương tựa, kính cẩn dâng tâm, thân, mạng vào các bậc thánh giả, rời xa những ác pháp chưa thiện.
3. Bà lô yết đế thước bát ra da – Bồ Tát Quan Thế Âm ánh sáng soi rọi, tỏa chiếu muôn nơi, thấu suốt nỗi đau khổ của chúng sinh để kịp thời cứu nhân độ thế.
4. Bồ đề tát đỏa bà da – Bồ Tát mang binh tướng cõi trời tới cứu giúp chúng sinh thoát khỏi kiếp khổ nạn, giác ngộ giải thoát chúng sinh khỏi u minh.
5. Ma ha tát đỏa bà ha – con xin hành lễ trước các vị Bồ Tát đã mạnh mẽ tự giác ngộ, tự giải thoát chính mình và giúp đỡ chúng sinh đi theo con đường giải thoát.
6. Ma ha ca lô ni ca da – con xin cúi đầu hành lễ, hướng tâm đọc Chú Đại Bi với lòng thành kính.
7. Án – thần chú tổng hợp mười pháp môn vi diệu, quy phục tất cả ma quỷ thần khiến Chú Đại Bi phát huy được sức mạnh giáo hóa với muôn loài.
8. Tát bàn ra phạt duệ - Tự Tại Thế Tôn, câu chú tụng lên sẽ có Tứ Đại Thiên Vương tới hộ pháp, bảo vệ.
9. Số đát na đát tả - thỉnh cầu sự ngượng nguyện của Tam Bảo, tập hợp chúng quỷ thần tới để răn dạy bằng chánh pháp.
10. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a lị da – con xin cúng kính hành lễ sự vô ngã của các vị thánh giả.
11. Bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà – nơi Quan Thế Âm Bồ Tát thị hiện phát tâm từ bi.
12. Nam mô na ra cẩn trì – con xin cúi đầu kính cẩn hành lễ với sự bảo hộ thiện ái của chúng Bồ Tát.
13. Hê rị ma ha bàn đa sa mế - ánh sáng soi rọi khắp nơi của tâm từ bi vừa mạnh mẽ vừa lâu dài, đủ sức cảm hóa chúng sinh.
14. Tát bà a tha đậu du bằng – tâm bình đẳng, vô lo vô nghĩ, xuất phát điểm của chúng sinh như nhau, đối với nhau bằng sự hòa ái.
15. A thệ dựng – không có pháp nào có thể so sánh với pháp này, ca ngợi tinh thần soi sáng của Chú Đại Bi.
16. Tát bà tát đa, na ma bà tát đa, na ma bà già – Đại thân tâm Bồ Tát, Đại Sĩ, Thế Tôn.
17. Ma phạt đạt đậu – con xin cung thỉnh mười phương chư Phật, mười phương Bồ Tát mở lòng từ bi cứu rỗi chúng sinh, xin các Ngài là thần ở cõi trời và là bạn ở trần gian để hộ trì thiện pháp đạt được thành tựu.
18. Đát điệt tha – án – thủ ấn, khai mở con mắt trí tuệ để khiến quỷ thần đều phải kính sợ, xa rời ác nghiệp.
19. A bà lô hê – dùng trí tuệ để quan sát và cảm nhận tiếng kêu than của chúng sinh mười phương.
20. Lô ca đế - Thế tôn, hợp với câu trên thành A bà lô hê Lô ca đế - Thế Tôn Quan Thế Âm Bồ Tát.
21. Ca ra đế - người có tấm lòng từ bi cứu giúp chúng sinh khỏi đau khổ bi ai.
22. Di hê rị - con nguyện tuân theo những lời giáo hóa của Quan Thế Âm Bồ Tát để tu hành.
23. Ma ha bồ đề tát đoả - công đức viên mãn, giác ngộ của Bồ Tát vun trồng thành hạnh lành.
24. Tát bà tát bà – hành trì ấn pháp mang tới an lạc thái hòa cho tất cả chúng sinh.
25. Ma ra ma ra – thuận duyên tu hành, mọi việc đều như ý.
26. Ma hê ma hê rị đà dựng – lời không cần nói ra ý cũng đạt tới cảnh giới vi diệu.
27. Cu lô cu lô yết mông – sự mầu nhiệm của Chú Đại Bi không có điểm dừng, không có giới hạn, công đức vô lượng.
28. Độ lô độ lô, phạt già ra đế - tu tập hành trì có thể vượt qua sinh tử, giải thoát bản thân khỏi luân hồi, tìm tới nơi an lạc và sáng suốt.
29. Ma ha phạt già da đế - pháp và đạo là hai chân lý vượt lên trên mọi thứ, là tối thắng ở đời.
30. Đà la đà la – tâm lượng chúng sinh, Quán Thế Âm Bồ Tát cứu nạn chúng sinh bằng nước Cam Lồ.
31. Địa lỵ ni – tịnh diệt, diệt hết mọi ác niệm, trở về tâm thuần khiết.
32. Thất phật ra da – hướng ánh sáng vào bên trong con người để soi sáng tâm tưởng, biết rõ lòng mình.
33. Giá ra giá ra – mệnh lệnh thúc giục khắp cõi cùng tuân theo pháp lệnh.
34. Ma ma phạt ma la – nhấn mạnh hành động sẽ có kết quả, con người theo đúng đạo tu hành sẽ đạt được công đức.
35. Mục đế lệ - giải thoát chúng sinh khỏi đau khổ, chướng ngại và bi ai.
36. Y hê y hê – thuận giao, tự nguyện tuân theo giáo hóa mà không chút khiên cưỡng, mở rộng tâm hồn để hưởng thụ giáo lý.
37. Thất na thất na – đại trí tuệ như ánh dương sáng chói, rực rỡ đưa con người thoát khỏi vô minh tăm tối.
38. A ra sam Phật ra xá lợi – cỗ xe đại pháp của Phật luân chuyển, đưa giáo lý tới khắp chúng sinh, viên mãn đời đời, công đức vô lượng còn lưu lại.
39. Phạt sa phạt sâm – hoan hỉ giảng, hoan hỉ nói, hoan hỉ nghe, lúc nào cũng giữ tâm hoan hỉ.
40. Phật ra xá da – tâm giác ngộ giáp lý trở nên cao quý, sáng suốt hơn.
41. Hô lô hô lô ma ra – tùy tâm nguyện mà hành trì, tu pháp nào sẽ hưởng thụ công đức của pháp đó, như ý đạt nguyện vọng.
42. Hô lô hô lô hê rị - lòng không khởi niệm, mọi vọng tưởng đều mất đi, rũ bỏ 4 thứ làm tâm u tối, sống đời an lạc, trở thành người có lực tự tại rất mạnh.
43. Ta ra ta ra – thần lực mạnh mẽ kiên cố, có thể phá hủy và hàng phục ma đạo.
44. Tất lỵ tất lỵ - dũng mãnh vượt chướng ngại, vượt lên mọi khó khăn và cát tường trên đường tiến tới nghiệp lành.
45. Tô rô tô rô – nước cam lồ thần kì có thể mang tới nhiều điều tốt lành, cứu rỗi chúng sinh.
46. Bồ đề dạ – Bồ đề dạ - Giác tâm, mở tâm Bồ Đề để ngộ đạo, kiên cường vững chí với tâm Bồ Đề mới tu thành chính đạo.
47. Bồ đà dạ – Bồ đà dạ - giác ngộ trí tuệ, dùng trí tuệ để tiến tới chân tu.
48. Di đế rị dạ - tâm đại từ đại bi, che chở bảo hộ cho muôn loài chúng
49. Na ra cẩn trì – Thiên Hộ đứng đầu các bậc Thánh Hiền, luôn che chở và bảo hộ cho chúng sinh.
50. Địa lỵ sắt ni na – bảo kiếm hàng ma phục yêu, dùng để trừng phạt những loài ma quỷ không quy phục chính pháp.
51. Ba da ma na – thành tựu xứng đáng với danh tiếng và đức hạnh tu hành.
52. Ta bà ha – niệm câu chú này sẽ được hưởng đầy đủ: thành tựu, cát tường, viên mãn, trừ tai và vô trú.
53. Tất đà da – mọi sở cầu sở nguyện đều được thành toàn, mọi hành động làm ra đều viên mãn, mang tới thành tựu, được khen ngợi và tán dương.
54. Ta bà ha – – thành tựu vô lượng, công đức vô biên
55. Ma ha tất đà da – hành giả đạt được thành tựu to lớn và viên mãn.
56. Ta bà ha – hợp với các câu trên thành Tất đà dạ ta bà ha Ma ha tất đà dạ ta bà ha là Pháp bảo của nhà Phật.
57. Tất đà du nghệ - mọi thành tựu lợi ích đều chỉ là hư vô
58. Thất bà ra dạ - nơi mà bản thân được tự tại và công đức vô lượng.
59. Ta bà ha – hành giải có thể lấy châu báu ẩn giấu trong lòng đất để làm lợi cho chúng sinh.
60. Na ra cẩn trì – dùng sự đại từ bi bảo hộ, che chở cho chúng sinh.
61. Ta bà ha – thành tựu vô lượng, công đức vô biên
62. Ma ra na ra – tiễu trừ mọi bệnh tật và chướng nạn.
63. Ta bà ha – thành tựu vô lượng, công đức vô biên
64. Tất ra tăng a mục khư da – dùng hết sức mình bảo hộ chúng sinh, không từ bỏ bất cứ việc gì.
65. Ta bà ha – thành tựu vô lượng, công đức vô biên
66. Ta bà ma ha a tất đà dạ - dùng vô số phương thuốc để chữa bệnh cho chúng sinh.
67. Ta bà ha – thành tựu vô lượng, công đức vô biên
68. Giả kiết ra a tất đà dạ - hàng phục ma oán, phát ra âm thanh chấn động để bất cứ loại ma nào đều phải quy phục.
69. Ta bà ha – thành tựu vô lượng, công đức vô biên
70. Ba đà ma yết tất đà dạ - thành tựu vô lượng, công đức siêu việt.
71. Ta bà ha – thành tựu vô lượng, công đức vô biên
72. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ - Quan Thế Âm Bồ Tát dùng pháp ấn giúp chúng sinh không còn sợ hãi mọi lúc mọi nơi
73. Ta bà ha – thành tựu vô lượng, công đức vô biên
74. Ma bà lợi thắng yết ra da – đức hạnh của bậc đại anh hùng Quan Thế Âm Bồ Tát người người kính ngưỡng
75. Ta bà ha – thành tựu vô lượng, công đức vô biên
76. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da – con xin kính cẩn quy y Tam bảo, dâng hết tâm thân lẫn tính mạng để quy y cửa Phật.
77. Nam mô a lị da – con xin quy y với tất cả các bậc thánh giả, thánh hiền.
78. Bà lô kiết đế - quán tức là giác ngộ.
79. Thước bàn ra da – kết hợp với câu trên là danh xưng Quán Thế Âm Bồ Tát.
80. Ta bà ha – thành tựu vô lượng, công đức vô biên.
81. Án tất điện đô – hành giả được hưởng an lạc và yên tĩnh, công đức viên mãn.
82. Mạn đà ra – pháp hội của hành giải nhất định đạt được thành tựu.
83. Bạt đà da - toại tâm viên mãn, tùy theo tâm nguyện mà đạt được như ý
84. Ta bà ha – thành tựu vô lượng, công đức vô biên.
Xin Mẹ Quán Thế Âm Cứu Khổ Cứu Nạn cho chúng sinh vượt qua kiếp nạn này
Nam Mô Đại Từ Bi Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát.
0 notes
langmodaninhbinhdep · 9 months ago
Text
5+Mâu mộ đẹp bán tại Bình Dương - Địa chỉ làm mộ đá tại Bình Dương
Mẫu mộ đẹp tại Bình Dương được thiết kế và xây dựng như nào có các kiểu dáng cũng như mẫu mộ ra sao.
Lăng mộ là những kiến trúc tâm linh dành riêng cho người tân đã mất của mỗi chúng ta. Nên việc xây dựng các kiến trúc tâm linh này thường được chúng ta rất quan tâm và cẩn thận trong việc xây dựng.
Có rất nhiều nguyên vật liệu được lưa chọn trong việc xây dựng thiết kế các khu lăng mộ đẹp. Nhưng xây dựng lăng mộ đá tại Bình Dương vẫn đang là sự lựa chọn nhiều nhất của người dân nơi đây.
Bởi lăng mộ đá tự nhiên có rất nhiều ưu điểm nổi bất như: có độ bền cao, thiết kế được rất nhiều mẫu mã đẹp khác nhau, nhìn rất sang trọng cao quý, việc vệ sinh dọn dẹp hàng năm rất dễ dàng. Sau đây là ba kiểu lăng mộ đá tại Bình Dương được lựa chọn xây dựng nhiều:
Mẫu mộ đá có mái che bán tại Bình Dương
Mộ đá có mái che tại Bình Dương là mẫu lăng mộ đá được ưa chuộng nhất, với thiết kế đơn giản hiện đại nhưng rất tinh tế mộ thường đượng thiết kế với số lượng một mái, hai mái, ba mái tùy vào sự lựa chọn của qúy vị. Phần mái mộ giúp che chắn bát hương khỏi mưa gió và tạo nên một vẻ đẹp sang trọng cao linh thiêng cho ngôi mộ đá.
Về chất liệu thì mộ đá có mái che tại Bình Dương được chế tác từ các loại đá tự nhiên như đá xanh rêu đá, đá trắng, đá vàng, đá xanh đen, đá hoa cương
Tumblr media
2. Mẫu lăng mộ đá đôi tại Bình Dương 
Lăng mộ đá đôi là kiểu lăng mộ được thiết kế dành riêng cho hai người cho ông bà hay cha mẹ kiểu mộ này còn được gọi là mẫu mộ song thân có thể được  xây dựng theo kiểu mộ đá không mái che thiết kế đơn giản hiện đại cũng có thể được xây dựng theo kiểu mộ đá có mái che được điêu khắc hoa văn cầu kỳ tinh tế. Kiểu mộ đá đôi tại Bình Dương có thể được thiết kế hai môi mộ đá có kích thước mẫu mã giống hệt nhau được đặt cạnh nhau hoặc là hai mộ  đạt sát nhau.
⇒ ⇒ ⇒ Tham khảo các  mẫu mộ đôi đẹp tại Bình Dương
Tumblr media
3. Các kiểu tháp mộ để tro cốt tại Bình Dương
Tháp đá tại Bình Dương là một thiết kế mộ mang đắc trưng riêng đây là mẫu mộ được thiết kế dành riêng cho nhưng người tu tập phật giáo. Nên các ngôi mộ tháp thường được thiết kế theo kiến trúc tháp phật giáo.
⇒ ⇒ ⇒ Link tham khảo các mẫu tháp đá để tro cốt tại Bình Dương
Tumblr media
Địa chỉ làm bán chế tác lăng mộ đá nhà mồ đẹp tại Bình Dương
Cơ sở đá mỹ nghệ Bảo Châu chúng tôi chuyên thiết kế, chế tác và bán các mẫu lăng mộ đá đẹp tại Bình Dương và toàn quốc, mẫu mộ đá đẹp chất lượng và giá rẻ nhất. Đá mỹ nghệ Bảo Châu chúng tôi có hệ thống sản xuất quy mô lớn với đội ngũ nghệ nhân đá đồ có tay nghề cao, nhiều năm kinh nghiệm, cùng sự hỗ trợ của nhiều loại máy móc hiện đại như máy tiện đá, máy xe, máy rút lõi đảm bảo sẽ tạo ra những sản phẩm chất lượng cao với chi phí hợp lý. 
Ngoài thiết kế – thi công và lắp đặt lăng mộ đá trên toàn quốc cơ sở đá Mỹ Nghệ Bảo Châu chúng tôi còn nhận tư vấn – thiết kế – xây dựng các hạng mục công trinh tâm linh làm bằng đá khác như: Khu lăng mộ đá , mẫu mộ đôi đẹp, tháp để tro cốt,  cổng nhà thờ họ đẹp , Đá kê chân cột,  Cuốn thư đá , Cột đồng trụ đá…và các hạng mục công trình khác bằng đá như đá lát, đá bậc thềm ….
Chúng tôi với hơn 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điêu khắc, chế tác các hạng mục công trình tâm linh bằng đá, đồng thời làm việc dựa trên tôn chỉ là lấy “cái tâm và cái tình” để tạo nên những sản phẩm. Chính vì thế, chúng tôi luôn tự hào về chất lượng cũng như hoa văn điêu khắc trên từng sản phẩm, các sản phẩm mà cơ sở đá mỹ nghệ Bảo Châu tạo ra đều rất được khách hàng yêu thích và ủng hộ. 
Quý khác có nhu cầu làm lăng mộ đá khối cho gia đình dòng họ hãy liên hệ với chúng tôi theo thông tin sau để được tư vấn tốt nhất. Rất Hân Hạnh Được Phục Vụ Quý Khách! 
Mọi chi tiết xin liên hệ:
Công ty đá mỹ nghệ Bảo Châu
Địa chỉ: Ninh Vân – Hoa Lư – Ninh Bình
Điện thoại: 096 281 90 32 (Mr Nam)
Website:  https://langmoda.com.vn
0 notes
bimat24h · 10 months ago
Link
0 notes
menh69 · 8 months ago
Link
0 notes
chuyennhamiennamcom · 11 months ago
Text
Bốc bát hương trước hay nhập trạch trước khi chuyển nhà?
Khi chuyển nhà mới, nhiều người thường đặt ra câu hỏi nên bốc bát hương trước hay nhập trạch trước. Đây là lễ cúng có ý nghĩa tôn kính thần linh, tổ tiên và cầu nguyện gia đình được an lành, sung túc, hạnh phúc ở nơi ở mới. Chuyển Nhà Miền Nam sẽ cung cấp cho bạn những thông tin phong thủy hữu ích về vấn đề này.
Ý nghĩa của lễ cúng nhập trạch và bốc bát hương trong phong thủy
Lễ cúng nhập trạch là nghi lễ quan trọng trong văn hóa Việt Nam, biểu thị sự kính trọng và mong muốn được sự che chở của vị thần linh cai quản nơi ở.
Lễ nhập trạch là nghi lễ chuyển tới nhà mới theo phong tục Hán Việt. Đây là cách để thông báo cho các vị thần linh trong nhà về sự xuất hiện của gia chủ mới. Gia đình hy vọng được sự bảo vệ và ban phước cho các thành viên luôn bình an, hạnh phúc và khỏe mạnh.
Bốc bát hương về nhà mới là một nghi lễ đặc biệt trong Phật giáo, bởi đó là cách để chúng ta giao tiếp với các vị thần linh và tổ tiên, những người bảo vệ và chỉ dẫn chúng ta trong cuộc sống về mặt tâm linh.
Bát hương là biểu tượng của sự linh thiêng, là cầu nối giữa hai thế giới âm dương, là lời biết ơn và tôn trọng của con cháu đối với những người đã qua đời.
Bốc bát hương trước hay nhập trạch trước?
Khi chuyển đến ngôi nhà mới, bạn có nên mang theo bát hương thờ thần linh hay không? Để được thần linh ưu ái và hộ trì, bạn nên bốc bát hương trước khi nhập trạch. Đây là bước đầu tiên và quan trọng nhất trong nghi thức nhập trạch.
Xem tiếp bài viết tại: https://chuyennhamiennam.com/boc-bat-huong-truoc-hay-nhap-trach-truoc
Tumblr media
0 notes
tu-yeng · 11 months ago
Text
Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media
Huỡn đi|| Kiến trúc chùa CHÙA GIÁC LÂM, phần 1.
Gia Định thành thông chí của Trịnh Cấn Trai viết “ Chùa Giác-Lâm ở trên gò Cẩm-sơn, cách phía tây lũy Bán-bích 3 dặm, gò ấy bằng thẳng trăm dặm, đột khởi 1 kim-đôi (gò đất hình tròn) như bức bình phong, như cái nón, như cái mâm, tấm nệm, rộng 3 dặm, cây cao như rừng, hoa nở tựa gấm, sáng chiều mây khói nổi bay quanh quất, địa thế tuy nhỏ mà có nhã thú.
Mùa xuân năm Giáp-tý (1744) đời vua Thế-tôn năm thứ 7, người xã Minh-hương là Ly-Thoại-Long quyên của xây dựng nhà chùa trang nghiêm, cửa thiền u tịch. Những thi-nhân du-khách mỗi lần đến tiết Thanh-minh, Trùng-cửu rảnh rơi kết bầy 5,3 người đến mở tiệc để thưởng hoa, chuốc chén mà ngâm vịnh, ngó xuống chợ búa rộn ràng, xa cách ra ngoài tầm mắt, thật là một nơi đáng dành cho những khánh du thưởng.” (GĐTTC)
Ngôi cổ tự Giác Lâm từ lúc hình thành cho đến hiện tại (2021) đã 277 năm, từ lúc xây dựng cho đến hiện tại vẫn được coi như là một trong những ngôi cổ tự có lịch sử lâu đời và vẻ đẹp kiến trúc đặc trưng của những ngôi chùa Phật giáo Miền Nam.
Ngôi chùa đã trải qua nhiều đời trụ trì, trải nhiều lần trùng tu và bao lần chiến loạn nên về hình thức ngôi chùa có nhiều sự khác biệt, nhưng chùa vẫn giữ được những hình thức chung của ngôi cổ tự Phương nam.
Kiến trúc chùa hiện nay vẫn giữ được nhiều hình thức kiến trúc xưa theo phong cách Miền Nam cũng như là trong đợt trùng tu những năm 1900 đã tạo cho chùa diện mạo như hiện nay.
Hình thức ngôi chùa được thiết kế bao gồm tuần tự các công trình như sau: chánh điện, hậu tổ, quá đường là ba phần chánh, phía sau là nhà khách, nhà trù.
Chánh điện được thiết kế theo dạng nhứt căn hai chái kép, được mở hai cữa ra vô tại chái nhứt đông và nhứt tây, bên trên lợp ngói âm dương, đường nóc đi chỉ dạng hồi văn, bên trên phong nóc bằng các loại gốm tượng và lưỡng long tranh châu.
Phần căn giữa chánh điện tôn trí tượng đức Phật cao lớn, đặt trên bàn cao được thiết kế thành từng tầng bực theo hình phong cách xưa.
Lòng căn nhứt, nơi tôn trí tượng Phật được thiết kế hai bộ bao lam tinh xảo, bao lam hướng bắc chạm bốn chữ “Huỳnh kim điện thượng - 黃金殿上”, bao lam hướng nam chạm long vân, bên trên có hoành phi lớn thiếp vàng với bốn chữ là “Đại hùng bửu điện 大雄寳殿”, tiếp ngoài hàng hai có hoành phi đề “Giác Lâm tự 覺林寺”các trụ cột cái đều có kè liễn sơn thiếp rất mỹ nghệ.
Hai bên trái nhứt đông và nhứt tây lần lược tôn trí tượng ngài Quan âm bồ-tát và Đại thế chí bồ-tát, kế đó là hai đường đi để giao thông lên xuống chánh điện với hậu tổ. Trước mỗi bàn thờ cũng cho làm bao lam tại hàng cột nhứt phía nam. Hai bên ngăn cách với lỗi đi bởi bộ Bát bửu, lỗ bộ.
Cặp hai bên vách tường chánh điện là nơi bàn thờ của các vị như Thập điện Diêm vương, các vị A la hớn, và hai đầu ngoài an trí chuông trống bát-nhã. Đối diện với tượng Phật là tượng Hộ pháp được đặt quay mặt vào chánh điện.
Phía sau chánh điện là Tổ đường (tính từ hàng cột nhứt phía bắc), Tổ đường là nơi thờ các vị tổ khai sơn ngôi chùa, những vị tiền nhiệm đã góp phần tạo lập và phát triển chùa, được chia làm ba bàn thờ chánh, bên trên là những bức tranh phụng họa và long vị của các vị tổ sư.
Kế phần tổ đường là quá đường là nơi dành cho quí sư ăn ngọ, được sắp xếp thành những dãi bàn dài, hai bên vách là những dãi bàn thờ để cúng kiếng những Phật tử quá vãng.
Phần Chánh điện-Hậu tổ-Quá đường được thiết kế dính liền với nhau dạng sắp đội, tiếp theo đó là khu vực Hậu đường với hai dãi Nhà cầu nối liền tạo thành một không gian giếng trời- thiên tĩnh được thiết kế non bộ là khu vực lấy gió và lấy sáng, phần Hậu đường chia làm nhiều khu vực là nơi nghĩ ngơi, sanh hoạt của các vị sư và Phật tử.
Ngôi chùa Giác Lâm được coi như là một mẫu mực đại diện cho phong cách chùa Miền Nam với hệ thống bày trí, các khuông viên sanh hoạt, tuy ít nhiều chịu ảnh hưởng của hình thức kiến trúc Pháp đương thời nhưng ngôi chùa vẫn giữ được những hình thức kiến trúc truyền thống từ khung cây, cấu kiện kiến trúc, phương thức bày trí,… tạo cho ngôi chùa có một vẽ vừa truyền thống vừa tân thời.
---
Điện thoại cùi bắp nên hình hơi mờ nha...
📷 Tử Yếng | Nét đẹp miền Nam
Tử Yếng Lương Hoài Trọng Tính
Theo dõi tui nè:
🔍tiktok: luonghoaitrongtinhtuyeng
🔎ins: @tu_yeng_
#tuyeng
0 notes