#Thuấn Đế
Explore tagged Tumblr posts
Text
Có điều gì giữa Trương Quốc Vinh và Đường Hạc Đức khiến người ta ưu thương đến thế ?
Nguồn: Phôi Tả Tả Biên Tập và http://www.quegoo.com/qiche/
Dịch và chú thích: Hvloveyou ( Phần chữ nhỏ là chú thích của mình thêm vào để mọi người hiểu rõ hơn )
Bấm vào đây nếu muốn xem đủ hình ảnh trong từng giai đoạn ( Wordpress của mình )
Sáng sớm hôm nay, Đường Hạc Đức đã đăng một bức ảnh của Trương Quốc Vinh lên instagram như thường lệ với câu: lại nhớ cậu rồi. Hơn một tháng trước, vào đêm giao thừa Đường Hạc Đức cũng đã đăng bức ảnh mình chụp cùng Trương Quốc Vinh kèm lời chúc mừng năm mới, khiến vô số người thổn thức vì xúc động
Vào ngày 1 tháng 2 năm 2013, Đường Hạc Đức có bài đăng đầu tiên trên instagram: là một bức ảnh chụp cùng bằng hữu. Sau đó vào ngày Trương Quốc Vinh qua đời,sinh nhật, Tết Trung Thu hay năm mới, anh ấy đều sẽ đăng tải một bức ảnh của mình và Trung Quốc Vinh chụp cùng vào buổi sáng sớm, tựa câu hát – ” Dù có chia ly hai ta vẫn như đồng hành cùng nhau “
Cách đây bài giờ, Đường tiên sinh vẫn như thường lệ đăng tải một tấm ảnh cũ của ca ca với dòng chữ: ” Lại nhớ cậu rồi ! “
Ở đây Đường tiên sinh thường xuyên ghi lại những khoảnh khắc đặc biệt liên quan tới Trương Quốc Vinh. Biết Ca Ca rất thích giáng sinh, anh đã tự tay trang trí cây thông Noel rất đẹp vào năm ngoái. Năm trước, Đường tiên sinh tìm thấy một tấm áp phích cổ điển của Trương Quốc Vinh, đó là món quà mà anh tìm kiếm suốt mười năm. Đường Hạc Đức là một fan hâm mộ lớn của Kim Dung, năm 1995 Trương Quốc Vinh đến và xin chữ ký Kim Dung, sau đó tặng lại nó cho anh ấy. Năm 2018 khi Kim Dung qua đời, Đường tiên sinh đăng hình ảnh chữ kí này – Đường Hạc Đức: Heming Jiugao, ân đức đời đời
**Mình giải nghĩa một chút: theo tôi hiểu thì câu này kiểu như một câu chúc, vì heming jiugao là loại biểu tượng tượng trưng cho điềm lành, bắt nguồn từ ” Heming ở Jiugao, âm thanh vút cao trên bầu trời ” – chỉ loài hạc. Câu tiếp theo là gửi đến người kia, tôi dịch đời đời – từ được viết là ” tam thế ”
Dù Trương Quốc Vinh sinh thời hay đã mất, ba từ Đường Hạc Đức đối với nhiều người mà nói đều vô cùng quen thuộc, nhưng lại không có nhiều người hiểu hết về anh
Vậy rốt cục ấy là một người như thế nào ?
Một nữ nhà báo Nhật Bản Shima Chitose từng phỏng vấn Trương Quốc Vinh và anh đã nói về Đường Hạc Đức rằng: ” Thật ra anh ấy là một người dễ gần, không đặc biệt khách sáo, cũng không khiến cho người khác có cảm giác câu nệ. Bất kì nơi nào anh ấy ở đều sẽ luôn có cảm giác ấm áp. Ấy là một người đàn ông có thể tạo ra bầu không khí thật kỳ diệu “. Theo cô thì Đường Hạc Đức giống như một cơn gió thoảng giữa trần thế, thong thả mà ổn trọng, dựa vào bước tiến chính mình để làm những việc tiếp theo. Trái ngược với sự nhiệt tình tựa ” nước ấm tức thì ” và tính cách sôi nổi của Trương Quốc Vinh
Rất nhiều người bạn cũ của Trương Quốc Vinh rất thích làm bạn cùng đường Hạc Đức bởi vì: ” Anh ấy tốt ”
Năm 2001, Mao Thuấn Quân gặp Trương Quốc Vinh trong một chương trình. Hai người tựa vào ghế sofa, trò chuyện phiếm. Khi nhắc đến Đường Hạc Đức, cô gọi là ” Người ấy của anh ” và khen Đường Hạc Đức rất tốt. Đồng thời cô kể rằng khi vừa biết nửa kia của Trương Quốc Vinh là một người đàn ông, cô đã nghi ngờ vì không biết anh thế nào. Cho đến khi ở khu vườn phía sau Vancouver, Đường Hạc Đức đứng trên một con dốc, ấy là lần đầu tiên Mao Thuấn Quân nhìn thấy và cô liền biết anh ấy là người tốt
Mao Thuấn Quân khi đó cũng đã trêu chọc Trương Quốc Vinh rằng: ” Tất cả bạn bè của anh bây giờ còn thích anh ấy hơn thích anh, anh thấy sao ? ” Trương Quốc Vinh chỉ vui vẻ cười to
2.
Ban ơn
Cũng tại buổi trò chuyện cùng Mao Thuấn Quân, Trương Quốc Vinh nói khẽ: ” Thượng đế ban tặng anh ấy cho tôi “
Hai người họ biết nhau khi còn nhỏ, mẹ Trương Quốc Vinh là mẹ đỡ đầu của Đường Hạc Đức, và hai người thường xuyên chơi cùng nên trở thành bạn bè. Khi còn bé, Trương Quốc Vinh tương đối hiếu động, thường sẽ thắng khi hai người đánh nhau. Sau này, bọn họ gặp lại tại khách sạn Regent ở Hongkong. Trương Quốc Vinh từng miêu tả Đường Hạc Đức có dáng dấp ” sống mũi thẳng tắp và các đường nét đoan chính rõ ràng “, trong khi anh nói bản thân ” khuôn mặt phẳng, rất không cân đối “
Đối với Trương Quốc Vinh mà nói, Đường tiên sinh vừa là người yêu, vừa là tri kỉ. ” Ở chỗ anh ấy, tôi có thể nói bất cứ điều gì. Anh ấy như người anh em trai của tôi vậy “. Trong mọi lần phỏng vấn, Trương Quốc Vinh đều gọi Đường tiên sinh với từ thân thiết nhất là ” Người ấy của tôi “, ” Chúng tôi nói ít nhất một cuộc điện thoại mỗi ngày “.
Năm 1996, mẹ Trương mắc bệnh ung thư và sắp không qua khỏi. Tháng 1 năm 1997, Trương Quốc Vinh đã đau lòng hát Ánh trăng nói hộ lòng tôi tại một buổi hòa nhạc, dành tặng cho mẹ và Đường Hạc Đức, ” hai người tôi yêu nhiều như sinh mệnh “. Trong lần trò chuyện nọ, Trương Quốc Vinh nhắc đến việc Đường tiên sinh đã vay một khoản tiền lớn để giúp anh vào thời điểm khó khăn nhất cuộc đời. Sự việc trong quá khứ ấy Trương Quốc Vinh luôn ghi nhớ và kể lại rất nhiều lần. Khi đó, Đường tiên sinh không nói gì mà chỉ tìm cách có được món tiền tương đương với nhiều tháng lương của anh để đưa cho Trương Quốc Vinh. Sau này, Trương Quốc Vinh mới nghe rằng mỗi ngày anh ấy chỉ ăn cơm trưa đóng hộp rẻ nhất trong nhiều tháng. ” Khi khó khăn nhất, bằng hữu đối với tôi tốt như vậy, chỉ có anh ấy thôi “
Đường Hạc Đức từng là giám đốc điều hành của một ngân hàng ở Hongkong, vào năm 1997 khi công khai chuyện tình cảm với Trương Quốc Vinh, rất nhiều phóng viên săn ảnh đã canh giữ và quấy rối ngân hàng nơi anh làm việc. Sau đó, Đường tiên sinh từ chức, chuyên tâm làm quản lý cho Trương Quốc Vinh. Trương Quốc Vinh thường hay bảo mình không có khái niệm về tiền bạc, cũng không biết quản lý, nhưng cậu ấy đã có Đường tiên sinh rồi
Còn về tính cách dễ nổi nóng của Trương Quốc Vinh, Đường tiên sinh luôn đặc biệt dịu dàng, khiến cho cậu ấy bình tĩnh trở lại. Đường tiên sinh cùng Trương Quốc Vinh đi du lịch Nhật Bản và tổ chức concert, có một tay săn ảnh đuổi theo khiến Trương Quốc Vinh ngồi trong xe rất căng thẳng và liên tục cáu gắt, Đường tiên sinh ở bên cạnh an ủi rằng ” qua khỏi giao lộ này sẽ ổn thôi “, Trương Quốc Vinh lập tức an tĩnh hơn rất nhiều, cũng không lên tiếng nữa
Dù là quản lý tài chính hay hoạt động nghệ thuật, Đường Hạc Đức đều trở thành chỗ dựa vững chắc nhất của Trương Quốc Vinh. Đôi khi Trương Quốc Vinh đang trong một buổi hòa nhạc, Đường Hạc Đức ngồi sau hậu trường và âm thầm phân chia thư của người hâm mộ: cắt mỗi chữ cái cách mép thư khoảng 2mm bằng kéo để mở một lỗ gọn gàng, lấy thư ra và gấp thành một nếp, cũng đem xếp thành từng chồng để Trương Quốc Vinh cầm lên liền có thể đọc ngay. Những tấm bưu thiếp có chữ ký và phong bì gửi lại được đặt vào hộp trống cạnh bên
Shima Chitose từng làm việc cùng họ một khoảng thời gian. Trong mắt cô, chỉ vài từ Đường tiên sinh thốt ra, có thể khiến Leslie cười rạng rỡ. Mỗi khi Đường tiên sinh nói điều gì đó, Leslie thường cúi xuống cười đến mức phải ho khan và ôm bụng thở
Eileen Cha từng hỏi ba người quan trọng nhất trong cuộc đời Trương Quốc Vinh, nhưng kỳ thực chỉ có hai người, thứ nhất là mẹ, thứ hai chính là Đường tiên sinh
3.
” Cậu mười có chú, thật hạnh phúc “
Nhưng điều đau lòng nhất đã xảy ra
Ngày cá tháng tư năm 2003, Trương Quốc Vinh bởi vì không chịu nổi căn bệnh trầm cảm tra tấn, nhảy xuống từ khách sạn Hongkong Mandarin để kết liễu đời mình
Xung quanh cái chết của Trương Quốc Vinh, có nhiều tin đồn lan ra từ giới truyền thông, không chỉ ở Hongkong, còn có Nhật Bản. Ngoài việc nói anh để lại hai bức thư tuyệt mệnh, cũng không ít người còn cho rằng Trương Quốc Vinh vì mối quan hệ với Đường Hạc Đức tan vỡ nên mới đau đớn qua đời
Rạng sáng ngày 2 tháng 4, Đường Hạc Đức mở cửa bước ra với bộ dáng bi thương, khuôn mặt đầy nước mắt. Vẫn còn mặc chiếc áo choàng tắm màu trắng và đối diện với phóng viên ở cửa, anh bình tĩnh nói rằng Ca Ca không tự sát vì đau buồn như những tin đồn, chuyện tình cảm của họ chưa bao giờ thay đổi, Ca Ca là người rất quan tâm đến sự nghiệp của mình nên hi vọng rằng các phóng viên sẽ dành lời lẽ tốt đẹp cho cậu ấy
Tuy nhiên một số phóng viên vẫn hỏi: ” Đến giờ phút này anh còn yêu Ca Ca không ? “. Nghe xong lời này, anh Đường vốn luôn bình tĩnh, bấy giờ nghẹn ngào hỏi lại: ” Giờ phút này ? Tại sao chỉ có mỗi giờ phút này “
Theo hồi ức của Đường Hạc Đức, cơ thể Trương Quốc Vinh trở nên bất thường là sau khi quay bộ phim Dị độ không gian vào tháng 3 năm 2002. Tiếp sau, một mặt bệnh tiêu hóa trở nên trầm trọng hơn, thường xuyên đau dạ dày và trào ngược dịch vị, mặt khác, Trương Quốc Vinh thường xuyên mất ngủ, gặp ác mộng hàng đêm, hay bị ảo giác thị giác và thính giác, luôn cảm thấy có kẻ bức bách mình
Để giúp Trương Quốc Vinh vui vẻ, Đường Hạc Đức – người luôn không thích chơi bài, đã tìm người đến cùng cậu ấy chơi bài, nhưng bọn họ thường ra về giữa chừng vì Trương Quốc Vinh phát bệnh, Đường Hạc Đức nài nỉ từng người một quay lại chơi cùng
Đường Hạc Đức đã cùng Trương Quốc Vinh đi tìm Thẩm Điện Hà xin giúp đỡ, vì anh cảm thấy Thẩm Điện Hà đã trải qua nhiều chuyện buồn, nhưng vẫn giữ lạc quan vui vẻ, hi vọng vài câu nói của cô có thể giúp được Trương Quốc Vinh. Về sau Thẩm Điện Hà hay hẹn bọn họ ăn cơm, chơi bài, tận lực làm cho Trương Quốc Vinh tạm thời quên đi chuyện không vui
Theo tin tức mà truyền thông đưa ra, trong bảy ngày sau khi Trương Quốc Vinh qua đời, ban ngày Đường tiên sinh đều bình tĩnh và bận rộn chuẩn bị mọi việc cho tang lễ của Ca Ca trang trọng nhất. Nhưng một số tay săn ảnh phát hiện sau nửa đêm, Đường tiên sinh sẽ mặc quần áo thi đấu, mang theo vợt cầu lông, lặng lẽ ra ngoài và đi vào hội trường
Kỳ thực, trước đây Đường Hạc Đức là tuyển thủ chính của đội bóng rổ trong trường, nhưng Trương Quốc Vinh rất thích chơi cầu lông, sau hai người ở bên nhau thì Đường tiên sinh cũng chuyển sang chơi cầu lông. Bài hát ” 我知你好 “, câu " Vì em mà học điều mình không ham thích " chính là Trương Quốc Vinh bày tỏ lời cảm ơn đến Đường Hạc Đức
Trong ba tháng đầu năm 2003, Trương Quốc Vinh dường như đã sớm chuẩn bị cho cái chết, luôn cùng Đường Hạc Đức chơi bóng, ăn cơm, xem kịch, cũng liên tục bị phóng viên bắt gặp. Lần cuối cùng Trương Quốc Vinh xuất hiện lần cuối trước công chúng là ngày 20 tháng 3 năm 2003, khi anh đến nhà hát Chuông Vàng để xem bộ phim The Pianist với Đường tiên sinh. Trương Quốc Vinh căn dặn riêng với Trần Thục Phân: “ Anh Đường đã rất gầy vì bệnh của tôi…. Nếu như có một ngày tôi rời đi, chị nhớ chăm sóc anh ấy thật tốt thay tôi. “
Vào ngày 1 tháng 4, Đường Hạc Đức đã hẹn Trương Quốc Vinh chơi cầu lông, trước khi đi dặn anh đừng lái xe nhiều lần, sau khi trà chiều cùng Trần Thục Phân xong sẽ đến đón anh cùng đi đánh cầu. Nhưng vẫn là chậm một bước không đợi được, Trương Quốc Vinh đã hỏi xin người phục vụ một tờ giấy ăn, viết xuống những lời cuối cùng: ” Deppression!!, cảm ơn những người bằng hữu, cảm ơn giáo sư Mạch Liệt Phi Phi. Một năm qua đã quá vất vả rồi, tôi không thể tiếp tục chịu đựng, cảm ơn anh Đường, gia đình và chị Fei. Tôi chưa từng làm điều gì xấu trong đời, cớ sao lại thế này ? “
**Mình xin chú thích: Mạch Liệt Phi Phi là Felice Lieh – Mak, bác sĩ tâm lý cuối cùng của Trương Quốc Vinh. Chị Fei là Thẩm Điện Hà ( Trương Quốc Vinh nhắc Fei, không phải Fat – Trần Thục Phân như một số thông tin trên mạng )
Trên cáo phó, tên của Đường Hạc Đức xuất hiện đầu tiên, đề ” Chí ái “. Trong nhà tang lễ, vòng hoa do Đường Hạc Đức đặt lên, câu đối phúng điếu viết:
” Đêm tĩnh lặng gần tàn, ai cùng tỏ. Thiên trường địa cửu có lúc tận, tình yêu này còn mãi không thôi “
Trương Quốc Vinh đã lập di chúc, để lại tài sản cho Đường Hạc Đức và một số người khác, một phần quyên vào quỹ từ thiện. Người giúp việc và tài xế thân cận đều do anh tự mình thu xếp
Đường Hạc Đức đã nén đau buồn để tổ chức tang lễ vào thời điểm đó. Tại tang lễ, cháu gái của Trương Quốc Vinh là Mạch Gia Hiên cũng bày tỏ với Đường tiên sinh rằng:
” Chú Đường, cậu của cháu đã luôn trân trọng đoạn tình cảm này. Cậu ấy nói rằng đã cùng chú vượt qua bao gian khổ, một năm qua cháu cũng nhìn rõ thế nào là tình yêu đích thực. Chú đối với bệnh của cậu mười không rời đi, không bỏ mặc, ngày lại đêm chăm sóc cậu. Chú Đường, cháu thay cậu mười cảm ơn chú! Cậu mười có chú, thật hạnh phúc. Bất luận chúng cháu thương tâm thế nào cũng không sánh bằng với chú, cháu tin rằng khi bất đắc dĩ rời đi, người mà cậu không yên lòng nhất chính là chú “
Nhìn vào bức chân dung của Trương Quốc Vinh, Đường tiên sinh liên tục khóc gọi ” A Tử, A Tử “, cánh tay trái hạ xuống vô thức làm động tác ” OK “. Trong bộ phim Chung tình vì em do Trương Quốc Vinh đóng năm 1985, cử chỉ ” OK ” có ý nghĩa là ” I love you “. Trương Quốc Vinh cũng đã nhiều lần sử dụng hành động này gửi đến tình yêu với người hâm mộ và Đường tiên sinh trong concert
Khi đưa linh cữu của Trương Quốc Vinh đến nơi hỏa táng, Đường Hạc Đức đích thân bấm nút với bàn tay run rẩy, sau đó linh cữu của Trương Quốc Vinh lập tức được đưa vào lò hỏa táng
4.
Bi thương chồng chất
Đoạn thời gian dài sau khi Trương Quốc Vinh qua đời, Đường Hạc Đức về sống khép mình ở căn nhà cũ số 32A tại núi Na Giản, không ra khỏi nhà. Quản lý cũ của Trương Quốc Vinh thường đến nấu ăn, mang một vài vật dụng thiết yếu hàng ngày cho anh. Nhưng phần lớn thời gian anh đều im lặng, bạn bè cũng không dám nhắc đến Trương Quốc Vinh
Không còn Trương Quốc Vinh bên cạnh, cuộc sống của Đường tiên sinh tịch mịch hơn rất nhiều. Thường khi màn đêm buông xuống, anh sẽ dắt chú chó tên Bingo đi dạo – cô đơn chiếc bóng. Năm đó khi Trương Quốc Vinh trở về Hongkong sau khi quay xong Bá Vương Biệt Cơ, anh đã xin một chú chó giống chăn cừu Đức từ nhà chị cả – Trương Lục Bình về, đặt tên là Bingo
Năm 2010, Bingo qua đời vì tuổi cao, chỉ còn lại Đường tiên sinh ở đó. Về sau, anh rời khỏi nhà cũ và mang theo tro cốt của Trương Quốc Vinh đến sống ở khu Tai Tam. Cách đó không xa là nhà của chị cả Trương Quốc Vinh – Trương Lục Bình
Anh ấy vẫn dùng chiếc xe mang biển số ” DC339 ” ( tiếng Quảng Đông có nghĩa là Đường – Trương đời đời kiếp kiếp ). Anh vẫn thích đánh cầu lông, một tuần bốn lần. Trước khi dịch bệnh xảy ra, anh vẫn hay đến các thành phố ở đại lục để tham gia thi đấu, gặp gỡ những người hâm mộ và còn chụp ảnh lưu niệm với họ
Mang theo nỗi thống khổ khi mất đi người mình yêu, Đường Hạc Đức vẫn luôn âm thầm bảo vệ và tưởng nhớ người ấy. Trong nhiều năm qua, anh chủ yếu xuất hiện trong các sự kiện liên quan đến Trương Quốc Vinh, và trước khi tổ chức, Trần Thục Phân chắc chắn sẽ hỏi qua ý kiến của anh ấy
Ngay sau tang lễ, Đường Hạc Đức đã kiện Lương Vinh Tuấn – nhà sản xuất âm nhạc của Universal Records ra tòa. Bởi vì Trương Quốc Vinh thu âm bản cuối cùng trước khi qua đời nhưng vì bệnh tật và thể trạng rất kém nên anh luôn không hài lòng về chất lượng, thêm nữa nhiều từ ngữ trong phần lời quá u ám, anh muốn nghĩ thêm và chỉnh sửa lại. Nhưng phía công ty vì muốn lợi dụng sức nóng khi ấy, vẫn mang album Hãy để tất cả theo gió cuốn đi ( Everything Follows the Wind – 一切随风 ) phát hành và thu về rất nhiều tiền. Vụ kiện kết thúc, phía Đường Hạc Đức thua kiện
*Người dịch nói một chút: ở chỗ này tôi ghi chú rõ thêm cả tên tiếng anh và tên gốc của album, vì mong mọi người nếu yêu thích Ca Ca thì chọn không nghe. Cũng có lẽ tính tôi quá cực đoan, nhưng vào năm 2003, album này phát hành và bán hết gần 200.000 bản, đạt giải thưởng doanh số kỉ lục IFPI, mang về vô số tiền bạc và lợi ích mà tôi nghĩ những lợi ích ấy là thứ mà một người cầu toàn trong công việc như Ca Ca chưa bao giờ mong muốn
Tuy nhiên, đây là ý muốn cá nhân, vẫn tùy ở mọi người
Ngày 1 tháng 5, năm 2003, Đường Hạc Đức cùng gia đình và bạn bè tham dự buổi chiếu phim tựa đề ” Phong ưu vô hạn, ánh sáng và bóng tối của Trương Quốc Vinh ” do hiệp hội điện ảnh Hongkong tổ chức. Đây là lần xuất hiện trước công chúng đầu tiên của Đường tiên sinh sau khi Trương Quốc Vinh mất
Khi đó, Đường Hạc Đức mặc âu phục màu đen, vóc dáng gầy đi không ít. Trong số chín bộ phim, Đường tiên sinh gợi ý Liệt hỏa thanh xuân. Vì Trương Quốc Vinh luôn cho rằng đây là bộ phim đầu tiên trong đời mình. Nhưng trước khi buổi chiếu kết thúc, anh và gia đình đã rời khỏi đó
Để tưởng nhớ một năm ngày mất, vào 1 tháng 4 năm 2004, tượng sáp của Trương Quốc Vinh đã được trưng bày tại Bảo tàng Hongkong. Đường Hạc Đức đã rất lo lắng về điều này và đã tự tay chọn bộ quần áo trong Bá Vương Biệt Cơ cho sự xuất hiện của Ca Ca.Trên sân khấu, anh ngây người nhìn tượng sáp, nói vài lời cảm ơn. Sau lễ ra mắt, Đường tiên sinh không về nhà trực tiếp mà đi đường vòng đến khách sạn Hongkong Mandarin
**Đây là khách sạn mà Trương Quốc Vinh đã tự sát
Trong lễ trao giải Kim Tượng, Lương Triều Vỹ trao tặng Giải thưởng vinh quang vĩnh cửu, và Đường tiên sinh thay mặt Trương Quốc Vinh lên sân khấu nhận giải. Dưới ánh đèn, vẻ mặt an tĩnh như thường lệ, chỉ nói một câu: ” Cảm ơn sư huynh, cảm ơn mọi người, cảm ơn mọi người “. Bắt tay Lương Triều Vỹ xong, liền đi xuống
Sau đó trong mười năm, Đường tiên sinh không xuất hiện hay tham gia bất kỳ hoạt động nào
Cho đến ngày 30 tháng 3 năm 2013, Trần Thục Phân đề nghị tổ chức triễn lãm ” Tiếp tục yêu thương Trương Quốc Vinh mười năm “. Đường tiên sinh ngoại lệ có mặt, nhưng trước công chúng vẫn chỉ nói mười từ đơn giản: ” Cảm ơn tất cả mọi người, cô Trần, cảm ơn “
Trong buổi phỏng vấn, Trần Thục Phân nghẹn ngào rất lâu và cho hay khi chuẩn bị sự kiện này, cô cảm thấy đau lòng: ” Mười năm qua tất cả mọi người đều vất vả, lần này cũng chẳng biết được hay không mà đánh tiếng ở chỗĐường tiên sinh “. ” Đường tiên sinh cho mượn vài đồ vật và ảnh chụp của Ca Ca lúc sinh thời, anh ấy còn gửi đến những con hạc giấy lớn màu đỏ tự mình chuẩn bị cho buổi triển lãm “
Vào ngày thứ hai, tiếp tục nhạc hội yêu thương mười năm, bạn bè Trương Quốc Vinh biểu diễn những ca khúc kinh điển của anh lúc sinh thời, Đường tiên sinh ngồi dưới khán đài, hốc mắt ướt đỏ. Ca khúc cuối cùng là Ánh trăng nói hộ lòng tôi, trên sân khấu rộng lớn, không có diễn viên, chỉ độc ánh đèn chiếu vào chiếc ghế trống ở giữa. Tiếng đệm đàn đơn giản mà chậm rãi, những khán giả hát theo, màn hình chiếu cảnh Đường Hạc Đức mượn lời Tô Thức dành cho người vợ đã khuất của ông ( lời thơ Giang Thành Tử trong ngoặc vuông ) để nói lên suy nghĩ của mình:
" [ Mười năm sống chết xa cách vô biên
không dám nghĩ đến nhưng vẫn không quên được ]
Ngày cũng như đêm, cuộc sống vô thường, chỉ riêng tình yêu là vĩnh cửu. Chúng ta hãy tiếp tục yêu thương Trương Quốc Vinh “
Bài hát kết thúc, ánh đèn mờ dần, chỉ còn lưu lại một tia sáng ở bên kia, có buổi lẽ tối hôm đó Ca Ca đã hiện hữu đứng nhìn
Đêm ấy, trong tiết mục của Dj Vân Ny, Đường tiên sinh đã mua hai bài hát: một là Người nơi đâu dành tặng cho Ca Ca, và bài còn lại là Cùng nhau, tặng cho người hâm mộ
Trong lễ tưởng nhớ mười năm, Đường Hạc Đức viết một bức thư ngỏ gửi đến mọi người thông qua tờ Minh Báo Tuần San. Trong thư anh cho biết khi vì quá thương tâm, nên bay sang Mỹ để trốn tránh hiện thực và nghĩ rằng cách ấy giúp quên đi nỗi đau:
” Nỗi đau khắc cốt ghi tâm sẽ không vì thời gian và không gian mà phai nhạt bớt. Năm tháng trôi đi, vết thương cuối cùng đều liền lại, nhưng vẫn là dấu sẹo chồng chất lên nhau ”
5.
Hoàn mỹ
Những năm này, Đường tiên sinh sống giản dị, chơi bóng và ăn tối cùng bạn bè
Eileen Cha nói mình thường xuyên nhìn thấy anh ấy đến khách sạn Peninsula, đó là khách sạn Trương Quốc Vinh rất thích lúc sinh thời.
Khi gặp nhau, Đường tiên sinh thường không nói gì, chỉ nhẹ nhàng gật đầu chào người khác. ” Anh ấy đã cố hết sức để giữ mọi thứ như cũ, cuộc sống cũng như con người, anh ấy không hi vọng người khác thấy mình tiều tụy ”
Đường tiên sinh cũng có một nhóm bạn rất thân, hầu hết đều là bạn của Trương Quốc Vinh, họ thường đến nhà trò chuyện và chơi mạt chược
Anh ấy hay đến thăm vợ chồng Trương Học Hữu, thi thoảng cùng Lưu Gia Linh gặp nhau và chụp ảnh chung dưới tán đào. Năm xưa sau khi bị bắt cóc, Trương Quốc Vinh đã giới thiệu cho Lưu Gia Linh rất nhiều cửa hàng bán hoa đào
Trương Quốc Vinh từng là hậu bối mà nữ diễn viên kinh kịch Quảng Đông nổi tiếng Bạch Tuyết Tiên ( chị Tiên ) rất yêu thương, chị Tiên có quy định không gặp khách trước 3 giờ chiều nhưng với Trương Quốc Vinh thì ngoại lệ. Ba người họ hay uống trà chiều, dạo phố và chụp ảnh, Trương Quốc Vinh luôn khiến chị Tiên rất vui vẻ. Sau khi Trương Quốc Vinh qua đời, Đường tiên sinh vẫn như cũ, tham dự bữa tiệc sinh nhật của Chị Tiên, nâng ly chúc mừng
Năm 2019, sinh nhật lần thứ 60 của mẹ Mạc Văn Úy, cô cũng mời Đường Hạc Đức đến dự. Khi Mạc Văn Úy mới vào nghề, Trương Quốc Vinh đã nhiệt tình giúp đỡ và xem cô như em gái. Trong bữa tiệc sôi động, Đường tiên sinh gặp lại Uông Mạn Linh và nhóm bạn. Khi chụp ảnh chung sẽ ôm các bằng hữu – đây là động tác yêu thích của tiên sinh
Nhiều năm trôi qua, Đường Hạc Đức cũng lần lượt chia tay những người bạn của Trương Quốc Vinh
Tháng 12 năm 2013, Mai Diễm Phương qua đời vì ung thư cổ tử cung. Cô từng là bạn diễn thân thiết nhất của Trương Quốc Vinh. Vẫn chưa thoát khỏi buồn đau bởi sự ra đi của Ca Ca, anh đến dự đám tang Mai Diễm Phương, kính vòng hoa với dòng chữ ” Nhất đại thiên kiều ” để bày tỏ thành ý sâu sắc, anh cũng xuất hiện ở nhà tang lễ để thay Ca Ca chia buồn
Một năm sau, Hoàng Triêm qua đời. Trong lễ tưởng niệm đã phát ” Tình yêu trong quá khứ ” của Trương Quốc Vinh.
Đường Hạc Đức và Trần Thục Phân ngồi bên dưới khóc rất nhiều. Đường tiên sinh rời khỏi đó trước khi bài hát kết thúc
Những người bạn tốt của Trương Quốc Vinh như Thẩm Điện Hà, Louwen lần lượt qua đời.
Ngày 25 tháng 11 năm 2017, chị cả Trương Lục Bình của Trương Quốc Vinh cũng qua đời vì bạo bệnh. Tại lễ truy điệu, Đường Hạc Đức lo hậu sự như người thân trong gia đình, thay Trương Quốc Vinh đưa tiễn người chị yêu thương một đoạn đường
Sau đó người anh thứ bảy của Trương Lục Bình mất, Đường Hạc Đức cũng đến. Họ đứng trong bệnh viện nhiều giờ nhìn anh lần cuối. Đường Hạc Đức đã luôn túc trực bên cạnh
Nhiều năm sau, Trần Thục Phân đặt bài vị của Trương Quốc Vinh, Thẩm Điện Hà, Louwen cạnh nhau, với điều ước giản đơn: ” Tôi hi vọng rằng ở một thế giới khác, họ sẽ bên nhau và không cô độc “
Tất thảy những điều này, đối với Trương Quốc Vinh dù lúc sinh thời hay sau khi mất, Đường Hạc Đức gần như là một người yêu hoàn hảo. Sau sự ra đi của Trương Quốc Vinh, cái hoàn hảo ấy nối liền với anh mười tám năm qua, vẫn một thân một mình và chưa từng bắt đầu một mối quan hệ nào mới. Về mặt này, xấu hay tốt thì Đường tiên sinh là một người tự do, bất luận anh ấy có tình cảm mới hay không cũng chẳng chút ảnh hưởng nào, năm tháng dài đằng đẵng như thế, đối với Trương Quốc Vinh – anh ấy đã làm hết những điều hoàn mỹ rồi
Vào ngày 5 tháng 2 năm nay, người đại diện cũ của Trương Quốc Vinh – Trần Thục Phân, đã chia sẻ bức ảnh chụp mình cùng gia đình và Đường Hạc Đức trong ngày sinh nhật, kèm lời chúc: ” Chúc sức khỏe Đường tiên sinh, sanh thần vui vẻ”. Trước ống kính, Đường tiên sinh vẫn nụ cười ấm áp nho nhã, chỉ thay đổi là hai bên tóc mai đã nhuốm hoa râm rồi, đuôi mày cũng có nếp nhăn
Năm nay Đường Hạc Đức đã 62 tuổi, anh cho biết hiện tại mỗi ngày sống thật tốt, bởi vì anh tin rằng đây là sự hồi đáp tốt nhất dành cho người mình thương yêu
57 notes
·
View notes
Text
Khánh Dư Niên HD Vietsub Thuyết Minh
Giới Thiệu Phim
- Quốc Gia: Phim Trung Quốc - Đạo Diễn: Tôn Hạo - Diễn Viên: Lý Thẩm, Lý Thuấn, Tân Chỉ Lôi, Tiêu Chiến, Tống Dật, Trần Đạo Minh, Trương Nhược Quân - Thể Loại: Phim Cổ Trang, Tâm Lý, Tình Cảm, Võ Thuật
Phim Khánh Dư Niên HD Vietsub Thuyết Minh
Khánh Dư Niên HD Vietsub Thuyết Minh Khánh Dư Niên (Joy Of Life) được chuyển thể từ tiểu thuyết nổi tiếng cùng tên của tác giả Miêu Nị, lấy bối cảnh những năm cuối thời Đông Tấn, tướng quốc công Lưu Dụ soán vị Khánh Đế và trở thành Vũ Đế. Trong cuộc chiến đẫm máu đó, chỉ có duy nhất một cậu bé do hoàng phi Diệp Khinh Minh sinh ra may mắn thoát nạn. Thượng thư Phạm Kiến đem đứa nhỏ về thu dưỡng, đặt tên là Phạm Nhàn. Phạm Nhàn năm 18 tuổi, bắt đầu bị cuốn vào tranh giành mưu quyền trong cung, đồng thời cũng trở thành vị quan tài ba giải quyết nhiều vụ án nan giải. Một lòng một dạ trung thành với Vũ Đế, nhưng đến khi biết Vũ Đế chính là kẻ hại chết phụ mẫu của mình, tước đi mọi thứ vốn thuộc về mình, Phạm Nhàn quyết tâm báo thù cho cha mẹ. Không chỉ vì mối thù cá nhân, Phạm Nhàn còn quyết tâm chống lại chính sách tàn bạo độc đoán của Vũ Đế vì chính lòng thương với bách tính muôn dân. Read the full article
#cafephim#FullHD#JoyOfLife#JoyOfLifethuyetminh#JoyOfLifevietsub#KhánhDưNiên#KhánhDưNiêncafephim#KhánhDưNiênhd#KhánhDưNiênHDVietsub#KhánhDưNiênphụđề#phimcafephim#PhimKhánhDưNiên#PhimKhánhDưNiênHDVietsub#XemphimKhánhDưNiênvietsub
0 notes
Text
Ý NGHĨA CÁC CON SỐ TRONG PHONG THỦY
Số 1 – Số sinh
Theo dân gian, số 1 là căn bản của mọi sự biến hóa, là con số khởi đầu, luôn đem lại những điều mới mẻ, tốt đẹp, đem tới 1 sinh linh mới, 1 sức sống mới cho mọi người, con số của các vị thần thánh, của hoành đồ. Được hiểu như là con trai của cõi trời. Số 1 tượng trưng cho cái đỉnh tối thượng – đỉnh núi cao độc nhất không còn ai khác.
Số 2 – Con số của sự cân bằng
Tượng trưng là một cặp, một đôi, một con số hạnh phúc (song hỷ) và điều hành thuận lợi cho những sự kiện như sinh nhật, cưới hỏi, hội hè. Số 2 tượng trưng sự cân bằng âm dương kết hợp tạo thành lưỡng nghi hay là nguồn gốc của vạn vật. Các câu đối đỏ may mắn thường được dán trước cửa nhà cổng chính vào dịp đầu năm mới.
Số 3 – Con số Thần bí
Là con số vững chắc, phong thủy dùng nhiều lĩnh vực số học trong việc bài trí các đồ vật, và con số 3 là số đặc biệt hữu dụng cho việc tăng thêm vẻ vững chắc và sự hài hòa của môi trường.
Số 4 – Nhiều quan điểm khác nhau
Là sự hình thành của hai đôi. Hai cặp chắc hẳn phải tốt lành, thuận lợi nhưng trong cách phát âm tiếng Trung Quốc nó giống như chữ “tử” (chết). Vì thế sự kết hợp này không được tốt đẹp lắm. Thuật phong thủy tìm cách tránh bất cứ sự bài trí có liên quan đến con số bốn.
Trong dân gian Việt Nam, con số 4 lại được sử dụng khá nhiều, biểu trưng cho những nhận định:
– Về hiện tượng thiên nhiên: Tứ phương (Ðông, Tây, Nam, Bắc). Thời tiết có bốn mùa (Xuân, Hạ, Thu, Đông). Bốn cây tiêu biểu cho 4 mùa (Mai, Lan, Cúc, Trúc).
– Về hiện tượng xã hội: Ngành nghề, theo quan niệm xưa có tứ dân (Sĩ, Nông, Công, Thương). Về nghệ thuật (Cầm, Kỳ, Thi, Họa). Về nghề lao động (Ngư, Tiều, Canh, Mục). Tứ thi (Ðại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử). Tứ bảo của trí thức (Giấy, Bút , Mực, Nghiên). Tứ đại đồng đường (Cha, Con, Cháu, Chít)
– Về con người: Người ta quan niệm về trách nhiệm của một công dân (Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ). Về đạo đức của con người (Hiếu, Lễ, Trung, Tín). Ðối với phái nữ : (Công, Dung, Ngôn, Hạnh). Tứ bất tử (Thần, Tiên, Phật, Thánh). Tứ linh (Long, Ly, Qui, Phượng). Tứ đổ tường (Tửu, Sắc, Tài, Khí).
Số 5 – Điều bí ẩn (cũng là số sinh)
Số 5 có ý nghĩa huyền bí xuất phát từ học thuyết Ngũ Hành. Mọi sự việc đều bắt đầu từ 5 yếu tố. Trời đất có ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) – Người quân từ có ngũ đức (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín) – Cuộc sống có ngũ phúc (Phú, Quý, Thọ, Khang, Ninh) – Ngũ đế (Phục Hy, Thần Nông, Huỳnh Đế, Nghiêu, Thuấn) –Ngũ luân (Vua tôi, Cha con, Vợ chồng, Anh em, Bạn bè) – Ngũ phương(Đông Tây Nam Bắc và Trung Tâm).
Số 5 cũng là sự kết hợp với căn nhà bằng vàng, nắm giữ thịnh vượng và hạnh phúc cho mỗi gia đình. Số 5 là con số tuyệt vời dùng trong bài trí phong thủy.
Số 6 – 8: Con số thuận lợi và vận may
Số 6 và 8 theo người Trung Hoa thì sẽ đem tới thuận lợi về tiền bạc và vận may cho người dùng nó, vì bên cạnh tục đoán mệnh của con người (số 8 là số phát – mệnh lớn, số 6 là số lộc ), thì lối viết số 8 có hai nét đều từ trên xuống giống kèn loe ra, giống như cuộc đời mỗi con người, càng ngày càng làm ăn phát đạt. Số 6 với 1 nét cong vào thân, ý như lộc sẽ luôn vào nhà. Ngoài ra lục giác còn được đánh giá là khối vững chãi nhất. Con ong thường làm tổ theo khối lục giác, Lục căn (Mắt, Mũi, Tai, Lưỡi, Da, Tư tưởng), Lục long, Lục thân (Cha, Mẹ, Vợ, Con, Anh chị, Em). Số 8 còn biểu tượng cho 8 hướng, bát quái, bát âm, bát tiên, bát bảo.
Số 7 – Số ấn tượng
Theo đạo Phật số 7 có ý nghĩa là quyền năng mạnh nhất của mặt trời. Những người theo đạo Phật tin rằng trong suốt tháng 7 (âm lịch) tất cả linh hồn trên thiên đường và địa ngục sẽ trở lại dương gian. Con số 7 còn tượng trưng cho sự thành tựu sinh hóa cả vũ trụ không gian là đông, tây, nam, bắc; thời gian là quá khứ, hiện tại, tương lai. Thất bảo (Vàng, Bạc, Lưu ly, Pha lê, Xa cừ, Trân châu, Mã não). Thời cổ cho rằng có 7 mặt trời hoạt động xung quanh và chiếu sáng cho trái đất, loài người nhận thức có 7 tầng trời khác nhau, cùng với 7 sắc cầu vồng tạo nên ấn tượng mạnh mẽ của số 7. Số 7 đem lại sức sống cho vạn vật, đem lại ánh sáng và hy vọng cho loài người.
Số 9 – Biểu trưng cho sức mạnh và quyền uy Từ xưa số 9 luôn được coi như là biểu trưng của sự quyền uy và sức mạnh: Ngai vua thường đặt trên 9 bậc, vua chúa thường cho đúc cửu đỉnh (9 cái đỉnh) để minh họa cho quyền lực của mình. Trong dân gian số 9 được gắn cho sự hoàn thiện đến mức dường như khó đạt “Voi 9 ngà, Gà 9 cựa, Ngựa 9 hồng mao”. Số 9 trong toán học còn được phân tích với rất nhiều lý thú và gắn nhiều với truyền thuyết lịch sử. Đặc biệt hơn cả, số 9 được sùng bái, tôn thờ và gần như trở thành 1 triết thuyết cho các triều đại ở Trung Quốc và Việt Nam từ sự ảnh hưởng của kinh dịch là dựa trên thuật luận số.
#gocchiase
#chuyentamlinh
#tamlinhvacuocsong
#vongphongthuy
#vongtramhuong
0 notes
Text
TBS GROUP
Bài viết mới nhất: https://hanhomesno08maichitho.com/tbs-group/
TBS GROUP
Tổng quan chủ đầu tư: Công Ty Cổ Phần Đầu Tư Thái Bình – TBS Group được thành lập từ năm 1989, hoạt động trong nhiều lĩnh vực, trong đó có bất động sản (TBS Land). TBS Group được sáng lập bởi ông Nguyễn Đức Thuấn – Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn đồng thời là người làm việc trong Hội đồng tiền lương quốc gia.
TBS Land là mảng kinh doanh, đầu tư, phát triển bất động sản của Tập đoàn TBS Group được thành lập từ năm 2000. Tận dụng nguồn lợi tài chính vững mạnh, uy tín và quỹ đất dồi dào từ công ty mẹ, TBS Land từng bước vững chắc xây dựng thương hiệu, bắt đầu từ những dự án tại tỉnh Bình Dương.
Công Ty Cổ Phần Đầu Tư Thái Bình – TBS Group
Là một trong những thương hiệu Việt Nam trong ngành khách sạn du lịch nghỉ dưỡng tại Việt Nam, TBS Land sở hữu hệ thống quần thể du lịch nghỉ dưỡng tiêu chuẩn 5 sao quy mô, đồng bộ tại Thành phố Hồ Chí Minh và Quảng Nam, khu vực sở hữu bãi biển và thắng cảnh đẹp nhất Việt Nam. Mỗi quần thể là một tổ hợp dịch vụ cao cấp bao gồm hàng loạt tiện ích như khách sạn, sân golf, spa, gym, trung tâm hội nghị quốc tế…
6 lĩnh vực hoạt động chính của TBS Group
Năm 2018 là năm thứ 3 liên tiếp Công Ty Cổ Phần Đầu Tư Thái Bình được đánh giá và công nhận là Doanh nghiệp phát triển bền vững Việt Nam – lĩnh vực sản xuất, đồng thời vinh dự đạt thêm giải thưởng 3 năm Top 10 Doanh nghiệp bền vững Việt Nam.
Năm 2019, TBS Group chạm mốc 30 năm thành lập và phát triển, lọt top 10 thương hiệu mạnh Việt Nam, nhận huân chương lao động hạng Nhất.
Trong suốt gần 30 năm hoạt động, Tập đoàn TBS Group luôn hướng đến là một thương hiệu uy tín, không chỉ về tiềm lực tài chính mà còn về khả năng chuyên nghiệp trong cung ứng dịch vụ, xây dựng niềm tin, gắn kết vững bền trong các mối quan hệ với Khách hàng – Người lao động – Nhà cung ứng – Cổ đông – Xã hội.
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ THÁI BÌNH
Trong hành trình 20 năm xây dựng và phát triển, TBS Land từng bước trở thành Nhà Đầu tư – Phát triển bất động sản uy tín với danh mục sản phẩm đa dạng bao gồm: căn hộ, biệt thự, nhà phố, trung tâm thương mại, văn phòng, bất động sản nghỉ dưỡng… tại các vị trí trọng điểm của tam giác kinh tế TP. Hồ Chí Minh – Bình Dương – Đồng Nai và các tỉnh thành khác.
Năm 2000: Khởi công xây dựng toà nhà 5 tầng, thành lập công ty bất động sản ARECO.
Năm 2005: Bước đầu phát triển quỹ đất Green Square.
Năm 2007: Thiết lập quy hoạch phát triển Khu công nghiệp Sông Trà.
Năm 2008: Ngoại tầng Kho ngoại quan và CFS đầu tiên tại Tân Vạn được hoàn thiện, đưa vào vận hành.
Năm 2009: Khu công nghiệp Sông Trà chính thức đi vào hoạt động.
Năm 2011: Tổ hợp công nghiệp Khu vực 2 được mở rộng xây dựng.
Năm 2015: Thành lập công ty Mai House Hospitality và chuỗi Mai House Hotels & Resorts, khởi đầu ngành du lịch, khách sạn và nghỉ dưỡng.
Năm 2016: Hoàn thiện xây dựng cụm sản xuất công nghiệp Kiên Giang.
Năm 2017: Cụm sản xuất công nghiệp Thoại Sơn – An Giang hoàn thành, đưa vào vận hành.
Năm 2019: Khách sạn Mai House Saigon chính thức khai trương và đi vào hoạt động, đánh dấu bước phát triển mới của TBS Land trong lĩnh vực đầu tư – phát triển bất động sản và dịch vụ du lịch, khách sạn và nghỉ dưỡng.
CÁC DỰ ÁN BẤT ĐỘNG SẢN TIÊU BIỂU TBS GROUP
Bất động sản nhà ở:
+ Dự án Green Tower – Dĩ An, Bình Dương
Dự án Green Tower có tổng diện tích 1,32 ha nằm trên trục đường quốc lộ 1K là tổ hợp khu căn hộ và văn phòng thông minh bậc nhất thành phố mới Dĩ An. Dự án có quy mô 1.175 căn hộ cao cấp và các shophouse 3 tầng nằm trong khối đế 4 toà tháp.
Green Tower Dĩ An
Khu căn hộ Green Tower Dĩ An được thiết kế với tiện ích đồng bộ, đem đến một môi trường sống hiện đại cho những cư dân tương lai với công viên trung tâm và cảnh quan nội khu, vườn cây, hồ bơi, sân chơi ngoài trời, sân thể thao đa năng, khu BBQ…
+ Dự án Thanh Bình Residence – Dĩ An, Bình Dương
Thanh Bình Residence toạ lạc ngay trung tâm thị xã Dĩ An. Đây là dự án phức hợp với tổng diện tích đất hơn 400.000 m2, gồm các loại hình nhà ở: 3.438 căn hộ, 323 nhà phố, 82.500 m2 sàn thương mại.
+ Dự án Hồ Gươm Xanh – Thuận An City
Dự án Hồ Gươm Xanh Thuận An City có quy mô 27 hecta do Công ty Cổ phần Đầu tư TBS Land phát triển tọa lạc tại phường Lái Thiêu, TP Thuận An, Bình Dương đã được phê duyệt quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500.
Dự án Hồ Gươm Xanh Thuận An City
Tiện ích dự án: Khu thương mại dịch vụ, công trình công cộng, giao thông, quảng trường với đài phun nước, khu trung tâm hành chính, khu quảng trường xanh kết nối với trục cảnh quan, khu công viên nội khu đan xen, trường mầm non, trung tâm mua sắm, khu phố thương mại, khu ăn uống, nhà hàng, quán café, trung tâm thể dục thể thao, công viên cây xanh…
+ Dự án Green Square Dĩ An City
Green Square Dĩ An City là dự án phức hợp đất nền – nhà phố – biệt thự và căn hộ chung cư có tổng diện tích hơn 45 ha, tọa lạc tại xã Đông Hòa, mặt tiền Quốc lộ 1K, phường Dĩ An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
Phối cảnh Dự án Khu đô thị Green Square Dĩ An City
Khu phức hợp Green Square Dĩ An City có thiết kế gồm nhiều không gian chức năng: văn phòng cho thuê, siêu thị, phố thương mại kết hợp với đô thị xanh; nhà phố xen kẽ công viên, khu quảng trường xanh kết nối với trục cảnh quan; biệt thự cao cấp và chung cư cao tầng kết hợp khu mua sắm, giải trí sầm uất mang đến không gian sống tiện nghi cho cư dân.
Bất động sản nghỉ dưỡng, khách sạn
+ Mai House Hội An Luxury Golf and Resort
Mai House Hội An Luxury Golf and Resort là khu phức hợp đạt tiêu chuẩn cao cấp với 500 căn hộ, hệ thống nhà hàng, khách sạn, phòng họp và các sảnh tiệc ngoài trời… tọa lạc tại một trong những bãi biển đẹp nhất hành tinh, kết nối giữa thành phố Đà Nẵng hoa lệ và Hội An cổ kính.
Mai House Hotels & Resorts là thương hiệu khách sạn & nghỉ dưỡng đẳng cấp 5 sao được đầu tư nhất hiện nay của nhà phát triển bất động sản TBSLand.
Dự án sở hữu tiện ích cao cấp là sân Golf Montgomerie Links, từng đón tiếp các danh thủ trên thế giới đến thi đấu, tổ chức nhiều giải đấu từ nghiệp dư đến bán chuyên. Đây còn là nơi mở các lớp huấn luyện cho golfer nhí, theo mô hình học viện.
Năm 2019, Mai House Montgomerie Links được vinh danh là sân golf thu hút khách du lịch nhất Việt Nam trong buổi lễ trao giải được tổ chức bởi Tổng Cục Du Lịch.
+ Mai House Saigon
Mai House Saigon tọa lạc ngay trung tâm quận 3, TP.HCM gồm 224 phòng nghỉ và căn hộ tiện nghi. Dự án sở hữu lối kiến trúc tân cổ điển nhã nhặn kiểu Pháp với bồn tắm kiểu Pháp và nội thất nhập khẩu từ các thương hiệu uy tín.
Không gian hội nghị sang trọng của Mai House Saigon được trang bị đầy đủ thiết bị công nghệ hiện đại, tiện nghi. Dịch vụ hỗ trợ tận tâm góp phần giúp những buổi họp hay hội nghị của khách hàng diễn ra thành công.
Bên cạnh đó, không gian sảnh tiệc chính Grand Saigon rộng 500 m2 cùng khu vực sảnh chờ với những ô cửa sổ hình mái vòm mang lại cuộc sống hiện đại, thượng lưu.
Tại Lễ trao giải thưởng Robb Report Best of the Best Awards 2019, Mai House vinh dự được xướng tên hạng mục Khách sạn trong thành phố tốt nhất.
5/5 – (3 bình chọn)
0 notes
Text
《细说江南园林》,孙旭著。当代中国出版社,2009. 第四章: 自然古朴 – 沧浪亭 Chương 4: Tự nhiên cổ phác – Thương Lãng Đình. Bản dịch “Chi tiết các viên lâm ở Giang Nam”, tác giả Tôn Húc. Tâm Anh dịch.
Thương Lãng Đình nằm ở gần ngõ Tam Nguyên phía nam thành Tô Châu, là hoa viên tư nhân do văn nhân Tô Châu là Tô Thuấn Khâm cho xây dựng. Những năm đầu thời Nam Tống (đầu thế kỉ 12), nơi này trở thành phủ đệ của võ tướng Hàn Thế Trung. Thời Nguyên, Minh dường như bị bỏ hoang phế, cho đến thời Thanh được cho xây dựng lại, dần dần thành ra diện mạo như ngày nay. Thương Lãng Đình diện tích chừng 16 mẫu (*ghi chú người dịch: 1 ha = 10.000 m2 = 15 mẫu), sơn thủy có đủ, cảnh trí đa dạng, đình đài lầu các phong phú.
1. Sự lựa chọn của Tô Thuấn Khâm - non xanh nước biếc cùng dựa vào nhau, văn nhân gửi nỗi lòng
Thời Bắc Tống năm Khánh Lịch thứ 4 (1044), Tô Thuấn Khâm lúc đó 36 tuổi (tự Tử Mĩ) bị người khác hãm hại tấu lên hoàng thượng, mất chức về làm dân thường.
Tô Thuấn Khâm là người vốn tính hào sảng. Trong cuốn “Tứ hữu trai tùng thuyết” của Hà Lương Tuấn thời nhà Minhghi chép lại một chuyện oan tình thời trẻ của ông. Tô Thuấn Khâm thích uống rượu, lúc sống ở nhà cậu ngoại Đỗ Lang Công, mỗi tối đọc sách, đều phải uống một đấu rượu. Đỗ Lang Công rất hoài nghi, bèn sai gia nhân để ý. Gia nhân nghe được Tô Thuấn Khâm đọc thơ “Hán Thư. Trương Lương Truyện”, đến đoạn “Lương cùng Khách đánh lén Tần Thủy Hoàng nhầm trúng phải xe phụ”, vỗ tay nói rằng: “Tiếc là đánh không trúng!”, mà rồi uống cạn một ly đầy, đọc đến “Lương … Sau khi nghe gia nhân bẩm báo, Đỗ Lang Công cười mà rằng: “Uống rượu như thế này, một đấu không đủ rồi”. Tô Thuấn Khâm 27 tuổi ra làm quan, nhận chức y sử ở Hào Châu, đem hết sức tiến hành chỉnh đốn trật tự xã hội. Sau về kinh làm tiểu sử gia, cũng dám nói dám làm. Vì thế, ông đắc tội với thế lực đượng quyền, bị bãi quan.
Những ngày nhàn rỗi ở đất Ngô (*ghi chú người dịch: đất Ngô ý chỉ Giang Nam), Tô Thuấn Khâm không giống kiểu Khuất Nguyên khi xưa, ôm đá tự vẫn dưới đáy sông, đương nhiên cũng không bỏ mình theo dòng nước, ông gửi nỗi lòng vào giữa sơn thủy Giang Nam, “có hứng thì đi thuyền ra sông, ngâm thơ lãm cảnh núi non sông nước”. Ông yêu thích phong cảnh sơn thủy hữu tình một vùng đất Tô Châu, do vậy đã bỏ 4 vạn quan tiền mua khoảnh đất cỏ cây rậm rạp, sông rộng đồi cao ở phía đông Khổng Miếu. Nơi này vốn trước là hoa viên thời Ngũ đại Ngô Việt Quảng Lăng Vương tiến cống cho vua Ngô Tiết độ sứ Tôn Thừa Hữu. Tại nơi này Tôn Thuấn Khâm cho xây đình dựa theo mạch nước, gọi tên là “Thương Lãng Đình”, đồng thời tự gọi bản thân là “Thương Lãng Ông”.
Như thế, Thương Lãng Đình thực sự khiến Tô Thuấn Khâm đạt được sự an ủi tâm linh rồi không?
Trong bài thơ “Lãm chiếu”, Tô Thuấn Khâm viết:” …
Một người hơn 30 tuổi đang khỏe khoắn tráng kiện, bỗng nhiên mặt như gặp họa, ánh mắt u tối, yếu ớt nhiều bệnh, nỗi đau đớn về thể chất và tinh thần có thể nhìn ra. Sau 5 năm ở Thương Lãng Đình, Tôn Thuấn Khâm lại được trọng dụng trở lại, được điều đến Hồ Châu làm trưởng sử. Tuy vậy trời chưa già lão người đã mệt mỏi, năm cuối cùng này, ông bệnh mà chết ở Hồ Châu, mới chỉ 40 tuổi.
2. Một hoạt động văn hóa – Đào Chú ngũ lão, một đoạn giai thoại
Sau khi Tô Thuấn Khâm qua đời, Thương Lãng Đình qua nhiều đời chủ nhân, cũng không ngừng mở rộng. Thời Nam Tống, viên lâm này thuộc sở hữu của danh tướng chống Kim tên là Hàn Thế Trung. Nhưng từ thời Nguyên đến Minh, nơi này lại bị đem làm nơi chùa chiền.
Thời Thanh năm Đạo Quang thứ 7 (1827), tuần phủ Tô Châu là Đào Chú cho trùng tu toàn bộ Thương Lãng Đình. Đồng thời, Đào Chú còn triển khai một hoạt động văn hóa mới mẻ tại Tô Châu. Theo Bích Cương Tiểu Trúc của nhà sưu tập sách Cố Nguyên, Đào Chú từng xem hơn 300 bản vẽ nổi tiếng vùng Giang Nam. Về sau, với sự trợ giúp của nhân sĩ địa phương, ông lại thu thập thêm hơn 200 bức nữa. Đào Chú cho rằng, những bức họa này có đóng góp với văn hóa Tô Châu. Ông lệnh cho người đem những bức họa này tổ chức triển lãm, để mọi người cùng tán thưởng, lại đem khắc trên đá. Đương thời Thương Lãng Đình đã được trùng tu xong, Đào Chú do vậy cùng với bộ chính Sử Lương Chương, mua lại các dãy nhà ở phía tây Thương Lãng Đình thuộc nhà họ Trương.
Sau khi vào thành, Đào Chú vẫn dụng tâm tổ chức một lần ngũ lão hội – mời nội các trung thư đã 88 tuổi Phan Xích Nãi, Chưởng Sơn Đông Đạo giám sát ngự sử đã 81 tuổi Ngô Vân, Sơn Đông an sát sử 72 tuổi Thạch Viêm Ngọc, Thượng Thư hình bộ 71 tuổi Hàn Phong, cùng với bản thân Đào Chú là Giang Tô tuần phủ 50 tuổi, theo tuổi tác cao thấp sắp xếp, mỗi người theo một bài thơ, họa thành một bức “Ngũ lão đồ”. Người đương thời gọi đó là giai thoại Thái bình thịnh sự, hiền đạt phong lưu.
30 năm sau giai thoại về ngũ lão hội của Đào Chú, khói lửa chiến tranh đội quân nông dân Thái Bình Thiên Quốc đã thiêu hủy Thương Lãng Đình, các cây cổ thụ trong viên lâm bị chặt phá không còn.
Năm Đồng Trị thứ 12 (1873), Tuần phủ Giang Tô Trương Thụ Thanh cho trùng tu lại Thương Lãng Đình, đồng thời lại thêm vào số 500 bức tranh trước đây thành 594 bức. Sau đó, Thương Lãng Đình được đổi tên thành “Ngũ bách danh hiền từ” (Đền 500 hiền nhân). Chủ đề viên lâm văn nhân của Thương Lãng Đình dần dần cũng nhạt dần, chủ yếu được coi trọng ở công dụng đạo đức lễ giáo. Năm 1955, “Thương Lãng Đình” lấy lại tên cũ.
3. Sơn thủy ở Thương Lãng – bố cục quanh núi, hồ sâu hoa nở
Bố cục ở Thương Lãng Đình vô cùng đặc sắc: lấy giả sơn làm trung tâm, từ đó vòng theo các giả sơn này mà xây dựng; không tạo mặt nước rộng, thủy cảnh mượn con suối tự nhiên ngoài viên lâm. Con suối theo phía bắc viên lâm nhẹ nhàng chảy từ tây sang đông, du khách đi đến bên bờ suối, chưa vào trong viên lâm đã có thể thưởng ngoạn cảnh. Chỉ trông thấy dãy hành lang phía bờ nam suối, qua những song cửa, cổ thụ rậm rạp, đá tảng rất nhiều. Điểm này là khác biệt rất lớn với những bức tường cao bao kín các viên lâm khác ở Tô Châu.
Một cây cầu phẳng vượt qua con suối, thông vào cổng viên lâm. Qua cây cầu này, có thể trông thấy một giả sơn bằng đất ở chính giữa.
Đoạn phía đông Thổ sơn được tạo thành từ hoàng thạch, tương truyền là di vật thời Tống. Đoạn phía Tây được đắp thêm hồ thạch, tuy lung linh nhưng hơi phức tạp, là kết quả tu sửa về sau. Các viên đá đắp trên thổ sơn được mài bóng, cây cối um tùm, các bụi hoang tự nhiên. Đứng trong đó, cảm giác như đang ở chốn rừng núi thật. Cổ nhân vì thế mà hình gọi Thương Lãng Đình một cách hình tượng là “Cận sơn lâm”, chỉ ra đặc sắc giả sơn ở Thương Lãng Đình. Thương Lãng Đình được xây ở vị trí cao nhất phía đông dãy giả sơn. Bốn bên có mái cong, cột đá. Trên cột đá có câu đối đề “Thanh phong minh nguyệt bổn vô giá, cận thủy viễn sơn giai hữu tình”, do bộ chính Sử Lương Chương năm Đạo Quang thu thập, viết cảnh viết tình.
Phía tây nam giả sơn có bức tường, gần xuống hồ sâu, trên đá có đề hai chữ “Lưu ngọc”. Phía tây bắc giả sơn có một cây sơn trà, khi hoa nở đến 6, 7 nghìn bông, cảnh vô cùng rực rỡ, có thể so sánh với “Bảo châu sơn trà” ở Chuyết Chính Viên, và “Thập tam thái bảo” ở Võng Sư Viên.
4. Hành lang song hoa – nghệ thuật độc đáo, tinh xảo
Giữa giả sơn và hồ nước ở Thương Lãng Đình, có tường bao quanh co tạo thành một hành lang hướng về bên trong. Phía ngoài hành lang sát mép nước hồ xanh, phía trong gần giả sơn, dựa sơn gần nước, quanh co lên xuống. Trên tường hành lang có nhiều song hoa hình quạt. Song hoa ở Thương Lãng Đình đa dạng, khoảng 108 dạng thức, phân bố trên các bức tường hành lang hướng vào phía trong viên lâm. Hoa văn các song hoa đa dạng, điển hình hoa văn viên lâm Tô Châu. Các hoa song này không chỉ kết nối cảnh phía trong là giả sơn và phía ngoài là hồ nước, khiến giả sơn, hồ nước hòa làm một thể thống nhất, còn rất tiện cho du khách thưởng ngoạn cảnh quan: khi đi bộ dọc hành lang, trước mắt là nước chảy quanh co, cách bức hoa song nhìn vào thấy giả sơn.
Phía tây hành lang có thủy tạ, gọi là “Diện thủy hiên”. Hiên này hai mặt sát mép nước, trước đình cổ thụ phản chiếu, tên gọi chính là lấy ý thơ Đỗ Phủ “Tằng hiên giai diện thủy, lão thụ bao kinh sương”.
5. Kiến trúc dựa theo núi – thạch ốc ấn tâm, viên linh chính minh
Vòng quanh giả sơn, từ đông sang tây có các kiến trúc Minh Đạo Đường, Dao Hoa Cảnh Giới, Khán Sơn Lầu, Thúy Linh Long Quán, Ngưỡng Chỉ Đình, Ngũ Bách Danh Hiền Từ, Thanh Hương Quán, Bộ Kỉ Đình, Ngự Bi Đình, v.v…
Minh Đạo Đường nằm ở phía nam Thương Lang Đình, vốn là nơi dạy học của văn nhân. Thời nhà Thanh những năm Đồng Trị nơi này được xây dựng lại, lấy ý từ “Thương Lãng Đình kí” của Tô Thuấn Khâm, “Quan thính vô nha, tắc đạo dĩ minh” mà đặt tên. Minh Đạo Đường rộng rãi, sáng sủa, là kiến trúc lớn nhất trong viên lâm. Trong đường có ba tấm bia đá rất quý thuộc Tô Châu thời Tống, đó là Thiên Văn Đồ, Địa Lý Đồ, Bình Giang Đồ. Các bia đá gốc này hiện được lưu giữ trong Bảo tàng thành phố Tô Châu, rất có giá trị.
Khán Sơn Lầu nằm ở cuối phía nam viên lâm, xây dựng trên một động giả sơn. Cao rộng thông thoáng, các góc mái cong vút, là lầu đài độc đáo trong số các kiến trúc viên lâm ở Tô Châu. Lên lầu có thể nhìn xa phía tây nam các đỉnh núi, trong khi từ các ô song hoa có thể ngắm Thương Lãng Đình, như đang đứng sâu trong rừng núi vậy.
Dưới Khán Sơn Lầu có hai nhà xây bằng đá, trên cửa khắc bốn chữ “Ấn tâm thạch ốc”, do chính vua Đạo Quang đề. Tên của kiến trúc này lấy từ sách Phật gia “Y dĩ biểu tín, pháp nãi ấn tâm”.
Trước thạch ốc lấy giả sơn bao quanh thành tiểu viện, trên cổng viện đề bốn chữ từ “Viên linh chứng minh” trong sách của Lâm Tắc Từ.
Mặt phía bắc Khán Sơn Lầu là Thúy Lệnh Long Quán. Tên gọi lấy từ câu thơ của Tô Thuần Khâm “nhật quang xuyên trúc thúy lệnh long” (ánh sáng mặt trời xuyên qua lá trúc lung linh). Tiểu quán bao quanh bởi các ô cửa màu lục, trước sau có trúc, bách, ba tiêu. Trong quán có câu đối: “Phụng đế tiêm trường địch | Lưu thủy đương minh cầm”, ý thơ chỉ cảnh yên tĩnh nơi đây.
Từ Thúy Lệnh Long Quán đi xiên hướng bắc, là đến Ngưỡng Chỉ Đình. Tên đình này lấy từ “Thi Kinh”, câu “cao sơn ngưỡng chỉ, cảnh hành hành chỉ”. Giữa đình trên tường có bức tranh khắc đá tranh của họa gia thời Minh Văn Trưng Minh, trên tường hành lang có “thương lãng ngũ lão đồ vĩnh”, “chu tồn kí thất hữu đồ”, và các khắc đá khác.
Hành lang phía trái Ngưỡng Chỉ Đình có bức tường, trên có khắc trên gạch hình các nhân vật đang cưỡi mây. Đây là sản phẩm của các nghệ nhân ở Tô Châu, chạm khắc tinh tế, sinh động, tỉ mỉ, có lịch sử ít nhất đều ít nhất 100 năm.
https://www.youtube.com/watch?v=66VV9En7Gvk
0 notes
Text
Nữ nhân hiếm hoi uyên bác của Trung Hoa cổ đại được nhắc đến trong Truyện Kiều: Giúp Thái hậu nhiếp chính, viết sách định hình tư tưởng cho người đời sau
Trong Truyện Kiều, buổi đầu Thuý Kiều gặp Kim Trọng "chốn thư hiên", khi Thúy Kiều đề thơ trên bức họa đã được Kim Trọng nức nở: "Khen tài nhả ngọc phun châu/Nàng Ban, ả Tạ cũng đau thế này".
Nàng Ban được đại thi hào Nguyễn Du đề cập đến trong hai câu thơ trên không ai khác chính là Ban Chiêu (45 – 116) còn có tên Ban Cơ, tiểu tự là Huệ Ban, xuất thân thế gia vọng tộc họ Ban đời Đông Hán. Sinh trưởng trong một gia đình có bề dày truyền thống, Ban Chiêu thông tuệ chữ nghĩa, âm thông kinh sử, hiểu đạt lễ nghi.
Nữ nhân hiếm hoi uyên bác văn chương
Ban Chiêu sinh ra ở Phù Phong, An Lăng, nay là khu vực gần Hàm Dương, Thiểm Tây, trong một gia đình Nho giáo nổi tiếng. Tổ tiên của bà là Lệnh doãn nước Sở Tử Văn. Tổ phụ là Ban Trĩ, con trai của Ban Huống và là anh của Ban Tiệp dư – phi tần của Hán Thành Đế.
Cha bà là Ban Bưu, là nhà văn nổi tiếng Trung Quốc thời điểm bấy giờ. Ngoài ra, bà còn có hai người anh: một là Ban Cố, nhà sử gia nổi tiếng, người còn lại là Đại tướng quân Ban Siêu, có công trấn giữ Tây Vực, chống lại Hung Nô.
Sinh trưởng và phát triển trong một gia tộc giàu truyền thống, ngay từ khi còn bé, Ban Chiêu đã không giống với đa phần nữ nhân sống cùng thời. Kế thừa những giá trị quý báu cũng như truyền thống văn chương rực rỡ, bà được giáo dục tư cách đạo đức, trau dồi phẩm hạnh, rèn luyện văn chương thi phú, sử sách và không ngừng mở mang học hỏi thêm tri thức mới. Điều này khiến bà được tin tưởng giao cho trọng trách dạy kinh sử cho hoàng hậu cũng như các quý nhân trong cung.
Sự uyên thâm của Ban Chiêu nổi tiếng đến mức, sử sách có ghi chép lại rằng, Mã Dung - một học giả lớn cùng thời, vì muốn cầu được sự chỉ dẫn của bà, đã chấp nhận quỳ rất lâu ở bên ngoài thư viện để nghe bà giảng giải.
Sử gia đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc
Vốn có tài văn chương từ nhỏ, lại đam mê nghiên cứu, tìm hiểu sử sách kim cổ, Ban Chiêu đã giúp anh trai Ban Cố viết nên cuốn Tiền Hán Thư - cuốn sử mang thể loại ký truyện đầu tiên của Trung Quốc, sánh ngang với Sử Ký của Tư Mã Thiên thời Tây Hán trong lịch sử. Cha của Ban Chiêu là người đầu tiên bắt tay vào việc viết bộ sử này.
Sau khi cha qua đời, anh trai Ban Cố nối tiếp hoàn thành. Tuy nhiên, chỉ được một thời gian ngắn, sau này, do mâu thuẫn với triều đình Hán Hòa Đế, Ban Cố bị tống giam và chết, để lại tác phẩm còn dang dở.
Tiếp tục con đường của cha anh, Ban Chiêu dâng sớ xin Hán Hòa Đế cho phép vào Đông Quan tàng thư để tiếp tục công việc biên soạn bộ Hán Thư này. Những phần do bà soạn từ tập 13 đến 20 và tập 26 được coi là mẫu mực cho nhiều tác phẩm lịch sử về sau. Những chương hay và gay cấn nhất của bộ sử cũng đều do Ban Chiêu hoàn thành.
Sau đó, Hán Hòa Đế cho mời Ban Chiêu vào cung dạy học cho cung nhân, bà được gọi là Tào đại gia. Mỗi lần các địa phương cống lên những thứ trân quý mới lạ, Hòa Đế đều gọi Ban Chiêu sáng tác phú để tán dương.
Trong suốt cuộc đời mình, với tài năng văn chương và trí tuệ lỗi lạc, bà đã có những cống hiến lớn lao cho giới sử học và chính trường. Những tác phẩm văn chương của bà cho tới ngày hôm nay không còn được lưu giữ nhiều, chỉ còn lưu lại Đông Chinh phú và Nữ giới. Đây là 2 tác phẩm lớn có ảnh hưởng sâu sắc tới văn học các đời sau.
Chính trị gia có tầm ảnh hưởng lớn lao
Năm 105, Hán Hòa Đế qua đời khi mới 27 tuổi. Do người anh của Lưu Long là Lưu Thắng, con trưởng của Hòa Đế, bị tật nguyền không thể nối ngôi nên Lưu Long được ẵm lên ngôi, trở thành Hán Thương Đế.
Lưu Thắng được phong làm Bình Nguyên vương. Khi được đưa lên ngôi, Lưu Long mới 100 ngày tuổi, là vua lên ngôi trẻ tuổi nhất trong lịch sử Trung Quốc. Thái hậu Đặng Tuy – hoàng hậu của Hòa Đế, nhiếp chính.
Triều chính rối ren, xã tắc loạn tặc, Thái Hậu Đặng Tuy phải vất vả dẹp loạn, đảm nhiệm việc triều chính. Vốn khâm phục trí tuệ của Ban Chiêu, Đặng thái hậu thường xin ý kiến của bà trong việc đại sự và coi bà như thầy.
Thời gian đó, rất nhiều ý kiến, lời khuyên của Ban Chiêu đã tạo nên những chính sách quan trọng cho đất nước. Đặng Thái hậu nhờ vậy đã có những quyết định sáng suốt, điều hành triều đình nhà Hán suốt 2 đời vua và được người đời ca tụng bởi sự uyên bác, bao dung, lễ độ.
Đặng Thái hậu lâm triều nghe chính, Ban Chiêu được phép cùng Thái hậu bàn luận chính sự. Bà thông minh đoan chính, can gián điều sai, góp nhiều ý kiến bàn luận sâu sắc khiến Thái hậu rất tâm đắc.
Có câu chuyện được sử sách ghi chép về lời can gián của Ban Chiêu trình Đặng Thái hậu như sau: Năm 107, anh trai Thái hậu là Đặng Chất nhân do mẫu thân Âm phu nhân qua đời, xin thái hậu cho từ quan về quê. Đặng Thái hậu ban đầu không đồng ý, hỏi ý kiến Ban Chiêu, bà đáp:
‘‘Hoàng thái hậu bệ hạ mỹ đức thịnh hành, nối được ơn đức của Nghiêu Thuấn, khiến thiên hạ thái bình. Thần hạ ngu muội, đắc ngộ minh chủ, không có bản lĩnh như thế, nay xin đưa ra vài ngu kiến. Thần nghe thánh hiền xưa, ca ngợi việc khiêm nhượng, là thấy bản thân lực bất tòng tâm thì nhượng cho kẻ hiền, mãi được đời sau ca ngợi.
Xưa có Bá Di, Thúc Tề không ham danh lợi mà nhượng ngôi quốc quân, thiên hạ khen không tiếc lời sự cao thượng của 2 người. Thái Bá nhượng vị cho Quý Lịch, đức Khổng Tử 3 lần khen ngợi không dứt. Ân đức của họ được lưu truyền, mãi là tấm gương cho hậu thế. Luận Ngữ có viết: “Năng dụng lễ nhượng trị quốc, tòng chánh hoàn hữu thập yêu khả vi nan ni?” là để nói nên thôi nhượng mĩ đức, ảnh hưởng sâu xa.
Nay, 4 vị quốc cữu kiên tuẫn trung hiếu, nhất định từ quan về quê, nếu như cự tuyệt ý định, e rằng về sau không có tiếng hiền, lại còn mang danh ngoại thích lộng quyền. Thần thiếp ngu kiến trần ngôn, cốt gắng sức suy nghĩ cho Bệ hạ, để báo ân đức của Bệ hạ đối với ngu thiếp’’.
Lời bà đưa ra đạo lý thâm sâu, hợp tình người, cũng là lời dạy cho một bậc được coi là mẫu nghi thiên hạ. Tuy hết sức hạ mình đưa ra lời can gián, song trí tuệ và sự uyên thâm trong sách lối của bà khiến Đặng thái hậu lắng nghe và thuận theo.
Như vậy mới thấy rằng, Ban Chiêu không chỉ là một người tài năng lỗi lạc, am hiểu lịch sử, một chính gia giỏi mà hơn hết bà là một người phụ nữ đức hạnh, thông hiểu lễ nghi. Bà được hậu thế ví như Khổng Tử phiên bản nữ.
PV
Let's block ads! (Why?)
Nguồn https://ift.tt/3u10SH7
0 notes
Text
Giới Thiệu Sim Số Đẹp
Số 1 - Số sinh
Theo Sim Số Đẹp, số 1 là căn bản của mọi sự biến hóa, là con số khởi đầu, luôn đem lại những điều mới mẻ, tốt đẹp, đem tới 1 sinh linh mới, 1 sức sống mới cho mọi người sim
Số 2 - Con số của sự cân bằng
Tượng trưng là một cặp, một đôi, một con số hạnh phúc (song hỷ) và điều hành thuận lợi cho những sự kiện như sinh nhật, cưới hỏi, hội hè. Số hai tượng trưng sự cân bằng âm dương kết hợp tạo thành thái lưu hay là nguồn gốc của vạn vật. Các câu đối đỏ may mắn thường được dán trước cửa nhà cổng chính vào dịp đầu năm mới
Số 3 - Con số Thần bí
Con số 3 thì có nhiều quan niệm khác nhau, người xưa thường dùng các trạng thái, hình thể gắn với con số 3 như: Tam bảo (Phật - Pháp - Tăng), Tam giới (Dục giới - Sắc giới - Vô sắc giới), Tam thời (Quá khứ - Hiện tại - Vị lai), Tam vô lậu học (Giới - Định - Tuệ), Tam đa (Đa phúc - Đa lộc - Đa thọ), Tam tài (Thiên - Địa - Nhân) so dep
Số 4 - Nhiều quan điểm khác nhau
Về hiện tượng thiên nhiên: Tứ phương (Ðông - Tây - Bắc). Thời tiết có bốn mùa (Xuân - Hạ - Thu - Đông). Bốn cây tiêu biểu cho 4 mùa (Mai - Lan - Cúc - Trúc)
Về hiện tượng xã hội: Ngành nghề, theo quan niệm xưa có tứ dân (Sĩ - Nông - Công - Thương). Về nghệ thuật (Cầm - Kỳ - Thi - Họa). Về nghề lao động (Ngư - Tiều - Canh - Mục). Tứ thi (Ðại học - Trung dung -Luận ngữ - Mạnh Tử). Tứ bảo của trí thức (Giấy - Bút - Mực - Nghiên). Tứ đại đồng đường (Cha - Con - Cháu - Chít)
Về con người: Người ta quan niệm về trách nhiệm của một công dân (Tu thân - Tề gia - Trị quốc - Bình thiên hạ). Về đạo đức của con người (Hiếu - Lễ - Trung - Tín). Ðối với phái nữ (Công - Dung - Ngôn - Hạnh). Tứ bất tử (Thần - Tiên - Phật - Thánh). Tứ linh (Long - Ly - Qui - Phượng). Tứ đổ tường (Tửu - Sắc - Tài - Khí) số đẹp
Số 5 - Điều bí ẩn (cũng là số sinh)
Số 5 có ý nghĩa huyền bí xuất phát từ học thuyết Ngũ Hành. Mọi sự việc đều bắt đầu từ 5 yếu tố. Trời đất có ngũ hành (Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ). Người quân từ có ngũ đức (Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín). Cuộc sống có ngũ phúc (Phú - Quý - Thọ - Khang - Ninh)
Số 5 còn là số Vua, thuộc hành Thổ, màu Vàng. Ngày xưa những ngày 5, 14 (4+1=5), 23 (2+3=5) là những ngày Vua thường ra ngoài nên việc buôn bán bị ảnh hưởng. Bây giờ không còn Vua nữa nên mọi người đi đâu vào ngày này thường ít đông và dễ chịu. Ngũ đế (Phục Hy - Thần Nông - Huỳnh Đế - Nghiêu - Thuấn). Ngũ luân (Vua tôi - Cha con - Vợ chồng - Anh em -Bạn bè)
Visit Here: sim dep
0 notes
Photo
Nam mô Lăng Nghiêm Hội thượng Phật Bồ tát. (3x) Diệu trạm tổng trì bất động tôn, Thủ Lăng Nghiêm Vương thế hy hữu. Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng. Bất lịch tăng kỳ hoạch Pháp thân. Nguyện kim đắc quả thành Bảo Vương Hoàn độ như thị Hằng sa chúng. Tương thử thâm tâm phụng trần sát, Thị tắc danh vi báo Phật ân. Phục thỉnh Thế Tôn vị chứng minh, Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập. Như nhất chúng sanh vị thành Phật, Chung bất ư thử thủ Nê hoàn. Ðại hùng đại lực đại từ bi, Hy cánh thẩm trừ vi tế hoặc. Linh ngã tảo đăng Vô Thượng Giác, Ư thập phương giới tọa đạo tràng, Thuấn-nhã-đa tánh khả tiêu vong, Thước-ca-ra tâm vô động chuyển. Nam mô thường trụ thập phương Phật. Nam mô thường trụ thập phương Pháp. Nam mô thường trụ thập phương Tăng. Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam mô Phật đảnh Thủ Lăng Nghiêm. Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát. Nam mô Kim Cang Tạng Bồ tát. Nhĩ thời Thế Tôn, tùng nhục kế trung, dõng bách bảo quang, quang trung dõng xuất thiên diệp bảo liên, hữu hóa Như Lai, tọa bảo hoa trung. Ðảnh phóng thập đạo bách bảo quang minh, nhất nhất quang minh, giai biến thị hiện thập Hằng Hà sa Kim cang mật tích, kình sơn trì sử, biến hư không giới. Ðại chúng ngưỡng quán, úy ái kiêm bão, cầu Phật ai hựu, nhất tâm thính Phật vô kiến đảnh tướng, phóng quang Như Lai tuyên thuyết thần chú. ÐỆ NHẤT 01. Nam-mô tát đát tha 02. Tô già đa da 03. A ra ha đế 04. Tam-miệu tam bồ-đà tỏa 05. Nam mô tát đát tha 06. Phật đà cu tri sắc ni sam 07. Nam-mô tát bà 08. Bột đà bột địa 09. Tát đa bệ tệ 10. Nam-mô tát đa nẩm 11. Tam-miệu tam bồ đà 12. Cu tri nẩm 13. Ta xá ra bà ca 14. Tăng già nẩm 15. Nam-mô lô kê A-La-Hán đa nẩm. 16. Nam-mô tô lô đa ba na nẩm. 17. Nam-mô ta yết rị đà dà di nẩm. 18. Nam-mô lô kê tam-miệu dà đa nẩm. 19. Tam-miệu dà ba ra 20. Ðể ba đa na nẩm. 21. Nam-mô đề bà ly sắc nỏa. 22. Nam-mô tất đà da 23. Tỳ địa da 24. Ðà ra ly sắc nỏa. 25. Xá ba noa 26. Yết ra ha 27. Ta ha ta ra ma tha nẩm 28. Nam-mô bạt ra ha ma ni 29. Nam-mô nhơn dà ra da 30. Nam-mô bà dà bà đế 31. Lô đà ra da. 32. Ô ma bát đế 33. Ta hê dạ da. 34. Nam-mô bà dà bà đế 35. Na ra dả 36. Noa da 37. Bàn dá ma ha tam mộ đà da 38. Nam-mô tất yết rị đa da 39. Nam-mô bà dà bà đế 40. Ma ha ca ra da 41. Ðịa rị bác lặc na 42. Dà ra tỳ đà ra 43. Ba noa ca ra da. 44. A địa mục đế 45. Thi ma xá na nê 46. Bà tất nê 47. Ma đát rị dà noa 48. Nam-mô tất yết rị đa da 49. Nam-mô bà dà bà đế 50. Ða tha dà đa câu ra da 51. Nam-mô bát đầu ma câu ra da. 52. Nam-mô bạc xà ra câu ra da. 53. Nam-mô ma ni câu ra da 54. Nam-mô dà xà câu ra da 55. Nam-mô bà dà bà đế 56. Ðế rị trà 57. Du ra tây na. 58. Ba ra ha ra noa ra xà da 59. Ða tha dà đa da 60. Nam-mô bà dà bà đế 61. Nam-mô A di đa bà da 62. Ða tha dà đa da 63. A ra ha đế. 64. Tam-miệu tam bồ đà da 65. Nam-mô bà dà bà đế 66. A sô bệ da 67. Ða tha dà đa da 68. A ra ha đế 69. Tam-miệu tam-bồ đà da 70. Nam-mô bà dà bà đế 71. Bệ xa xà da 72. Câu lô phệ trụ rị da 73. Bác ra bà ra xà da 74. Ða tha dà đa da. 75. Nam-mô bà dà bà đế 76. Tam bổ sư bí đa 77. Tát lân nại ra lặc xà da 78. Ða tha dà đa da 79. A ra ha đế 80. Tam-miệu tam-bồ đà da 81. Nam-mô bà dà bà đế 82. Xá kê dã mẫu na duệ 83. Ða tha dà đa da 84. A ra ha đế 85. Tam-miệu tam-bồ đà da 86. Nam-mô bà dà bà đế 87. Lặc đát na kê đô ra xà da 88. Ða tha dà đa da 89. A ra ha đế 90. Tam-miệu tam-bồ đà da 91. Ðế biều 92. Nam-mô tát yết rị đa 93. Ế đàm bà dà bà đa 94. Tát đác tha dà đô sắc ni sam 95. Tát đác đa bát đác lam 96. Nam-mô a bà ra thị đam 97. Bác ra đế 98. Dương kỳ ra 99. Tát ra bà 100. Bộ đa yết ra ha 101. Ni yết ra ha 102. Yết ca ra ha ni 103. Bạt ra bí địa da 104. Sất đà nể 105. A ca ra 106. Mật rị trụ 107. Bát rị đác ra da 108. Nảnh yết rị 109. Tát ra bà 110. Bàn đà na 111. Mục xoa ni 112. Tát ra bà 113. Ðột sắc tra 114. Ðột tất phạp 115. Bát na nể 116. Phạt ra ni 117. Giả đô ra 118. Thất đế nẩm 119. Yết ra ha 120. Ta ha tát ra nhã xà 121. Tỳ đa băng ta na yết rị 122. A sắc tra băng xá đế nẩm 123. Na xoa sát đác ra nhã xà 124. Ba ra tát đà na yết rị 125. A sắc tra nẩm 126. Ma ha yết ra ha nhã xà 127. Tỳ đa băng tát na yết rị 128. Tát bà xá đô lô 129. Nể bà ra nhã xà 130. Hô lam đột tất phạp 131. Nan giá na xá ni 132. Bí sa xá 133. Tất đác ra 134. A kiết ni 135. Ô đà ca ra nhã xà 136. A bát ra thị đa câu ra 137. Ma ha bác ra chiến trì 138. Ma ha điệp đa 139. Ma ha đế xà 140 Ma ha thuế đa xà bà ra 141. Ma ha bạt ra bàn đà ra 142. Bà tất nể 143. A rị da đa ra 144. Tỳ rị câu tri 145. Thệ bà tỳ xà da 146. Bạt xà ra ma lễ để 147. Tỳ xá lô đa 148. Bột đằng dõng ca 149. Bạt xà ra chế hắt na a giá 150. Ma ra chế bà 151. Bát ra chất đa 152. Bạt xà ra thiện trì 153. Tỳ xá ra giá 154. Phiến đa xá 155. Bệ để bà 156. Bổ thị đa 157. Tô ma lô ba 158. Ma ha thuế đa 159. A rị da đa ra 160. Ma ha bà ra a bác ra 161. Bạt xà ra thương yết ra chế bà 162. Bạt xà ra câu ma rị 163. Câu lam đà rị 164. Bạt xà ra hắt tát đa giá 165. Tỳ địa da 166. Kiền dá na 167. Ma rị ca 168. Khuất tô mẫu 169. Bà yết ra đá na 170. Bệ lô giá na 171. Câu rị da 172. Dạ ra thố 173. Sắc ni sam 174. Tỳ chiếc lam bà ma ni giá. 175. Bạt xà ra ca na ca ba ra bà. 176. Lồ xà na 177. Bạt xà ra đốn trỉ giá 178. Thuế đa giá 179. Ca ma ra 180. Sát sa thi 181. Ba ra bà. 182. Ế đế di đế 183. Mẫu đà ra 184. Yết noa. 185. Ta bệ ra sám 186. Quật phạm đô 187 Ấn thố na mạ mạ tỏa. ÐỆ NHỊ 188. Ô Hồng 189. Rị sắc yết noa 190. Bác lặc xá tất đa 191. Tát đác tha 192. Già đô sắc ni sam 193. Hổ hồng đô lô ung 194. Chiêm bà na 195. Hổ hồng đô lô ung 196. Tất đam bà na 197. Hổ hồng đô lô ung 198. Ba ra sắc địa da 199. Tam bác xoa 200. Noa yết ra 201. Hổ hồng đô lô ung 202. Tát bà dược xoa 203. Hắt ra sát ta 204. Yết ra ha nhã xà 205. Tỳ đằng băng tát na yết ra 206. Hổ hồng đô lô ung 207. Giả đô ra 208. Thi để nẩm 209. Yết ra ha 210. Ta ha tát ra nẩm 211. Tỳ đằng băng tát na ra 212. Hổ hồng đô lô ung 213. Ra xoa 214. Bà già phạm 215. Tát đác tha 216. Già đô sắc ni sam 217. Ba ra điểm 218. Xà kiết rị 219. Ma ha ta ha tát ra 220. Bột thọ ta ha tát ra 221. Thất rị sa 222. Câu tri ta ha tát nê 223. Ðế lệ a tệ đề thị bà rị đa 224. Tra tra anh ca 225. Ma ha bạt xà lô đà ra 226. Ðế rị bồ bà na 227. Man trà ra 228. Ô hồng 229. Ta tất đế 230. Bạt bà đô 231. Mạ mạ 232. Ấn thố na mạ mạ tỏa. ÐỆ TAM 233. Ra xà bà dạ 234. Chủ ra bạt dạ 235. A kỳ ni bà dạ 236. Ô đà ca bà dạ 237. Tỳ xa bà dạ 238. Xá tát đa ra bà dạ 239. Bà ra chước yết ra bà dạ 240. Ðột sắc xoa bà dạ 241. A xá nể bà dạ 242. A ca ra 243. Mật rị trụ bà dạ 244. Ðà ra ni bộ di kiếm 245. Ba già ba đà bà dạ 246. Ô ra ca bà đa bà dạ 247. Lặc xà đàn trà bà dạ 248. Na dà bà dạ 249. Tỳ điều đát bà dạ 250. Tô ba ra noa bà dạ 251. Dược xoa yết ra ha 252. Ra xoa tư yết ra ha 253. Tất rị đa yết ra ha 254. Tỳ xá giá yết ra ha 255. Bộ đa yết ra ha 256. Cưu bàn trà yết ra ha 257. Bổ đơn na yết ra ha 258. Ca tra bổ đơn na yết ra ha 259. Tất kiền độ yết ra ha 260. A bá tất ma ra yết ra ha 261. Ô đàn ma đà yết ra ha 262. Xa dạ yết ra ha 263. Hê rị bà đế yết ra ha 264. Xả đa ha rị nẩm 265. Yết bà ha rị nẩm 266. Lô địa ra ha rị nẩm 267. Mang ta ha rị nẩm 268. Mê đà ha rị nẩm 269. Ma xà ha rị nẩm 270. Xà đa ha rị nữ 271. Thị tỷ đa ha rị nẩm 272. Tỳ đa ha rị nẩm 273. Bà đa ha rị nẩm 274. A du giá ha rị nữ 275. Chất đa ha rị nữ 276. Ðế sam tát bệ sam 277. Tát bà yết ra ha nẩm 278. Tỳ đà dạ xà 279. Sân đà dạ di 280. Kê ra dạ di 281. Ba rị bạt ra giả ca 282. Hất rị đởm 283. Tỳ đà dạ xà 284. Sân đà dạ di 285. Kê ra dạ di 286. Trà diễn ni 287. Hất rị đởm 288. Tỳ đà dạ xà 289. Sân đà dạ di 290. Kê ra dạ di 291. Ma ha bát du bát đác dạ 292. Lô đà ra 293. Hất rị đởm 294. Tỳ đà dạ xà 295. Sân đà dạ di 296. Kê ra dạ di 297. Na ra dạ noa 298. Hất rị đởm 299. Tỳ đà dạ xà 300. Sân đà dạ di 301. Kê ra dạ di 302. Ðát đỏa dà lô trà tây 303. Hất rị đởm 304. Tỳ đà dạ xà 305. Sân đà dạ di 306. Kê ra dạ di 307. Ma ha ca ra 308. Ma đác rị già noa 309. Hất rị đởm 310. Tỳ đà dạ xà 311. Sân đà dạ di 312. Kê ra dạ di 313. Ca ba rị ca 314. Hất rị đởm 315. Tỳ đà dạ xà 316. Sân đà dạ di. 317. Kê ra dạ di 318. Xà dạ yết ra 319. Ma độ yết ra 320. Tát bà ra tha ta đạt na 321. Hất rị đởm 322. Tỳ đà dạ xà 323. sân đà dạ di 324. Kê ra dạ di 325. Giả đốt ra 326. Bà kỳ nể 327. Hất rị đởm 328. Tỳ đà dạ xà 329. Sân đà dạ di 330. Kê ra dạ di 331. Tỳ rị dương hất rị tri 332. Nan đà kê sa ra 333. Dà noa bác đế 334. Sách hê dạ 335. Hất rị đởm 336. Tỳ đà dạ xà 337. Sân đà dạ di 338. Kê ra dạ di 339. Na yết na xá ra bà noa 340. Hất rị đởm 341. Tỳ đà dạ xà 342. Sân đà dạ di 343. Kê ra dạ di 344. A-la-hán 345. Hất rị đởm 346. Tỳ đà dạ xà 347. Sân đà dạ di 348. Kê ra dạ di 349. Tỳ đa ra dà 350. Hất rị đởm 351. Tỳ đà dạ xà 352. Sân đà dạ di 353. Kê ra dạ di 354. Bạt xà ra ba nể 355. Câu hê dạ câu hê dạ 356. Ca địa bát đế 357. Hất rị đởm 358. Tỳ đà dạ xà 359. Sân đà dạ di 360. Kê ra dạ di 361. Ra xoa vỏng 362. Bà dà phạm 363. Ấn thố na mạ mạ tỏa ÐỆ TỨ 364. Bà dà phạm 365. Tát đác đa bát đác ra 366. Nam-mô tý đô đế 367. A tất đa na ra lặc ca 368. Ba ra bà 369. Tất phổ tra 370. Tỳ ca tát đác đa bát đế rị 371. Thập Phật ra thập Phật ra 372. Ðà ra đà ra 373. Tần đà ra tần đà ra 374. Sân đà sân đà 375. Hổ hồng hổ hồng. 376. Phấn tra phấn tra phấn tra phấn tra phấn tra. 377. Ta ha 378. Hê hê phấn 379. A mâu ca da phấn 380. A ba ra đề ha da phấn 381. Ba ra bà ra đà phấn 382. A tố ra 383. Tỳ đà ra 384. Ba ca phấn 385. Tát bà đề bệ tệ phấn 386. Tát bà na dà tệ phấn 387. Tát bà dược xoa tệ phấn 388. Tát bà kiền thát bà tệ phấn 389. Tát bà bổ đơn na tệ phấn 390. Ca tra bổ đơn na tệ phấn 391. Tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn. 392. Tát bà đột sáp tỷ lê 393. Hất sắc đế tệ phấn 394. Tát bà thập bà lê tệ phấn 395. Tát bà a bá tất ma lê tệ phấn 396. Tát bà xá ra bà noa tệ phấn. 397. Tát bà địa đế kê tệ phấn 398. Tát bà đát ma đà kê tệ phấn 399. Tát bà tỳ đà da 400. Ra thệ giá lê tệ phấn 401. Xà dạ yết ra 402. Ma độ yết ra 403. Tát bà ra tha ta đà kê tệ phấn. 404. Tỳ địa dạ 405. Giá lê tệ phấn 406. Giả đô ra 407. Phược kỳ nể tệ phấn 408. Bạt xà ra 409. Câu ma rị 410. Tỳ đà dạ 411. La thệ tệ phấn 412. Ma ha ba ra đinh dương 413. Xoa kỳ rị tệ phấn 414. Bạt xà ra thương yết ra dạ 415. Ba ra trượng kỳ ra xà da phấn 416. Ma ha ca ra dạ 417. Ma ha mạt đát rị ca noa 418. Nam-mô ta yết rị đa da phấn. 419. Tỷ sắc noa tỳ duệ phấn 420. Bột ra ha mâu ni duệ phấn 421. A kỳ ni duệ phấn 422. Ma ha yết rị duệ phấn 423. Yết ra đàn tri duệ phấn 424. Miệc đát rị duệ phấn 425. Lao đát rị duệ phấn 426. Giá văn trà duệ phấn 427. Yết la ra đác rị duệ phấn. 428. Ca bát rị duệ phấn 429. A địa mục chất đa 430. Ca thi ma xá na 431. Bà tư n��� duệ phấn 432. Diễn kiết chất 433. Tát đỏa bà tỏa 434. Mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa. ÐỆ NGũ 435. Ðột sắc tra chất đa 436. A mạt đác rị chất đa 437. Ô xà ha ra 438. Dà ba ha ra 439. Lô địa ra ha ra 440. Ta bà ha ra 441. Ma xà ha ra 442. Xà đa ha ra 443. Thị tỉ đa ha ra 444. Bạt lược dạ ha ra 445. Kiền đà ha ra 446. Bố sử ba ha ra 447. Phả ra ha ra 448. Bà tả ha ra 449. Bát ba chất đa 450. Ðột sắc tra chất đa. 451. Lao đà ra chất đa 452. Dược xoa yết ra ha 453. Ra sát ta yết ra ha 454. Bế lệ đa yết ra ha 455. Tỳ xá giá yết ra ha 456. Bộ đa yết ra ha 457. Cưu bàn trà yết ra ha 458. Tất kiền đà yết ra ha 459. Ô đát ma đà yết ra ha 460. Xa dạ yết ra ha 461. A bá tất ma ra yết ra ha. 462. Trạch khê cách 463. Trà kỳ ni yết ra ha 464. Rị Phật đế yết ra ha 465. Xà di ca yết ra ha 466. Xá câu ni yết ra ha 467. Lao đà ra 468. Nan địa ca yết ra ha 469. A lam bà yết ra ha 470. Kiền độ ba ni yết ra ha 471. Thập phạt ra 472. Yên ca hê ca 473. Trị đế dược ca 474. Ðát lệ đế dược ca 475. Giả đột thác ca 476. Ni đề thập phạt ra 477. Tỉ sam ma thập phạt ra 478. Bạt để ca 479. Tỷ để ca 480. Thất lệ sắc mật ca 481. Ta nể bát để ca 482. Tát bà thập phạt ra 483. Thất lô kiết đế 484. Mạt đà bệ đạt lô chế kiếm 485. A ỷ lô kiềm 486. Mục khê lô kiềm 487. Yết rị đột lô kiềm 488. Yết ra ha 489. Yết lam yết noa du lam 490. Ðản đa du lam 491. Hất rị dạ du lam 492. Mạt mạ du lam 493. Bạt rị thất bà du lam 494. Tỷ lật sắc tra du lam 495. Ô đà ra du lam 496. Yết tri du lam 497. Bạt tất đế du lam 498. Ô lô du lam 499. Thường dà du lam 500. Hắc tất đa du lam 501. Bạt đà du lam 502. Ta phòng án dà 503. Bát ra trượng dà du lam 504. Bộ đa tỷ đa trà 505. Trà kỳ ni 506. Thập bà ra 507. Ðà đột lô ca 508. Kiến đốt lô kiết tri 509. Bà lộ đa tỳ 510. Tát bát lô 511. Ha lăng già 512. Du sa đát ra 513. Ta na yết ra 514. Tỳ sa dụ ca 515. A kỳ ni 516. Ô đà ca 517. Mạt ra bệ ra 518. Kiến đa ra 519. A ca ra 520. Mật rị đốt 521. Ðát liểm bộ ca 522. Ðịa lật lặc tra 523. Tỷ rị sắc chất ca 524. Tát bà na câu ra 525. Tứ dẫn dà tệ 526. Yết ra rị dược xoa 527. Ðác ra sô 528. Mạt ra thị 529. Phệ đế sam 530. Ta bệ sam 531. Tất đát đa bát đác ra 532. Ma ha bạt xà lô 533. Sắc ni sam 534. Ma ha bát lặc trượng kỳ lam 535. Dạ ba đột đà 536. Xá dụ xà na 537. Biện đát lệ noa 538. Tỳ đà da 539. Bàn đàm ca lô di 540. Ðế thù 541. Bàn đàm ca lô di 542. Bát ra tỳ đà 543. Bàn đàm ca lô di 544. Ðát điệt tha 545. Án 546. A na lệ 547. Tỳ xá đề 548. Bệ ra 549. Bạt xà ra 550. Ðà rị 551. Bàn đà bàn đà nể 552. Bạt xà ra bán ni phấn 553. Hổ hồng đô lô ung phấn 554. Ta bà ha.
8 notes
·
View notes
Text
Nắng nóng tới mức nung chảy cả giày leo núi ở khu Grand Canyon
Thứ Năm, 25/06/2020 lúc 22:53
Cơ quan Công viên Quốc gia Mỹ ngày 24/6 cảnh báo du khách rằng thời tiết nóng cực độ đang là nguy cơ lớn, đến mức có thể nung chảy đế giày leo núi.
Trong một tweet ngày 22/6, Cơ quan Công viên Quốc gia Mỹ, quản lý các vườn quốc gia ở nước này, đăng ảnh cho thấy thời tiết nóng cực độ ở khu địa danh Grand Canyon có thể làm keo dính trong ủng leo núi bị chảy, làm giày bị rời ra.
Cảnh báo này được đưa ra sau nhiều lo ngại và khuyến cáo về thời tiết nóng cực độ ở miền Tây nước Mỹ.
Nhiệt độ tại Grand Canyon (bang Arizona) được dự đoán sẽ lên 44 độ C vào ngày 24/6. Nhiệt độ còn cao hơn ở độ cao thấp hơn.
Tweet nói trên viết: “Grand Canyon là môi trường khắc nghiệt. Nhiệt độ bên trong hẻm núi có thể làm giày bị long ra, ủng dày quá có thể hấp hơi và làm chân bị sưng. Trước khi leo núi, hãy hiểu giới hạn của mình và dụng cụ”. Ảnh: Twitter.
Cơ quan Thời tiết Quốc gia đã ra “Cảnh báo Thời tiết nóng Quá mức” đối với độ cao dưới 1,2 km ở khu Grand Canyon, và cũng cho biết nhiệt độ cao hơn khi xuống độ cao thấp hơn. Cơ quan này khuyến cáo mọi người trong khu vực hãy uống đủ nước và tránh ánh nắng Mặt Trời.
“Nhiệt độ có thể khác biệt lớn giữa các đỉnh và núi, so với các thung lũng và hẻm nũi”, nhà địa chất học của CNN Haley Brink nói.
Hiện tượng nhiệt độ cao khi độ cao thấp là do ở độ cao thấp, không khí bị nén lại, và không khí bị nén lại sẽ thải ra nhiều năng lượng. Điều này khiến khối không khí nóng lên.
Nhiệt độ ở đỉnh của khu Grand Canyon có thể vào khoảng 32 độ C, nhưng xuống đáy thung lũng, có thể tăng lên khoảng 10-15 độ C.
Hình minh họa cho thấy nhiệt độ có thể tăng từ 32 độ C ở đỉnh núi lên 38 độ C và 46 độ C ở thung lũng. Đồ họa: CNN.
Phần lớn miền tây nước Mỹ đang có cảnh báo về nhiệt vào tuần này, vì nhiệt độ nóng bao trùm cả khu vực. Nhiệt độ của miền này luôn cao vào mùa hè, nhưng các nhiệt độ cao nhất của tuần này cũng sẽ gần như là cao nhất trong cả năm, theo CNN.
Nhiệt độ cao đang diễn ra đúng vào mùa cháy rừng, dự báo sẽ kéo dài tới tháng 7. Nguy cơ cháy rừng đang được dự báo ở mức “trên bình thường” ở một số nơi phía tây nam nước Mỹ.
Cháy rừng đang diễn ra ở phía tây bắc bang Arizona đã khiến vành phía Bắc của khu Grand Canyon phải tạm thời đóng cửa.
Trọng Thuấn
!function(f,b,e,v,n,t,s) {if(f.fbq)return;n=f.fbq=function(){n.callMethod? n.callMethod.apply(n,arguments):n.queue.push(arguments)}; if(!f._fbq)f._fbq=n;n.push=n;n.loaded=!0;n.version='2.0'; n.queue=[];t=b.createElement(e);t.async=!0; t.src=v;s=b.getElementsByTagName(e)[0]; s.parentNode.insertBefore(t,s)}(window, document,'script', 'https://connect.facebook.net/en_US/fbevents.js'); fbq('init', '175226273524464'); fbq('track', 'PageView');
Bài viết Nắng nóng tới mức nung chảy cả giày leo núi ở khu Grand Canyon đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Zuyt.
from Zuyt https://zuyt.com/kham-pha/nang-nong-toi-muc-nung-chay-ca-giay-leo-nui-o-khu-grand-canyon/
0 notes
Text
Những người anh hùng trung nghĩa nổi tiếng trong lịch sử thế giới
Cổ nhân xem trọng chữ Trung, dẫu là tìm bạn tri kỷ, thuộc hạ hay nhân tài giúp nước thì chữ Trung đều được đặt ở trên hết. Bởi vì người vị kỷ thì nhiều tư tâm và tà niệm, người vị tha trong tâm ngay chính mới có thể giữ trọn vẹn đạo trung nghĩa.Chữ “Trung” (忠) giải tự gồm chữ 中 (trung tâm, ở giữa) ở trên và chữ 心 (tâm) ở dưới. Trong đó chữ 中 ở trên do chữ 口 (khẩu) và một nét sổ xuống hợp thành. Nét sổ xuống chia đôi chữ khẩu, mang ý nghĩa làm việc phải vô tư, công tâm và minh bạch, công bằng không thiên vị. Nét sổ thẳng đứng xuống vào chữ khẩu cũng mang ý nghĩa lời nói cần nhất quán, trước sau như một. Tất cả những điều đó được nâng đỡ bởi nền tảng là chữ 心 (tâm) ở dưới mang ý nghĩa cần ghi nhớ sự trung thành vô tư không vụ lợi.Trong lịch sử thế giới có nhiều bậc anh hùng trung nghĩa, điển hình nhất là Lý Thuấn Thuần của Triều Tiên, Trần Quốc Tuấn thời nhà Trần của Đại Việt, và Nhạc Phi thời nhà Tống của Trung Hoa.
Lý Thuấn Thuần
Dù bị vua đố kỵ, bị triều đình lạnh nhạt, bị khép tội làm phản và tra tấn bằng cực hình, Lý Thuấn Thuần vẫn trung nghĩa ra trận, giải nguy cho Triều Tiên với một trận thủy chiến hàng đầu trong lịch sử thế giới.Lý Thuấn Thuần giữ chức “Tam đạo Thủy quân Thống chế sứ” nghĩa là “Tư lệnh ba đạo Hải quân” của Triều Tiên vào cuối thế kỷ 16. Ông là người thiết kế tàu con rùa nổi tiếng trong lịch sử, giúp thủy quân Triều Tiên làm chủ hoàn toàn vùng biển của mình, nhiều lần đánh bại các tàu chiến của Nhật Bản.Lãnh chúa Hideyoshi sau khi thống nhất Nhật Bản muốn tiến đánh Triều Tiên, nhưng rất lo ngại Lý Thuấn Thuần. Để loại bỏ vị tướng tài này, Hideyoshi đã lợi dụng sự sợ hãi của vua đối với công trạng của ông, sử dụng kế phản gián khiến Lý Thuấn Thuần bị hiểu lầm, khiến ông bị mất chức, bị tra tấn để ép cung nhưng không thành. Cuối cùng, Lý Thuấn Thuần vẫn bị hạ làm binh nhì, tức lính cấp bậc thấp nhất.Không còn Lý Thuấn Thuần chỉ huy, thủy quân Triều Tiên trước sức ép buộc tấn công của triều đình, đã bị quân Nhật tiêu diệt hoàn toàn, chỉ còn 13 tàu may mắn thoát được. Mất thủy quân, lại đứng trước tình cảnh quân Nhật tiến đánh vào vùng biển Hoàng Hải để tiến vào kinh thành, vua Triều Tiên hoảng sợ vội vàng phục chức cho Lý Thuấn Thuần.
Lúc này Triều Tiên chỉ còn 13 tàu cùng 1.500 quân để ngăn đại quân hàng trăm tàu của Nhật Bản. Đây là điều không thể, nhiều người can ngăn Lý Thuấn Thuần nhận chức vụ này. Thế nhưng đứng trước cảnh Giang sơn lâm nguy, Lý Thuấn Thuần vẫn phụng chỉ lãnh sứ mệnh. Điều này thể hiện tấm lòng trung nghĩa vì triều đình và Giang sơn Xã tắc trước sau như một của ông.Để có thể dùng 13 tàu chặn cả đội quân hàng trăm tàu Nhật Bản, Lý Thuấn Thuần tìm và chọn vùng biển Myeongnyang làm nơi quyết chiến. Đây là eo biển nhỏ, nên nếu quân Nhật tấn công thì chỉ tấn công được mặt chính diện, chứ không thể dựa vào số đông mà bao vây 3 mặt được. Mặt khác do tính chất của eo biển nên nơi đây có nhiều dòng nước xoáy mạnh, nếu tàu quân Nhật vào đây sẽ rất khó xoay sở trước những dòng nước xoáy này.Quân Nhật tấn công vào eo biển Myeongnyang với 133 tàu chiến loại lớn và 200 tàu hậu cần. Lý Thuấn Thuần lệnh cho 13 tàu của mình tiến đến vị trí đã chuẩn bị từ trước. Tuy nhiên nhận thấy các tàu Nhật Bản quá đông và hùng mạnh, 12 tàu Triều Tiên sợ hãi bất ngờ chạy chậm dần rồi đứng hẳn lại, chỉ còn duy nhất tàu của Lý Thuấn Thuần vẫn tiến lên.Lúc này Lý Thuấn Thuần hiểu rằng nếu mình cũng dừng lại thì sẽ mất hết tất cả, Giang sơn sẽ mất về tay quân Nhật, vì thế dù chỉ một một tàu của mình ông vẫn lệnh tiến lên, thể hiện tấm lòng trung nghĩa quả cảm.Ông viết trong hồi ký của mình như sau: “Tàu của ta đơn độc trước quân địch. Chỉ có mình tàu của ta nổ súng và bắn tên. Không có chiếc tàu nào khác tiến lên, vì thế ta không chắc chắn về kết quả của cuộc chiến. Tất cả những tướng khác đều muốn chạy trốn, vì họ biết rằng trận chiến này họ phải đối mặt với một lực lượng khổng lồ”.Lý Thuấn Thuần cũng không trách bất kỳ ai đã cho tàu của họ dừng lại, bởi ông hiểu rằng đối mặt với lực lượng to lớn lại vượt trội hơn mình hàng chục lần thì khó mà có thể đòi hỏi người khác cũng giống như mình.Tuy nhiên, chiến cuộc đúng như Lý Thuấn Thuần dự đoán. Eo Myeongnyang nhỏ hẹp, các tàu Nhật đi sát lại gần nhau, gặp phải dòng nước xoáy khiến chúng va vào nhau, tàu Nhật trở thành mục tiêu thuận lợi cho pháo của Lý Thuấn Thuần. 12 tàu còn lại của Triều Tiên thấy tình hình thuận lợi mới bắt đầu gia nhập chiến trận.Trận Myeongnyang khiến quân Nhật thảm bại, và tạo nên nền tảng để thủy quân Trung Hoa tiến sang giúp đỡ Triều Tiên, cuối cùng dập tắt hoàn toàn tham vọng bành trướng của Nhật Bản.Trận Myeongnyang được xem là trận đánh chênh lệch nhất trong lịch sử hải quân thế giới, và nó cũng thể hiện tấm lòng trung nghĩa quả cảm hiếm có của Lý Thuấn Thuần.
Trần Quốc Tuấn
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã vượt qua mối tư thù, thể hiện tấm lòng trung nghĩa với quốc gia và với dân tộc.Năm 1237, vua Trần Thái Tông mãi vẫn chưa có con, điều này khiến nhiều tôn thất nhà Trần lo lắng rằng hậu vận nhà Trần không có người nối dõi. Lúc này anh ruột của Vua Trần Thái Tông là Trần Liễu có vợ là bà Thuận Thiên đang mang thai 3 tháng. Trần Thủ Độ liền ép bà Thuận Thiên phải làm vợ của vua Trần Thái Tông, tức ép Vua phải lấy chị dâu đang mang thai.Bị mất vợ, Trần Liễu tức giận tạo phản, bất ngờ đem quân đánh chiếm kinh thành, nhưng Trần Thủ Độ đa mưu nên đề phòng sẵn. Quân của Trần Liễu chưa đến kinh thành thì đã bị bao vây.Trần Liễu thua chạy trốn, biết chỉ có Vua mới cứu được mình, liền hẹn Vua tới sông cái rồi đem thân tới đầu hàng. Khi Trần Thủ Độ tới thì vua Thái Tông hết lòng che chở cho anh mình, nhờ đó Trần Liễu thoát tội. Trong khi đó các quân tướng đi theo Trần Liễu thì đều bị bắt và xử chém hết.Một mình An Sinh Vương Trần Liễu thoát chết về Ngũ Yên sinh sống. Ông rất yêu thương con cái của những thuộc tướng trung thành đã chết vì mình, tìm người giỏi võ nhất về để chỉ dạy, đến khi lớn lên họ trở thành trụ cột của đội quân Ngũ Yên tinh nhuệ nhất trong sử Việt.Đồng thời Trần Liễu cho con trai của mình là Trần Quốc Tuấn đến kinh thành Thăng Long ăn học ở nhà em gái là Thụy Bà công chúa, tìm thầy giỏi về dạy học cho Quốc Tuấn. Ngay từ thời trẻ Trần Quốc Tuấn đã giỏi võ và thông thạo binh pháp. Trần Liễu hy vọng rằng Trần Quốc Tuấn có trong tay đội quân tinh nhuệ Ngũ Yên sẽ phục thù được cho mình.Năm 1251, An Sinh Vương Trần Liễu qua đời, đã trăng trối với Trần Quốc Tuấn rằng: “Con không vì cha mà lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được.”Khi đại quân Mông Cổ ba lần tiến đánh Đại Việt, Trần Quốc Tuấn giữ chức Tiết chế binh mã, có nhiều cơ hội lật đổ và lên ngôi Vua, thực hiện lời trăng trối của cha mình, nhưng ông đều lấy Giang sơn Xã tắc làm trọng, hết lòng đem tài thao lược lần lượt 3 lần đánh bại quân Mông Cổ, thể hiện là con người trung nghĩa hiếm có trong lịch sử.
Con Trần Quốc Tuấn là Trần Quốc Tảng từng nhắc lại lời trăng trối của An Sinh Vương Trần Liễu, muốn cùng ông cướp ngôi vua. Trần Quốc Tuấn nổi giận rút gươm toán chém đứa con này. Nhiều người phải can ngăn ông mới thay đổi ý định nhưng từ đó kiên quyết không gặp Quốc Tảng. Thậm chí ông dặn dò sau này ông chết, đậy nắp quan tài rồi mới cho Tảng vào viếng.Một số người cho rằng Trần Quốc Tuấn không phải là không có dã tâm, chỉ là không chọn được thời cơ thích hợp. Thế nhưng Trần Quốc Tuấn nắm trong tay đội quân mạnh nhất, mà trụ cột lại là con cháu của tướng lĩnh từng bị triều đình giết hại, không có lý nào ông không thể cướp ngôi. Mặt khác, lá số tử vi của Trần Quốc Tuấn được ghi lại trong cuốn Đông A di sự còn cho thấy ông là bậc thánh nhân trung nghĩa.Nhờ có một người trung nghĩa như Hưng Đạo Vương, Đại Việt mới có cơ hội 3 lần đánh tan đội quân mạnh nhất trong lịch sử, khắc ghi điểm sáng chói lọi trong lịch sử thế giới. Chiến công đó cũng đồng thời đưa người anh hùng Trần Quốc Tuấn trở thành con người trung nghĩa hiếm có trong lịch sử.
Nhạc Phi
Nhạc Phi thời Nam Tống không chỉ trung thành với Hoàng đế, với Giang sơn, mà còn trung thành với cả bách tính.Năm 1126, quân Kim nam tiến đánh Tống, bắt được cả vua Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông cùng rất nhiều phi tần, công chúa, tất cả đến vài nghìn người mang về nước. Vợ chồng Tần Cối cũng bị bắt mang về Kim trong thời gian này, và tỏ lòng thần phục vua Kim.Lúc này trong số hoàng thân nhà Tống có Triệu Cấu may mắn thoát được, chạy xuống phía nam, lên ngôi Vua gọi là Tống Cao Tông, lập ra nhà Nam Tống. Nhà Kim biết chuyện liền thả Tần Cối về nước để Tần Cối nắm lấy quyền hành nhà Nam Tống, có cơ hội dâng cả Giang sơn nhà Tống cho nước Kim. Tần Cối về nước được thăng dần lên chức Tể Tướng.Năm 1130, tướng Kim là Ngột Truật dẫn đại quân tiến xuống phía nam, vượt sông Trường Giang đánh Tống. Nam Tống đứng trước nguy cơ diệt vong. Tuy nhiên đội quân nước Kim bị chặn lại bởi nhà Tống vẫn còn một vị tướng tài giỏi, đó là Nhạc Phi.Nhạc Phi trong tay chỉ có 4 vạn quân nhưng đã đánh tan đại quân của Ngột Truật, đồng thời đánh bại quân Kim ở khắp nơi, chẳng mấy chốc thu lại một nửa Giang Nam (vùng đất phía nam sông Trường Giang) cho Nam Tống.Năm 1136, Nhạc Phi dẫn quân đánh bại quân Kim thu hồi lại các vùng đất của Nam Tống. Ông xây dựng đội quân Nhạc Gia kỷ luật có lúc lên đến 20 vạn người, quy tụ hầu hết các anh hùng lúc đó, trở thành đội quân chủ lực đánh Kim.Không chỉ trung với Vua, Nhạc Phi còn thể hiện lòng trung nghĩa với cả bách tính. Ông kỷ luật quân đội rất nghiêm, chủ trương răn dạy quân sĩ: “Đống tử bất sách ốc, ngạ tử bất đả lỗ” nghĩa là “Chết rét không cướp nhà, chết đói không cướp lương thực”. Nhạc Phi nhiều lần cho con trai là Nhạc Vân lấy lương thực trong quân cứu dân khiến sinh linh nước Tống đội ơn sâu.
Quân Nhạc Gia đánh thắng đến đâu, dân chúng đều mang đồ ăn đến cùng quân Nhạc Gia mừng chiến thắng. Mỗi khi công phá được một thành trì, dân chúng đứng hai bên đường hoan nghênh, nhiều người còn quỳ lạy cảm tạ mãi không dậy.Khi quân sĩ bị bệnh, Nhạc Phi đích thân đến thăm hỏi. Gia đình binh sĩ gặp khó khăn, Nhạc Phi đề xuất quan địa phương tặng nhiều lụa là gấm vóc. Chế độ thưởng phạt công minh khiến Nhạc Gia quân rất hùng mạnh.Nhạc Vân dù tuổi còn trẻ nhưng chỉ huy đội tinh binh trong Nhạc Gia quân, luôn đi tiên phong đánh đâu thắng đấy, lập nhiều công trạng. Dù thế mỗi khi ghi công trạng báo cho triều đình, Nhạc Phi đều ghi rõ công lao của các binh tướng mà không nhắc gì đến công trạng con trai mình.Thời đấy các tướng quân hay quan viên có một chút chức quyền thì đều có 5 thê 7 thiếp, tuy nhiên Nhạc Phi luôn chung thủy duy nhất với người vợ của mình. Ngô Giai từng tìm một cô gái con nhà danh sỹ tặng cho Nhạc Phi, Nhạc Phi đứng sau tấm bình phong nói: “Người nhà tôi đều mặc áo vải, ăn thức ăn thô dở, nếu có thể đồng cam cộng khổ thì xin mời ở lại, còn nếu không tôi không dám giữ”, rồi cho người đưa cô gái này trả lại. Khi nhiều người nói không nên làm tổn thương mối gia tình với Ngô Giai, Nhạc Phi đáp rằng: “Nay mối nhục của đất nước còn chưa rửa sạch được, phải đâu là lúc đại tướng an nhàn vui chơi?”. Sau này Ngô Giai biết chuyện lại càng thêm kính trọng Nhạc Phi.Năm 1137, quân của Nhạc Phi đánh bại quân chủ lực của Kim tại Yển Thành, Toánh Dương. Nhạc Phi cho quân vượt sông truy kích quân Kim để thu về trọn vẹn Giang sơn cho nhà Tống. Thậm chí binh sĩ hăng hái muốn tiến sang nước Kim để cứu vua Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông.Để cứu vãn tình thế, Kim Ngột Truật viết thư cho Tần Cối nói rằng: “Triều đình nhà ngươi xin cầu hòa với triều đình Đại Kim ta, nhưng Nhạc Phi cứ muốn đoạt Trung Nguyên khỏi tay chúng ta. Ngươi nhất định phải tìm cách giết Nhạc Phi, chúng ta mới đồng ý nghị hòa.”Tần Cối cũng sợ nếu Nhạc Phi tiến ra bắc, âm mưu hàng quân Kim của mình bị bại lộ, nên nói với vua Tống Cao Tông rằng nếu Nhạc Phi tiến ra bắc, quân Kim thua trận phải nghị hòa trao trả lại vua Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông, thì Đế vị của Tống Cao Tông sẽ mất.Vua Tống Cao Tông nghe lời Tần Cối, trong một ngày liên tiếp ra 12 đạo kim bài buộc Nhạc Phi lui quân, Nhạc Phi than thở: “Thập niên nỗ lực, hủy vu nhất đán! Xã tắc Giang sơn, nan dĩ trung hưng! Kiền khôn thế giới, vô do tái phục!” nghĩa là: “Mười năm gắng sức, hủy hết một khi! Giang sơn xã tắc, khó bề trung hưng! Càn khôn thế giới, vô phương hồi phục!”Chưa dừng lại ở đó Tần Cối cho một số gian thần vu cáo Nhạc Phi và phó tướng là Trương Hiến làm phản lên triều đình. Vua Tống Cao Tông nghe tin thì rất tức giận. Cái chết của Nhạc Phi có rất nhiều phiên bản khác nhau. Có phiên bản kể rằng ông buộc phải uống rượu độc, có phiên bản lại nói dù bị tra tấn rất dã man, Nhạc Phi vẫn quyết không nhận tội, và cũng quyết không vượt ngục để thể hiện lòng trung. Nhạc Phi, Nhạc Vân và Trương Hiến đã chết trong sự khóc thương của muôn dân trăm họ.Nhạc Phi tinh trung báo quốc, thương dân như con, trở thành người anh hùng mãi mãi được nhân gian truyền tụng. Ông đã triển hiện đầy đủ cho người đời thấy thế nào mới là trung nghĩa.Trần Hưng https://dangnho.com/doi-song/van-hoa/nhung-nguoi-anh-hung-trung-nghia-noi-tieng-trong-lich-su-the-gioi.html
0 notes
Text
Cung Toại trung thành can gián thờ chủ – Dẹp đạo tặc trong hoà bình
Cung Toại là một quan viên địa phương vào thời kỳ Tuyên Đế nhà Tây Hán, chức quan không lớn, nhưng con người lại vô cùng cương trực, trung thành thờ chủ, là một bầy tôi dám can gián. Ông làm quan thanh liêm, yêu thương dân chúng, đã từng không cần dùng một binh lính, mà dẹp được phản loạn ở vùng biển Bột Hải, được hoàng đế đánh giá rất cao. Trung thành can gián vua Cung Toại thông hiểu kinh thuật, làm Trung lang lệnh ở nước Xương Ấp, thờ phụng Xương Ấp vương là Lưu Hạ. Lưu Hạ là người chỉ biết ăn chơi hưởng thụ, hành vi không đoan chính, Cung Toại rất lo lắng. Ông khiển trách thái phó và quốc tướng không thể khuyên ngăn Lưu Hạ đi trên chính đạo, Cung Toại viện dẫn kinh điển, thống thiết trình bày được mất, bày tỏ chỗ yếu hại, thường hay nói đến chỗ thương tâm, khóc lóc đến rớt nước mắt. Về những chuyện đại sự, Cung Toại trước giờ không hề hàm hồ, cũng chưa hề nịnh hót Lưu Hạ, thường trực diện nói ra những lỗi lầm của ông, nói đến mức Lưu Hạ vô cùng chật vật. Một lần, Cung Toại đang nói thì Lưu Hạ bịt tai chạy đi mất, nói rằng: “Lời của lang trung lệnh, thật là những lời khiến người ta phải hổ thẹn!” Nước Xương Ấp từ trên xuống dưới đều kính nể Cung Toại. Nhưng Lưu Hạ này đúng là thói xấu khó bỏ, vẫn cứ ăn uống chơi bời như cũ, tiêu tiền như nước. Cung Toại bèn quỳ hai đầu gối dưới đất mà đi vào cung khuyên can. Mặt đầy nước mắt cảm động đến mức khiến những người xung quanh cũng phải rơi lệ. Lưu Hạ còn nói hoang đường: “Lang trung lệnh vì sao mà khóc thế?” Cung Toại nói: “Quốc gia nguy rồi, lòng thần đau đớn! Hy vọng ngài có thể tĩnh tâm nghe ngu kiến của thần.” Lưu Hạ chỉ còn cách bảo bộ hạ lui đi. Cung Toại nói: “Đại vương ngài có biết chuyện Giao Tây Vương làm ác mà diệt vong không?” Lưu Hạ mù mờ, nói rằng không biết. Cung toại nói: “Giao Tây Vương có một thần tử vô cùng biết cách nịnh nọt tên là Hầu Đắc, Giao Tây Vương không e dè làm những việc xấu giống như vua Kiệt nhà Hạ và vua Trụ nhà Thương vậy, Hầu Đắc lại đem ông ta so sánh với Nghiêu Thuấn, Giao Tây Vương chỉ thích nghe những lời dễ nghe, ngày càng tin vào những yêu ngôn của Hầu Đắc, cuối cùng người chết nước mất. Đại Vương ngài thân cận tiểu nhân như thế này, là đang đi theo vết xe đổ của Giao Tây Vương đó.” Lưu Hạ ngẩn người ra, Cung Toại nhân cơ hội nói: “Nếu ngài không muốn mất nước, thì xin hãy cho phép thần tiến cử một số kẻ sĩ tinh thông Nho học, phẩm đức cao thượng cùng đại vương sinh hoạt. Khi an toạ thì đọc kinh ‘Thi’, ‘Thư’, đi đứng thì diễn tập lễ nghĩa, như vậy mới có thể quản lý quốc gia.” Lưu Hạ đành miễn cưỡng đồng ý. Cung Toại liền cẩn thận lựa chọn mười người có học vấn tốt phẩm hạnh cao ở Trường An đến phụng sự Lưu Hạ. Nhưng Lưu Hạ ngoan cố không thay đổi, chẳng mấy ngày đã đuổi bọn họ đi rồi. Sau đó, trong vương cung thường hay xuất hiện những hiện tượng quỷ dị. Lưu Hạ thường có thể nhìn thấy một số những dị tượng quái vật như thân người đầu chó, gấu và chim bay, mà tả hữu tuỳ tùng lại không nhìn thấy. Có một lần trên chỗ ngồi của Lưu Hạ xuất hiện vết máu, Lưu Hạ có phần phát hoảng, hỏi Cung Toại là nguyên nhân gì. Cung Toại nói: “Đó là Thiên Đế cảnh cáo, ngài đã từng đọc ‘Kinh Thi’, nhưng mà lễ nghĩa quy phạm trong đó ngài đã làm được chưa? Thân làm vua, mà ngôn hành của ngài lại còn ô trọc hơn cả bách tính dân thường, cứ thế này sẽ dẫn đến tai hoạ đó! Máu là biểu tượng cho tối tăm tai ương, không lâu quốc gia sẽ có đại hoạ, ngài còn không mau tự sửa mình?” Lưu Hạ vẫn cứ nghe mà để đấy. Lại khuyên can hoàng đế hư hỏng Vừa khi Chiêu đế băng hà, đại thần Hoắc Quang và quần thần đón Lưu Hạ lập lên làm đế, Lưu Hạ liền mang theo đám tuỳ tùng và thủ hạ vốn không học không nghề vào kinh tức vị. Suốt dọc đường, Lưu Hạ còn cưỡng đoạt dân nữ, đến vùng phụ cận kinh thành, không quỳ xuống hành lễ quốc tang. Sau khi tiến cung, Lưu Hạ càng như cá gặp nước, không màng phép tắc chế độ, kiêu ngạo tự mãn. Cung Toại sốt ruột như lửa đốt, nói với vệ úy cung Trường Lạc: “Đại vương từ khi được lập làm thiên tử, càng ngày càng kiêu ngạo phóng túng, không còn nghe theo lời khuyên nữa. Nay vẫn còn trong kỳ hạn thủ tang tiên đế, mà đã cùng thuộc hạ rượu chè hưởng lạc, đi bằng xe có cờ lớn chín dải màu, chạy loạn khắp nơi, việc này trên thì không hợp thiên lý quốc pháp, dưới thì cô phụ lê dân bách tính, lệch quá xa khỏi chính đạo.” “Thời xưa pháp chế khoan dung rộng rãi, các đại thần nếu gặp phải quân vương vô đạo, thì có thể ở ẩn. Nay không thể từ quan, tôi muốn giả điên giả khùng, từ quan tránh hoạ, lại sợ bị triều thần biết được, một mai chết đi, sẽ trở thành trò cười cho thiên hạ. Ngài trước kia là tướng quốc của hoàng thượng, thì nên mau chóng thẳng thắn khuyên can.” Đáng tiếc người trung thành thẳng thắn nhân hậu như Cung Toại cuối cùng vẫn chưa thể khiến cho Lưu Hạ tâm hồi ý chuyển. Lưu Hạ chỉ tại vị 27 ngày thì bị triều thần đuổi khỏi ngôi vị, trong thời gian một tháng ngắn ngủi này, bình quân mỗi ngày Lưu Hạ phạm đến gần 40 lỗi không hợp với phép tắc. Sau khi Lưu Hạ bị phế, các quần thần và tuỳ tùng từ nước Xương Ấp đến do phạm tội dung túng cho quốc vương nên bị hãm vào tội vô đạo, tất cả đều bị xử chết. Duy chỉ có Cung Toại và Vương Dương nhiều lần khuyên can Lưu Hạ, đã thực thi chức trách của mình nên được miễn trừ tội chết. Đối sách cho Tuyên đế Lưu Hạ bị phế, Tuyên Đế tức vị. Sau khi Hán Tuyên Đế lên ngôi một đoạn thời gian, quận Bột Hải và khu vực lân cận có nạn đói, thế là đạo tặc nổi lên khắp nơi, bách tính không thể yên ổn, dân bị đói liền muốn nổi dậy tạo phản. Lúc bấy giờ quan Thái thú quận không có năng lực chế phục bọn họ. Tuyên đế muốn chọn một người có thể bình định được tình hình đi làm thái thú ở quận Bột Hải. Thừa tướng và quan ngự sử đều hết sức tiến cử Cung Toại với hoàng thượng, cho rằng ông có thể gánh vác, có thể vâng mệnh khi hiểm nguy. Hoàng thượng bèn mau chóng ban bố bổ nhiệm thư, để Cung Toại đi quận Bột Hải làm thái thú. Lúc đó Cung Toại đã quá tuổi cổ lai hi, đã hơn 70 tuổi rồi, vóc người thấp bé. Tuyên đế khi triệu kiến thấy tướng mạo của Cung Toại, trong tâm có chút thất vọng, cảm giác so với hình tượng Cung Toại mà các trọng thần tiến cử thì khác xa. Tuyên đế hỏi Cung Toại: “Quận Bột Hải khắp nơi hoảng loạn, kỷ cương pháp luật lỏng lẻo, dân không an định, ông có kế sách gì có thể trị lý được nơi đó, có thể khiến ta kê cao gối ngủ không phải lo lắng?” Cung Toại bình tĩnh đáp lại: “Quận Bột Hải là nơi xa xôi, không có được ân điển giáo hoá của Hoàng thượng, bách tính ở đó bị đói rét bức bách, quan lại địa phương không biết đồng cảm cứu tế, tích oán đã lâu, mới dẫn đến con dân của bệ hạ trộm cướp binh khí của thánh triều, chơi đùa một chút ở bên hồ nước, chứ không phải là bọn họ có lòng phản loạn đâu!” Tuyên đế thấy Cung Toại nói rất có đạo lý, long nhan tỏ vẻ mừng rỡ. Cung Toại hỏi lại hoàng thượng: “Ngài dự tính để thần đi tiêu diệt bọn họ hay là đi vỗ về họ?” Hoàng thượng nói: “Trẫm tuyển hiền lương năng thần đi Bột Hải, đương nhiên là muốn tiến hành vỗ về bọn họ.” Thế là Cung Toại tiến thêm một bước nói ra phương kế thực thi chính sách của mình: “Thần nghe nói trị lý bách tính vốn đã mất đi trật tự, thì như là gỡ cuộn dây rối vậy, dục tốc tất sẽ bất đạt, chỉ có thể từ từ làm, mới có thể đạt được mục đích. Thần hy vọng sau khi nhậm chức, thừa tướng và ngự sử đối với công việc của Thần tạm thời không nên hạn chế như lệ thường, mà cho phép Thần căn cứ vào tình hình thực tế ở địa phương mà xử trí.” Dẹp đạo tặc trong hoà bình Tuyên đế đáp ứng yêu cầu này của Cung Toại, và đặc biệt ban tiền vàng cho ông, để ông sắm thêm xe ngựa đi lại. Cung Toại ngồi trên xe ngựa vua ban tiến vào địa giới quận Bột Hải, các quan lại ở quận phủ nghe nói có thái thú mới đến nhậm chức, liền phái quan binh xếp hàng nghênh tiếp, Cung Toại thấy vậy, liền bảo bọn họ lui đi hết, lập tức phát ra công văn, lệnh cho các huyện sở thuộc triệt bỏ hết quan lại và chức vị chuyên để truy bắt đạo tặc. Cung Toại còn phân chia lương dân và đạo tặc một cách trí tuệ: Những người nào tay cầm nông cụ thì đều là lương dân, quan lại không được hỏi tội họ, còn những người mang theo binh khí thì mới tính là đạo tặc. Rồi Cung Toại không mang theo bất cứ tuỳ tùng nào, chỉ có một mình ngồi xe đến quận phủ. Cách làm của Cung Toại được mọi người tín nhiệm, rất nhanh chóng bách tính trong quận đều lần lượt an định trở lại, đạo tặc cũng ngừng hoạt động. Trong quận Bột Hải còn có một số người kết bè trộm cướp, sau khi nghe được giáo lệnh của Cung Toại, liền tự động giải tán, buông bỏ binh khí trong tay mà cầm lấy nông cụ. Như vậy Cung Toại không phí một binh một tốt, đã bình định được cướp bóc phản loạn, bách tính bắt đầu an cư lạc nghiệp. Rồi Cung Toại cho mở kho thóc, lấy thóc cho bần nông mượn, còn tuyển chọn một số quan lại thanh liêm để vỗ về bách tính. Cung Toại phát hiện người ở khu vực Bột Hải ưa tác phong xa xỉ, không coi trọng làm ruộng trồng trọt, chỉ thích buôn bán thương phẩm. Thế là ông tự lấy mình làm gương thi hành chính sách tiết kiệm, khuyên bảo bách tính chăm chỉ làm ruộng canh tác, bảo mỗi người đều trồng một cây du, 100 cây giới (củ kiệu), 50 cây hành, một vườn rau hẹ, mỗi nhà nuôi hai con lợn nái, năm con gà, giúp đỡ họ xây dựng cơ sở vụ nông. Phát hiện trong dân vẫn còn có người mang đao mang kiếm, Cung Toại bèn khuyên họ bán kiếm để mua trâu cày, bán đao để mua nghé, và nói hóm hỉnh: “Tại sao lại mang trên người trâu và nghé?” Đến mùa xuân hạ, Cung Toại ra sức khuyên bách tính đều phải xuống đồng làm việc, đến Thu Đông thì đốc thúc họ thu hoạch. Cung Toại còn cổ động mọi người tích lũy những sản phẩm nông nghiệp phụ như trái cây, củ ấu. Nhờ Cung Toại cần cù đốc thúc, trong quận Bột Hải, nhà nhà đều trữ lương thực, khiến dân dần dần trở nên đầy đủ sung túc, tố tụng và tội phạm trong xã hội ít đi nhiều. Quý tài cử hiền Mấy năm sau, Hán Tuyên đế muốn triệu hồi Cung Toại về kinh thành, quan Nghị tào (quan cấp dưới thái thú) là Vương Sinh yêu cầu được đi theo. Quan Công tào (quan phụ tá chính của thái thú) cho rằng Vương Sinh uống rượu không có tiết chế, không thích hợp để đi theo. Cung Toại lại không nhẫn tâm từ chối, đã đồng ý để Vương Sinh theo mình đi kinh thành. Sau khi đến kinh thành rồi, Vương Sinh mỗi ngày đều uống đến trời đất tối sầm mà vẫn không đi gặp Cung Toại. Có một ngày, Cung Toại được hoàng thượng triệu kiến vào cung, trên đường gặp đúng Vương Sinh đang say tuý luý, Vương Sinh say khướt lớn tiếng gọi Cung Toại, Cung Toại quay đầu hỏi có chuyện gì, Vương Sinh nói: “Giả như nếu hoàng thượng hỏi ngài trị lý Bột Hải thế nào, ngài hãy nói ‘Không phải thần có năng lực gì, mà toàn nhờ vào uy đức của hoàng thượng.’” Cung Toại hiểu ra, Vương Sinh là nhắc nhở ông không được cậy công tự kiêu. Sau khi gặp hoàng thượng, hoàng thượng quả nhiên hỏi Cung Toại về tình hình trị lý Bột Hải, Cung Toại bèn chiểu theo lời của Vương Sinh trả lời bệ hạ. Hoàng thượng vô cùng đánh giá cao sự khiêm tốn lễ độ của Cung Toại, bèn hỏi: “Ông trung hậu khiêm tốn thế này, là làm được như thế nào?” Cung Toại bèn nhân cơ hội, tấu với hoàng thượng rằng: “Thần bất tài, đây đều là nghị tào của thần là Vương Sinh đã nhắc nhở thần.” Hoàng thượng càng bội phục sự độ lượng của Cung Toại, không cướp công của thuộc hạ, quý tài cử hiền. Bởi vì Cung Toại tuổi tác đã cao, hoàng thượng quý tiếc thân thể của ông, bèn để ông phụ trách sắp đặt cung đình Thượng Lâm Uyển, giữ lại ở bên cạnh thiên tử, quản lý công việc tông miếu tế tự, đảm nhiệm chức Thuỷ hoành đô uý, lệnh cho Vương Sinh làm Thuỷ hoành thừa, biểu thị sự khen ngợi và dìu dắt đối với hai người. Tham khảo: “Hán Thư – Tuân Lại truyện – Cung Toại” “Hán Thư – Xương Ấp Vương truyện” vn.minghui.org Read the full article
0 notes
Text
3 người tình Hoàng Phi Hồng: Kẻ mang tiếng giật chồng, người bị bồ trẻ đá
Cùng đảm nhận vai người tình võ sư Hoàng Phi Hồng song các mỹ nữ này lại có lối rẽ riêng trong cuộc sống.
Trong nhiều bộ phim về Hoàng Phi Hồng, nhân vật Thập Tam Di được miêu tả là người vợ thứ tư của Hoàng Phi Hồng, là người Quảng Đông, có nhan sắc kiều diễm và yêu thích võ thuật từ khi còn nhỏ. Trên thực tế, Thập Tam Di được xây dựng trên hình mẫu người vợ ngoài đời thực của Hoàng Phi Hồng là Mạc Quế Lan. Mạc Quế Lan là người vợ thứ 4 của võ sư họ Hoàng, đồng thời cũng là đả nữ giỏi võ, quyền thuật. Trên màn ảnh, nhiều mỹ nữ được giao vai Thập Tam Di lấy hình mẫu từ người vợ ngoài đời thật của Hoàng Phi Hồng như Quan Chi Lâm, Lâm Dĩ Chân, Thiệu Mỹ Kỳ, Mao Thuấn Quân, Mai Diễm Phương... Vai diễn ấn tượng nhất phải kể đến Quan Chi Lâm. Cô được nhận xét là nàng Thập Tam Di kiều diễm nhất, duyên dáng nhất trên màn ảnh.
Quan Chi Lâm (Rosamund Kwan) sinh năm 1962, là một trong những mỹ nữ đẹp nhất màn ảnh Hong Kong thập niên 80 - 90. Với chiều cao lý tưởng, thân hình gợi cảm, sở hữu khí chất cổ điển đậm chất phương Đông, tên tuổi Quan Chi Lâm gắn liền với nhiều danh hiệu mỹ miều như "Hương Giang đệ nhất mỹ nữ", "Đẹp nhất toàn Cảng", "Đệ nhất mỹ nhân Hong Kong"... Năm 1988, Quan Chi Lâm lọt "Top 50 người đẹp nhất thế giới" do tạp chí nổi tiếng của Mỹ - People bình chọn. Cùng năm đó, cô cũng được chọn là "mỹ nhân kinh điển của Hong Kong" và được ví như biểu tượng vẻ đẹp hoàn mỹ của nhiều nước châu Á.
Không chỉ sở hữu nhan sắc kinh diễm hơn người, gia thế của Quan Chi Lâm cũng được liệt vào loại "không phải dạng vừa". Cô có xuất thân từ dòng dõi cao quý, hiển hách, là hậu duệ của dòng họ Qua Nhĩ Giai thị - một trong Bát kỳ của Hoàng tộc Mãn Thanh. Cha Quan Chi Lâm là Quan Ái - Ảnh đế đình đám của Hong Kong, mẹ ruột là Trương Băng Thiến, cũng là mỹ nhân đình đám một thời. Sinh ra trong gia tộc có gia thế, ngay từ khi còn nhỏ đại mỹ nhân họ Quan đã được cha mẹ đưa ra chiến lược làm đẹp, bồi dưỡng tài năng để trở thành mỹ nữ có cuộc sống giàu sang, êm ấm trong tương lai.
Năm 18 tuổi, Quan Chi Lâm gia nhập làng giải trí sau khi cha mẹ ly hôn, kinh tế gia đình đi xuống. Với nhan sắc trời phú, người đẹp xứ Cảng nhanh chóng thu hút được sự chú ý của giới truyền thông và cả các đại gia giàu có. 20 tuổi, nữ diễn viên trẻ quyết định kết hôn với đại gia hơn 18 tuổi - Vương Quốc Tinh bất chấp sự phản đối của cha mẹ. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân này không kéo dài lâu và tan vỡ sau nửa năm vì đại gia họ Vương vốn là kẻ ăn chơi, sở khanh. Bị chồng cũ bêu xấu, sự nghiệp của Quan Chi Lâm bị ảnh hưởng khá nhiều. Nhờ nhan sắc kiều diễm, nữ diễn viên vẫn nhận được nhiều lời mời đóng phim và hợp tác cùng nhiều tài tử hàng đầu lúc bấy giờ như Trương Quốc Vinh, Châu Nhuận Phát, Lưu Đức Hoa, Lương Triều Vĩ, Lý Liên Kiệt...
Sau cuộc hôn nhân đầu đổ vỡ, nàng "Thập Tam Di" đẹp nhất màn ảnh lao vào cuộc tình với các đại gia, bị mang tiếng tiểu tam giật chồng. Thậm chí, Quan Chi Lâm không ngại tuyên bố cô cái gì cũng đều đã thử qua từ người đã có bạn gái đến người đã kết hôn. Bị nói tham tiền, cô chia sẻ: "Người ta nói tôi tham tiền, vì sao lại nói là tham tiền? Ai mà không cần phải ăn cơm? Bạn trai của tôi có tiền hoặc thành công thì là tôi tham tiền hay sao? Chẳng lẽ không thể là họ tham danh tiếng của tôi hay sao?".
23 tuổi, nữ diễn viên "Hoàng Phi Hồng" cặp kè với đại gia Mã Thanh Vỹ - ông xã diễn viên Trần Mỹ Kỳ. Thậm chí, đại mỹ nhân họ Quan còn khiến đồng nghiệp bị áp lực tinh thần, phải sinh non và mất khả năng làm mẹ. Sau 6 năm hẹn hò, Quan Chi Lâm và đại gia họ Mã chia tay. Năm 1992, Quan Chi Lâm cặp kè đại gia Lưu Loan Hùng - "tay sát gái" nổi tiếng xứ Cảng đã có vợ con và cũng hẹn hò với hoa hậu Lý Gia Hân. Ảnh: Quan Chi Lâm và Lưu Loan Hùng.
Chia tay đại gia họ Lưu, người đẹp tiếp tục hẹn hò tình trẻ Hoàng Gia Nặc vào năm 2001. Tuy nhiên, mối tình này chỉ kéo dài 3 năm. Năm 2009, đệ nhất mỹ nhân Hong Kong hẹn hò tỷ phú Trần Thái Minh. Cả hai bí mật kết hôn năm 2014 nhưng chia tay vào một năm sau đó. Sau khi ly hôn, Quan Chi Lâm vẫn oán trách chồng đại gia vì ra đi với hai bàn tay trắng. Ảnh: Quan Chi Lâm và chồng cũ - tỷ phú Trần Thái Minh.
Thất bại trong tình yêu, sự nghiệp không còn hào quang như xưa, Quan Chi Lâm ít đóng phim. Thay vào đó, thỉnh thoảng cô mới tham gia vài sự kiện trong làng giải trí và dành thời gian tâập trung cho công việc kinh doanh thời trang, phát triển thương hiệu riêng.
Truyền thông Hong Kong ước tính tài sản người đẹp U60 lên tới con số 400 triệu NDT (1319 tỷ đồng). Công việc ngày càng thuận lợi đã khiến cho người đẹp này trở thành nữ doanh nhân giàu có. Ở tuổi 57, Quan Chi Lâm quyết định sống độc thân và làm những việc mình yêu thích.
Sở hữu khồi tài sản khồng lồ, ít ai biết rằng, Quan Chi Lâm rất chăm chỉ làm từ thiện. Cô từng quyên góp xây dựng trường Tiểu học ở Quý Châu sau trận động đất Tứ Xuyên năm 2008, ủng hộ phong trào công ích giúp đỡ nhi đồng, góp phần xây dựng Quỹ sự nghiệp, cổ vũ sinh viên start-up.
Nếu Quan Chi Lâm được nhận xét là Thập Tam Di kiều diễm nhất thì Lâm Dĩ Chân được coi là nàng Thập Tam Di xinh đẹp nhất trên màn ảnh. Người đẹp Đài Loan có cơ hội đảm nhận vai diễn này trong phim "Hoàng Phi Hồng và Thập Tam Di" (1994). Trong phim, cô đóng cặp với diễn viên Trương Thần Quang.
Lâm Dĩ Chân sinh năm 1966, là người Đài Loan. Cô gia nhập làng giải trí vào năm 1986 với tác phẩm ấn tượng "Gia đình có cô vợ thần tiên".
Sở hữu nhan sắc xinh đẹp, gương mặt khả ái cùng thân hình gợi cảm song người đẹp họ Lâm (người mặc váy hoa) không mấy mặn mà với làng giải trí. Sau khi kết hôn, cô tập trung chăm sóc tổ ấm nhỏ và rời làng giải trí ở tuổi 30.
Theo truyền thông Đài Loan, Lâm Dĩ Chân hiện định cư ở Mỹ. Trên trang cá nhân, cô thỉnh thoảng chia sẻ hình ảnh cuộc sống riêng với người hâm mộ. Ở tuổi 53, trông nàng "Thập Tam Di" vẫn rất xinh đẹp, đường nét gương mặt cuốn hút. Được biết, cô thường dành thời gian tập yoga và bơi lội để giữ dáng. Sau khi chiêm ngưỡng nhan sắc Lâm Dĩ Chân ở tuổi 53, nhiều fan đã để lại lời nhắn: "Thật đáng tiếc khi cô ấy rời làng giải trí quá sớm", "Cô ấy vẫn đẹp như vậy", "Lâm Dĩ Chân vẫn mãi là nữ thần, thời gian dường như không chạm vào nhan sắc của cô ấy", "Tôi mong cô ấy sẽ quay lại đóng phim"...
Thiệu Mỹ Kỳ đảm nhận vai Thập Tam Di trong "Hoàng Phi Hồng" 2001 của đạo diễn Từ Khắc. Cô gây ấn tượng với vẻ đẹp kiêu sa, lạnh lùng cùng đôi mắt to tròn ấn tượng.
Thiệu Mỹ Kỳ sinh năm 1965, từng là một trong những đại Hoa đán của TVB. Sở hữu vẻ đẹp cá tính, sắc sảo, cô được giao nhiều bộ phim như "Ỷ thiên đồ long ký", "Quyết chiến Thiếu Lâm Tự", "Sau ánh mặt trời", "Hoàng thượng bảo trọng", "Nghĩa bất dung tình"...
Năm 1990, Trịnh Y Kiện trúng tiếng sét ái tình với Thiệu Mỹ Kỳ. Tuy nhiên, lúc đó Thiệu đang là bạn gái giám chế Thích Kỳ Nghĩa. Dù vậy, Trịnh Y Kiện vẫn một lòng chung tình với người đẹp. Năm 1992, anh chàng điển trai mới nhận được cái gật đầu của Thiệu Mỹ Kỳ sau một thời gian dài cô chia tay tình cũ. Sau 2 năm hẹn hò, danh tiếng Trịnh Y Kiện ngày một đi lên trong khi Thiệu Mỹ Kỳ lại đổ bệnh. Đối mặt với tin đồn đường ai nấy đi, tài tử họ Trịnh tuyên bố: "Tôi sẽ chăm sốc cô ấy suốt đời suốt kiếp". Nhưng chỉ sau 5 năm cả hai chia tay. Chấm dứt mối tình 7 năm với đàn chị, ngôi sao "Người trong giang hồ" bị đồn hẹn hò với diễn viên Lương Vịnh Kỳ.
Dù suy sụp sau khi tình yêu tan vỡ nhưng Thiệu Mỹ Kỳ chưa từng trách móc bạn trai. Nữ diễn viên "Nghĩa bất dung tình" vẫn gửi lời chúc phúc cho tình cũ và tham gia hoạt động nghệ thuật. 9 năm sau bị Trịnh Y Kiện "đá", Thiệu Mỹ Kỳ mới hẹn hò với diễn viên Thi Tổ Lam. Tuy nhiên, cuộc tình này cũng không kéo dài lâu và chia tay vào năm 2015 khi cô phát hiện bạn trai có người tình trẻ. Sau 2 cuộc tình đổ vỡ, người đẹp phim "Tuyết sơn phi hồ" không còn thiết tha chuyện tình cảm. Thời gian gần đây cô chỉ tập trung vào việc đóng phim, hạnh phúc với cuộc sống độc thân ở tuổi 54.
Trả lời tờ chinapress, Thiệu Mỹ Kỳ cho hay, sau chia tay Thi Tổ Lam vào năm 2015, không phải không có người theo đuổi cô mà là hiện tại, nữ diễn viên muốn dành thời gian chăm sóc mẹ ruột. Khi không đóng phim, cô lái tự lái xe đưa mẹ đi dạo, ngắm phố phường. Truyền thông Hong Kong cho biết, Thiệu Mỹ Kỳ là người con hiếu thảo. Do mẹ người đẹp phải ngồi xe lăn, rất bất tiện khi di chuyển nên phần lớn thời gian cô muốn ở bên mẹ và chăm sóc bà.
Nhan sắc Thiệu Mỹ Kỳ ở tuổi 54. Cô hài lòng với cuộc sống độc thân hiện tại.
(Theo Dân Việt)
Nguồn: Sưu Tầm
0 notes
Text
HOÀNG MẪU HUẤN TỬ THẬP GIỚI (TÓM TẮT)
Đạo là con đường, có đường mới có lối đi. Nhưng sẽ có sự khác biết, đường gần, đường xa, đường tối, đường sáng. Đi theo con đường chính là Thiên Đạo, được trở về Vô Cực Lý Thiên, tức Thiên đàng. Đạo có ngàn vạn, nhưng đều không phải là con đường chính đưa đến lối giải thoát. Nay Lão Mẫu giáng một sơi dây kim quang ( kim là vàng, tính chất của vàng không đổi cũng giống như Đạo của Thượng Đế, xưa nay không bao giờ đổi) để về Tiên Thiên.
Giới cáo thứ 1, lúc Trời Đất chưa phân chia, còn mù mịt chưa rõ ràng, không có người chỉ là một khối hư linh, có cả thảy chín mươi sáu ức Nguyên Phật Tử cùng đoàn tụ ở TIên Thiên, vô ưu vô lo, không phiền não, tự tại an nhiên luôn theo chân Lão Mẫu. Là nơi Vô Cực, không có âm dương, không đối đãi, nơi cảnh Trời hoàn thiện nhất, tuy thanh tịnh nhưng lại ứng thông, nguồn gốc vạn hóa vạn loại. Từ hội Tý khí số đến, Lão Mẫu lệnh cho Thất Phật trị thế, lo liệu mọi thứ trong càn khôn. Sau một vạn tám năm, khí số định, bầu trời thành tựu, chờ đến hội Sửu mãn, địa hoàn thành. Thanh khí thăng lên thành Thiên bàn, bố trí nhật nguyệt tinh tú, trươc khí giáng xuống, ngưng tụ thành Địa, kết thành hồ hải núi sông. Cho đến hội Dần, trời đất tương giao, nhật nguyệt được hợp chiếu, âm dương tương hội, uyên ương tương hợp, vạn loại đều được sinh ra. Vô Cực là tĩnh, Thái Cực là động, Hoàng Cực tức là càn khôn. Đạo tức lý, lý tức là Đạo. Đạo sinh Nhất, Nhất sinh Nhị, Nhị sinh Tam, nhất bản tán vạn thù, từ không đến có. Nơi Đông Thổ, không có loài người còn thiếu nam nữ nên Lão Mẫu sai Nguyên Phật Tử đi xuống Đông Thổ trị thế, nhưng một lần đi là một lần vê. Bất đắc dĩ, chế ra huyết tửu ( rượu quỳnh tương pha lẫn nước mắt của Lão Mẫu) gạt cho say hết nơi Tam Sơn Pha, lập ra ao tiên, nhân dịp đó thu hồi hết giày Tiên áo Tiên, hẹn khi nào cuối Tam Kỳ Phổ Độ thì sẽ độ các Nguyên Phật Tử trở về, Kể từ lúc đó, các Nguyên Phật Tử mới chịu bôn ba Đông thổ, trị vì thế giới, làm nam làm nữ mà dựng lập nên loài người, ị chiên xào nấu trong hồng trần, Nay thời đã ứng vận, lênh cho Tam Phật thâu viên (Nhiên Đăng Cổ Phật, Thích Ca Mâu Ni Văn Phật và Di Lặc Vương Tôn Phật), chỉ mong Phật tử cầu Thiên Đạo để trở về, còn không tỉnh ngộ, vĩnh viễn bị trụy lạc, khó được trở thân.
Giới cáo thứ 2, đương vốn là Tam Kỳ kiếp nạn, khổ đau không hình dung được. trời sắp già, đất sắp tàn, khí số sắp tận. Nên khai văn vận, rải xuống con đường kim tuyến, xiển dương Thiên Đạo, xưng danh Nhất Quán, truyền đi khắp tận càn khôn. Lão Mẫu sai Phật Di Lặc (Đại Đỗ) chấp chưởng Thiên Bàn, Thiên Nhiên Cổ Phật( Đức Linh Diệu), Trung Hoa Thánh Mẫu ( Hoạt Phật Sư Tôn, Nguyệt Tuệ Bồ Tát) chấp chưởng Đạo bàn. Tại nơi Tiên Thiên, không lưu giữ Tiên Phật Thần Thánh nào cả, cùng đầu thai xuống phàm trần để mượn cơ giáng bút, thay Trời tuyên hóa. Trên độ Thiên thần, dưới độ quỷ hồn u minh, giữa độ thiện nam tín nữ. Thu ngàn bàng môn lẫn vạn giáo đồng quy chính căn. Kì mạt hậu truyền cho Chân Đạo, Minh Sư nhất chỉ, khai mở khóa vàng, được xuất thân kim cang, truyền Hợp Đồng, nguyên chứng trở về Linh Sơn, truyền vô tự chân kinh, chính là Thông Thiên Thần chú, Động niệm chân kinh, được Tiên Phật Thánh đến hộ trì. Cầu Chân Đạo được Thiên bảng ghi danh, địa phủ xóa tên, sắc thân giả tạm này cũng chứng được kim thân, mùa đông không cứng mùa hè không thối, dung nhan tươi tốt. Còn có Đạo thống, là bất nhị pháp môn, Tổ Tổ truyền tiếp đến ngày nay. Người tu tại gia hay xuất gia đều được thành đạo chứng quả, khắp các nơi đều hiện lên sự màu nhiệm để thức tỉnh mê muội của con người, ở trong khổ hải chèo lái pháp thuyền đề cứu vớt chín mươi hai nguyên linh. Việc của Tam Thiên, tại nhân gian Trời phải mượn nhờ người, vì Trời Đất không thể lên tiếng, duy chỉ có người mới có thể thay Trời tuyên hóa. Tu Đạo tất yếu, phải lập chí hướng, lòng phát đại nguyện xung Thiên, khổ khẩu bà tâm, phát lòng từ bi, chỉ dẫn người không mệt mỏi để cùng lên pháp thuyền. Nguyện đã lập là phải hành, chánh kỉ rồi mới hóa người, chỉ mang hư danh, không thực sự làm thì khó trở về cõi Cực Lạc. Hoặc mang bộ mặt giả, biểu diễn khoa trương thì tới phút sau cùng cũng bị trụy lạc khổ hải trầm luân, lúc làm lúc ngưng, nửa đường phế bỏ thì đánh tan linh quang, nén dưới Âm sơn vĩnh viễn khó trở lại thân người. Là lãnh tụ hay đàn chủ đều có trách nhiệm trọng đại, một người ngu thì làm vạn người trụy, hại mình hại người. Nếu là một người minh lý, trí tuệ bao la có thể dẫn Hiền, hóa độ đại chúng, dìu dắt vạn người thành Chân. Mỗi người cần phải phát lòng cương nghị, siêng năng hơn nữa tìm mọi phương pháp độ được người rời mê lên bở giác, dùng mọi phương pháp có thể thôi thúc chúng sanh cùng phát đạo tâm. Tâm phải tựa như mây, tùy lúc biến hóa; ý như nước chảy mọi địa hình. Tùy theo cao thấp, tùy lúc vuông tròn, có thể co có thể duỗi. Hòa theo trào lưu, đời thường của thế gian là một lỗi lớn phải nhận lý thực tu. Quét bỏ tham sân, đoạn diệt si ai để cho thanh tịnh pháp thân. Đạo cao một thước, thì ma cao một trượng, công trình càng cao thì càng nguy hiểm, lúc nào cũng phải cẩn thận. Lên tới cực đỉnh mà trụy lạc xuống là rơi vạn trượng vực sâu, leo càng cao thì té càng đau. Tôn kính Tam Úy ( Thiên Mệnh, Đại Nhân, lời nói của Thánh Nhân), suy nghĩ Cửu Tư (nhìn phải rõ, nghe phải hiểu, sắc mặt phải ôn hòa, diện mạo phải cung kính, lời nói phải trung thực, cẩn thận với việc làm, có nghi vấn thì phải hỏi, lúc giận thì nên nghĩ đến bộ mặt khó nhìn, thấy việc lợi thì nên nghĩ đến chữ nghĩa), tuân hành Tam Tỉnh (làm người có lòng trung thành chăng, kết giao với bạn bè có giữ chữ tín chăng, những gì thầy dạy có ôn lại chăng), thường giữ Tứ vật (việc không hợp lý không nhìn, không hợp lý không nghe, không hợp lý không nói, không hợp lý không làm) thế mới gọi là Hiền Chân.
Giới cáo thứ 3, lãnh ngộ Chân lý hiểu Chân Thiên Đạo, chân không nhưng lại bất không. Hữu tức là vô, vô tứ là hữu, hữu vô vốn là một thể. Săc tức là không, không tức là sắc, nhưng chẳng phải sắc chẳng phải không. Lúc ban sơ, khí chưa phân chia, hỗn độn chưa rõ ràng, vô cực động tức xuất hiện Thái cưc, êm dương mới được định ra chia tam tài, phân tứ tượng, hóa ngũ hành, phân ra lục hậu (năm ngày là một hậu, một tháng có 6 hậu, một năm 72 hậu), liệt ra thất chánh (nhật, nguyệt, kim, mộc, thủy, hỏa, thổ), cùng với cửu cung bát quái, chia ra thuận nghịch, xuất hiện tròn khuyết, sanh ra muôn loại vạn vật. Cổ linh quang (huyền quang khiếu) chính là Chân lý, huyên diệu chí thanh chí hư, không có âm dương, không có đối đãi, không tăng không giảm, không có hình, không tượng nhưng chẳng phải không trống không, không xanh đỏ, không nóng lạnh, không tĩnh không động. Là nguồn gốc vạn hóa, chân huyền cơ thì đều ẩn tại đó, tồn tại ẩn hình, vô sắc vô tướng, nhìn thì chẳng thấy, lắng chẳng nghe, hòa lẫn bao la sắc Không, không có biến động, không có hiển chương, vô vi mà sinh vạn hóa. Là Chân chúa tể, là Đại trung tâm của sự tiến hóa vạn linh, cao vô thượng siêu chín tầng trời, vượt ra ngoài sắc không, sâu vô đáy, bao quát địa phủ, luôn cả Thập Điện U Minh. Quán xuyến cả càn khôn, quán xuyến tam giới, không chỗ nào không quán. Trời cùng với Đất, hợp với vạn loại, rời Lý là trở thành không, miễn cưỡng nói Đạo xưng Chân Nhất để vãn hóa được vũ trụ. Đây mới chính là chân thật căn nguyện, vô cực xưa nay không thay đổi. Đạo ở nơi Trời, nên Trời trong thanh, bố trí tinh tú, vận hành nhật nguyệt, đều do Nhất khí lưu hành. Đạo ở tại Đất, nên Đất ngưng kết, bao quát thành núi sông, sanh ra muôn loài, trưởng dưỡng vạn vật. Đạo ở nơi người, nên người mới đươc sanh, và có tri giác vận động. Người vốn có đạo, nhưng không biết có nên khó được siêu sanh. Lý của Tam giáo vốn không có hai, đều do Lão Mẫu giáng xuống, Lão gọi Kim Đan, Phật gọi Xá Lợi, Nho gọi là Thiên Tánh. Cái linh quang này tuy khác danh nhưng cùng lý, ngàn xưa đến nay không có hai pháp, đạo cũng không có hai đạo. Hiểu được một pháp là biết vạn pháp, mọi pháp đều được thấu hiểu. Từ khi Tam Thánh trở về Lý Thiên, tức là đã ngừng độ, đường kim tuyến bị đứt chỉ tồn giáo ở phương Đông đên nay đã ba nghìn năm. Trời mở hội khoa thi để tuyển bạt anh hào dự hội Long Hoa, Đạo tuy là không, nhưng chẳng phải không, vạn cái có đều thành không. Kiếp sống con người tựa như hạt bắp, lênh đênh giữ lòng biển cả, theo thủy triều lên xuống, bị tửu sắc tài khí làm mê mờ đi nguyên lai Phật tánh. Nhiễm mãi thất tình lục dục che lấp bổn linh, tham vinh hoa phú quý, mắc vòng danh lợi, đâu biết cõi hồng trần là giả tạm, nhận lấy cái khổ lại cho là sướng. Sanh lão bệnh tử, mấy ai có thể thoát khỏi, từ hội Dần cho đến nay đã mấy vạn năm, vòng khổ luân hồi, mãi chuyển không ngừng, xuất ra khiếu này nhập vào khiếu kia, chỉ là thay nhà đổi chỗ.
Giới cáo thứ 4, trong chân có giả giả có chân, nơi hồng trần này là nơi khổ hải, sóng gió mênh mông không ngừng. Kiếp sống con người như phù du, sanh sinh ra chiều chết đi, mấy ai thoát khỏi Địa Ngục Diêm Vương Thập Điện. Dù cho có công danh sự nghiệp, giàu sang phú quý, vợ đẹp con khôn thì thời gian trăm năm như giấc mộng thoáng chốc trôi qua, đường xuống suối vàng cũng biệt ly. Chỉ đáng thương, thế nhân mê muội trong kiếp sống ngũ trược này, Trời và vực phân chia hai đường, đều do một niệm quyết định. Nếu như nhất thời mà tâm niệm sai là vĩnh viễn chịu bi thương. Nỗi đau thống khổ ở nơi địa phủ không sao kể cho hết. Tới Nghiệt Kính Đài, chiếu một cái lộ hết mọi tội ương. Cửu huyền thất tổ đang mong chờ con cháu mình hành công lập đức, thay trời tuyên hóa để trở về Lý Thiên. Nếu bị đè dưới Âm Sơn, đến sáu vạn năm, phải đợi đến nguyên hội sau mà không chắc được thân người cầu được Đại Đạo hoặc không chắc còn thời kì phổ độ.
Giới cáo thứ 5, tam tai bát nạn khắp cõi Diêm Phù Đề, Thời mạt kiếp Đạo kiếp cùng giáng, trời đất, sơn hà đổi thay. Tại sao đạo kiếp cùng giáng? Vì thời Nghiêu Thuấn Vũ thịnh trị, lòng người ngay, lòng Trời thuận không có kiếp giáng. Lòng người ta, chiêu cảm ác nghiệt, phong tục ngày càng ô hạ, lễ kỷ cương của Thánh hiền không ai noi theo, học gian tham quỷ quyệt, lường gạt dối trá. Nhân luân bại, cang cường hoại, thế phong suy đồi, chồng không ra chồng, vợ không ra vợ, con không ra con, tình bạn bè không giữ chữ tín, ngũ luân suy, bát đức phế, kẻ sĩ chỉ nói xuông không hành theo lý. Người làm nông không hiểu lý, như si như dại. Kẻ làm công không cần mẫn, mất đi thực chất. Thương gia bán hàng giả, lường gạt người ngu. Người tu Phật, không giữ tam quy ngũ giới. Kẻ tu TIên bỏ chân pháp đi đường tà. Nho sĩ chưa hiểu lý tự xung là Thánh. Thời buổi này nếu không có đại kiếp hạ giáng thì khó tìm được người hiền lương. Chín chín kiếp, tám mươi mốt giáng khắp toàn cầu, sai ngũ đại ma đại náo Đông Thổ. Dùng vạn pháp, liên hoàn kế thu hết tà ác. Sáu vạn năm, đại thanh toán ứng tại nhân gian. Ngọc và đá cùng phân chia rõ ràng. Khắp bốn bề, nổi yêu phong không nơi yên tĩnh. Mất mùa, hạn hán, cướp bóc chưa đáng sợ bằng nước gió lửa quét sạch toàn cầu, bốn chín ngày đen tối, trời trăng không sáng. Mở cửa địa phủ để thả quỷ hồn đi tìm oán thù, kiếp cang phong quét càn khôn, phá hoại vũ trụ, quét khí tượng, rửa tam giới, biến đổi thế gian. Lão Mẫu không đành nỡ nhìn ngọc đá cùng hủy, cho nên đã giáng một đường dây kim tuyến xuống khuyên người mau thức tỉnh linh tánh, bái Minh Sư cầu Chân Đạo, nhanh chân hành công lập đức, độ hóa mọi người cùng lên pháp thuyền, không nên ba lòng hai ý. Mau lập công quả, tỉnh ngộ để trở về Vô Cực.
Giới cáo thứ 6, Lão Mẫu phê huấn “Thâp giới” răn dạy thiện nam tín nữ máu giác ngộ, thoát cảnh trần lao. Ở trên đời, trăm chữ thiện, chữ Hiếu đứng đầu, phát lòng thành, là hiếu tử. Lập mục tiêu tinh tiến tu Đạo. Trong bốn bể đều là huynh đệ, phải ra sức cứu giúp. Đầu tiên chánh kỷ trước, thành người sau, độ hóa chúng sinh. Tự lập trước, lập người sau, là điều căn bản. Tự đạt trước, lại đạt người, cảnh tỉnh người mê. Người giác trước, giác người sau, cùng đăng giác lộ. Đã kéo người phải kéo cho đến nơi đến chốn, cứu người là phải cứu đến cùng, độ một người, một người thành. Thiên thời khẩn cấp, mau lập công bồi đức, xiển dương Đại Đạo. Tu Thiên Đạo, không phân biệt nghèo hèn hay giàu sang phú quý, không phân biệt nam nữ, đều phải siêng lao. Bần xả thân, giàu xả tài, tài pháp song thí, cùng được thanh hồng song tước (thanh phúc là phúc khí trên trời, hồng phúc là phúc dưới trần gian). Khiếu về văn, dùng lời văn thay Trời hành Đạo, giỏi võ ra sức lực không ngại công lao. Vào thời này, lập công quả, vạn tám thánh nghiệp, dù thí mệnh cũng phải tu, ý chí kiên lao. Lập Phật đường, độ chúng sinh là một việc đại thiện hoặc khai hoang hạ chủng lập đại công lao. Nếu tuân theo lời khai hoang gieo giống, Lão Mẫu sẽ sai Tiên Phật hỗ trợ thành công. Tùy thời thế, tùy cơ duyên cẩn thận hành sự. Chân Thiên Đạo đang ngầm tuyển chọn hiền lương, ba nghìn sáu Thánh cùng bốn vạn tám Hiền. Người đến chậm tất đến sau sẽ khóc than.
Giới cáo thứ 7, mau nghe Lão Mẫu khuyên tu thân lập mệnh, thể hiện lòng Mẹ nhớ ơn Thầy. Người tu hành nếu trái ý vi phạn Sư mệnh sẽ bị Trời trách phạt, ngũ lôi khiển, cửu tổ khóc than. Học quân tử, sắc mặt vui vẻ, hòa nhã khiêm cung, hành lễ nghĩa, giữ cang thường, nghiêm nghị chính trung. Nam tuân đạo ngũ luân, bát đức; nữ giữ đạo tam tòng tứ đức. Học trung tín hành nhân nghĩa, lập công đức, xem đạo hữu như tay chân, cùng một Mẹ sinh ra không phân biệt, khen chê kẻ hiền người ngốc. Bậc lãnh tụ độ lượng lớn bao núi chứa biển, thưởng chỉ đạo hậu học, cùng nhau khai Đạo. Chí nam nhi phải nhẫn nại, co duỗi như ý vượt sông núi chịu gió sương, không nao núng, nghe công sợ, nghe lỗi mừng, có lỗi biết sửa. Thế mới là hào kiệt, nhân tài. Là hậu học kính tiền nhân, là tiền nhân thương hậu học dìu dắt hướng dẫn. Thiên thời khẩn cấp, nỗ lực hướng thượng. Đã là người đều có lỗi thì phải biết sửa, biết lỗi mà không sửa thì khó mà về Diêu Đài. Trước hành công sau lầm lỗi thì công trước không tính, trước có lỗi sau có công thì công lỗi tiêu trừ. Nếu như biết sửa lỗi trước, tái lập công quả thì công ghi công. Công đức nhiều, tội lỗi ít Thiên Bàn ghi rõ; lỗi lầm nhiều, công đức nhỏ, chịu họa mắc tai. Chưa hành công mà sửa lỗi trước mới là anh tài. Từ xưa đến nay tu Thiên Đạo không phải là chuyện dễ dàng, nhưng này là thời phổ độ do Lão Mẫu an bài, từ bi, cùng độ càn khôn nên Phật quy rộng rãi đã giảm khảo giảm ma. Thời nay tu Thiên Đạo dễ không gặp chịu nạn, chịu tai tuy chịu cực, phí tâm sức bôn ba Nam Bắc độ Phật tử về Cố hương. Tuy là chịu cực, trải phong sương, dầm mưa dãi năng nhưng một phần khổ, một phần công rực rỡ vinh quang. Tuy bị người chế nhạo, hủy báng, bị chịu oan, hiểu lầm, ngậm đắng nuốt cay nhưng Trời không phụ công lao đều ghi chép rõ ràng. Không tranh cường, so dài ngắn cũng không hiếu thắng, tồn tâm dưỡng tính, dưỡng hạo nhiên thì Bồ Đề nở hoa. Tuy gặp ma khảo tâm tính có nghịch có thuận nhưng nếu không chịu ma khảo thì không thể thành Phật. Từ xưa đến nay tu Đại Đạo đều có ma hại, đạo cao một thước thì ma cao một trượng. Người không căn thì không ngồi được ngàn lá đài sen, người bạc phước, căn không hậu tâm tính không vững tuy đắc Đạo nhưng vẫn thối chí. Như tam giáo Thánh nhân khai hóa lập giáo, chịu vạn khổ hưởng hồng thanh vĩnh viễn không suy nhưng sao sanh bằng thời kỳ phổ độ đại khai, ba nghìn sáu Thánh chùa chiền uy vũ, bốn vạn tám hiền tề hưởng hồng thanh, rạng tổ tông, ấm con cháy, thiện đức trường tồn. Năng phụng hành, chứng thượng phẩm trái ngược thì trụy.
Giới cáo thứ 8, chúng nhi nữ còn mê lạc nhận giả làm vui chịu chân khổ, ngày đêm lao lực. Đối với Chân Đạo ứng phó qua loa, tham cảnh phàm, bội lý quên thánh. Nhiều người sợ ma khảo, tâm chí không bên. Có Chân Đạo tất có chân khảo, điều này là lý bất biến như luyện kim dũa ngọc. Ngọc không giũa không thành khí. Ở người phải chịu đả kích, chịu mài dũa thì trí tuệ mới khai mở, không khảo trừng sao phân biệt được kẻ ngụy người chân. Ngày xưa, Khương Thái Công phải câu cá nơi sông Vi, bán gàu dai, bán bột mì ở ngoài chợ nhưng không nơi nào thành, chịu ma khảo, luyện tâm tính, ý chí cương quyết. Châu Văn Vương bị gian thầm làm hại giam ở Dữu Lý bảy năm trời. Khổng Tử cũng bị nguy nan, bị vây khốn ở biên giới hai nước Trần Thái bảy ngày không có lương thực. Kẻ phàm phu đều cho rằng thánh nhân ngu dại. Khưu Trường Xuân lúc tu Đạo bị ma khảo nhiều nhất, bị tiên đoán chết đói nhưng nhờ ý chí kiên quyết không sờn lòng đắc quả vị Tiên Thiên Trạng Nguyên. Diệu Thiện công chúa vì tu Đạo , bị trảm đao nhưng nửa đường đao gãy chính là Quan Thế Âm Bồ Tát. Tôn Bất Nhị vì học đạo nên lấy vạc dầu hủy hoại dung nhan của mình. Lấy cảnh khảo thời hiện tại so sánh với cảnh khổ là đã ít đáng kể, nhẹ trăm bề. Qua cơn khổ mới thấy rõ được căn cơ cao hay thấp, có ma luyện thì tự tính Phật mới tỏa hào quang. Ma và khảo là bậc thang để thành Tiên Phật Thánh, hiểu thấu được cảnh giả tạo sẽ đạt Niết Bàn. Không chỉ tu Thiên Đạo mới có khảo nghiệm mà muốn đắc nhân tước ở hồng trần cũng phải trải qua mười năm sách đèn. Vì không nhận rõ khảo nên mới thối chí, làm đau lòng Lão Mẫu. Nhiều lần đã viết huyết thư nay lại dặn dò sao không thức tỉnh, nếu chấp mê sẽ bị áp âm sơn. Mau sớm rõ tâm tính, mặc ngàn ma vạn khảo, lòng vẫn không nao núng, Đạo tâm vững ý chí bền trước sau không đổi. Lòng chí thành, ma khảo dứt, tâm như thái hư. Từ ngàn xưa, người tu Đạo, lội sông vượt núi, rời bỏ gia đình, bỏ tài sản để đi khắp chân trời, vượt ngàn núi, lội vạn sông, khó mà gặp chân pháp. Giầy sát mòn vẫn không gặp được Minh Sư, chịu ma khảo, lòng chí thành mới cảm động được các bậc Chân Nhân, rồi lại gặp thử nghiệm tấm lòng thành, mới được truyền pháp tìm hang động tu luyện Thánh thai. Phải lập đủ ba ngàn công tám trăm quả mới đắc thành chánh quả cũng chỉ đạt được Khí Thiên tạm hưởng vinh hoa, hương khói của nhân gian. Hiện tại, tu Thiên Đạo thật quá dễ dãi, thọ điểm trước tu hành sau độ hóa trần sa, hợp thời thế, ứng thời vận, Thiên cơ mới lộ. Lão Mẫu khai ơn, người tu hành nửa Tiên nửa phàm, trong lúc này Thiên thời khẩn cấp nên trọng thánh khinh phàm, phải ân cần, thực tiễn không nên vui nhàn.
Giới cáo thứ 9, đương thời hạ bàng môn vạn giáo để truyền sách trước để khóa tâm vượn, ý mã (ví tâm con người như vượn, ý người như ngựa, không bao giờ yên). Đợi đến thời, truyền Chân Thiên Đạo để thu viên phổ độ, vạn giáo quy căn, hóa tam thiên, lấy tên Nhất Quán. Tam giáo quy về Nhất lý, Nhất quy về Đạo, từ nhất bản tán vạn thù, Nhất là căn nguyên. Muốn tu Đạo, cẩn phải hiểu con đường nguồn cội. Nho quá Nhất, Thích quy Nhất, thủ Nhất đạo Tiên. Minh tâm tính, quan tự tại là đạo lý nhà Phật đã giảng. Tồn tâm tính, khắc phục công là công phu đạo Nho. Tu tâm tính, để phục mệnh là pháp của lão Đạo. Tâm tính này là thực thể, chí hư chí linh. Tu đạo Tiên, thường thanh tĩnh, tâm phẩm nhất lý. Phật giáo nói không và tĩnh chỉ là một thể, Lý của tam giáo, quy một lý tính hợp Vô Cực. Nhà Phật giảng tam quy ngũ giới. Đạo Tiên giảng tụ tam hoa (tinh, khí, thần), ngũ khí triều nguyên (luyện hậu thiên ngũ hành thành tiên thiên ngũ nguyên: nguyên tình, nguyên tính, nguyên tinh, nguyên thần, nguyên khí). Lễ của Nho giáo là hành tam cương giữ ngũ thường. Tam giáo là một nhà, không sát sanh, nhân ái, khí mộc phản bản; không trộm cắp, giữ trung nghĩa, khi kim tụ ngưng; không tà dâm, giữ lễ tiết, chân hỏa luyện tính; không uống rượu, có trí tuệ, chân thủy hợp hòa; không vọng ngữ, giữ chữ tín, thổ khí quy bản. Ngũ khí triều, ngũ giới thanh, ngũ thường tụ tề. Luận tam giáo, không ngoài một lý, nếu hai lý tức ngoại đạo bàng môn. Từ lúc Phục Hy vẽ bát quái, chân dịch xuất hiện, là lúc Đại Đạo giáng trong thời sơ khai. Hội Thanh Dương kỳ, Nhiên Đăng Cổ Phật hạ phàm giáng thế độ hai ức nguyên Phật tử trở về Thiên Đàng, đến thời Hồng Dương Kỳ, Thích Ca Mâu Ni Phật độ thêm hai ức nguyên Phật tử trở về Tây Phương. Nay Bạch Dương kỳ, Đại Đạo triển, Di Lặc ứng vận, Thiên Nhiên Cổ Phật chưởng Đạo Bàn độ hóa Trung Tây độ hết chín mươi hai ức còn lại. Nơi Tiên Thiên không giữ Tiên Phật Thần Thánh, đều đầu thai cùng hóa thế trọ giúp Thánh cơ. Trước độ bần, kế độ người giàu có, sau độ khanh tướng, vương hầu, vạn quốc cùng lên Niết Bàn. Nay đang lúc Thiên thời khẩn cấp, cùng nỗ lực cố gắng lòng thành, chí cương nghị tuyên hóa kẻ mê. Nếu tuân theo lời trong huấn, thực tâm hành Đạo, bàn Đạo, Lão Mẫu sai chư Tiên Phật trợ giúp bình an. Trong tương lai sẽ có nhiều việc trọng đại, Thiên thời đến, hiến hóa chân cơ, ngàn bàng môn cùng vạn giáo đều đồng thời xuất hiện. Niệm phù chú, hô phong vũ, đá chạy cát bay, chỉ Trời mở, chỉ đất lở, dời núi lật biển, ngồi trên ghế, bay lên Trời, yêu pháp lạ kỳ, thuật âm dương, độn ngũ hành, đằng vân giá vũ, đầy đủ các loại yêu ma thuật; chớ nên chạy theo kẻo mất linh quang thì sẽ chịu thê lương. Số trời định, đến tam kỳ thì vạn giáo xuất hiện. Đến thời kỳ, thì Lão Mẫu ra lệnh, pháp thuật đều tan, Di Lặc, T�� Công hiển sức thần thông cầm cờ hạnh hoàng không trung vùng vẫy. Hô một tiếng, chư Thân thối, tất cả quy ban, không còn pháp thuật, Thần Thánh không giúp, chỉ còn lại hai tay trắng cùng bái DI Lặc đồng quy chính lý, giúp Tế Công hiện Phật quang, đạo quán thập phương. Người giàu có quay ngược lại lạy người nghèo khổ. Đạo đức triển khắp toàn cầu, Trung ngoại như nhau. Người thông minh có trí tuệ sớm sớm tu Đạo, chớ đợi thuyền đã thủng lỗ chạy giữa lòng sông.
Giới cáo thứ 10, cửa Vân Thành (Nam Thiên Môn) mở rộng, đáp trúng tam bảo là Nguyên Hoàng. Bát Đại Kim Cang uy nghiêm hiện lên, khẩu lệnh không đúng sẽ xuống suối vàng. Đạo Tam Cực (Vô Cực, Thái Cực, Hoàng Cực) truyền một lý trở về bến ngộ. Kháp thiên hạ, khắp toàn cầu đều trổ liên hoa. Luận Đại Đạo chia tam thừa: Lý là Thượng, Khí là Trung, Tượng là Hạ thừa. Ngoài nơi Trời còn có Trời, Lý Vô Cực, Khí Thái Cực, Hoàng Cực càn khôn. Cảnh Vô Cực là Thánh vực, cực lạc thanh tĩnh, cảnh Thái Cực là Hiền quan, thường chuyển pháp luân, nơi Hoàng Cực là cõi phàm gồm động thực vật. Từ tam thừa mới phân biệt được Thánh Hiền phàm phu. Tu nguyên thần, luyện tính lý, thượng thừa chí diệu (Thượng thừa là tu tính. Phật là minh tâm kiến tính; Nho là tồn tâm dưỡng tính; Tiên là tu tâm luyện tính. Tính tức là lý. Ngộ lý tức là Thánh, Tiên, Phật). Giáng long hổ chuyển pháp luân, tham thiền trung thừa (là tu mệnh, đó là phương pháp luyện khí, vẫn chỉ nằm trong vòng Thái cực, chưa thoát được luân hồi). Còn hạ thừa chấp hình chấp tướng chỉ gõ mõ tụng kinh thì khó siêu thoát phàm. Thời mạt pháp giáng hạ mạt hậu trước, nhất thập bát tiểu nhi đồng, Trung Châu trấn giữ, nổ phích lích đánh thức tỉnh càn khôn đại địa. Khắp vạn quốc lẫn cửu châu đều cùng độ tân, ngàn Thần Thánh vạn Tiên Phật cùng tụ Trung Nguyên chờ hội tam tào tính toán sẽ định vị. Sẽ quét sạch kẻ ác nghiệt, giữ lại người hiền lương, đem bể khổ của thế gian hóa thành Liên Hoa bảo quốc. Cõi Đông Thổ sẽ biến thành tịnh thổ Tây Thiên. Thế giới Phật sẽ khoái lạc vô tận 40 năm, dứt hết sát nghiệp, quy nẻo thiện, mệnh vật an toàn. Cảnh thái hòa đến thế gian, Lân Phụng xuất hiện. sóng gió yên, vui thanh bình, không còn tranh đấu, sống thời trời Nghiêu (thanh bình nhất trong lịch sử Trung Hoa) Chư Tiên Phật hết lời nguyền độ hết chúng sinh, Tổ Di Lặc lên bảo đài điểm Tướng phong Tiên. Con của Lão Mẫu sẽ rời bể khổ cùng về bến giác. Phật Thiên Nhiên dẫn nguyên nhân cùng tham kiến Lão Mẫu. Người khai hoang trước tài ba xuất chúng, người lập kỳ công đoạt chức khôi nguyên, người tài pháp song thí thăng chức thượng phẩm, người xả thân mình thì phẩm vị tôn nghiêm, người lập Phật đường được chứng Kim Tiên, người tuyên hóa Đạo được ngồi tòa sen, người tận hết lòng chứng quả Tiên, người ân cần được thăng thưởng vô biên. Đến lúc đó, chia tam thừa, vị liệt cửu phẩm. Người Phật tử còn tại thế, ngoại vương nội thánh (tu thân là nội thánh, hóa người là ngoại vương, nội thánh là tu huệ, ngoại vương là tu phúc) được hưởng vinh hoa phú quý, tự tại an nhiên. Chúng Phật tử đã Niết Bàn trở về Tịnh Thổ, thoát phàm thai thành Thánh thể trở thành Đại La Kim Tiên, mặc áo Tiên, cắm bông vàng, đội mũ Tiên, giày mây trổ sen bái kiến Lão Mẫu. Kể từ đó, không sau xuống Đông Thổ để chịu cảnh gian lao đời ngũ trược, cùng ăn Tiên đào, Tiên quả, quỳnh tương nước ngọc, không còn bị trời đất, âm dương chi phối, đi du hành khắp tam thiên đại thiên thế giới. Cửu huyền Thất tổ cùng thoát khổ về phẩm vị đều được sắc phong. Quần Phật tử ở cung Vô Cực thiết lập yến tiệc, hội Long Hoa tụ Phật Thánh Thánh Thần Tiên cùng yết kiến Hoàng Mẫu, cùng uống ly rượu Bồ Đề đoàn viên.
Huấn thư hoàn tất trấn Trung Hoa, quảng bá tuyên hóa độ người hiền lương cùng lên Bồ Đề ngạn, nhi nữ công thành ngồi Liên hoa. Tuân lời Lão Mẫu dặn thiết thực hành, đánh thức người si khỏi cảnh mê. Tiên Phật cứu thế giáng cõi Đông, bốn ức cùng nhau hạ phàm giới, minh tâm kiến tính thấy cố chủ, gà vàng tam xướng Đại Đạo hoành. Chép xong thư mau ấn loát phổ biến lưu truyền, khuyên hóa độ chúng lập công đức, cứu rỗi chúng sinh rời vực sâu.Thiên Đàng hay Địa Ngục tùy chọn, biếng nhác chênh mảng xuống vực sâu.
0 notes
Photo
Truyện Đại Tần Chi Sống Lâu Vạn Năm - TruyenchuTH.com
Xuyên việt về cổ đại, nhiệm vụ thứ nhất là nhìn thấy Doanh Chính, nhưng bây giờ lại là ở mười vạn năm trước! Nga Hoàng Nữ Anh: Phu quân làm vương thiên hạ quy tâm, vì là Thánh Cửu Châu An Bình. Diễm Linh Cơ: Trận đó đại hỏa cướp đi ta đi qua, nhưng cho ta tương lai, ta sinh mệnh chỉ thuộc về chủ nhân một người. Viễn Cổ thời kỳ hắn là thiêu đốt Nguyên Sơ ngọn lửa Nhân Tổ, Tam Hoàng Thời Kỳ hắn là Thuấn Đế, Xuân Thu thời kỳ hắn Giáo Hóa Chúng Sinh được tôn là thánh hiền chi sư Bạch Tử, Chư Tử Bách Gia tổ sư cũng từng bái hắn làm thầy, đồn rằng: "Thiên Hạ Giai Bạch" . Bạch Thuấn: Nhược Tần, ai cũng biết rõ ở trong tay ta, biến thành Cường Tần, thiên thu vạn đại!
>> Đọc truyện tại đây: https://truyenchuth.com/truyen-dai-tan-chi-song-lau-van-nam
#daitanchisonglauvannam #truyenchuth #truyenchu #truyendongnhan
0 notes
Text
Sứ mệnh của Nho học trong lịch sử rốt cuộc là gì?
Sứ mệnh của Nho học trong lịch sử rốt cuộc là gì?
Tứ thư Ngũ kinh của Nho gia có địa vị giáo dục chính thống hơn 2000 năm nay ở các nước Á Đông, vị trí gần như độc tôn không gì lay động được. Vì sao vậy? Chân cơ của nó ẩn chứa trong chữ “Nho” (儒) này.
1
Nho gia là gì?
Chữ Nho (儒) gồm chữ Nhân (人) nghĩa là người, và chữ Nhu (需) nghĩa là cần, tổ hợp thành. Nó nói rõ sứ mệnh của Nho gia: quy phạm đạo lý làm người cần phải có ở tầng thứ con người này, đảm bảo duy trì tiêu chuẩn đạo đức làm người.
Ở Nhật Bản, Việt Nam và Hàn Quốc, các nhà Hán học đều biết rằng nhà Nho, thầy đồ chính là những nhà giáo dục trợ giúp đế vương giáo hóa bách tính. Nói theo ngôn ngữ hiện nay, thì họ chính là các nhà giáo chuyên nghiệp, phụ trách công tác giáo dục.
Lại bàn thêm về chữ “Giáo”; chữ “giáo” (教) trong từ “giáo dục” bao hàm chữ “hiếu” (孝); nội hàm của giáo dục đã sớm được định ra ngay từ thời thượng cổ. Dùng hiếu trị quốc bắt đầu áp dụng từ thời Hoàng Đế, trải qua thời Nghiêu Đế dùng nhân đức nhường ngôi, và Thuấn Đế tự mình thực hành Đạo hiếu. Thuở chưa có học thuyết Nho gia, những người có tri thức chính là dùng văn hóa mà các đế vương thượng cổ lưu lại để giáo hoá bách tính, trọng tâm là Đạo Nhân – Hiếu.
Chữ Nho (儒). (Ảnh: Đại Kỷ Nguyên)
Điều này nói nên rằng, Nho học không chỉ là phát minh của đức Khổng Tử, mà là Khổng Tử đã chỉnh lý, hệ thống hóa nội dung giáo dục thời thượng cổ, kế thừa, truyền bá văn hóa của tiền nhân. Vì vậy, bản thân Khổng Tử không viết sách lập ngôn; những lời ông nói là các đệ tử đời sau chỉnh lý, ghi chép lại.
Khổng Tử và các đệ tử. (Ảnh: Epoch Times)
2
Nguồn gốc của Nho gia
Hoàng Đế. (Ảnh: Epoch Times)
Văn hóa truyền thống Á Đông cổ xưa vốn là văn hóa nửa Thần. Đây thực tế là văn hóa tu Đạo, thuộc về Đạo gia, do Tam Hoàng Ngũ Đế thời thượng cổ lưu truyền lại, có liên quan chặt chẽ đến Chu Dịch, Hà Đồ, Lạc Thư.
Bản thân các hoàng đế thượng cổ đã là Thần hoặc trạng thái nửa Thần; ví dụ Hoàng Đế khi chinh phục Xi Vưu đã hô gió gọi mưa, Thần thông đại hiển. Ông dùng Đạo trị quốc, hoàn thành quá trình tu Đạo, đắc viên mãn, cuối cùng bạch nhật phi thăng, cùng các đại thần thân cận cưỡi rồng bay lên trời. Đời sau để tưởng nhớ ông, người ta đã đắp mộ cho trang phục của ông.
Bởi vậy có thể nói: văn hóa Nho gia thực tế là văn hóa Đạo gia lưu lại. Vì nhà Nho luôn phụ trách giáo dục nên họ cũng tự giác làm công tác chỉnh lý tài liệu văn hóa giáo dục. Thế nên, từ “Nho học” là do Khổng Tử khi chỉnh lý đã định ra. Nho học tuy là kế thừa văn hóa thượng cổ, nhưng chỉ triển hiện Đạo lý ở tầng thứ con người, tức là quy phạm Đạo đức cơ bản mà tầng thứ con người cần phải có như: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín; trong đó lấy Nhân làm trung tâm để truyền thụ các kỹ năng.
Thuở bấy giờ là thời kỳ Xuân Thu, Đạo đức trượt dốc, các nước chinh phạt lẫn nhau không ngừng, “Lễ băng nhạc hoại”. Vậy nên trừ những người tu Đạo chân chính ra, thì Thần thông và Thần tích đã rất hiếm thấy rồi. Khổng Tử đành phải đem văn hóa lấy Đạo làm trung tâm chuyển thành lấy Đức làm trung tâm, mà chỉ là Đức Nhân ở tầng thứ con người. Ông lấy Nhân Đức làm trọng điểm mà đề xuất ra, quy phạm ra cốt yếu cụ thể của hiếu đễ và trung tín, để duy trì chuẩn mực Đạo đức cho xã hội nhân loại, không để Đạo đức nhân loại bị suy bại quá sớm.
3
Sứ mệnh lịch sử của Nho gia
Mọi người nói Khổng Tử không đề cập đến ‘quái lực loạn Thần’, cho rằng Khổng Tử không tín Thần. Trên thực tế, không nói không có nghĩa là không tín, chỉ là không nói ra mà thôi! Khổng Tử coi trọng thờ tế tổ tiên, đối với các Thánh vương thượng cổ, ông hiểu rất rõ và vô cùng sùng kính. Khổng Tử cũng vô cùng kính ngưỡng đối với đức Lão Tử tu Đạo, làm sao ông không biết sự Thần thông quảng đại của các tiền nhân? Nhưng ông biết rõ, Đạo đức con người đã bại hoại, thì sẽ rất dễ không phân biệt rõ sự khác biệt giữa chính Thần và tà linh quỷ quái loạn thần, nên rất dễ lầm đường lạc lối, bước vào đạo tà ma, thậm chí là dùng các thứ thuật loại để làm việc xấu.
Khổng Tử thỉnh giáo Lão Tử. (Ảnh: bldaily.com)
Khổng Tử hiểu rằng con người đã không thể khinh suất khi tiếp xúc với những thứ này, thế là ông giữ im lặng, không luận thuật và cũng không tiếp xúc đến. Đây cũng là sự an bài đã chú định: Chữ Nho (儒) vốn có hàm nghĩa là: Khi đạo đức con người tương lai trượt dốc, giáo dục ở tầng thứ nhân loại này ắt sẽ hình thành lý luận mà ‘con người cần’; Nho học lúc ấy chính là thứ mà con người ắt phải cần đến. Còn những thứ của Thần thì không thể khinh suất triển hiện cho con người thấy nữa.
Vì vậy, đức Khổng Tử đã giáng sinh xuống thế gian để hoàn thành sứ mệnh của ông: Chỉnh lý quy phạm Đạo đức và tri thức liên quan mà con người cần, từ đó định ra trọng tâm giáo dục và nội dung tài liệu giáo dục cho con người, trở thành nguồn chính thống giáo dục cho hậu thế. Điều này tuyệt đối không phải là ngẫu nhiên.
Nếu nói lịch sử đã trao cho đặc điểm nổi bật của Đạo gia là Chân, thế thì đặc điểm nổi bật của Nho gia là Nhân, biểu hiện là Nhẫn. Khắc kỷ phục lễ, khắc chế tư dục, quan trọng là ở Nhẫn, coi trọng ở hàm dưỡng. Cũng bởi vậy, vũ trụ và lịch sử ắt sẽ đem việc tuyên dương đại Thiện lưu cấp cho Phật gia.
Đây cũng là nguyên nhân Phật giáo đã bước lên vũ đài lịch sử khắp các nước Á Đông trước và trong thời Tùy Đường. Phật gia giảng nhân quả, báo ứng của thiện ác, đã minh xác ra căn cứ căn bản: Làm người coi trọng Nhân Nghĩa là để được Thầ
Vì vậy, lấy Nho gia làm khởi điểm, thực hiện tốt rồi thì tự khắc sẽ bước sang tầng thứ vượt trên tầng thứ con người, bắt đầu truy tìm bước chân tu Đạo của các Thánh vương, truy tìm Đại Đạo của vũ trụ, bước lên con đường tu luyện. Các Nho sinh cổ đại cũng như thế, rất nhiều thi nhân, đại văn hào mà mọi người đều biết rõ như Đào Uyên Minh, Lý Bạch, Vương Duy, Tô Đông Pha v.v… họ hoặc là tu Đạo, hoặc là tu Phật. Tất cả những điều này đều là diễn tập cho điểm đến cuối cùng của lịch sử, là lưu lại văn hóa tu luyện mà thôi.n phù hộ; trọng Thiện, hành Thiện, để đắc được Thiện báo và phúc thọ khang ninh.
Từ trên xuống dưới, trái qua phải: Đào Uyên Minh, Lý Bạch, Vương Duy, Tô Đông Pha. (Ảnh minh họa: wikipedia)
Thời đại ngày nay đã là kết cục cuối cùng của các dự ngôn trong lịch sử. Sự an bài cuối cùng chính là để mọi người có thể ngộ được Đại Pháp của vũ trụ: Chân – Thiện – Nhẫn, để trở về với thế giới của Thần, trả lời câu hỏi muôn thuở: Con người đến thế gian này để làm gì?
Lịch sử là vở kịch Thiên định lớn, là an bài một cách có hệ thống cho con người. Chẳng qua Nho gia được định ra là phụ trách giáo dục mà con người cần mà thôi.
Theo zhengjian.org Kiến Thiện biên dịch
from Đại Kỷ Nguyên - Feed - https://ift.tt/2QltcEw via https://ift.tt/2QltcEw https://www.dkn.tv
0 notes
Text
Hiếu thuận là cái gốc làm người tạo nên kỳ tích cảm động trời xanh
http://vietnewspro.com/van-hoa/hieu-thuan-la-cai-goc-lam-nguoi-tao-nen-ky-tich-cam-dong-troi-xanh.html
Hiếu thuận là cái gốc làm người tạo nên kỳ tích cảm động trời xanh
Trong lịch sử, Thuấn Đế được coi là một trong năm vị vua huyền thoại của Trung Hoa, được Đạo gia tôn vinh là “Địa quan đại đế”, sánh ngang với “Thiên quan đại đế” của vua Nghiêu và “Thủy quan đại đế” của Hạ Vũ. Vậy vì sao vua Thuấn lại trở nên thần thánh đến như vậy? Tất cả chỉ nằm ở một chữ...
0 notes