Tumgik
#Hoàng Ngọc Ẩn
chuyen-cua-gio · 1 year
Text
Tumblr media
VIÊN NGỌC QUÝ: 12 NHÂN DUYÊN TRONG ĐẠO PHẬT
(12 nhân duyên tùy ý đoạn được một cái nào thì các cái kia đều tan rã)
Nhân là đưa đến kết quả (năng sanh). Duyên là giúp nhân thành quả (sở sanh). 12 nhân duyên còn gọi là 12 hữu chi (có cành nhánh), 12 trùng thành (gặp nhân duyên tạo thành), 12 kinh cước (chỉ móc nối với nhau), 12 liên hoàn (liên đới và trở lại). Tùy khả năng đoạn một khoen là cả vòng 12 khoen tan rã. Sao mai vừa mọc ngày mồng 8 tháng 12, Bồ tát Cồ Đàm chứng ngộ Lý Duyên khởi tức 12 nhân duyên này. Từ đó, Ngài dùng ánh sáng duyên khởi làm đuốc soi đường, mở cửa bồ đề cho thế gian chúng sanh. 12 vòng (khoen) nhân duyên là:
1. Vô minh
2. Hành
3. Thức
4. Danh sắc
5. Lục nhập
6. Xúc
7. Thọ
8. Ái
9. Thủ
10. Hữu
11. Sanh
12. Lão tử
Chúng ta hiểu từng nhân duyên như sau.
1. VÔ MINH
Vẽ hình ảnh bà già mù chống gậy đi trong rừng xương. Rừng xương vì xương sống, xương sườn chúng ta đã bỏ từ bao kiếp luân hồi. Mù là không sáng, khởi niệm quên lửng chân không diệu tánh. Rừng là cũ kỹ, rậm rạp là nhiều. Con đường toàn xương chúng ta đã đi từ vô thủy, chúng ta đã biết chán chưa? Chúng ta còn đăm đăm trước mắt chuyện con rắn, heo, gà trước mắt. Còn tham lam, giận hờn cả ngày, đâu có thời gian nhận được mình là bà già mù đi trong rừng xương.
Quán duyên khởi, thấy mối tương quan của vạn pháp, huyễn sanh, huyễn diệt. Người có trí biết thương kẻ đồng nghiệp, tha thứ khoan dung những mê dại. Một lòng từ bi hỉ xả để độ tha. Vô minh là khởi niệm khiến quên mất chân tánh và mất sự sáng suốt của trí tuệ. Do vô minh nên mới tạo nghiệp thiện hay ác để tiếp nối vòng luân hồi sanh tử là hành. Cho nên vô minh (là hoặc, nhân) duyên hành (nghiệp, quả).
Thập triền (phẩn, phú, hôn trầm, thụy miên, hỷ du, trạo cử, vô tàm, vô quý, khan và tật đố). Triền là dây trói buộc chúng sanh, khiến chúng ta không ra khỏi sanh tử được mà bị ràng buộc hoài, không thoát khỏi được sợi dây ái nhiễm, dục nhiễm mà được lên bờ giải thoát an lạc. Thập triền này là thức ăn của vô minh. Khi vô minh bị đoạn trừ thì minh khởi.
Chúng ta cần phải làm giàu trí óc mình, thay đổi hiểu biết và chuyển hoá mình bằng những kho tàng tri kiến của các bậc cổ đức, cần mở mang và hoàn thiện tâm hồn bằng những dấu vết bước đi của người xưa. Chìa khóa hạnh phúc là tánh giản dị. Do đây ta có đầu óc rảnh rang để lo sự nghiệp tâm linh, không chăn ba con gà, rắn và heo nữa.
2. HÀNH
Trong kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy: nếu mình nói hay hành động với tâm thanh tịnh hay ô nhiễm thì an vui hay khổ não sẽ theo liền với mình như bóng theo hình hay như bánh xe lăn theo dấu chân con bò.
“Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý ô nhiễm
Ta nói hay hành động
Khổ não sẽ theo ta
Như bánh xe lăn theo
Bước chân của con bò.” [26]
“Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh
Ta nói hay hành động
An vui sẽ theo ta
Như bóng chẳng rời hình.”[27]
Như anh thợ gốm đang nắn chiếc bình. Nắn khéo thì bình đẹp (thanh tịnh). Vụng thì bình méo (ô nhiễm). Hãy nắn cẩn thận tức là chính thân miệng ý hiện tại đang tô điểm hoặc bóp méo tương lai của chúng ta. Lành thiện thì cuộc đời mai sau sẽ huy hoàng. Mê dại xấu ác thì thảm hại đáng thương đang chờ đợi, tức hành vi hiện tại đem quả báo mai sau nên Hành duyên Thức, nghĩa là những hành vi hiện tại có năng lực tiềm ẩn, điều khiển thúc đẩy tâm thức trong chiều sâu, để dẫn dắt hữu tình đi đến tương lai. Nghiệp thường xuyên thay đổi theo tâm biến hoá của mình như người thợ tùy sở thích mà nắn vạn hình thiên kiểu.
Nương lời dạy của Đức Phật, biết rõ hành uẩn duyên sanh, vô thường vô ngã, nhờ định lực, hành vô hành, đắc vô đắc, có thể dừng bước trên con đường sanh tử vô tận. Kinh Tương Ưng III, Phẩm Tham Luyến[28] , Đức Phật dạy: “Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hành? Có sáu tư thân này: sắc tư, thanh tư, hương tư, vị tư, xúc tư, pháp tư. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hành. Do xúc tập khởi nên các hành tập khởi. Do xúc đoạn diệt nên các hành đoạn diệt. Đây là con đường Thánh đạo Tám ngành đưa đến đoạn diệt, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.”
Đức Phật dạy sắc tư, thanh tư, hương tư, vị tư, xúc tư và pháp tư là tâm suy nghĩ về sắc thanh hương vị xúc pháp, 6 trần gọi là Hành. Tư là động lực đưa đến tái sanh, tức là tùy bàn tay khéo vụng mà thành bình đẹp xấu. Ý nghiệp là căn bản sanh tử. Tâm trong sạch là gốc giải thoát. Ý thanh khiết là nền tảng tiến hóa. Ý nghiệp niệm niệm phan duyên, kích động sáu căn, dung thông khắp cơ thể. Bao nhiêu nghiệp thiện ác nặng nhẹ, ý đều làm chủ. Ý nghiệp vi tế rất khó khăn cho chú mục đồng chăn giữ. Chúng ta phải tự điều phục tâm mình như Kinh Pháp Cú dạy:
“Người dẫn thủy, dẫn nước;
Kẻ làm cung, nắn tên;
Người thợ mộc, uốn ván;
Bậc chí thiện, tự điều.”[29]
Tâm ta như một dòng sông. Sự chuyển động của dòng sông là tổng hợp của tất cả những chuyển động từng giọt nước. Cũng thế, tâm chúng ta là một chuỗi thiện ác, vui buồn yêu ghét. Sự liên tục xê dịch, đổi dời, triền miên chuyển động biến hóa này là Hành ấm. Rời các niệm tưởng suy nghĩ không có hành ấm nên nói hành vô ngã.
3. THỨC
Tranh vẽ cảnh chú khỉ nhảy từ cành này sang cành khác. Cành cũ (nghiệp cũ) đã khô cằn, cành mới trĩu đầy quả (có thể lành hay độc). Tâm thức thật thể ở khắp pháp giới nhưng vì vô minh cứ gặp cảnh là thọ khổ vui, khởi yêu ghét. Không ngờ đã mắc chỗ đầu thai đem đến danh sắc. Thân sau gọi là tái sanh. Thân này là hậu quả của năm uẩn cũ. Thần thức theo nghiệp chịu báo tái sanh để đền ơn hay trả oán hoặc hưởng phước hoặc chịu tội gọi là thức duyên danh sắc.
Tâm thức là một chuỗi biến đổi duyên sanh làm sống bào thai và là cái biết của sáu giác quan sau này. Nếu định nghiệp sắp làm con trai thì thân trung ấm dấy niệm thương mẹ. Nếu là con gái thì thân trung ấm dấy niệm thương cha. Nhơn lòng yêu làm hạt giống, nạp tưởng điên đảo nên thai để gá vào mẹ, nên nó là hành duyên thức. Cái hành nó chuyền níu qua thức.
Khi thần thức hoan hỉ với lúc cha mẹ giao hợp, ba hơi nóng hay điểm này (cha, mẹ, trung ấm) nhập cục với nhau như một điểm hồ đặc ở trong tử cung. Thức ấy là tinh thần; tinh cha huyết mẹ là vật chất. Bấy giờ trong bào thai có ba nguyên tố là mạng sống, hơi ấm của ba lửa (cha, mẹ, thần thức) và thức: tánh biết, tánh Phật mà khi cuộc vào thân người thì gọi là thức A-lại-da. Khi đầu thai, thức này đến trước nhất, rồi lần hồi nảy sanh bảy thức kia. Thức tâm là danh (phần vô hình), phôi thai là sắc (hữu hình) nên bảo thức duyên danh sắc, thức leo qua danh sắc.
Lớn lên khi sáu căn tiếp xúc sáu trần sinh phân biệt sáu thức. Nếm mật ong thì ngon ngọt, ăn ‘cơm không’ ta thấy vị lạt nhạt nhẽo. Các thực phẩm mỗi thứ, một vị nhưng khi bài tiết ra, chúng chẳng khác nhau. Cái tô so với cái tách là lớn nhưng so với cái chậu lại bé. Tâm phân biệt theo nghiệp mà nhuốm màu vạn vật. Thế giới sáu trần chính nó tạo ra toàn những bất đồng. Đường ngọt, muối mặn, khổ vui, động tĩnh chung quy cũng chỉ là nhân duyên sanh nên vô ngã, vô thường, khổ và không. Chỉ cần chúng ta luôn tự chủ và sáng suốt. Những cảm giác khởi lên chúng ta ghi nhận, biết rồi để mặc chúng tan đi với tánh cách vô thường của chúng. Vọng tâm như con khỉ nhảy nhót, ưa thích rồi chán bỏ, rồi lại ưa thích rồi lại chán bỏ… giác quan tiếp xúc sự vật. Yêu và ghét phát sanh. Thế là có anh si mê đứng đấy. Nhưng với chánh niệm thì đấy là lúc trí tuệ phát sanh. Bắt buộc phải có mặt ở một nơi mà các giác quan bị quấy rầy. Đừng ngại, giác ngộ không có nghĩa là điếc hay mù, chỉ cần chánh niệm, không dính mắc. Bản chất là ảo ảnh nên sáu trần tự trôi qua. Điều cần yếu là phải học cách kiểm soát và làm chủ con khỉ. Tám thức phân biệt tài tình tuyệt diệu.
1. Nhãn thức tâm vương là chủ tể biến ra thế giới màu sắc, hình tướng.
2. Nhĩ thức tâm vương biến ra thế giới âm thanh.
3. Tỵ thức tâm vương biến ra thế giới thơm hôi.
4. Thiệt thức tâm vương biến ra thế giới ngọt chua.
5. Thân thức tâm vương úm bala biến ra thế giới nóng, lạnh, trơn và rít.
6. Hoàng đế ý thức tâm vương tài ba lanh lẹ, quán xuyến vào các pháp trần, chiếu rọi quá khứ, hiện tại, vị lai và thống lý cả năm quốc gia trên.
Năm thức trên tuần nghiệp theo duyên biến ra năm trần cảnh, kiến hoặc chấp năm trần là thật. Ý thức phân biệt xấu đẹp hay dở là tư hoặc. Kiến hoặc, tư hoặc là gốc trầm luân. Ai chăm quán vô ngã, vô ngã sở thì ý thức chuyển thành Diệu quan sát trí, mở đường cho tạng thức trở về đại viên cảnh trí, thành chánh đẳng chánh giác.
Thật ra nhãn thức không nhìn thấy cảnh bên ngoài đâu.
a. Thần kinh: ta đang nhìn sự vật ở thần kinh trong con mắt. Do ánh sáng mặt trời chiếu vào bông hoa ở ngoài vườn, phản chiếu qua con ngươi vào thị giác thần kinh.b. Bóng ảnh: tâm liền thấy một bóng ảnh gọi là nhãn thức đã sanh.c. Bóng ảnh theo nghiệp người: theo nghiệp người, cha mẹ, gia đình, nhà trường đã dạy ta gọi là hoa vạn thọ…Trước kia ta yên chí là ta thấy bông hoa thật ở ngoài vườn. Đâu ngờ mình chỉ thấy bóng ảnh ở thần kinh của nghiệp người, theo duyên hiện lên gọi là nhãn thức sanh; rồi lại theo duyên tan đi, gọi là nhãn thức diệt.
Bóng ảnh này không phản ảnh trung thành sự thật đâu. Nó theo duyên ánh sáng mặt trời, giả hiện trong lòng mắt đang tối của loài người. Mắt cua tròn xoe lồi ra ngoài hẳn lãnh tia sáng một cách khác. Bông hoa hiện lên hẳn cũng phải là một hình sắc khác. Các công nghệ sản xuất gương hiện nay minh chứng điều đó cảnh vật tuần nghiệp phát hiện. Thế cho nên, nhãn thức hư vọng vô ngã và nhãn thức hư vọng thế nào thì năm thức kia cũng vậy.
4. DANH SẮC
Phật dạy vẽ một chiếc thuyền đang chở bốn thùng đồ vật (đất, nước, gió và lửa). Vọng thân như con thuyền đang trôi trên dòng sông sanh tử. Danh là tâm (sắc là đất nước gió lửa) chính những yêu ghét mừng giận của chúng ta hàng ngày đưa chúng ta đi đầu thai, như khỉ theo nghiệp leo trèo mà có lên hay xuống. Đức Phật gọi bào thai là danh sắc.Tâm là danh, người chèo lái con thuyền tức thức A-lại-da. Một khi thân đã thành tựu hoàn mãn rồi, thức này sẽ lần hồi nảy sanh bảy thức kia. Cái nghiệp (vọng thân) của mình như thuyền đang trôi trên dòng sông sanh tử. Có Danh Sắc bào thai thì có sáu căn. Nên danh sắc duyên lục nhập.
5. LỤC NHẬP
Lục Nhập là sáu căn (bào thai hoàn mãn ra khỏi bụng mẹ). Phật dạy vẽ nhà có sáu cửa vì sáu trần sẽ từ sáu căn đi thẳng vào tâm.Căn nhân trần phát ra cái biết và trần nhân căn mới có tướng hiện; từ đó thức phân biệt là đầu mối chia chẻ nhị biên, khiến ngã tánh sai lầm mọc rễ. Chủ thể nhận thức (tâm) và đối tượng nhận thức (cảnh) dựa nhau đồng khởi là do môi giới sáu căn. Kinh Lăng Nghiêm[30] , mười phương Như Lai khác miệng đồng lời xác nhận rằng: “Đầu nút câu sanh vô minh khiến luân hồi sanh tử chính là sáu căn, cho nên y sáu căn mà cởi gỡ thì được tịch thường đạo quả an vui giải thoát” (Tri kiến lập tri tức vô minh bản; tri kiến vô kiến tư tức Niết bàn). Thế thì sở dĩ bây giờ chúng ta là chúng sanh và Phật là bậc thánh vì ngài khi sáu căn tiếp xúc sáu trần thì không khởi niệm, còn mình thì mở tung các căn như căn nhà mở toang các cửa để thu nạp và lãnh trần cảnh, rồi tính toán khôn dại, hơn thua, lợi hại. Thế là vô số tham, sân, si khởi dậy và tạo ra nghiệp sát, đạo, dâm, vọng…Do có sáu căn mở toang tiếp cảnh ngoài nên có xúc chạm, vì thế lục nhập duyên chuyền níu qua xúc.
6. XÚC
Căn trần xúc chạm (mắt xúc trần, tai xúc thanh, mũi xúc hương, lưỡi xúc vị, thân xúc chạm và ý xúc pháp) nhưng nguy hiểm nhất là nam nữ hai thân xúc chạm. Đây là nguồn chảy thành biển trầm luân sanh tử thế gian. Thân này là quả của dục nhiễm. Rồi trong lúc có thân, chúng ta lại tiếp tục tạo vô số các nhân mới để tạo quả vị lai. Hàng ngày yêu thích cái áo này, ký tên với cây viết này mới chịu, làm việc với người mình hạp, chỉ thoả mãn với món ăn mình thích, chỉ nói chuyện hay email với người mình ưa… những việc nho nhỏ đó đều biểu lộ chủng tử lòng ái nhiễm, lòng tham ái của con gà hay bồ câu và ta cứ vô minh, vô tình hay cố ý tạo những hạt giống chủng tử đó.
Thế nên bổn phận đầu tiên của người xuất gia là hộ sáu căn (hộ mắt đừng để thấy sắc ái nhiễm, hộ tai đừng nghe tiếng bậy, hộ lưỡi đừng thốt lời ám muội, hộ mũi đừng ngửi hương son phấn, hộ thân đừng đam mê xúc chạm, hộ ý đừng để tư tưởng bất chính khởi lên). Quán thân do bốn đại đất nước gió lửa giả hợp, không ta, không người, không thọ và không mạng. Sự xúc chạm là pháp không có. Chỉ có sự có mặt hai duyên căn trần. Rộng quán sát sẽ thấy tất cả vạn pháp đều không tự có. Thực sự chỉ là sự có mặt của duyên. Ai am hiểu sự thật này là hiểu Phật pháp. Không nhận thức được thật tướng của các pháp, không thấu đáo được chân tướng của chính mình, không có chánh kiến là vô minh. Bà già mù vô minh vẫn ngự trị muôn loài cho tới bao giờ chúng ta chịu mở mắt theo ánh sáng giác ngộ của Như Lai.
7. THỌ
Hàng ngày chúng ta thọ cơm, thọ nước uống, thọ dưỡng khí vào, thọ hơi ấm mặt trời. Rồi chấp thủ đất, nước, gió, lửa vô thường này là ta. Thân kiến là gốc tất cả tà kiến. Cho thân là ta nên mỗi khi căn chạm cảnh, tâm liền thọ trần mà có khổ vui. Tất cả chỉ có thọ ấm vọng lãnh nạp hư phát minh mà thôi. Thọ uẩn là yếu tố kích thích, trói buộc và sai sử chúng ta rõ ràng nhất.
Thọ thì khổ vì có nhận lãnh là có khổ. Thọ thân này là thân riêng của ta. Thọ tâm này là tâm riêng của ta là cái thọ đầu tiên để từ đó có những cái thọ khác. Nào là thọ cái ăn, thọ cái mặc, thọ cái ở, thọ sắc, thanh, hương, vị, xúc, thọ những cái làm ta thích thú, thọ những cái cần thiết, thọ những cái không cần thiết, rồi thọ những cái xa xỉ, thọ những cái thừa thãi, vô ích vì thói quen góp nhặt tham lam không thể bỏ qua. Mỗi chúng sanh, mỗi cuộc đời là một chuỗi những thọ nhận liên tiếp.
Thọ cuộc đời là một trường đau khổ (khổ đế: tám khổ). Còn nhiều nỗi khổ khác do thọ mà ra như nhận được một cái quý thì nơm nớp sợ mất, lo giữ nhưng chắc gì còn với mình. Người giàu sợ mất của. Người có địa vị sợ mất địa vị. Người có người yêu sợ mất người yêu. Người có danh vọng sợ mất danh vọng. Thọ thuận thì vui. Thọ nghịch thì khổ. Thọ không thuận không nghịch thì si. Đây là lạc thọ, khổ thọ và si thọ. Tóm lại ba thọ đều là khổ.
Thân vô ngã (vọng thân vì bao gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), tâm cũng vô ngã (là vọng tâm vì thọ, tưởng, hành và thức là không). Thân và tâm không phải là hai thực thể riêng biệt, độc lập và tách rời. Chúng luôn đi đôi, quan hệ liên đới chặt chẽ, đồng xuất phát từ một tạng thức u mê nhưng tài tình kỳ diệu.
Hàng ngày sáu căn tiếp xúc sáu trần, thọ khổ vui, tưởng yêu ghét, hành suy nghĩ và thức phân biệt. Ai cũng biết thọ chỉ là cảm giác nhân duyên sanh. Đã là cảm giác thì hẳn hư vọng. Nhân duyên sanh là trong chấp ngã (cho thân này là thật), ngoài chấp pháp (cho sáu trần là thật). Ví dụ: Mắt nhìn thấy một người thân thương, tâm vui (thọ lạc, vui vì gặp thuận cảnh, đưa đến ái ngã); Nhìn ra vườn thấy ai dẹp những chậu hoa cúc dễ thương của mình đi, bực bội (khổ thọ, vì chạm cảnh trái ý). Nhìn cảnh không buồn không vui (si thọ vì chấp có ta đang nhìn cảnh ấy). Nếu vui từ tâm ra thì sao không thường vui, nếu vui từ cảnh ra thì can hệ gì đến ta, rõ ràng thọ trống rỗng hư vọng không thật thể. Hàng ngày sáu căn tiếp xúc sáu trần, nuôi dưỡng ba độc tham sân si. Các tổ có tuệ giác nên bình thản, gọi là xả thọ. Chúng sanh cho thọ là vui nên càng thọ càng tốt. Đức Phật dạy thọ thì khổ.
1) Hoại khổ: ta gọi vui (lạc thọ), Phật gọi là hoại khổ vì vạn pháp tánh chất vô thường, quá khứ đã qua, hiện tại đang mất, thấy vui chỉ là do pháp trần lạc tạ ảnh tử.2) Khổ khổ: ta gọi khổ (khổ thọ), Phật gọi khổ khổ vì thân sanh già bịnh chết đã khổ còn thọ thêm cảnh khổ bên ngoài.3) Hành khổ: ta gọi bình thường, không khổ không vui (si thọ), Phật gọi là hành khổ vì si mê cho căn trần là thật, chấp ngã chấp pháp càng huân càng dày thì quyết định chỉ đi đến tam đồ khổ báo, thế nên cả ba thọ đều khổ.
Thọ khổ là khổ, vì tăng trưởng sân não.Còn bình thường huân tập ngu si không tuệ, nên thọ si là khổ.Còn vui thì tăng trưởng lòng tham, lún sâu vào biển vô minh, khó nghĩ tới sự ngóc đầu ra, nên lạc thọ là khổ.
Dòng sông là những giọt nước đang xê dịch. Thân thể ta là một dòng sông. Vô biên tế bào đang chuyển biến. Tâm ta cũng là một dòng sông. Các cảm thọ sanh diệt, diệt sanh không ngừng, theo sự hoạt động của sáu giác quan. Cảm thọ vui đưa đến tham luyến, khổ đưa đến chán bỏ. Mỗi cảm thọ đều kích thích tham và sân nổi dậy. Nay chánh niệm thì tình trạng bắt đầu thay đổi. Cảm thọ được diễn biến chiếu soi dưới ánh sáng của ý thức. Chánh niệm không nhận nó là ta nữa, không nói tôi ưa thứ này, tôi chịu thứ kia, tôi vui, tôi khổ.Kết quả đầu tiên là khôi phục lại chủ quyền, do đây cảm thọ đã mất đi ma lực của nó. Kết quả thứ hai là thấy được nguồn gốc của nó là vô minh. Do chấp ngã, chấp pháp mà có cảm thọ. Kết quả thứ ba là biết tự tánh nó hư vọng, không có bản chất, chỉ là những cảm giác sanh và diệt theo nhân duyên. Có khi tu tập cả chục năm qua rồi mình vẫn chưa vô được những ý nghĩa này. Xin hãy suy nghĩ.
Cả ngày gắt gỏng cau có do nguyên nhân vì thức khuya, thiếu ngủ, đây là cảm thọ khổ gốc từ sinh lý. Bị một người bạn hiểu lầm, bực tức, thọ khổ, đây gốc là từ tâm lý. Đi về thấy ai bày trong phòng mình rác bẩn, đồ đạc lộn xộn bừa bãi, phát cáu, đây là thọ khổ vì vật lý. Được khen ta vui, quán chiếu, khám phá ra căn bản thọ vui là từ ngã ái và lạc thọ này đưa đến ảo tưởng. Có tỉnh ra mới tránh được những tự hào, tự mãn vô ích. Một khi lạc thọ ảo hoá tan biến nhường chỗ cho những niềm vui lành mạnh có tác dụng nuôi dưỡng giác ngộ, trưởng dưỡng thánh thai, thế nên cảm thọ rõ ràng bất định. Khổ vui tùy theo bản chất mọi người.
Bởi vậy, Phật dạy vẽ minh họa sự xúc thọ như người bị mũi tên độc bắn vào mắt. Nếu người khôn thì rút ra rồi, nhưng chúng ta cứ cắm mũi tên ấy tự đâm vào mình từ sáng đến chiều, ngày này sang ngày khác cho nát thây ra, nếu có ai hỏi thì rút ra đâm vào người khác nữa. Ví dụ có người nói vu oan cho ta, tức là bị một mũi tên đâm vào mắt, vào tim. Chúng ta đâu có chịu quên lời nói trái tai ấy đâu. Mỗi lần nhớ là một lần đâm sâu vào mắt. Chưa đủ, ta lại điện thoại hay email cho người ở Sa Đéc, Cà Mau… rồi Ấn độ, Hoa kỳ… kể nỗi oan khổ của mình cho người khác nghe, thế là đưa tiếp những mũi tên khác đâm vào mắt người khác. Cứ thế mỗi ngày chuyển không biết mũi tên đi để tự đâm vào mắt người mà không biết lời thị phi đó chỉ là trò chơi của động và tĩnh, là làn sóng âm ba, là cái không có. Chỉ bậc thánh nhân xả thọ mới an ổn tinh thần, tìm được sự thanh thản mát mẻ. Một thiền sư nói rằng:
“Thị phi rơi rụng như hoa sớm
Để lòng lạnh băng với gió sương.”
Hàng ngày quán chiếu thân, tâm và cảnh đều giả nên an định tinh thần. Nhiều mũi tên có bay đến, nhưng cả các thánh nhân không nhận và không giữ, thế là chúng tự gẫy và rụng xuống như hoa rơi. Nếu không thế thì dù xuất gia vẫn sâu kết phiền não, gồng gánh trọn đời.
“Kẻ hơn mua oán,
Thua ngủ không yên,
Hơn thua đều xả,
Tự tại bình an.” [31]
Yêu tương tư là mũi tên cắm phập sâu nhất.
“Thương em mười kiếp vẫn chờ
Trăm ngàn năm nữa vẫn thương em mà”.
Vì đưa đến tham đắm, dấn vào biển vô minh, cho nên đời đời, kiếp kiếp ràng buộc gặp nhau hoài. Mỗi tên này nhiều vị độc, mũi tên tình ái. Ngạn ngữ Pháp có câu: “Có ba loại người không sợ trời sập là kẻ điên, kẻ say và người đang yêu” vì những kẻ này bị tên cắm quá sâu, đắm nhiễm mà không màng gì đến sự nguy hại xung quanh. Tứ Niệm Xứ là kiện tướng để hàng phục vọng tưởng hay thọ tưởng ái nhiễm này. Chúng ta từ nhiều kiếp quay cuồng chỉ vì bốn đảo:
1) Thân bất tịnh mà cứ quý chuộng mê say cho là nơi nương tựa;
2) Thọ thì khổ mà cứ khao khát, những mong càng được nhiều càng hay;
3) Tâm vô thường, vọng tưởng mà cứ tin chắc là một phiến thủy chung sáng suốt;
4) Pháp không thật mà cứ cho nội sáu căn, ngoại sáu trần, chặng giữa là sáu thức là thật.
Quán chiếu thuần thục mới không nô lệ sáu trần, khôi phục lại quyền tự do độc lập.Tứ niệm xứ dạy chúng ta dùng hơi thở quán chiếu sự có mặt của khổ vui, của tình cảm ái nhiễm, rồi từ từ điều phục. Hơi thở nhẹ nhàng an tịnh dần dần. Thân tâm nhẹ nhàng an tịnh dần dần. Cứ như thế chúng ta an tịnh hoá cả ba thọ, ba tưởng. Chánh kiến thấy rõ nguồn gốc, bản chất và hậu quả của những cảm thọ khổ vui nên giải thoát được sự khống chế của nó. Đối trị thọ với chánh niệm không nhận là mình. Biết nguồn gốc thọ là vô minh, tánh nó là hư vọng. Quang trạch được khu rừng năm ấm sẽ được hưởng bình an, thong thả đi trong đời không bị dính mắc, là con đường Niết Bàn. Hãy quán có thọ thì có khổ. Có lãnh thọ nhiều thì khổ nhiều. Có lãnh thọ ít thì khổ ít. Đức Phật dạy như nhiên để nó đến rồi đi, thọ mà không thọ.
8. ÁI
Như người say rượu, đã uống mấy chai rồi, say lỉ bỉ, mấy chai không nằm nghiêng ngả lăn dưới đất. Trên bàn một chai để sẵn sắp sửa uống và còn mấy chai nữa sắp hàng chờ đợi. Ý nghĩa bức tranh này cho ta biết khát khao thọ cảm vẫn vô tận trong lòng muôn thú, trong lòng chúng ta, quá khứ cũng thọ ái dục, hiện tại vẫn thọ và mãi đến vị lai. Ái dục ngọt ngào khiến càng say sưa đắm đuối mất chánh kiến.
Tri giác khởi liền sau thọ. Yêu thích tham luyến tiếp liền sau thọ vui. Ghét bỏ xa lánh tiếp liền khổ thọ. Do đó, hết yêu đến ghét, hết ghét lại yêu, cứ vậy triền miên niệm niệm vọng tưởng. Thật ra tưởng tức không, vì rời đối tượng hiện tại và các pháp trần nhớ về quá khứ, vị lai, tưởng quả tình không có, chỉ đối duyên tạm có, duyên diệt ảo tưởng liền tan.
Ngài Quán Tự Tại bồ tát thấy nghe hay biết đủ thứ, không bị che mờ, không bị chi phối. Tất cả hay dở, lành dữ đều bay qua như gió thoảng, như hư không. Được như vậy nên hết khổ. Lời nói là thứ hư vọng, chỉ là trò chơi động tĩnh, trò chơi của khí hơi, do không khí chuyển động (làn sóng âm ba) mà thính giác thần kinh tự biến ra âm thanh để phân biệt. Trí tuệ Bát Nhã biết lời nói là gió thoảng nên không bận lòng. Không ôm không khí chuyển động đó để suy nghĩ rồi sinh oán ghét hay thương yêu.
Thực hành sâu xa Bát Nhã không có nghĩa là chìm nghỉm trong đó mà là tự tại không gián đoạn. Tâm an định một phiến. Tưởng uẩn không lúc nào bị chi phối. Thế là hết khổ. Chúng ta khi đang quán thì tưởng uẩn trừng lặng. Nhưng khi xúc sự vẫn nhận vọng tưởng là mình. Thế là thực hành Bát Nhã chưa sâu nên hễ đụng chuyện liền khổ. “Ái bất nhiễm bất sanh ta bà” vì nhân ái nhiễm nên chúng ta hiện diện ở đây. Vì thế, Đức Phật dạy ở khoen xúc rằng sự xúc chạm của nam nữ là nguồn chảy thành biển trầm luân sanh tử thế gian. Loại tình cảm được đề cập đến nhiều nhất trong các tác phẩm nhân loại đó là tình yêu nam nữ. Đây là loại tình cảm mãnh liệt hơn các loại tình cảm khác bởi vì nó liên quan đến bản năng sâu kín của con người. Con người luôn muốn chiếm đoạt về mình mẫu người có thể đem lại hạnh phúc cho mình. Đây là tâm lý vị kỷ và tình nam nữ có sự thôi thúc âm thầm của hoạt động tình dục, một loại hoạt động gây khoái cảm xác thịt rõ rệt nhất là duyên hệ lụy ràng buộc của nhiều đời, là nguồn máy để tạo ra bánh xe luân hồi quay chuyển. Nếu không có thiện căn thâm sâu, không nguyện lực kiên cố, không có thiện tri thức hỗ trợ thì tăng cũng như tục khó thoát khỏi lưới ái nhiễm này.
Nhìn sâu vào thì tình yêu cũng chỉ là bản chất ích kỷ tăng thêm ngã ái, ngã luyến; người thương mình nên mình thương lại và đây cũng là sự hưởng thụ của bản năng con người. Chính bản năng thích hưởng thụ đã thúc đẩy nam nữ tìm đến nhau, và ngược lại nó cũng thúc đẩy họ làm khổ lẫn nhau (biết bao nhiêu vợ chồng gây gỗ, đánh đập, li dị, ngoại tình; nhưng ngược lại cũng có những cặp có tình thương chân chính của sự hy sinh, độ lượng, vị tha… thì tình yêu đó có thể bớt đi màu sắc bi quan của bản năng ích kỷ). Mặt trái của ái, yêu là ố, là ghét. Yêu ham điều này, chán ghét điều khác, nên thọ duyên ái ố. Ca dao Việt Nam có câu:
“Thương nhau cau sáu bổ ba
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười.”
Hay:
“Thuơng nhau trái ấu cũng tròn
Ghét nhau bồ hòn cũng méo.”
Yêu cũng nhớ mà ghét càng nhớ hơn. Tâm vướng mắc dù thân không có cạnh nhau nhưng vẫn mang nỗi không ưa trong lòng. Ràng buộc khổ não đâu có chịu xả ra mà càng nhớ thì càng si mê. Càng mê càng khổ, càng khổ càng mê. Cứ thế đi đến vô cùng. Chúng ta có hai câu thơ:
“Vũ vô kềm tỏa năng lưu khách,
Sắc bất ba đào dị nịch nhân.”
Mưa không có kềm dây nhưng có khả năng lưu giữ bước chân khách. Mỹ sắc không phải sóng ba đào nhưng có thể dìm chìm kẻ anh hùng hào kiệt. Đây là sức mạnh của ái tình và lòng ái nhiễm.
Kinh Pháp cú có rất nhiều lời dạy của Đức Phật về lòng ái nhiễm như:
“Dòng ái dục chảy khắp,
Như dây leo mọc tràn,
Thấy dây leo vừa sanh,
Dùng kiếm tuệ đoạn gốc.” [32]
“Ai sống trong đời này,
Ái dục được hàng phục,
Sầu khổ tự tiêu dần,
Như nước giọt lá sen.” [33]
“Biết thân như bọt nổi,
Giác thân to huyễn hóa,
Bẻ mũi tên ma ái,
Vượt tầm mắt tử thần.”[34]
“Người nhặt hoa dục lạc,
Tâm ái nhiễm mê cuồng,
Đắm say trong dục vọng,
Bị nô lệ tử thần.” [35]
“Do vậy chớ yêu ai,
Ái biệt ly là khổ,
Những ai không yêu ghét,
Không có thể buộc ràng.” [36]
“Luyến ái sinh ưu tư,
Luyến ái sinh sợ hãi,
Ai giải thoát luyến ái,
Không ưu không sợ hãi.” [37]
“Tham ái sinh ưu tư,
Tham ái sinh sợ hãi,
Ai giải thoát tham ái,
Không ưu không sợ hãi”. [38]
Trong Tương Ưng: “Từ vô thủy luân hồi, này các Tỳ Kheo, không dễ gì tìm được chúng sanh trong thế gian này lại không lần nào làm cha hay làm mẹ.”
Tuần báo News Week ra ngày 03 tháng 11 năm 2003, Robert J. Samaelson, một kinh tế gia nổi tiếng nói: “Thường những người trẻ thì muốn già hơn, còn người già thì muốn trẻ hơn. Đây chẳng qua chỉ là một đoạn đường trong nỗ lực kiếm tìm hạnh phúc thiên thu bất tận của con người”.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy rất rõ về giới dục nhiễm [39] này:“Nếu chúng sanh lục đạo các thế giới, cái tâm không ái nhiễm, dục vọng không theo dòng sanh tử tiếp tục. Nếu tu theo pháp tam muội cốt để ra khỏi trần lao, nếu không trừ lòng ái nhiễm thì ra khỏi trần lao được. Dù có nhiều trí thiền định hiện tiền, nếu không đoạn trừ lòng ái nhiễm thì không ra khỏi trần lao được. Dù có nhiều trí thiền thiền định hiện tiền, nếu không đoạn trừ lòng ái nhiễm thì cũng lạc vào ma đạo. Hạng trên thành ma vương, giữa thành ma dân, dưới thành ma nữ. Các bọn ma này cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô thượng.
Sau khi Như Lai diệt độ, trong thế gian có nhiều loại ma này, giả làm thiện tri thức, khiến các chúng sanh sa vào hầm ái kiến, bỏ mất con đường bồ đề. A-nan, nếu ông dạy chúng sanh tu pháp tam-ma-đề trước hết phải đoạn dục vọng trong tự tâm. Ấy gọi là lời dạy rõ ràng thanh tịnh, quyết định thứ nhất của các đức Như Lai, Phật, Thế Tôn. Thế nên A-nan, nếu không đoạn lòng ái nhiễm, tà hạnh mà tu thiền định thì cũng như nấu cát, nấu đá mà muốn thành cơm. Dẫu trải qua trăm ngàn kiếp cũng chỉ gọi là cát nóng, đá nóng. Vì cớ sao? Vì đó là giống cát, giống đá, không phải là bản nhân của cơm vậy.
Ông đem thân tâm cầu diệu quả của Phật, dầu được diệu ngộ cũng chỉ là gốc dục vọng, cỗi gốc đã thành dâm thì phải trôi lăn trong tam đồ, chắc không ra khỏi, còn đường nào tu chứng niết bàn. Chắc phải khiến cho thân tâm đều đoạn hết giống ái nhiễm cho đến tính đoạn cũng không còn nữa thì mới trông mong chứng quả bồ đề của Phật. Như lời tôi nói đây, gọi là lời nói của Đức Phật. Không như lời nói đó, tức là lời nói của ma Ba tuần.” Ma ba tuần là ma ở trên cõi trời dục giới hay phá hoại bậc tu hành bằng hình thức hiện mỹ nữ hay dùng danh lợi để lung lay chí nguyện người tu hành.
9. THỦ
Tâm đã có thủ chấp, yêu ghét đã quyết định thì hăng hái tạo nghiệp, nên Phật dạy vẽ một người đang cố vươn mình lên để hái trái (có thể quả độc hay lành), không biết xả đi để tìm an vui tinh thần. Bởi lòng tham ái càng ngày càng thấm, càng nhiều nên bôn ba theo đuổi tìm kiếm khắp nơi, giáp xứ để tiến thủ lấy công việc làm ăn, ở và lo bảo thủ lấy tên tuổi công danh, sự nghiệp, người thương… nên nói ái duyên thủ. Hễ yêu muốn sự chi thì nó chuyền leo đến để bám giữ. Ái và thủ thuộc hoặc.
Con người là năm thủ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành và thức) nghĩa là có thói quen tự cột chặt vào năm uẩn. Bao nhiêu tập khí vô minh đều nhận là tôi: thân tôi, tôi khổ, tôi vui, tôi ưa thích, tôi nóng tánh… nên cứ bị kích thích, tạo nghiệp. Gốc khổ không phải ở năm uẩn mà ở chỗ cứ vơ lấy năm uẩn nhận là mình. Nếu giác tỉnh, bình tĩnh, sáng suốt, không thủ chấp thì năm thứ mê này sẽ tan dần. Muốn tỉnh giác phải vâng theo lời Phật, tu các pháp quán: sắc ấm là kiên cố vọng tưởng, thọ ấm là hư minh vọng tưởng, tưởng là dung thông vọng tưởng, hành ấm là u uẩn vọng tưởng và thức ấm là vi tế tinh tưởng.
10. HỮU
Hễ có thủ chấp liền tạo nghiệp nên vẽ một thiếu phụ mang thai (tạo nghiệp là gieo vào tạng thức một cái nhân để ngày mai có quả báo trong sáu nẽo luân hồi, như cái thai là nhân sau này có hài nhi).Giữ năm giới là nhân sanh về cõi người. 10 thiện là lên cõi trời. Có thêm thiền định thì lên sắc và vô sắc giới. Tất cả những hành vi thiện lành mà không có trí tuệ Bát Nhã soi sáng, đều có một năng lực tiềm ẩn để trổ quả trong tương lai, kéo dài hành trình sanh tử, nghĩa là khi chúng ta làm một Phật sự hay phước thiện gì mà không quán tam luân không tịch (ta không, người không và sự bố thí là không) hay quán đây diệu dụng để trang nghiêm biển phước bồ đề mà thường chúng ta muốn hưởng quả của việc thí đó, thì chúng ta sẽ được quả, do đó chúng ta cứ đi lên để hưởng phước thiện ở cõi trời, người và a-tu-la, nhưng cũng có khi đi xuống để đền nợ, trả oán, chịu quả ở cõi địa ngục, ngạ quỷ và bàng sanh, do đó bánh xe luân hồi lăn hoài từ vô thủy (không chỗ bắt đầu) mà không gián đoạn đến vô chung (không chỗ kết thúc).
10. SANH
Vẽ đứa trẻ sơ sanh từ bụng mẹ sanh ra. Đã có thân hình ắt có sợ hãi, có già bịnh. Đây là một ổ phiền não. Đây là nguồn gốc của tất cả khổ đau. Vũ trụ là một cơ thể sống thống nhất với nhau, trong đó mọi vật thể đều dường như có một sức sống thầm kín ẩn dấu bên trong dù đó là chất hữu cơ hay vô cơ (hữu tình hay vô tình).
Tất cả đều theo quy trình sanh, trụ, dị và diệt. Ngay cả sự hủy diệt của một hành tinh, cũng chỉ là sự sinh hoá kế tiếp theo sau của vũ trụ. Ngay cả một chiếc lá vàng rơi rụng, một gốc cây khô già cỗi, một bô lão nằm xuống… cũng không nằm ngoài tiến trình sống của nhân loại và vạn hữu. Tất cả đều sống và đều sinh hoá vô tận.
Krishna Murti, nhà văn và triết gia Ấn độ đã nói rằng: “Sáng nay hoa lá vĩnh viễn, vượt thời gian và tư tưởng, bao dung tình yêu và niềm vui… Hoa sẽ chết đi chiều nay, nhưng ẩn tàng sự sống. Cánh hoa nào cũng chết, nhưng chết trong sự sống. Cánh hoa nào cũng sẽ rơi nhưng rơi trong sự sanh khởi…” Trong vòng quay của hữu tình và vô tình, sự sống được biểu hiện rõ nét nhất nơi đời sống của sinh vật qua quá trình giao ph��i của hai giao tử đực và cái, nam và nữ, cha và mẹ để cho ra đời những giống con tiếp tục duy trì chủng loại đó gọi là sanh.
Nếu định nghiệp sắp làm con trai thì trung ấm thân dấy niệm thương mẹ, nếu là con gái thì dấy niệm thương cha. Nhơn lòng yêu làm hạt giống, nạp tưởng điên đảo nên thai để gá vào mẹ. Khi thần thức hoan hỉ với lúc cha mẹ giao hợp, ba hơi nóng hay điểm này (cha, mẹ, trung ấm) này nhập cục với nhau như một điểm hồ đặc ở trong tử cung. Thức ấy là tinh thần; tinh cha huyết mẹ là vật chất. Bấy giờ trong bào thai có ba nguyên tố:
1) Mạng sống có kỳ hạn của thai sanh;
2) Hơi ấm của ba lửa (cha, mẹ, thần thức lẫn giữa khối tinh huyết ấy kêu là nhất điểm chơn dương);
3) Thức: tánh biết, tánh Phật mà khi cuộc vào thân người thì gọi là thức Alaida. Khi đầu thai, thức này đến trước nhất, rồi lần hồi nảy sanh bảy thức kia.
11. LÃO, BỊNH VÀ TỬ
Chết là cái chắc chắn đến với mỗi chúng ta, nhưng khi nó đến vẫn mang cho chúng ta một nổi bàng hoàng, một sự đau buồn to lớn… nhưng dù thế nào đi nữa, nó cũng là một sự cảnh tỉnh chúng ta rằng mạng sống con người thật ngắn ngủi, không thể đoán trước được và thật mỏng manh. Chết là tiếng gọi chung từ tử thần, là một định nghiệp chung và là mẫu số chung cho tất cả chúng ta.
Chết nhắc cho chúng ta về bản chất phù du của mạng sống ngắn ngủi, khiến ta phải suy nghĩ lại về mình và khuyên chúng ta sống có ý nghĩa hơn, đừng lãng phí thời gian theo những theo đuổi tầm thường, theo những hoạt động vô tích sự, những lời nói sáo rỗng, những bảo thủ ngu dốt, những sở hữu vật chất tầm thường… vì những cái này kết cuộc chỉ gây đau khổ cho chúng ta.
Khi linh hồn chúng ta đi ra khỏi thế giới này thì những sở hữu, những thành tựu, những danh tốt, tiếng thơm đều trở thành vô dụng, chỉ có bản chất đạo đức con người mới có tồn tại… chỉ có tính chánh trực, lòng tốt, kiên nhẫn, trí tuệ và sự hy sinh hết lòng vì người khác là còn mãi. Hãy tu tập những phẩm tánh cao thượng này, thì cái chết đến sẽ là một sự ra đi nhẹ nhàng, là một sự hoàn thành lớn và không có gì để sợ hãi. Chết sẽ là sự hoan hỉ nên đánh vang tiếng trống, vui mừng vì ta đã hoàn thành nhiệm vụ. Sanh tử đã hết, gánh nặng đã đặt xuống, những việc cần làm đã làm xong. Không còn gì nữa.
Đức Phật dạy đối trị lòng tham ái xác thân bằng hạnh đầu đà và quán về cái chết (cửu tưởng quán). Tập thấy mình là một xác chết, một tử thi. Một cô gái trẻ đẹp đi qua kia chỉ là những bộ xương bọc thịt, phủ một lớp da, xức dầu thơm, bản chất là 32 thể trược đang chuẩn bị hoá dòi mủn nát trở về với cát bụi.
Niệm thân để đối kháng lại chỗ thấy biết rất sai của mình. Cháu đưa đám ông, con đưa đám cha. Cứ thế nối dòng đào hố vô thường, kiếp kiếp đời đời không thay đổi tri kiến, không thay đổi lối sống. Tập thấy cơ thể ta và người chỉ là những tập hợp vô thường đầy khốn khổ. Do đây giải thoát khỏi những hiểm nguy của tham ái.Nghĩ đến cái chết, đến sự hủy diệt, ta sẽ không quyến luyến cuộc đời. Do đó tâm được hoan hỉ và định tâm. Bởi biết sự vật đúng chân tướng của nó, ta không bị ràng buộc.
Nếu chúng ta không quán cái chết và tính tất nhiên của nó, chúng ta sẽ không có sự chuẩn bị, chúng ta sẽ trở nên mất chánh niệm khi cái chết đến, nhất là đối với người thân trong gia đình, bạn bè hay chính bản thân chúng ta. Vì vậy, hãy chuẩn bị hành trang tâm lý cho cái chết thanh bình. Nếu chúng ta để đời sống của chúng ta chạy theo vật chất thì chúng ta sẽ chết trong lo âu và tiếc nuối. Ngược lại, nếu chúng ta sống hết lòng phục vụ mọi người với tấm lòng từ bi thì chúng ta có thể chết với tâm an ổn, hạnh phúc. Thế nên phương pháp tốt nhất chuẩn bị cho sự chết là hãy sống một đời sống tận tụy phục vụ con người với trọn vẹn lòng yêu thương của mình.
Phần đông chúng ta bị nghiệp và các thứ cảm xúc ngăn che không cho thấy bản tánh. Những hành nghiệp tiếp tục trói buộc chúng ta vào vòng sanh tử không cùng tận. Bởi thế mọi sự đang bấp bênh, tùy thuộc cách ta đang sống, suy nghĩ ngay giờ phút này. Nếp sống hiện tại của ta có ảnh hưởng đến suốt kiếp vị lai. Đó là lý do cấp thiết khiến ta phải chuẩn bị con đường của mình với thái độ thông minh. Cần tránh thảm kịch quay tròn trong 12 nhân duyên khổ nhọc. Kiếp sống này là thời gian và nơi chốn duy nhất cho ta chuẩn bị. Ta chỉ có thể thực sự chuẩn bị bằng cách trở về chân tâm. Tổ Liên Hoa dạy: ‘Đời người ngắn ngủi, đâu có thời giờ để tâm lang thang. Cần thầy nghe quán tưởng không xao lãng để cầu giác ngộ. Có ba dụng cụ là văn, tư, tu có thể giúp chúng ta thấy được sự thật ta là ai và thể hiện niềm vui giải thoát gọi là trí vô ngã.’
Sống và chết là một chuyển tiếp. Đức Phật không can thiệp vào đường đi của nghiệp lực. Đức Phật chỉ giảng về cơ cấu và tác động của nó. Nguồn gốc của tái sanh là tham sân si. Mà tham sân si được vẽ trên nền xanh hư vọng nghĩa là huyễn hóa không có, vì thế nhà thiền gọi là không gốc:
“Vốn từ không gốc,
Từ không mà đến,
Lại từ không mà đi,
Ta vốn không đến đi,
Tử sanh làm gì lụy.”
(Thiền sư Như Trừng Lân Giác)
“Sanh từ chỗ nào đến?
Chết sẽ đi nơi nào,
Biết được chỗ đi đến,
Mới gọi người học đạo.”
(Thiền sư Hương Hải)
Đức Phật dạy chúng ta có năm pháp bất định là:
1. Mạng sống bất định: mạng sống là tuổi thọ, chất ấm, thức thứ tám duy trì mạng căn, là năm uẩn, là sáu căn, sáu thức hoạt động… Nó bất định vì chúng ta không biết khởi thủy của nó khi nào và chung cuộc khi nào. Nó không chủ thể, nó muốn không sinh hoạt nữa thì không sinh hoạt nữa gọi là mạng sống đã dừng.
2. Bịnh tật bất định: do vi khuẩn nhập và theo đạo Phật là tứ đại khi hoà, khi không hoà, khiến cho thân thể khi khoẻ, khi bịnh bất định.
3. Thời gian bất định: thời gian là sự biến dịch và vận hành thay đổi, ngày đêm sáng tối, quá khứ, hiện tại và vị lai không dừng và không định lại một chỗ. Thời gian như ngựa ruỗi. Trần thế như mây mờ. Đức phật biết tiết kiệm tối đa dù chỉ một phút, vì chết có thể đến bất cứ lúc nào. Đối với người hiểu đạo thì thời gian là phương thuốc nhiệm mầu để cảnh tỉnh vô thường, bồi dưỡng, tẩm bổ trí tuệ và kết quả hoa hương.
4. Chết bất định: muốn chết là chết không theo ý mình cho nên bất định. Có khi thật trẻ, có khi trung niên và có khi già mới chết. Có khi do bịnh mà chết, do tai nạn và có khi không có nguyên nhân gì cả cũng ngã lăn đùng ra chết. Chúng ta sanh một nơi, trú một nơi hay nhiều nơi và chết thường khó định là nơi nào? Có thể là núi rừng hoang vắng, cao nguyên lộng gió, đại lộ xe cộ, sông suối biển khơi, nơi chôn nhau cắt rốn, mồ mả tổ tiên, chùa chiền tự viện…Chết là sự gián đoạn một kiếp người, gián đoạn của một hơi thở mà hơi thở thì rất mỏng manh.
5. Nơi sanh bất định: đây là cảnh giới tái sanh bất định (chớ không phải bịnh viện chọn để sanh con), là cảnh giới hiện diện sau khi chết. Chết không phải là hết mà là một gian đoạn chuyển từ kiếp sống này sang kiếp sống khác. Con người chỉ rời bỏ thể xác này đến một cảnh giới khác.
Cứ thế mà làm nhân, làm quả quyện nhau khiến bánh xe quay liên tiếp không dứt. Trong vòng luân hồi cái chết và sống làm duyên cho nhau. Chết nơi này, sanh nơi khác, chúng sanh có mặt ở một nơi thì cùng một lúc cũng có một chúng sanh vắng mặt ở một nơi. Có khi chết sanh lại chỗ cũ cũng có. Muốn biết nghiệp tái sanh của mình hãy nhìn nghiệp hiện tại của mình. Mạng sống vốn bấp bênh, thân người luôn bịnh hoạn, thời giờ không ngừng bức bách, nơi chết lại vô chừng, chỗ tái sanh thì bất định. Hãy sống thu thúc giới hạnh và thanh tịnh.
13. SƠ ĐỒ 12 NHÂN DUYÊN
Trong 12 nhân duyên, cái nhân làm duyên cho quả. Quả làm nhân cho duyên, tạo thành xâu chuỗi luân hồi vô tận mà sự sống và chết từ thiên thu đã không ngừng tái diễn. Nếu chia theo nhân quả chuyền níu của quá khứ, hiện tại, tương lai và ‘hoặc-nghiệp-khổ’ thì vòng 12 nhân duyên được hiểu như sau:
Hai nhân -/ Vô minh: vọng hoặc che tối -> Hoặcquá khứ -/ Hành: vọng dấy nên ba nghiệp hiện hành chẳng dừng -> Nghiệp
Năm quả -/ Thức: hạt giống nghiệp phát sanh ra thức. Hiện tại Thức là biết đối cảnh để phân biệt
Nghiệp thức là nghiệp quả, một nghiệp -> Khổ-/ Danh sắc: thức tâm là danh. Năm căn là sắc-/ Lục nhập: sáu căn đều đủ. Tùy theo căn thì trần nhập vào căn nấy.-/ Xúc: căn nào đối trần nấy sanh xúc-/ Thọ: căn xúc trần thọ tốt xấu.
-> Bốn thứ này chỉ về sắc thân và sự cảm thọ của sắc thân trong sanh tử nên thuộc -> Khổ
Ba nhân -/ Ái: bởi lãnh thọ sanh áihiện tại -/ Thủ: vì tham ái đắm nhiễm, nên theo đuổi kiếm tìm kiếm.
-> là ái nhiễm đắm trước nên thuộc về -> Hoặc
-/ Hữu: do theo dõi mong cầunên gây ra các nghiệp hữu lậu.
Hai quả -/ Sanh: Vì đã có nghiệp nhân tất phảivị lai với lấy cái thọ sanh đời sau
->đây là các hành của thân khẩu ý nên thuộc -> Nghiệp
-/ Già bịnh chết: đã có sanh thân tức chịu cái khổ của bịnh, lão tử.
-> đây là sự thọ quả trong sanh tử nên -> Khổ
12 nhân duyên tùy ý đoạn được một cái nào thì các cái kia đều tan rã.
Hễ nhân đã đoạn thì không còn hạt giống nữa. Hễ duyên đã đoạn thì không còn cảnh phụ trợ.
Đức Phật kết vòng 12 nhân duyên như sau:
“Hai pháp có thể biết và phải thông suốt là danh và sắc;Hai pháp có thể biết và phải tận trừ là vô minh và ái dục;Hai pháp có thể biết và phải thực tập là giới và định;Hai pháp có thể biết và phải chứng ngộ là giải thoát và trí tuệ”.
Nguồn: phatgiao.org.vn
24 notes · View notes
hoangpnd · 9 months
Text
Tumblr media
2023, đọc gì:
1. Sợi tóc (Thạch Lam)
2. Vết thương thành thị (Đỗ Tiến Thụy)
3. Ông cố vấn - Hồ sơ một điệp viên (Hữu Mai)
4. Những bức tường lửa (Khuất Quang Thụy)
5. Cát cháy (Thanh Quế)
6. Em điên xõa tóc (Kiệt Tấn)
7. Trong ngôi nhà của mẹ (Nguyễn Quang Thiều)
8. Chuyện nhỏ sớm mùa thu (Lưu Quang Vũ)
9. Cô-xchi-a lùn (Iosif Likstanov)
10. Bay đêm (Antonie de Saint-Exupery)
11. Thơ và truyện ngắn (Lưu Quang Vũ)
12. Mùa hè giá buốt (Văn Lê)
13. Bánh mì thơm, Cà phê đắng (Ngô Thị Giáng Uyên)
14. Vùng trời (Hữu Mai)
15. Giao thừa (Nguyễn Ngọc Tư)
16. Đất sau mưa (Bằng Việt)
17. T mất tích (Thuận)
18. Sơn ca vẫn hót (Kristin Hannah)
19. Chess Story (Stefan Zweig)
20. Bức thư gửi người đàn bà không quen (Stefan Zweig)
21. Phật ở tầng gác mái (Julie Otsuka)
22. Cao điểm thứ tư (Elena IIIyina)
23. Phong vị tuyệt vời (Amy Yamada)
24. Những linh cảm bí ẩn (Amy Tan)
25. Đứa con đi hoang trở về (Andre Gide)
26. Một gánh xiếc qua (Patrick Modiano)
27. Hoa của phế tích (Patrick Modiano)
28. Hunger (Knut Hamsun)
29. Trên con đường lớn (Boris Polevoi)
30. Những nẻo đường đời và những bản tình ca khác (Le Clézio)
31. Người chưa bao giờ thấy biển (Le Clézio)
32. Trong chiến hào thành cổ (Chu Tam Thành)
33. Dòng sông mang lửa (Hồ Sỹ Hậu)
34. Có một thời như thế (Võ Minh)
35. Our Great Spring Victory: An Account of the Liberation of South Viet Nam (Văn Tiến Dũng)
36. Rừng đước (Lê Minh)
37. Chuyện của hai người (Hoàng Ngọc Hà)
38. Liu-xi-a lớn và Liu-xi-a bé ( Irina Pivovarova)
39. Thương nhớ Trà Long (Nguyễn Nhật Ánh)
40. Miền thẳm (Bùi Minh Quốc)
15 notes · View notes
diracsea · 9 months
Text
Reading Challenge 2024
Note: Số ☆ chỉ là ước lượng cảm tình của mình với cuốn sách. Mình không phải nhà phê bình, không biết đánh giá sách hay hay dở.
Tumblr media
Chuyện con mèo và con chuột bạn thân của nó (Luis Sepúlveda; Hoàng Nhụy dịch) 🇨🇱 ☆☆☆
Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh) 🇻🇳 ☆☆☆☆☆
Vùng đất quỷ tha ma bắt (Kevin Chen; Nguyễn Vinh Chi dịch) 🇹🇼 ☆☆☆☆
Mùa hè không tên (Nguyễn Nhật Ánh) 🇻🇳 ☆☆
Con giai phố cổ (Nguyễn Việt Hà) 🇻🇳 ☆☆☆
Vụ việc dị thường về bác sĩ Jekyll và ông Hyde (Robert Louis Stevenson; Hoàng My dịch) 🏴󠁧󠁢󠁳󠁣󠁴󠁿 ☆☆☆
Chuyện con chó tên là Trung Thành (Luis Sepúlveda; Hoàng Nhụy dịch) 🇨🇱 ☆☆☆
Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ (Nguyễn Ngọc Thuần) 🇻🇳 ☆☆
Cỏ dại thênh thang (Bùi Tiểu Quyên) 🇻🇳 ☆☆
Hạ phàm (Walter Tevis; Thái Vi - Yên Chi dịch) 🇺🇸 ☆☆☆☆
Giảng đường yêu dấu (Mai Anh Tuấn) 🇻🇳 ☆☆☆☆
The Chocolate War (Robert Cormier) 🇺🇸 ☆☆☆
Gió lẻ và 9 câu chuyện khác (Nguyễn Ngọc Tư) 🇻🇳 ☆☆☆☆
Nhật ký cá sấu (Khâu Diệu Tân; Tố Hinh dịch) 🇹🇼 ☆☆☆☆
Cửa sổ phía đông (Nguyễn Thị Kim Hòa) 🇻🇳 ☆☆
Những giao diện ẩn (Thiên Di) 🇻🇳 ☆☆
Her Body and Other Parties (Carmen Maria Machado) 🇺🇸 ☆☆☆☆☆
Tuổi 20 yêu dấu (Nguyễn Huy Thiệp) 🇻🇳 ☆☆☆☆
Tự nhiên say (Phát Dương) 🇻🇳 ☆☆
Người lạ (Mai Thảo Yên) 🇻🇳 ☆☆
Cô con gái ngỗ ngược (Võ Diệu Thanh) 🇻🇳 ☆☆☆
Gáy người thì lạnh (Nguyễn Ngọc Tư) 🇻🇳 ☆☆☆
Wittgenstein của thiên đường đen (Maik Cây) 🇻🇳 ☆☆☆
Chuyện bên rìa thế giới (Bùi Cẩm Linh) 🇻🇳 ☆☆
Mio, con trai ta (Astrid Lindgren; Phạm Văn dịch) 🇸🇪 ☆☆☆
Vành đai khí độc & những câu chuyện khác (Arthur Conan Doyle; Moonshine dịch) 🏴󠁧󠁢󠁳󠁣󠁴󠁿 ☆☆
2023 | 2022 | 2021
9 notes · View notes
nhungcuonsachhay · 5 months
Text
Mười Năm Chưa Lần Gặp - Hoàng Ngọc Ẩn
Tumblr media
Nhạc sầu giăng tiếp nối Sương dâng mờ khung trời Dòng thư ai nhắn gửi Buồn len vào tim côi!
Trời Paris chớm lạnh Anh đã tìm về đây Mưa thu buồn hiu hắt Vàng thu đầy mắt ai Ngõ hồn sao trống vắng Trên phố buồn hôm nay…
Mười năm chưa lần gặp Sao ta vẫn đợi chờ Phố người ta vẫn đợi Người yêu đâu có ngờ Phố người mưa vẫn gội Ta một mình bơ vơ…
Bao nhiêu ngày xa cách Bấy nhiêu ngày đắng cay Rượu người ta chưa nhắp Sao hồn ta đắm say Môi người ta chưa uống Sao hồn ta ngất ngây Mưa giăng đầy phố nhỏ Ta lạc loài chiều nay…!
Mười năm chưa lần gặp Em, mắt sầu tiêu hao Ngõ hồn em lạnh ngắt Mùa thu về lao xao
Mười năm chưa lần gặp Ta ngậm ngùi chia xa Trời Paris mưa phủ Em có còn nhớ ta…?!
Nhà thơ Hoàng Ngọc Ẩn
Bài thơ này đã được nhạc sĩ Nhật Ngân phổ nhạc thành bài hát cùng tên.
6 notes · View notes
levantu · 8 months
Text
ĐỌC SÁCH KINH ĐIỂN: Bố Già - THE GODFATHER-TS LÊ VĂN TƯ
Bố Già - The Godfather
Tác giả: Mario Puzo
Dịch giả: Ngọc Thứ Lang
Gồm 32 chương
Bố Già là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng  của nhà văn người Mỹ gốc Ý tên Mario Puzo.
Xuất bản năm 1969 với 11 triệu bản in được bán sạch, là quyển tiểu thuyết hay nhất viết về giới giang hồ, giới Mafia tại Mỹ. Rất  nhiều lời khen chê về nó.
"The Godfather" đã được hãng Paramount dựng thành phim, tài tử lừng danh Marlon Brando thủ vai chính, và cũng nhanh chóng trở thành cuốn phim ăn khách nhất lúc bấy giờ và hiện nay nó vẫn thu hút cho người xem.
Quyển sách nói về một thế lực Mafia Mỹ với ông trùm Don Vito Corleone thường được mệnh danh là “bố già”. Xung quanh ông luôn có nhiều kẻ thù muốn tìm cách hãm hại ông, nhưng đều bị ông trừng trị một cách tàn nhẫn.
Thế giới ngầm được phản ánh trong tiểu thuyết Bố già là sự gặp gỡ giữa một bên là ý chí cương cường và nền tảng gia tộc chặt chẽ theo truyền thống mafia xứ Sicily với một bên là xã hội Mỹ  đen trắng phức tạp, mảnh đất màu mỡ cho những phi vụ làm ăn thế giới ngầm, những món lợi kinh khủng. Hình tượng Bố già được tác giả  công phu thiết kế  đã trở thành bức ảnh chiều sâu, bất hủ trong lòng người đọc sách và người xem phim. Từ một kẻ nhập cư nghèo nàn đến ông trùm  đỉnh cao quyền lực, Don Vito Corleone  thâm trầm, nguy hiểm. 
Ông là một trong những thủ lĩnh tối cao của giới Mafia Mỹ. Kẻ thù căm ghét ông, khiếp sợ ông, khinh bỉ ông; ông như con rắn hổ mang nguy hiểm có đôi mắt chứa đựng một uy lực tối thượng nhìn thấy hết, biết hết, làm được hết. Nhưng đối với bạn bè, thân quyến, "Bố già" gần như là một đấng toàn năng có thể cứu họ thoát khỏi những thế kẹt và nỗi oan ức mà ngay cả luật pháp cũng chẳng gỡ được. Ông đúng là "Mafia" theo cái nghĩa nguyên thủy của nó thuở ban đầu hình thành, nơi ẩn náu.
Don Vito Corleone hiện thân huyền thoại và rất đời thực;  được kết tinh từ vốn sống của hàng chục năm lăn lộn giữa chốn mafia bao phen vào sinh ra tử. Bố già là sự tổng hợp của mọi hiểu biết trí tuệ và hành động hiệu quả và rất tàn nhẫn.
Với những pha hành động gay cấn, tình tiết bất ngờ và không khí sanh tử đến nghẹt thở, Bố già  là đỉnh cao trong sự nghiệp  của Mario Puzo. Và như một cơ duyên đặc biệt, ngay từ năm 1971-1972, Bố già đã đến với bạn đọc trong nước, ngoài nước qua hành động hào hiệp,  giang hồ, quyết liệt, dứt khoát của dịch giả Ngọc Thứ Lang.
Tác phẩm  hay nhất mọi thời đại này sẽ đưa đến cho người đọc những triết lý sống đáng để suy ngẫm và xứng đáng là đỉnh cao trong sự nghiệp văn chương của nhà văn Mario Puzo tính đến bây giờ.
…..
Về tác giả:
Mario Puzo (1920 - 1999) là nhà văn, nhà biên kịch người Mỹ gốc Italy nổi tiếng với nhiều tiểu thuyết về đề tài mafia và tội phạm. Bố già (The Godfather) xuất bản năm 1969 là đỉnh cao của dòng văn chương đặc biệt, đồng thời là tác phẩm đưa Puzo lên tột đỉnh vinh quang. Đây cũng là một trong những tiểu thuyết bán chạy nhất mọi thời đại. Ngoài Bố già, Mario Puzo còn nổi tiếng với các tiểu thuyết khác như Sicilian khúc ca bi tráng, Luật im lặng, Ông trùm quyền lực cuối cùng, Gia đình Giáo hoàng…
Về dịch giả
Ngọc Thứ Lang tên thật là Nguyễn Ngọc Tú, biệt danh là công tử xứ Bắc, vào Sài Gòn lập nghiệp khoảng năm 1950. Ngọc Thứ Lang là dịch giả  trước 1975, nhiều tác phẩm và Bố già là một dấu ấn đỉnh cao trong sự nghiệp của ông.
Năm 1972, bản dịch Bố già của Ngọc Thứ Lang chuyển từ  tiếng Anh ra mắt và đã thu hút mạnh rất nhiều độc giả.  The Godfather của Mario Puzo khi vừa xuất bản đã nằm trong danh sách sách bán chạy nhất thời gian đầu xuất bản thì Bố già của Ngọc Thứ Lang đã chấn động trên thị trường tri thức của Sài Gòn những năm thập niên 1970 .
Đọc The Godfather của Mario Puzo, bạn hãy tìm đúng bản dịch của Ngọc Thứ Lang mới đúng nội dung theo phong cách mafia Mỹ,…
Nhận xét về tác phẩm:
 “Bố già là sự tổng hòa của mọi hiểu biết. Bố già là đáp án cho mọi câu hỏi.”Diễn viên Tom Hanks
“Bạn không thể dừng đọc nó và khó lòng ngừng mơ về nó.”New York Times Magazine
“Một tác phẩm kinh điển về mafia… Tự bản thân nó đã tạo ra một thứ bùa mê hoặc độc giả.”The Times
BÀI HỌC RÚT RA TỪ SÁCH BỐ GIÀ-THE GODFATHER
Tác phẩm “Bố Già” của Mario Puzo được tác giả xây dựng nhiều bài học quý giá về cuộc sống và con người xã hội Mỹ với thế giới ngầm mafia.
Quyền lực và quyết định: Cuộc sống đầy quyền lực và quyết định khó khăn đôi khi đòi hỏi chúng ta phải đứng lên và đối mặt với những tình huống khó khăn.
Tình yêu và lòng trung thành: Lòng trung thành là tiêu chí đứng vững với đời
Giá trị của gia đình: Gia đình được coi là yếu tố quan trọng nhất trong cuộc sống của các nhân vật trong cuốn sách.
Hậu quả của quyết định: Từ những quyết định nhỏ cho đến những quyết định lớn, tác giả nhắc nhở chúng ta rằng mỗi quyết định đều có tác động và hậu quả riêng, và chúng ta cần suy nghĩ kỹ trước khi đưa ra bất kỳ quyết định nào.
Đấu tranh giữa thiện và ác
Sự khôn ngoan và sáng suốt:
Tầm quan trọng của trách nhiệm
Hiểu rõ thêm về bản chất thế giới ngầm 
Hành động mafia khác với đạo đức và pháp luật
#docsachkinhdien#bogia#THEGODFATHER#tslevantu#hoasinhtanhd
Cuốn sách “Bố Già” của Mario Puzo không chỉ là một tiểu thuyết hấp dẫn về Mafia, mà còn chứa đựng những bài học sâu sắc về cuộc sống, gia đình, quyền lực và tình yêu. Nó là một cuốn sách khó quên, đem lại cái nhìn sắc nét về con người và xã hội.
(sưu tầm, tổng hợp)
Cạnh Tranh Sinh Tồn (Tiến Sĩ Lê Văn Tư)
youtube
3 notes · View notes
honhatduy · 2 years
Photo
Tumblr media
Nếu là một người miền Tây chính gốc xem Tro Tàn Rực Rỡ, hẳn bạn sẽ thấy đâu đó vừa quen vừa lạ.
Ngay từ đám cưới đầu phim, màu sắc và ánh sáng gợi nhớ ngay về những năm 2001 – cái thời mà đám tiệc buổi tối còn chạy máy phát điện, rạp cưới dựng bằng lá dừa, bia lon chưa tràn ngập và ban nhạc chơi đàn thay vì loa kẹo kéo.
Quen sao những xóm nhỏ bình yên dọc theo kênh rạch, “Tẻ nhạt hết sức nơi cái xóm Thơm Rơm này, nơi những người đàn ông ngập trong rượu và mối lo thất mùa rớt giá, con cái ốm đau; nơi những người đàn bà suốt ngày cắm mặt vá víu những chỗ rách trong nhà”.
Hoặc những khu chợ nhà lồng dơ mèm có bậc thang dẫn lối ra sông để người đi chợ bước xuống đò về.
Hay những người đàn ông quần áo lúc nào cũng dơ sình, ngày ngày quảy theo cái thau hay can nhựa khoét lỗ đi kiếm cá, bắt ba khía.
Nhưng bạn sẽ thấy lạ hoắc vì lời thoại quá văn học, dễ nhận nhất là lời dẫn truyện giọng Việt lơ lớ của nhân vật chính Hậu (Bảo Ngọc Doling) khiến phim thiếu hẳn chất giọng miền Tây.
Hóa trang chân dung Nhàn (Phương Anh Đào) và Hậu chưa thật sự thuyết phục, vẫn có cảm giác hai nhân vật như hai cô gái thành thị mới về quê ăn Tết một vài tuần; bù lại cả ba nữ chính đều diễn xuất ở mức chấp nhận được. Thúy Hạnh nhập vai người phụ nữ khùng rất tốt, tiếc là đất diễn không nhiều.
Hai nam chính cũng diễn tốt. Dương (Lê Công Hoàng) thể hiện tốt biểu cảm nét mặt, mấy lần ngồi cùng hôn thê bất đắc dĩ của mình tạo ra nét tương phản khắc họa sâu cá tính của nhân vật. Tam (Quang Tuấn) thì nổi trội ở diễn xuất hành động. Dương và Tam hợp lại khắc họa trúng phốc một phần lớn những người đàn ông miền Tây hiền lành, chịu khó nhưng vô tâm, hành động như con nít.
Mỗi khung hình đều có ngôn ngữ điện ảnh: Góc quay chọn lọc, lửa đẹp, sông nước đẹp, con người đẹp. Âm nhạc phù hợp và được tiết chế tối đa, không như mấy phim bộ đài Vĩnh Long cứ tới cảnh buồn buồn là kéo đờn cò rên rĩ.
Phim buồn, nhưng buồn ở mức chưa quá lay động cảm xúc vì nhịp phim cắt cảnh theo nguyên tác khá nhanh và nhiều. Cao trào cảnh này vừa chạm nhẹ thì cảnh mới chuyển đến ngay, thành ra cảm xúc trồi tuột như dích dắc. Cũng cần phải nói, việc chuyển tải trọn vẹn cốt cách và ý tứ truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư lên màn ảnh vốn dĩ không dễ, vì nó giàu nhiều lớp triết lý và thấm đẫm văn hóa của vùng đất miền Tây.
“Người ta té sông, ông đọc kinh sám hối thì tự dưng người ta nổi lên sao? Phải lấy tay mình kéo họ kìa, ông ơi”
Đúng như tên phim, mỗi nhân vật có một ngọn lửa âm ỉ riêng trong lòng, chỉ cần bén mồi khao khát yêu thương thì ngọn lửa ấy sẽ bùng lên một lần huy hoàng, để rồi sau tất cả chỉ còn lại đống tro tàn rực rỡ.
Đám cưới. Tiệc rượu say. Những ẩn ức trong tình yêu. Những hành động khó lý giải… Tôi thấy Tro Tàn Rực Rỡ tựa một phiên bản miền Tây của Chơi Vơi.
19 notes · View notes
sonmyhope · 15 hours
Text
NGUYÊN NHÂN VÀ CÁCH XỬ LÝ SƠN BỊ PHỒNG RỘP ĐÚNG KỸ THUẬT
Sơn tường bị phồng rộp vừa làm mất thẩm mỹ của ngôi nhà mà còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ như bong tróc, ẩm mốc. Nếu không được xử lý sơn bị phồng rộp kịp thời, tình trạng này có thể gây ảnh hưởng đến kết cấu của tường và làm giảm tuổi thọ của ngôi nhà. Vậy làm thế nào để xử lý sơn bị phồng rộp một cách đúng kỹ thuật?
Xem thêm: https://sonmyhope.vn/xu-ly-son-bi-phong-rop/
=========================
TỔNG CÔNG TY SƠN MY HOPE VIỆT NAM
Trụ sở: Nhà Số 1, Ngách 14/5, Ngõ 54, Đường Ngọc Hồi, Phường Hoàng Liệt, Quận Hoàng Mai, Hà Nội
Nhà máy 1: CCN Thanh Oai, Xã Bích Hòa, H.Thanh Oai, Hà Nội
Nhà máy 2: KCN Tân Đức, Đức Hòa, Long AN
Hotline: 0968.011.699
Website: sonmyhope.vn
Tumblr media
0 notes
thptngothinham · 2 days
Text
Tổng hợp văn mẫu lớp 6 chọn lọc đề bài: Phân tích nhân vật Thạch Sanh, với nhiều góc nhìn khác nhau trong câu truyện cùng nhiều ý nghĩa nhân văn trong hình tượng nhân vật này Truyện cổ tích Thạch Sanh được xây dựng với chàng Thạch Sanh là nhân vật chính với hình ảnh, tính cách và niềm ước mơ của người dân xưa. Vì vậy mà nhân vật Thạch Sanh có rất nhiều giá trị nghệ thuật mà các em học sinh có thể tìm hiểu, phân tích, học hỏi. Phân tích nhân vật Thạch Sanh I. DÀN Ý 1. Mở bài Giới thiệu nhân vật Thạch Sanh: Thạch Sanh là nhân vật để lại nhiều ấn tượng khó quên với người đọc bởi những đức tính tốt đẹp. 2. Thân bài - Xuất thân đặc biệt, là sự kết hợp của những điều bình thường và yếu tố phi thường. - Là người chất phác, hiền lành, chăm chỉ, sẵn sàng xả thân vì người khác, khôn toan tính, vụ lợi. - Là con người tài năng, quả cảm. - Có tấm lòng nhân hậu, khoan dung. - Yêu chuộng hòa bình. - Nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo: xây dựng hai tuyến nhân vật đối lập; kết hợp yếu tố bình thường và phi thường; sử dụng các chi tiết thần kì. 3. Kết bài Cảm nghĩ về nhân vật Thạch Sanh: Thạch Sanh là một con người toàn mĩ cả về tài năng lẫn nhân cách. Thông qua nhân vật Thạch Sanh tác giả muốn gửi gắm niềm tin, ước mơ về chân lí cái thiện luôn luôn thắng cái ác. Xem thêm: Phân tích truyện cổ tích Thạch SanhKể tóm tắt truyện Thạch Sanh II. BÀI LÀM THAM KHẢO Bài làm 1 Chàng dũng sĩ Thạch Sanh trong tác phẩm cùng tên là nhân vật cổ tích ghi lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Truyện xoay quanh những biến cố, những thử thách mà Thạch Sanh phải trải qua để đạt được hạnh phúc. Nhân vật đã thể hiện một cách trọn vẹn và đầy đủ những quan niệm của nhân dân ta về cái thiện, cái ác, về lòng yêu chuộng hòa bình. Thạch Sanh vốn là con của Ngọc Hoàng, vì thương đôi vợ chồng nghèo đã lớn tuổi mà chưa có con nên Ngọc Hoàng sai Thạch Sanh xuống đầu thai làm con. Chàng được sinh ra hết sức đặc biệt, người mẹ mang thai vài năm mới hạ sinh Thạch Sanh và khi chàng vừa khôn lớn thì mẹ đã qua đời. Chàng sinh sống một mình dưới gốc đa, lấy nghề đốn củi để kiếm sống qua ngày. Thạch Sanh còn được các thiên thần xuống chỉ dạy võ nghệ và các phép thần thông. Ta có thể thấy rằng, sự ra đời và cuộc sống của Thạch Sanh là sự kết hợp hài hòa giữa những yếu tố bình thường với những yếu tố phi thường, kì lạ. Bình thường ở chỗ cha mẹ chàng là những người lao động nghèo, hiền lành, tốt bụng, thường giúp đỡ mọi người. Thạch Sanh sớm mồ côi cha mẹ - chàng là đại diện tiêu biểu cho những trẻ mô côi, một trong những lớp người khốn cùng nhất của xã hội. Để nuôi sống bản thân Thạch Sanh đã dùng tài sản duy nhất của cha để lại là chiếc rìu mang đi đốn củi, công việc của chàng hết sức bình dị, đời thường. Những nét đời thường đó khiến cho nhân vật gần gũi hơn với đời sống nhân dân. Nhưng ẩn đằng sau cái bình dị đó lại là sự xuất thân khác thường: chàng vốn là thái tử được sai xuống trần gian, người mẹ mang thai vài năm mới sinh ra Thạch Sanh, chàng được các thiên thần dạy võ nghệ và phép thuật. Những điểm khác thường đó chính lá dấu hiệu báo trước cho người đọc biết những việc làm phi thường của chàng sau này. Đồng thời mở ra hướng phát triển của câu chuyện, làm câu chuyện trở nên hấp dẫn hơn. Để đạt đến hạnh phúc cuối cùng, Thạch Sanh đã phải trải qua rất nhiều thử thách. Bị mẹ con Lý Thông lừa đi canh miếu thờ chằn tinh. Lý Thông lừa cứu công chúa rồi chôn vùi chàng dưới hang sâu, ở đây chàng đã cứu được con trai vua Thủy Tề và được tặng một chiếc đàn thần. Tiêu diệt chằn tinh và đại bàng nên chàng còn bị hồn của chúng báo thù, bị vu oan và nhốt vào ngục tối. Nhờ đàn thần chàng đã tự giải cứu mình, không chỉ vậy còn lật tẩy bộ mặt xảo quyệt của mẹ con Lý Thông, giúp công chúa lấy lại được tiếng nói. Và cuối cùng chàng đã nên duyên với công chúa. Những thử thách mà chàng phải vượt qua ngày càng khó khăn hơn, nhưng đồng nghĩa với đó chiến công và phần thưởng chàng có được cũng một tăng dần. Những việc làm, hành động ấy cho thấy Thạch Sanh là con người thật thà, chất phác, sẵn sàng xả thân vì người khác, chàng chưa một lần suy tính cho lợi ích của bản thân.
Không chỉ vậy, Thạch Sanh còn là một con người quả cảm, tài năng, đứng trước những kẻ thù hung hãn như chằn tinh, đại bàng chàng không hề nao núng, dùng sức khỏe và tài năng của mình để đánh bại chúng. Chi tiết chàng tha cho mẹ con Lý Thông về quê còn cho thấy tấm lòng nhân đạo, khoan dung của chàng với kẻ thù của mình. Thạch Sanh là hiện thân của vẻ đẹp toàn mĩ, lý tưởng, luôn đấu tranh chống lại cái ác, cái xấu, cứu người dân lương thiện. Mọi hành động chàng làm đều vì cuộc sống thanh bình, tốt đẹp của nhân dân. Kết thúc có hậu khi chàng lấy công chúa, mẹ con Lý Thông bị trừng phạt còn thể hiện ước mơ về công lý xã hội của nhân dân ta. Không chỉ là hiện thân của vẻ đẹp lý tưởng trong quá trình đấu tranh chống lại cái ác, Thạch Sanh còn là biểu tượng của tấm lòng nhân đạo, lòng yêu chuộng hòa bình của dân tộc ta. Trong thử thách cuối cùng, Thạch Sanh thu phục các nước chư hầu đã thể hiện rõ nét nhất điều này. Bằng tài năng, tấm lòng của mình chàng đã dùng tiếng đàn thần làm quân giặc “bủn rủn chân tay, không còn nghĩ được gì tới việc đánh nhau nữa”. Chàng lại dùng niêu cơm thần dọn một bữa cơm thiết đãi những kẻ thua trận. Chi tiết niêu cơm thần vừa phản ánh tấm lòng nhân đạo của Thạch Sanh vừa thể hiện mơ ước ấm no, hạnh phúc của dân tộc ta. Thạch Sanh là sự hội tụ những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân Việt Nam: hiền lành, chất phác, tốt bụng, anh dũng , kiên cường, khoan dung và yêu chuộng hòa bình. Xây dựng nhân vật Thạch Sanh các tác giả dân gian đã tạo nên cốt truyện hết sức hấp dẫn, kịch tính, tạo hai tuyến nhân vật đối lập mà Thạch Sanh là đại diện cho cái thiện. Bên cạnh đó nhân vật được xây dựng là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố bình thường và phi thường khiến cho nhân vật vừa giản dị, gần gũi nhưng cũng hết sức cao quý. Đi kèm với nhân vật luôn có sự trợ giúp của các đồ vật thần kì (đàn, niêu cơm, cung tên) làm tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện. Kết thúc tác phẩm là kết thúc có hậu, đây là kiểu kết thúc phổ biến của truyện cổ tích. Trải qua những khó khăn, vất vả, Thạch Sanh đã dành được phần thưởng xứng đáng (lấy công chúa, lên ngôi vua), qua đó còn phản ánh mơ ước, khát vọng, quan niệm ở hiền gặp lành của nhân dân ta. Thạch Sanh là truyện cổ tích hấp dẫn, giàu kịch tính. Tác phẩm đã dựng lên chân dung của một vị anh hùng toàn tài, toàn mĩ cả về nhân cách lẫn tài năng. Qua nhân vật này, các tác giả dân gian thể hiện mơ ước, niềm tin về đạo đức, công lí và công bằng trong xã hội, đồng thời thể hiện tư tưởng nhân đạo và yêu chuộng hòa bình của nhân dân ta. Bài làm 2 Truyện cổ tích “ Thạch Sanh” xoay quanh những biến cố, những thử thách trong cuộc đời mà Thạch Sanh phải đối mặt và vượt qua để tìm đến hạnh phúc. Nhân vật Thạch Sanh đã để lại những ấn tượng khó quên với người đọc bởi những đức tính tốt đẹp. Hình tượng chàng dũng sĩ Thạch Sanh đã  thể hiện một cách thật trọn vẹn những quan niệm của nhân dân ta về việc cái thiện sẽ luôn luôn chiến thắng cái ác, ở hiền thì gặp lành. Trước tiên, sự ra đời của Thạch Sanh rất kì lạ. Người mẹ mang thai vài năm nhưng mới sinh ra Thạch Sanh. Sau đó không bao lâu thì mẹ qua đời. Chàng sống một mình trong túp lều cũ dưới gốc đa, công việc hàng ngày là đốn củi kiếm sống. Sự ra đời của Thạch Sanh là sự kết hợp của những điều hết sức giản dị, bình thường với yếu tố kì lạ. Điều bình thường đó là chàng được sinh ra trong một gia đình với cha mẹ là những người là những người nông dân giống như bao người khác, hiền lành, chăm chỉ và tốt bụng. Thạch Sanh mồ côi cha mẹ từ nhỏ, chàng là đại diện cho tầng lớp thấp bé, nghèo khổ trong xã hội. Chàng sống lủi thủi một mình, hàng ngày đi đốn củi kiếm sống – một công việc hết sức bình dị. Tất cả đã tạo nên một hình ảnh gần gũi với đời sống nhân dân. Nhưng đằng sau vẻ bình dị ấy là một xuất thân hết sức đặc biệt: vốn là một Thái tử xuống đầu thai trở thành người phàm. Mẹ chàng mang thai nhiều năm mới sinh ra chàng. Điều này như dự báo trước những việc phi thường mà Thạch Sanh sẽ làm được trong tương lai, đồng thời khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn thu hút người đọc hơn.
Thạch Sanh 2 lần ra tay cứu giúp kẻ yếu Thạch Sanh là một con người thật thà, chất phác, cần cù lao động và tinh thần dũng cảm. Để có được hạnh phúc, chàng đã phải trải qua bao gian truân, thử thách. Là một người mô côi cha mẹ từ nhỏ, thiếu thốn tình thân nên khi Lí Thông ngỏ lời kết tình huynh đệ, chàng chẳng mảy may suy nghĩ mà đồng ý luôn. Trên thực tế Lí Thông không có ý tốt gì, chỉ muốn lợi dụng chàng để thực hiện ý đồ của hắn, hắn là kẻ mưu mô, xảo quyệt.  Hắn nhờ chàng đi canh miếu thờ nhưng thực chất là đẩy chàng đến cái chết. Vốn hiền lành lại tin người nên Thạch Sanh đồng ý giúp Lí Thông. Trong đêm ấy, Thạch Sanh không những không bị giết mà chàng còn đánh bại chằn tinh. Lí Thông lại lừa chàng về túp lều cũ để lĩnh thưởng. Không chỉ vậy, khi Thạch Sanh cứu công chúa, Lí Thông lại hãm hại khiến chàng bị chôn vùi dưới hang sâu. Tại đây, chàng được con trai của vua Thủy Tề tặng một cây đàn thần. Chằn tinh và đại bàng bị Thạch Sanh tiêu diệt, hồn của chúng quay về báo thù khiến chàng bị giam trong ngục tối. Nhờ có tiếng đàn thần chàng đã tự giải cứu được cho chính mình, lật tấy bộ mặt gian xảo, độc ác của mẹ con nhà Lí Thông và giúp công chúa lấy lại được tiếng nói. Những thử thách đến với chàng ngày một nhiều hơn và khó khăn hơn nhưng cũng đồng nghĩa với chiến công của chàng ngày một vĩ đại hơn. Tất cả những việc làm, những hành động ấy của Thạch Sanh đều cho thấy chàng là một con người hiền lành, chất phác, sẵn sàng xả thân vì người khác, không mưu toan, vụ lợi. Không chỉ vậy, Thạch Sanh còn cho thấy mình là một con người hết sức tài năng và quả cảm. Trước những kẻ thù hung dữ như chằn tinh hay đại bàng, chàng chẳng hề nao núng, bình tĩnh dùng trí óc của mình để đánh bại chúng, giải cứu cho những người bị hại. Chàng cũng là người có tấm lòng nhân hậu, khoan dung. Dù biết mẹ con Lí Thông đã hãm hại mình rất nhiều lần, nhưng chàng vẫn tha thứ nhưng cuối cùng chúng cũng bị trời trừng phạt. Thạch Sanh chính là hiện thân của vẻ đẹp toàn mĩ, luôn đấu tranh chống lại cái ác để đem đến một cuộc sống tốt đẹp cho mọi người. Kết thúc truyện, Thạch Sanh nên duyên với công chúa, mẹ con Lí Thông bị trừng phạt thể hiện ước mơ về công lí của nhân dân. Nhân vật Thạch Sanh còn là biểu tượng của tấm lòng nhân hậu cao cả, lòng yêu chuộng hòa bình của mọi người dân đất Việt. Điều này thể hiện rõ nét khi Thạch Sanh thu phục các nước chư hầu. Với tiếng đàn kì diệu được tạo nên bằng tài năng và cả tấm lòng, chàng đã khiến cho quân giặc “ bủn rủn chân tay, không còn nghĩ gì tới việc đánh nhau nữa”. Sau đó, chàng lại dùng niêu cơm thần để thiết đãi những kẻ thua trận. Chi tiết này vừa cho thấy tấm lòng nhân hậu, vị tha của Thạch Sanh, vừa thể hiện ước mong về cuộc sống đầy đủ no ấm của nhân dân ta.Ở Thạch Sanh hội tụ những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam: hiền lành, thật thà, dũng cảm, kiên cường, tấm lòng nhân hậu và yêu chuộng hòa bình. Nhân vật Thạch Sanh được xây dựng qua một cốt truyện hấp dẫn với hai tuyến nhân vật đối lập mà Thạch Sanh là đại diện cho cái thiện. Sự kết hợp giữa yếu tố bình thường và phi thường tạo cho nhân vật một sức hút lớn vừa giản dị nhưng cũng đầy bất ngờ. Cùng với đó là sự giúp sức của các chi tiết thần kì làm câu chuyện trở nên hấp dẫn hơn. Kết thúc là cái kết có hậu, khi mà Thạch Sanh kết duyên với công chúa, qua đó thể hiện một chân lí muôn đời ở hiền gặp lành, thiện luôn luôn thắng ác. Thạch Sanh là một con người toàn mĩ cả về nhân cách lẫn tài năng. Thông qua hình tượng nhân vật Thạch Sanh, các tác giả dân gian muốn gửi gắm niềm tin về đạo lí, công bằng trong xã hội, về chân lí bất di bất dịch ở hiền gặp lành, qua đó cũng thể hiện lòng yêu chuộng hòa bình của nhân dân ta. Bài làm 3 Thạch Sanh là một chàng trai khôi ngô, khỏe mạnh, quanh năm mình trần đóng khố. Xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo khổ, cuộc đời Thạch Sanh cũng lắm gian truân. Thạch Sanh mồ côi cha từ lúc mới sinh. Năm lên bảy tuổi thì mất luôn cả mẹ. Chàng sống lầm lũi một mình bên gốc cây đa, dông tố cuộc đời đến với chàng từ đó.
Tứ cố vô thân, gia tài chỉ có mỗi chiếc rìu của cha để lại. Qua thử thách, Thạch Sanh đã bộc lộ phẩm chất quý báu của mình. Đó là tính thật thà, chất phác, cần cù lao động và tinh thần dũng cảm. Lòng cả tin của chàng đã bị mẹ con Lí Thông mưu hại. Đầu tiên là việc nhận lời kết nghĩa anh em với Lí Thông, bị Lí Thông bóc lột sức lao động. Thạch Sanh đã lấy sức của mình làm giàu cho mẹ con họ Lí. Rồi đến việc mẹ con Lí Thông lừa đi canh miếu thờ để thế mạng. Bằng tài năng và lòng dũng cảm của mình, Thạch Sanh đã diệt được chằn tinh, trừ đi mối họa cho dân làng. Thế những cuộc đời của chàng lại gặp gian nan, trắc trở, Lí Thông cướp công, rồi đuổi đi. Thạch Sanh buồn tủi, nghĩ thân phận của mình thật hẩm hiu. Tuy hoàn cảnh như vậy nhưng Thạch Sanh vẫn giàu lòng vị tha, nhân ái. Chàng lại giúp Lí Thông đi tìm công chúa Quỳnh Nga dưới hang đại bàng. Cứu được công chúa, Thạch Sanh lại bị Lí Thông hãm hại, bị nhốt trong hang đá. Lòng dũng cảm và tài năng phi thường đã giúp Thạch Sanh vượt qua tất cả. Thạch Sanh chiến thắng đại bàng, cứu thái tử con vua Thủy Tề và được tặng cây đàn thần. Tuy nghèo khó nhưng Thạch Sanh không nhận vàng bạc của vua Thủy Tề ban tặng, chỉ nhận cây đàn rồi về bên gốc đa, tiếp tục vào rừng đốn củi, nuôi thân. Phẩm chất của Thạch Sanh thật đẹp đẽ, cao quý, không sợ hiểm nguy, bất chấp gian khổ để để cứu người mà không cần bổng lộc, sống cuộc sống bằng sức lao động của chính mình, mặc dù cuộc đời đang gặp lắm khổ ải, gian nan. Thạch Sanh là một con người bình thường nhưng cũng rất phi thường. Sức khỏe, tài năng và nghị lực đã giúp Thạch Sanh làm nên chiến công rạng rỡ.  Chàng chiến thắng trở về với mảnh đất quê hương nhưng bọn tà gian đâu chịu để yên. Thạch Sanh lại gặp Lí Thông vì bị vu oan. Lí Thông đã làm ngơ trước oan khúc của Thạch Sanh, chẳng động lòng trắc ẩn mà còn đợi ngày đem Thạch Sanh xử tử. Bằng tiếng đàn, Thạch Sanh đã vạch tội Lí Thông ăn ở bất nhân, bất nghĩa. Tiếng đàn của Thạch Sanh là tiếng nói của người lương thiện đòi công lí. Tiếng nói ấy cũng đã thấu tai vua, Thạch Sanh được giải oan bởi tiếng nói chân chính của mình. Bộ mặt dối trá, lương tâm ác độc của Lí Thông cũng đã lộ ra trước công lí Thạch Sanh lại tha tội cho Lí Thông. Lòng vị tha của chàng đã đáp lại sự đố kị của Lí Thông. Mẹ con Lí Thông được Thạch Sanh tha tội cho về quê làm ăn nhưng tội ác của họ quá lớn, công lí chẳng dung tha, Lí Thông đã bị thần sét đánh chết, cho hóa kiếp làm bọ hung, đời đời sông trong dơ bẩn. Tính cách và hành động của Lí Thông luôn đối lập với Thạch Sanh. Thạch Sanh đã chiến thắng Lí Thông rồi chiến thắng quân của mười tám nước chư hầu đem lại sự thịnh trị cho đất nước, hạnh phúc cho muôn nhà. Trong chiến thắng, Thạch Sanh lại thể hiện lòng nhân đạo với kẻ chiến bại, cho cấp mười tám học lương để quân giặc ăn trên đường về nước. Giặc chê ít, Thạch Sanh lại sai đem chiếc niêu của mình thổi về. Giặc ăn mãi không hết, một lần nữa chàng đã quy phục được quân thù. Xét về nguồn gốc thì Thạch Sanh không phải là người thường. Chàng là thái tử con của Ngọc Hoàng xuống trần gian đầu thai để cứu giúp người trần. Bởi vậy, ở Thạch Sanh có sức người kết hợp với sức thần một cách hài hòa. Đây cũng là ước mơ, niềm tin về đạo đức, công lí xã hội và lí tưởng nhân đạo, yêu hòa bình của nhân dân ta. Hình tượng Thạch Sanh là đại diện cho lớp người lao động cần cù, lương thiện, dũng cảm đấu tranh chống lại kẻ ác và chống quân xâm lược. Chúng ta cần học tập phẩm chất cao đẹp của Thạch Sanh, người dũng sĩ phi thường và giàu lòng nhân ái. *** Nhằm giúp các em học sinh học tốt Tập làm văn lớp 6, doctailieu.com đã tổng hợp tất cả các bài Văn mẫu lớp 6 tập 1, tập 2 hay nhất, chọn lọc với đủ các dạng bài: Văn kể chuyện và miêu tả, văn tóm tắt - diễn cảm - phát biểu cảm nghĩ cho các em học sinh có tham khảo.
0 notes
dulichpleikublog · 11 days
Link
0 notes
khamphanhatbannet · 1 month
Text
Aichi - Viên ngọc ẩn giữa xứ sở hoa anh đào
Aichi, tỉnh nằm ở vùng Chūbu của Nhật Bản, từ lâu đã được biết đến như một điểm đến du lịch hấp dẫn với sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên tươi đẹp, văn hóa truyền thống và sự phát triển hiện đại. Hãy cùng khám phá những điều thú vị mà Aichi mang lại nhé!
Những điểm đến không thể bỏ qua
Đền Atsuta: Ngôi đền Shinto linh thiêng nhất Nhật Bản, nơi lưu giữ một trong ba bảo vật hoàng gia. Không gian yên bình của đền sẽ giúp bạn tìm thấy sự tĩnh lặng giữa lòng thành phố sôi động.
Bảo tàng Khoa học Nagoya: Một thế giới khoa học kỳ diệu với những triển lãm tương tác hấp dẫn. Đặc biệt,cung thiên văn "NTP Planet" sẽ đưa bạn khám phá vũ trụ bao la.
Oasis 21: Tòa nhà độc đáo với thiết kế hình elip, là biểu tượng của thành phố Nagoya. Đến đây, bạn có thể tận hưởng không gian xanh mát, mua sắm và ngắm nhìn thành phố về đêm.
Thung lũng Korankei: Thiên đường cho những ai yêu thích thiên nhiên. Vào mùa thu, thung lũng ngập tràn sắc đỏ của lá phong, tạo nên một khung cảnh lãng mạn đến nao lòng.
Lâu đài Nagoya: Một trong những biểu tượng của Nhật Bản, lâu đài Nagoya với kiến trúc độc đáo và lịch sử hào hùng sẽ mang đến cho bạn những trải nghiệm đáng nhớ.
Phố đồ gốm Tokoname: Tìm hiểu về quá trình sản xuất đồ gốm truyền thống và tự tay làm một sản phẩm độc đáo.
Ẩm thực Aichi - Hương vị khó quên
Hitsumabushi: Món cơm lươn nổi tiếng với cách thưởng thức độc đáo.
Tebasaki: Cánh gà chiên giòn thơm lừng, đậm đà.
Miso Katsu: Thịt heo chiên giòn chấm sốt miso, một hương vị đặc trưng của vùng đất này.
Inarizushi: Sushi chay với hương vị thanh đạm.
Tumblr media
Mua sắm và giải trí
Sakae: Khu vực tập trung nhiều trung tâm thương mại lớn, cửa hàng thời trang và nhà hàng.
Osu: Khu phố cổ với những con hẻm nhỏ, nơi bạn có thể tìm thấy nhiều món đồ độc đáo và trải nghiệm văn hóa địa phương.
Aeon Mall: Trung tâm thương mại hiện đại với đầy đủ các thương hiệu nổi tiếng.
Di chuyển ở Aichi
Tàu điện ngầm và xe buýt: Hai phương tiện công cộng phổ biến và thuận tiện nhất.
Tàu cao tốc Shinkansen: Nếu bạn muốn di chuyển đến các thành phố khác như Tokyo hoặc Osaka.
Thuê xe đạp: Một cách tuyệt vời để khám phá thành phố một cách chậm rãi và tận hưởng không khí trong lành.
Tumblr media
Những điều cần lưu ý
Visa:  Kiểm tra các yêu cầu về visa trước khi khởi động.
Tiền tệ:  Đổi tiền Yên Nhật trước khi đi.
Ngôn ngữ:  Tiếng Nhật là ngôn ngữ chính thức, tuy nhiên nhiều người dân ở các khu vực du lịch có thể giao tiếp bằng tiếng Anh.
Mùa du lịch:  Mùa xuân và mùa thu là thời điểm lý tưởng để đến thăm Aichi.
Aichi đang chờ bạn khám phá! Với những thông tin trên, hy vọng bạn sẽ có một chuyến đi thật vui vẻ và đáng nhớ tại vùng đất này.
1 note · View note
devatravel60 · 1 month
Text
Du lịch Trung Quốc nên đi đâu 2024
Du lịch Trung Quốc, với bề dày lịch sử và văn hóa phong phú, cùng cảnh quan thiên nhiên đa dạng, luôn là điểm đến hấp dẫn du khách toàn cầu. Năm 2024, hãy cùng khám phá những địa danh nổi bật, mang đến trải nghiệm đáng nhớ cho chuyến hành trình của bạn.
Tumblr media
1. Thành phố cổ kính và hiện đại
Bắc Kinh: Thủ đô của Trung Quốc, nơi giao thoa giữa truyền thống và hiện đại. Đừng bỏ lỡ Tử Cấm Thành, Vạn Lý Trường Thành, Di Hòa Viên, và Quảng trường Thiên An Môn.
Thượng Hải: Thành phố sôi động bậc nhất Trung Quốc, với Bến Thượng Hải, Tháp Truyền hình Minh Châu Phương Đông, và những khu phố mua sắm sầm uất.
Hàng Châu: Nổi tiếng với Tây Hồ thơ mộng, chùa Linh Ẩn cổ kính, và những đồn điền trà xanh bát ngát.
Tô Châu: "Venice của phương Đông", với những khu vườn cổ tuyệt đẹp, kênh rạch uốn lượn, và kiến trúc truyền thống độc đáo.
Du lịch Đảo Hải Nam Deva Travel
2. Kỳ quan thiên nhiên hùng vĩ
Quế Lâm: Vùng đất thần tiên với cảnh quan núi non và sông nước hữu tình. Du thuyền trên sông Li Giang, tham quan động Thất Tinh, và leo núi Tượng Bì Sơn là những trải nghiệm không thể bỏ lỡ.
Trương Gia Giới: Công viên quốc gia với những cột đá sa thạch cao vút, rừng nguyên sinh rậm rạp, và cầu kính dài nhất thế giới.
Cửu Trại Câu: Thung lũng với những hồ nước xanh ngọc, thác nước hùng vĩ, và rừng nguyên sinh đa dạng. Mùa thu, nơi đây biến thành bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp với sắc lá vàng đỏ rực rỡ.
Hoàng Sơn: Dãy núi hùng vĩ với những đỉnh núi nhấp nhô, rừng thông xanh mướt, và biển mây bồng bềnh.
3. Di sản văn hóa thế giới
Tumblr media
Vạn Lý Trường Thành: Công trình kiến trúc vĩ đại nhất thế giới, biểu tượng của Trung Quốc.
Tử Cấm Thành: Cung điện hoàng gia đồ sộ, nơi ở của các hoàng đế Trung Hoa qua nhiều triều đại.
Lăng mộ Tần Thủy Hoàng: Nơi chôn cất vị hoàng đế đầu tiên thống nhất Trung Quốc, với đội quân đất nung hùng mạnh.
Đại Phật Lạc Sơn: Tượng Phật bằng đá lớn nhất thế giới, tạc vào vách núi Lạc Sơn.
4. Trải nghiệm văn hóa độc đáo
Thưởng thức ẩm thực Trung Hoa: Đất nước tỷ dân nổi tiếng với nền ẩm thực phong phú và đa dạng. Hãy thử các món ăn đặc trưng như vịt quay Bắc Kinh, dimsum, mì hoành thánh, và lẩu Tứ Xuyên.
Xem biểu diễn nghệ thuật truyền thống: Kinh kịch, múa rối bóng, và võ thuật là những nét văn hóa đặc sắc của Trung Quốc.
Tham gia các lễ hội truyền thống: Tết Nguyên Đán, Tết Trung Thu, và Lễ hội Thuyền Rồng là những dịp lễ lớn, mang đậm bản sắc văn hóa Trung Hoa.
5. Lưu ý khi du lịch Trung Quốc
Visa: Kiểm tra yêu cầu visa và chuẩn bị các giấy tờ cần thiết.
Tiền tệ: Đổi tiền Nhân dân tệ (RMB) trước khi đến Trung Quốc.
Ngôn ngữ: Học một số câu giao tiếp cơ bản tiếng Trung hoặc sử dụng ứng dụng dịch thuật.
Văn hóa: Tôn trọng phong tục tập quán và văn hóa địa phương.
An ninh: Giữ gìn tài sản cá nhân và tránh đi lại một mình vào ban đêm.
Trên đây là câu trả lời cho bạn du lịch Trung Quốc nên đi đâu. Năm 2024, hãy để Trung Quốc chào đón bạn với những trải nghiệm du lịch tuyệt vời và đáng nhớ!
youtube
1 note · View note
truyenlinhdi · 2 months
Text
Khám Phá Thế Giới Kinh Dị: Top 10 Truyện Ma Bí Ẩn Bạn Không Thể Bỏ Lỡ
Khám Phá Thế Giới Kinh Dị: Top 10 Truyện Ma Bí Ẩn Bạn Không Thể Bỏ Lỡ
Truyện ma luôn là một thể loại văn học kinh điển, đem lại cho độc giả những trải nghiệm đáng sợ và hấp dẫn. Từ những câu chuyện về những linh hồn lang thang đến những hiện tượng siêu nhiên, thế giới của truyện ma luôn khiến người đọc cảm thấy kinh hoàng và hồi hộp. Dưới đây là top 10 truyện ma bí ẩn mà bạn không thể bỏ qua:
1. "Người Lạ Trong Gương" của Alice
Chiếc gương bí ẩn làm nền cho câu chuyện đầy ám ảnh và kinh dị về những hình ảnh ma quái xuất hiện từ bóng tối.
Tumblr media
2. "Bằng Lăng" của Nguyễn Ngọc Ngạn
Tác phẩm kinh điển của văn học Việt Nam, "Bằng Lăng" kể về những câu chuyện ma quái đầy gợi mở và ám ảnh.
3. "Truyện Kinh Dị" của Edgar Allan Poe
Tác phẩm của Edgar Allan Poe nổi tiếng với những câu chuyện kinh dị và kỳ bí, tạo nên một thế giới đen tối và huyền bí.
Xem thêm: https://www.fitundgesund.at/profil/truyenlinhdi
4. "The Shining" của Stephen King
Một tác phẩm kinh điển của Stephen King, kể về một khách sạn bị ma ám và những sự kiện kinh dị không thể giải thích, đầy những bí ẩn đen tối.
5. "Cuốn Theo Chiều Gió" của Margaret Mitchell
Mặc dù không phải là một truyện linh dị theo nghĩa đen, nhưng "Cuốn Theo Chiều Gió" vẫn chứa đựng những yếu tố siêu nhiên và kỳ bí, tạo nên một bức tranh phức tạp và hấp dẫn.
6. "American Gods" của Neil Gaiman
Một câu chuyện đầy kỳ bí về sự đối đầu giữa những vị thần cổ xưa và những thần mới, tạo ra một thế giới đầy sức hút và đầy những bí ẩn không lời giải.
Xem thêm: https://www.metooo.io/e/truyenlinhdi
7. "Ngôi Nhà Buồn" của Shirley Jackson
Một câu chuyện đen tối về một ngôi nhà bị ma ám và những bí mật đen tối ẩn giấu trong từng góc cạnh, tạo ra một bức tranh kinh dị và đáng sợ.
8. "Sherlock Holmes" của Arthur Conan Doyle
Những câu chuyện trinh thám của Sherlock Holmes không chỉ là những vụ án được giải quyết, mà còn là một hành trình khám phá những bí ẩn của thế giới kỳ bí và đáng sợ.
Tumblr media
9. "Nước Mắt Của Thiên Thần" của Carlos Ruiz Zafón
Một câu chuyện kỳ bí về một thế giới ẩn của những bí mật và những câu chuyện đen tối, với những tình tiết kịch tính và bất ngờ.
10. "Nghìn Lẻ Một Đêm" (1001 Nights)
Tập hợp những câu chuyện đầy mê hoặc và kỳ diệu, với những trải nghiệm linh dị và siêu nhiên không thể nào quên.
Những tác phẩm này không chỉ là những câu chuyện ma quái, mà còn là những tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời, đem lại cho người đọc những trải nghiệm đắng cấp và không thể nào quên. Hãy sẵn sàng bước vào thế giới ma quái và khám phá những bí mật tăm tối!
Bài viết chi tiết: https://nettruyenhay.net/the-loai/linh-di
1 note · View note
nhungcuonsachhay · 5 months
Text
Tumblr media
Bên Đời Hiu Quạnh - Hoàng Ngọc Ẩn
4 notes · View notes
thiendoanng · 3 months
Text
*577 / XÓM CŨ TÌNH XƯA
Lằn mòn dẫn lối bóng lang thang ,
Xóm cũ về đây buổi chiều vàng .
Cạnh bờ tre đìu hiu bến vắng ,
Con đò trầm lặng khách sang ngang .
Hoàng hôn ẩn hiện phủ cánh đồng ,
Vi vu trong gió phía đồi thông .
Lũ chăn trâu chìm theo tiếng sáo ,
Kìa cô thôn nữ ánh xuân hồng .
Ai tha thướt phiêu bồng lả lướt ,
Áo trắng dài nhịp bước chân thon .
Ly hương mấy độ trăng tròn ,
Làng xa từ thuở không còn tự do ?
Quê nhà đó tình thơ tuổi ngọc ,
Mộng bay về trằn trọc canh thâu .
Bỏ đi để lại u sầu ,
Đành tâm cách biệt bước đầu yêu em !
Hành trình dẫn ra thềm lục địa ,
Sóng bạc đầu khiếp vía trời cao .
Cuồng phong tiếng vỗ ào ào ,
Con thuyền tan tác lao chao ngút ngời .
Chẳng được có nhau đời lẻ bóng ,
Em cùng người xây động Uyên Ương .
Chuyện lòng cạn chén tơ vương ,
Thì thôi vỡ mộng dặm trường cầu mong ...
Loanh quanh ngó tìm trong cảnh ngộ ,
Của một thời trăn trở luyến thương .
Dấu xưa in rõ ngõ đường ,
Dập dìu ảo ảnh môi hường nâng niu ...!
Nguyễn Doãn Thiện
Sanjose , California Ngày 08 tháng 7 năm 2017
Tumblr media
0 notes
tinhdaukobi · 3 months
Text
Hoa mộc lan, còn được biết đến với tên gọi bạch ngọc lan hay ngọc lan, từ lâu đã trở thành biểu tượng của sự thanh tao, quý phái và sức mạnh phi thường. Không chỉ sở hữu vẻ đẹp kiêu sa, lộng lẫy, mộc lan còn ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc về văn hóa, tâm linh và y học.
Là loài hoa bản địa của Đông Á, mộc lan mang vẻ đẹp độc đáo với những cánh hoa lớn, dày dặn, xếp chồng lên nhau, tạo nên hình dáng như chiếc vương miện kiêu hãnh. Màu sắc của hoa mộc lan cũng vô cùng đa dạng, từ trắng tinh khôi, hồng phấn dịu dàng đến tím mộng mơ, mỗi màu sắc đều mang một ý nghĩa riêng biệt.
Trong văn hóa phương Đông, hoa mộc lan tượng trưng cho sự sang trọng, quý phái, quyền lực và sự may mắn. Hình ảnh hoa mộc lan thường được sử dụng trong các nghi lễ trang trọng, các tác phẩm nghệ thuật và kiến trúc. Hoa mộc lan còn là biểu tượng của người phụ nữ thanh lịch, mạnh mẽ và bản lĩnh.
Về mặt tâm linh, hoa mộc lan được xem là loài hoa linh thiêng, mang đến sự bình an, thanh tịnh và may mắn cho gia chủ. Hương thơm nồng nàn của mộc lan có tác dụng an thần, thư giãn, giúp giảm căng thẳng và lo âu.
Trong y học cổ truyền, hoa mộc lan được sử dụng như một vị thuốc quý với nhiều công dụng chữa bệnh. Vỏ cây mộc lan có tác dụng hạ sốt, tiêu đàm, trị ho, hen suyễn. Hoa mộc lan cũng được sử dụng để làm đẹp da, trị mụn nhọt, nám da.
Với vẻ đẹp kiêu sa, ý nghĩa sâu sắc và nhiều công dụng hữu ích, hoa mộc lan xứng đáng là một trong những loài hoa quý giá được yêu thích nhất trên thế giới. Khám phá ý nghĩa hoa mộc lan sẽ giúp bạn hiểu hơn về vẻ đẹp và sức mạnh phi thường của loài hoa này, từ đó trân trọng và gìn giữ nó như một báu vật quý giá.
0 notes
vivuvietnamcom · 3 months
Text
Nếu bạn là người đam mê khám phá những bí ẩn của đại dương thì nhất định không nên bỏ qua điểm đến Viện Hải Dương Học Nha Trang. Tại đây, bạn sẽ được chiêm ngưỡng một khung trời mới lạ về đời sống của sinh vật biển. Trong bài viết này, Vivu Việt Nam sẽ tổng hợp thông tin chi tiết nhất về điểm đến cho bạn. Nguồn gốc lịch sử của Viện Hải Dương Học Nha Trang Viện Hải Dương Học Nha Trang được ra đời vào 14/9/1922 trong thời Pháp thuộc với tên ban đầu là Sở Hải dương học nghề cá Đông dương. Mục đích của việc thành lập cơ sở này nhằm khảo sát và nghiên cứu chiến lược nghề đánh bắt cá ở Đông Dương. Vì được thành lập trong giai đoạn đất nước chưa thống nhất nên việc nghiên cứu còn gặp nhiều khó khăn. Đa số chú trọng đào tạo các cán bộ cấp bậc trên đại học hoặc đại học cộng đồng tham gia khảo sát ven bờ biển và các bờ cù lao gần. Tuy công việc rất khó khăn nhưng thành quả đem lại rất đáng trân trọng. Hiện tại, Viện Hải Dương Học Nha Trang đã có hơn 4000 mẫu sưu tầm của các loài sinh vật biển và được công nhận là cơ sở lưu trữ hiện vật và nghiên cứu về biển lớn nhất Đông Nam Á. Viện Hải Dương Học là điểm đến du lịch ấn tượng nhất Nha Trang Tổng quan về Viện Hải Dương Học  Sau đây là một vài thông tin cụ thể về Viện Hải Dương Học mà du khách có thể tham khảo: Hướng dẫn chi tiết cách di chuyển đến Viện Hải Dương Học  Viện Hải Dương tọa lạc tại số 89 Trần Phú, Vĩnh Hòa, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Nơi đây nằm rất gần trung tâm thành phố do đó du khách có thể dễ dàng di chuyển đến đây bằng bất kỳ phương tiện nào. Nếu xuất phát từ khu vực chợ Đầm, bạn di chuyển theo hướng đường Lê Lợi, sau đó rẽ phải vào đường biển Trần Phú. Chạy dọc theo đường Trần Phú khoảng 5km nữa là sẽ thấy bảng chỉ dẫn rẽ vào Viện Hải Dương Học. Giá vé tham quan Mức giá vé sẽ được cố định như sau: Người lớn: 40.000 VNĐ/vé Sinh viên: 20.000 VNĐ/vé Học sinh: 10.000 VNĐ/vé Giờ mở cửa Viện Hải Dương Học mở cửa từ 6h đến 18h các ngày từ thứ 2 đến chủ nhật và sẽ đóng cửa theo lịch nghỉ lễ, tết của chính phủ. Do đó, du khách cần ghi nhớ thời gian cụ thể để sắp xếp thời gian đến tham quan hợp lý. Viện Hải Dương Học Nha Trang có gì hấp dẫn?  Viện Hải Dương Học Nha Trang là điểm đến thu hút được nhiều du khách tham quan hằng nằm nhờ vào những đặc điểm sau đây: Khám phá thế giới thủy cung thu nhỏ Với thiết kế bể kính trong suốt, khi đến đây du khách sẽ được chiêm ngưỡng hàng ngàn sinh vật biển bơi ngay phía trên đỉnh đầu của mình rất thú vị. Hãy lấy máy ảnh ra và chụp lại những khoảnh khắc vô cùng quý giá này nhé! Khám phá nơi lưu trữ các sinh vật mẫu Nếu bạn muốn khám phá về thể giới sinh vật biển thì khu vực này chắc chắn là dành cho bạn. Tại đây trưng bày gần 24.000 mẫu vật của hơn 4.000 loài sinh vật biển quý hiếm như: Cá vua, cá tầm, ngọc trai khổng lồ,... Hình ảnh các mẫu sinh vật biển được trưng bày tại bảo tàng Tìm hiểu về khu trưng bày biển đảo Để giúp du khách hiểu rõ hơn về chủ quyền biển đảo cũng như lòng tự hào dân tộc thì tại Viện Hải Dương còn có khu trưng bày tài nguyên biển đảo rất ý nghĩa. Hình ảnh khu trưng bày tại nguyễn biển đảo Hoàng Sa - Trường Sa Chiêm ngưỡng hệ sinh thái biển tại Viện Hải Dương học Nha Trang Tham quan sinh vật biển dưới đáy đại dương là một trải nghiệm rất tuyệt vời tại Viện Hải Dương Học. Với một hệ sinh thái biển đa dạng sắc màu như nơi đây thì chắc chắn bạn sẽ bị mê hoặc ngay lần lặn ngắm đầu tiên. Đừng quên lưu lại những bức ảnh thật xinh dưới đáy biển nhé! Lặn ngắm hệ sinh thái biển đa dạng bên ngoài bảo tàng Chiêm ngưỡng bộ xương cá voi hơn 200 năm tuổi Cuối cùng là trải nghiệm ngắm nhìn bộ xương cá voi dài hơn 18m. Đây là một điều rất khó để tin vì thông thường cá voi chỉ xuất hiện ở phía xa đại dương và không thể nào bắt gặp được. Thế nhưng theo các nhà nghiên cứu thì bộ xương này đã tồn tại từ rất lâu và bị chôn vùi trong lòng đất ở đồng bằng sông Hồng hơn 200 năm. Bộ xương cá voi hóa thạch hơn 200 năm tuổi
Gợi ý một vài điểm đến du lịch gần Viện Hải Dương Học Để cho chuyển đi du lịch Nha Trang của du khách thêm phần đặc sắc thì có thể kết hợp tham quan các địa điểm sau đây: Cảng Hòn Tằm MerPerle Bến tàu VinWonders Chợ Đầm Bãi Rêu Nha Trang Bãi Tranh Nha Trang Bến tàu VinWonders là điểm đến lý thú gần Viện Hải Dương Học Nha Trang Viện Hải Dương Học Nha Trang không chỉ là điểm tham quan khu trưng bày sinh vật biển mà còn là nơi ghi lại dấu ấn lịch sử của dân tộc. Qua những chia sẻ trên đây, Vivu Việt Nam hy vọng rằng bạn đã hiểu hơn về chủ quyền biển đảo và từ đó xây dựng lòng tin dân tộc vững mạnh hơn. Đồng thời, đừng quên theo dõi các bài viết tiếp theo để khám phá các địa điểm du lịch Nha Trang khác, bạn nhé!
0 notes