Tumgik
#Cầu Sông Hàn
dulichdanang-24h · 1 year
Text
Cầu Sông Hàn Đà Nẵng quay về đêm
lúc nói tới Đà Nẵng người ta chẳng thể ko nhắc đến sông Hàn thơ mộng và cầu sông Hàn – dòng cầu xoay trước hết của Việt Nam, là niềm tự hào của người dân đô thị Đà Nẵng. chiếc cầu biểu tượng cho sinh khí mới, là khát vẳng vươn lên của thành phố Đà Nẵng, được vun đắp bằng sự đóng góp của mọi người dân nơi đây.
ko chỉ đem đến cho đô thị Đà Nẵng mỹ quan thành thị tuyệt đẹp cùng niềm kiêu hãnh khôn cùng vì những nét độc đáo ko mang ở bất cứ nơi nào khác khiến người ta phải trầm trồ mà cầu sông Hàn Đà Nẵng còn là cầu nối quan trọng trong liên lạc vận tải; du lịch; đánh thức, khơi dậy tiềm năng kinh tế của thành thị và là 1 dấu ấn văn hóa của người Đà Nẵng.
với thể xoay 90 độ là đặc biệt vượt trội nhất của cầu quay sông Hàn. Phần giữa cầu sở hữu thể tách làm đôi và quay 90 độ quanh trục nằm dọc theo dòng chảy của chiếc sông để mở ra một đường mới cho tàu lớn đi qua. Thuê xe du lịch Đà Nẵng
tham khảo: https://dulichdanang24h.vn/cau-song-han-da-nang
0 notes
fightwithlife · 3 months
Text
Tumblr media
Thích mê bụi hoa giấy ở dưới cầu sông Hàn Đà Nẵng. Lúc nào ra đây cũng chụp đôi ba tấm vớ vẩn.
8 notes · View notes
duahou · 1 year
Text
"Thu Hà Nội, liệu mình có nhau?"
100 ĐIỀU CÁC BẠN NHẤT ĐỊNH PHẢI THỬ KHI HÀ NỘI VÀO THU 🍂
1. Yêu trai/gái Hà Nội hoặc có người yêu đang ở Hà Nội
2. Lượn 1 vòng hồ Tây bằng xe máy hoặc xe đạp vào sáng sớm, hoàng hôn hoặc buổi tối
3. Ăn kem Tràng Tiền
4. Check in tại Phố Đường Tàu
5. Check in tại Toà Soạn báo Hà Nội mới
6. Check in triển lãm VCCA, Royal City
7. Đi chợ hoa Quảng Bá vào sáng sớm
8. Ăn cháo sườn chợ Đồng Xuân
9. Đi phố sách Đinh Lễ
10. Xem Lễ Thượng Cờ lúc 6h sáng ở Lăng Bác
11. Chill ở Tạ Hiện
12. Uống cafe trứng ở cafe Giảng
13. Đi bộ 1 vòng Hồ Hoàn Kiếm
14. Lượn cầu Nhật Tân về đêm
15. Đi Chùa Hà
16. Check in AEON MALL Long Biên
17. Ngồi trà chanh ở Nhà thờ lớn
18. Ăn phở cuốn Ngũ Xá vào buổi tối
19. Uống cafe và ngắm phố phường vào sáng sớm
20. Dạo quanh bờ hồ Hoàn Kiếm bằng Xích Lô
21. Đi chụp hoa dã quỳ Ba Vì
22. Picnic chân cầu Vĩnh Tuy
23. Check in cúc hoạ mi
24. Chụp với lau ở bãi đá sông Hồng
25. Đi phố đi bộ vào cuối tuần
26. Ghé quán Cầm
27. Ăn canh bún Hoè Nhai
28. Ăn ngô khoai nướng ven đường
29. Ăn bánh giò Đông Các
30. Trở về tuổi thơ ở Cư Xá Cà phê
31. Picnic Núi Trầm, Chương Mỹ
32. Cắm trại cùng bạn bè tại Hồ Hàm Lợn
33. Đi làng gốm Bát Tràng
34. Chụp ảnh ở phố Bích Hoạ Phùng Hưng
35. Check in Bốt Hàng Đậu
36. Lượn 1 vòng cầu Long Biên về đêm
37. Đi bộ trên đường Phan Đình Phùng vào lúc 7h sáng
38. Đi xe bus 2 tầng
39. Ăn nem nướng Ấu Triệu
40. Trà chanh Hồ Tây
41. Check in với bức tường biểu tượng Hà Nội ở ga Cát Linh
42. Check in Cyril Hanoi Gallery
43. Ăn bánh bao, sữa đậu Quán Thánh
44. Ăn phở Gánh lúc 5h sáng
45. Ăn bánh mì dân tổ
46. Phượt đêm Hà Nội
47. Check in cột cờ Hà Nội
48. Check in con đường Hàn Quốc khu Ngoại giao đoàn
49. Ăn bánh đúc nóng Lê Ngọc Hân
50. Check in đài quan sát Lotte
51. Hít hà hương hoa sữa
52. Check in Hàng Mã dịp Halloween
53. Ăn nướng Gầm Cầu
54. Ăn bún thang Cầu Gỗ
55. Ăn bún ốc nguội
56. Mua cốm làng Vòng
57. Ăn Xôi Chè Quán xôi Bà Thìn
58. Check in các quán cafe ở Đặng Văn Ngữ
59. Check in khung cửa sổ huyền thoại tại Coffee Club
60. Tham quan Bảo Tàng Dân Tộc học Việt Nam
61. Ăn vặt ngõ Tạm Thương
62. Ăn mỳ vằn thắn phố Hàng Chiếu
63. Check in con hẻm Từ Hoa
64. Đi Bến Hàn Quốc ở Tây Hồ
65. Ăn bò nhúng dấm Trần Xuân Soạn
66. Check in các khu tập thể cũ
67. Check in Aeon Mall Hà Đông
68. Hoa quả dầm phố Tô Tịch
69. Ăn chả rươi 25 Gia Ngư
70. Ăn bánh cuốn Bà Hoành 66 Tô Hiến Thành
71. Đi The Coffee House
72. Xem phim suất chiếu muộn
73. Cafe xuyên đêm tại Xofa Cafe
74. Đi chùa Phúc Khánh cầu an
75. Ăn cháo lòng Hoa Bằng
76. Ăn bún đậu mắm tôm
77. Check in cổng trường VinUni
78. Check in con đường tình yêu ở Đại học Sư phạm
79. Ăn tào phớ thạch găng
80. Ăn bánh mì chuột cổng chợ Đồng Xuân
81. Bún riêu 51 Hàng Bồ
82. Tào Phớ Cô Huê - Lý Thường Kiệt
81. Check in “toà nhà kim cương” Doji Tower
82. Bến Hàn Quốc ở Tây Hồ
83. Bún Thái Hải sản Ngũ Xá
84. Bánh mỳ nướng bơ mật ong 137 Đặng Tiến Đông
85. Chụp ảnh tại các khu tập thể cũ
86. Miến lươn Hàng Điếu
87. Check in làng lụa Vạn Phúc
88. Thảo nguyên hoa Long Biên
89. Check in phố sách Hà Nội
90. Sân trực thăng tòa nhà Hei Tower
91. Check in ga Long Biên
91. Check in The Hanoi House Coffee
92. Nộm bò khô bờ hồ Hoàn Kiếm
93. Ăn ốc Đặng Văn Ngữ
94. Tầng 20 khách sạn Sofitel chụp view cả thành phố
95. Ăn phở Bát Đàn
96. Xem lễ Hạ Cờ lúc 9h tối ở Lăng Bác
97. Check in công viên Bách Thảo
98. Foodtour phố cổ cuối tuần
99. Check in Xương rồng Cacti zone (Chân Cầu Nhật Tân)
100. Cùng nằm tưởng tượng được ai đó rủ đi làm hết 99 điều trên
Bạn đã thử được qua bao nhiêu điều phía trên rồi?
Tumblr media
8 notes · View notes
toilamnham · 2 years
Text
Tumblr media
. nếu bạn tôi tới Đà Nẵng, đây sẽ là top 1 những nơi không dắt nó tới. Chán. Cả nhạc live cả nhạc dj. Lại giá cao.
. dạo này, cái môi nhỏ nhắn xinh xắn này đã bị lở một bên, có khi nào là vì đống mỳ gói?! Xót cái môi.
. Đà Nẵng dạo này có trò mới, 11h đêm đóng cầu sông Hàn… sớm hơn, muộn hơn thì không, đúng giờ tan làm thì đóng. Trời lạnh 15 độ. Thay vì đi 2km về nhà thì tôi vượt qua một cây cầu nữa, vị chi 6km, để về. Quá đã :)
.
6 notes · View notes
nhungcuonsachhay · 2 years
Text
CHUYỆN BÊN DÒNG VONG XUYÊN
Không ai biết thật sự thế giới bên kia là có hay không, nhưng lịch sử hàng ngàn năm của các nền văn minh lớn đã có sự trùng hợp, rất thú vị cho người nghiên cứu văn hoá. Các nước thuộc văn hoá Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Hàn Quốc.....lại có câu chuyện về Thập Điện Diêm Vương, câu chuyện dễ thương chứ không rùng rợn gì đâu. 
Nhiều truyền thuyết lắm, cái này khác cái kia chút nên cũng đừng cãi nhau. Tựu trung điểm chung là vầy. Con người sống trên quả đất, ngắn ngủi chỉ có vài chục năm, sau đó thể xác biến thành tro bụi, nhưng linh hồn vẫn còn, trừ một số người tu hành đắc đạo (đạo nào cũng được, miễn tu nghiêm túc thì đều bay về thiên đường khi trăm tuổi) còn lại linh hồn người bình thường sẽ phải xuống địa ngục. Quan hay dân, giàu hay nghèo, đẹp hay xấu gì cũng như nhau. Dưới đó, có một cái gương tên là Nghiệt Kính Đài, linh hồn nhìn vào màn hình sẽ thấy lại mình từ lúc sinh ra như thước phim quay chậm (cần thì bấm nút fwd cho tua nhanh). Coi xong thì bắt đầu luân chuyển qua các tầng địa ngục, ai làm xấu nghĩ ác thì sẽ bị hình phạt này hình phạt kia, ai làm việc thiện thì đi qua nhanh. Tới địa ngục thứ 10, gọi là Thập Điện Chuyển Luân Vương, vào khu Phong Đô để đầu thai trở về dương thế. Có linh hồn sẽ đầu thai thành người Mỹ cao to sinh ra ở New York, cũng có khi đầu thai thành người Lào hiền lành, sinh ở Pakse. Thành người xinh đẹp giỏi giang khoẻ mạnh là tuỳ phúc đức họ cho đi lúc họ sống. Còn làm việc xấu nhiều thì thành con chuột con cóc con gà...hoặc ác và xấu quá thì không được đầu thai. Dân tộc nào răn dạy nhau thực hành nhân ái văn minh hào sảng thì tương lai của dân tộc đó toàn tinh hoa tinh tú ra đời, rất xán lạn tươi đẹp.
Để qua khu Phong Đô và ngồi trong waiting list chờ đầu thai, mỗi linh hồn sẽ qua cầu Nại Hà, bắc qua sông Vong Xuyên (not Long Xuyên River in An Giang province). Dưới sông toàn rắn độc và những linh hồn buồn bã sân hận. Các vong nhìn thấy cái cầu và sông này thì sợ quá, bèn hỏi nhau "nại hà, nại hà" (tức "đi sao mày?"). Cầu Nại Hà có 3 tầng, tầng trên khô ráo, tầng giữa âm u còn tầng dưới thì vô cùng trơn trượt. Tầng trên cùng dành cho người có tấm lòng thơm thảo, mấy chục năm ở dương thế họ không tư lợi mấy cho bản thân, thương người nhiều, cứ có là cho đi, có là giúp người, trời cao đất dày ghi chép hết, nên đi qua dễ dàng. Tầng giữa khó đi hơn 1 chút, dành cho nhóm người khôn lanh, vun vén cá nhân mình trong lúc sống, không cho đi nhưng cũng không hại ai. Còn tầng dưới cùng là dành cho người tâm địa xấu, nói dối, tham lam, tư lợi, hại người để mình có lợi lộc,...Linh hồn đi 2 tầng dưới sẽ dễ bị rơi xuống sông, 1000 năm sau mới được đầu thai lại. 
Ngay trước cầu có một bà già tên là Mạnh Bà, sẽ đưa một chén canh, ai uống thì mới được qua cầu. Canh này là canh nước mắt của mình lúc còn sống được bà thu gom lại, ai lúc dương thế khóc quá khóc thì có 1 chén to đùng (grande size), ai ít khóc thì có chút éc (small size), không có topping trân châu đường đen gì. Chén canh này sẽ giúp xoá sạch bộ nhớ, format lại, không nhớ gì kiếp trước nữa. Vì quên hết quá khứ nên khi ra đời, mắt trong veo, em bé lẫn con gà con, đều trong veo. 
Nhưng không phải ai cũng chấp nhận uống chén canh Mạnh Bà, vì họ KHÔNG CHỊU QUÊN, họ coi mặt lại người mình thương yêu nhất hoặc coi lại cho được người mình ghét nhất (hoặc tò mò muốn coi mặt ai đó quá thì cũng không uống). Vong nào không uống thì sẽ xuống sông Vong Xuyên ngâm mình, chờ người kia đi qua cầu. Đã chọn nằm dưới sông để coi mặt thì 1000 năm sau mới được lên bờ và đầu thai. 1000 năm dưới dòng Vọng Xuyên, vong sẽ chứng kiến người mà muốn coi mặt đi qua đi lại cả chục lần (nhưng họ không nhìn thấy vong, kiếp người chỉ trăm năm, nên nó đi qua, đầu thai, chết, rồi lại đi qua, đầu thai, chết). 
Xưa có một cặp kia yêu lắm, nguyện không lìa xa. Hai người thường nói với nhau, "khi qua cầu Nại Hà cũng không uống canh Mạnh Bà, kiếp sau còn nhớ, kiếp sau còn mãi đi tìm". Anh chồng chết trước, chị vợ ở vậy thủ tiết chờ. Linh hồn anh chồng khi tới gặp Mạnh Bà, tha thiết muốn Mạnh Bà giúp cho luân hồi trở về tìm gặp lại người vợ cũ, mà khổ nỗi không uống thì không thể qua cầu. Anh chồng đầu thai, lớn lên, khi cỡ 20 tuổi, một lần đi ngang qua nhà cũ thì lúc đó chị vợ đi ra, nhìn thấy liền hét lên "chàng đến tìm ta rồi", rồi xỉu nằm sải lai dưới đất. Chàng thanh niên thấy tự dưng có bà lão tới trước mặt mình nói lời yêu đương rồi nằm dài vậy, sợ quá bỏ chạy mất (vì không muốn mang tiếng là phi công trẻ lái máy bay bà già). Chị vợ buồn quá chết, xuống gặp Mạnh Bà, tha thiết muốn nhìn lại mặt người chồng cũ. Mạnh Bà lại xúc động, bảo là "thằng này đợt này lên đó ăn chơi quậy phá lắm, không tập thể dục thể thao gì, không ăn uống healthy, không hào sảng giúp người cho đi để tăng thọ gì hết, nên nàng chờ đi, 20 năm thì gặp, nó 40 tuổi là die à". Mạnh Bà cho phép nàng ở trên bờ, ngày ngày nhổ cỏ mọc dưới những tán hoa Bỉ Ngạn. Đúng hai mươi năm sau, anh chồng lại chết lần nữa, xuống đi ngang qua. Chị vợ đang bứt cỏ thì vứt cỏ, lao tới ôm chầm. Anh chồng không nói không rằng, gỡ tay nàng ra, ráo hoảnh uống cạn chén canh, đi qua cầu và ngồi chờ đầu thai tiếp. Nàng ngỡ ngàng, Mạnh Bà nói, con hãy quên quá khứ, hãy uống chén canh này đi rồi đi qua cầu Nại Hà mà đầu thai lại. Chuyện ở dương thế, tiền tài danh vọng ái tình, tất cả đều là phù vân. Lúc còn sống, enjoy được cái gì thì enjoy, vui vẻ được với ai thì vui vẻ, thương yêu ai được thì thương yêu, giúp ai được thì giúp, mơ ước làm gì thì cố mà triển khai đi, chớ có chần chừ, cái chết có thể ập đến bất cứ lúc nào, ước mơ dang dở thì dáng vong dưới này không đẹp lắm (đại đa số không dám làm, ước mơ dang dở, phần lớn ma là xấu, nên có thành ngữ "xấu như ma"). Con cũng đừng làm đau khổ, khiến người khác rơi nước mắt nhiều, chén canh large size húp hoài sao hết. Còn chết rồi, là GAME OVER. Làm gì có ai hẹn được ở kiếp sau. So far, no one (đoạn này bà lão nói chêm tiếng Anh vì bà có thời gian làm cho công ty nước ngoài). 
Nàng hiểu ra, liền uống cạn, đi qua cầu, ngồi cạnh anh chồng cũ nhưng không ai nhớ ai. Bên kia bờ sông Vong Xuyên, hoa Bỉ Ngạn vẫn đỏ rực rỡ.
12 notes · View notes
linhnguyenmummim · 1 year
Text
Xưởng gia công sản xuất bán nhà bạt không gian
Tumblr media
Giới thiệu về xưởng sản xuất nhà bạt không gian của sự kiện Sông Lam
Địa điểm: tại thành phố Dĩ An tỉnh Bình Dương.
Diện tích : Trên 1000m2
Thiết bị: trang bị các thiết bị mới nhất hỗ trợ cho việc gia công sản xuất nhà bạt.
Đội ngũ thợ cơ khí nhiều năm kinh nghiệm, lành nghề.
Đáp ứng được các đơn hàng bán nhà bạt không gian lên đến hàng ngàn mét vuông.
Thời gian gia công tuỳ theo kích thước, yêu cầu, thiết kế của nhà bạt.
Quy trình sản xuất nhà bạt không gian
Bản thiết kế nhà bạt không gian.
Nhân viên kỹ thuật sẽ đảm nhận việc vẽ bản thiết kế sơ bộ cho toàn bộ khung nhà bạt.
Sau khi có bản vẽ sơ bộ, các bản vẽ chi tiết cũng được lên hình để gửi qua bộ phận sản xuất.
Toàn bộ bản thiết kế nhà bạt không gian đều đã được tính toán kỹ càng về kết cấu về chi phí.
Chọn vật liệu
Trưởng bộ phận sản xuất sau khi nhận bản thiết kế sẽ đưa kế hoạch chọn vật liệu.
Thời gian gia công cũng sẽ được lên kế hoạch cụ thể.
Các nhà cung cấp vật liệu được yêu cầu gửi báo giá cho từng loại.
Các kết cấu cũng được chọn loại vật liệu phù hợp.
Quá trình gia công
Với khung nhà bạt không gian: được gia công ngay tại xưởng sản xuất nhà bạt không gian.
Tấm bạt trần và vách che xung quanh sẽ được may gia công tại xưởng may gia công bạt.
Các chi tiết khung nhà bạt như kèo, giằng, xà gồ, trụ ... được cắt, hàn và thành hình ngay tại xưởng.
Các cấu kiện hỗ trợ như bản mã, ốc vít... được đặt mua tại các cơ sở sản xuất riêng.
Sau khi hoàn thiện các chi tiết, khung nhà bạt sẽ được lắp dựng tại xưởng để kiểm tra độ an toàn, khả năng chịu lực của nhà bạt.
Mái trần và vách cũng được lắp và kiểm tra cẩn thận.
Vật liệu sản xuất nhà bạt không gian
Khung nhà bạt không gian bằng sắt hộp sơn tĩnh điện
Các khung được lắp ghép với nhau bằng bulong và ốc vít.
Mái trần được làm từ loại bạt 2 da cách nhiệt.
Khách hàng có thể chọn loại bạt nhiều màu hoặc bạt nhựa trong suốt.
Vách che xung quanh: chất liệu có thể cùng loại với mái trần hoặc phối hợp dùng cả hai loại.
===> Tham khảo thêm: Sản xuất bán khung rạp sự kiện
Tumblr media
Theo dõi chúng tôi trên:
Twitter: https://twitter.com/sukienSongLam Pinterest: https://www.pinterest.com/sukiensonglam/ Tumblr: https://www.tumblr.com/sukiensonglam
CÔNG TY TỔ CHỨC SỰ KIỆN SÔNG LAM Trụ sở chính công ty: số 87/9, đường tổ 12, khu phố Thống Nhất 2, phường Dĩ An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương Văn phòng kinh doanh + Kho xưởng: số 2/19A đường Lê Văn Tiên, khu phố Đông Chiêu, phường Tân Đông Hiệp, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Văn phòng đại diện 1: số 354/29/6N đường Phan Văn Trị, phường 11, quận Bình Thạnh, TPHCM Văn phòng đại diện 2: số 18/16/2A đường 6, phường Bình Trưng Đông, thành phố Thủ Đức, TPHCM. Điện thoại: 0983 806 682 - 0979 231 921 Email: [email protected] MST: 370 306 6673 Website: https://sukiensonglam.com/
3 notes · View notes
gocnhoanyen · 2 years
Text
Chiều ngồi bên bờ Sông Hàn.
Thành phố vẫn ồn ào, mình ngồi trong một quán cafe nhìn ra sông Hàn, thấy những hàng cây xanh và nhiều người thong dong đi bộ, tập thể dục, đời sống tự dưng êm đềm hẳn đi, thấy mọi thứ vẫn đang tiếp diễn. 
Trước mắt cái bàn đang ngồi là làn sóng nước dập dềnh, những toà nhà cao và tấm biển hiệu quảng cáo phía xa trải đều tăm tắp. Chiều sắp hoàng hôn, ánh nắng phủ lấy một góc bờ thành phố bên kia sông, còn đằng xa nữa là dải mây bồng bềnh ôm trên đỉnh núi như mái tóc trắng phủ bờ vai ai, hao gầy. Cầu sông Hàn càng về chiều càng tấp nập xe cộ qua lại, cây cầu màu xanh dương này ngày xưa vẫn thường được kể là có thể quay góc 90, hôm nay mình ngồi nhìn nó ở một hướng nhìn thật khác - từ dưới lên. 
Thật lâu không có cảm giác được hít thở, gió chiều ở đây lồng lộng, thành phố này có núi, có sông, và đầy gió. Mình đã trải qua gần hai năm ở đây, đi qua nhiều cột mốc, nhưng thời gian và trải nghiệm có lúc bị nén lại đến độ không nghĩ rằng đã lâu như thế, hoặc cũng có thể do mình không đủ yên tĩnh ngồi xuống để nhìn lại nên để mọi thứ trôi tuột đi như nắm cát rơi hết qua kẽ bàn tay khi xoè ra năm ngón. 
Khoảng thời gian gần đây mình đã cảm thấy rất sợ hãi sự nhìn lại: nhìn lại một mối quan hệ cũ, một người cũ, những dằn vặt đã cũ, hoặc nhìn lại chính bản thân mình ở những thời điểm không ưng ý. Nhưng rồi nhận ra, ít sự nhìn lại cũng đồng nghĩa rằng ấy là sự thờ ơ với chính bản thân mình, với đời sống mình. Chiều nay, trong cuốn nhật ký hơn 5 tháng rồi không viết, mình đọc lại những dòng chữ cũ, viết thêm nhiều dòng mới để nhìn lại những gì đã đi qua, những quyết định đã quyết, như tập đối diện với chính bản thân mình. Thì ra, điều lớn nhất trong nỗi sợ là không dám đối diện, nhất là với những điều mình không chắc là nó đúng, những quyết định mà khi làm vẫn còn dùng dằng chưa ngả ngũ. Càng lớn lên, khi trải nghiệm của quá khứ càng dày, sự xuất hiện của nuối tiếc, phân vân càng lắm, sự đối diện ấy có lẽ ít nhiều cũng cần dũng khí. Nhưng cũng vì càng lớn lên, nên hiểu rằng sự nhìn lại không nên để phần nuối tiếc hay xấu hổ xuất hiện quá nhiều, mà thay vào đó nên là để học lại những bài học đã cũ, những sai lầm mắc phải, ôn lại một chút cảm xúc đã từng để trái tim bây giờ bớt khô cằn sỏi đá, rồi biết ước áo tương lai mình cũng sẽ tìm được thứ cảm xúc đã từng. Hoặc, chỉ để cuối cùng nhận ra, mình đã đi qua nhiều như thế mà chẳng khôn lên một tí nào. Rồi sau tất cả, gom hết một mớ bòng bong, dọn lại ký ức để tiếp tục đi tới. 
Tương lai, sẽ đắp thêm nhiều điều rồi sẽ trở thành đã cũ, nhưng sự sẽ-cũ của những điều sắp tới là thứ mình có quyền được can thiệp với một mớ-bòng-bong sau khi nhìn lại đúc kết làm căn cứ và kinh nghiệm. Để cho một ngày nào đó ở vài ba tháng tới hay có khi vài ba năm tới, lúc nhìn lại ở một nơi nào khác, ở một bản-thân khác, sự sợ hãi bớt đi, dằn vặt không còn lắm, sự bình thản hiện lên, rồi nói với chính mình: cũng chẳng có gì to tát quá hay sợ hãi quá, nhìn lại chỉ là minh chứng là mình vừa đi thêm một chặng đường nữa mà thôi. 
Hoàng hôn xuống, nơi mình đang ngồi bây giờ không còn ánh hoàng hôn vắt ngang thành phố như vài phút trước, nhưng đèn đã lên từ toà nhà hành chính, từ những chiếc xe vội vã trên đường, từ quán cafe mình đang ngồi, và một cảnh đêm Đà Nẵng sắp hiện ra, và hẳn là nó cũng sẽ đẹp mà. 
Đà Nẵng, 18.11.2022.
2 notes · View notes
thptngothinham · 5 days
Text
Tham khảo các đề đọc hiểu Mùa xuân chín - Hàn Mặc Tử để ta hiểu rõ hơn cái nhìn, cái độc đáo về mùa xuân của người thi sĩ. Mùa xuân chín là bài thơ được xếp ở phần Hương thơm trong tập thơ Đau thương cùng với các bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, Tình quê,... - là những thi phẩm đầy thơ mộng viết về cảnh quê, tình quê của Hàn Mặc Tử. Cùng THPT Ngô Thì Nhậm tham khảo một số đề đọc hiểu đã ra trong đề thi học ki, đề kiểm tra dưới đây cũng như đáp án gợi ý bạn nhé: Đề đọc hiểu Mùa xuân chín số 1 Đọc hai đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới: Trong làn nắng ửng: khói mơ tan. Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng. Sột soạt gió trêu tà áo biếc, Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang (Mùa xuân chín- Hàn Mặc Tử ) Câu 1. Đoạn thơ trên được viết theo thể thơ nào? Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ trên? Câu 2. Tìm các từ láy được sử dụng trong đoạn thơ. Câu 3. Nêu nội dung chính của đoạn thơ. Câu 4. Đoạn thơ sử dụng những biện pháp tu từ gì? Phân tích hiệu quả các biện pháp tu từ đó? Câu 5. Trình bày ngắn gọn về cái tôi trữ tình của nhà thơ trong đoạn thơ. Câu 6. Hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 5 đến 7 dòng) thể hiện suy nghĩ của anh/ chị về trách nhiệm của con người trong việc bảo vệ thiên nhiên. Đáp án đề đọc hiểu Mùa xuân chín số 1 Câu 1. Đoạn thơ trên được viết theo thể thơ thơ mới bảy chữ Phương thức biểu đạt chính: Biểu cảm Câu 2. Các từ láy được sử dụng trong đoạn thơ: lấm tấm, sột soạt Câu 3. Nội dung chính của đoạn thơ: - Cảnh đẹp mùa xuân trong con mắt một thi sĩ yêu đời. - Tình yêu tha thiết với thiên nhiên, quê hương đất nước. Câu 4: Các biện pháp tu từ được sử dụng, hiệu quả nghệ thuật: + Nhân hóa : gió (trêu) – chàng trai đa tình. Gợi lên khung cảnh đầy sức sống, qua đó gửi gắm niềm yêu đời của nhà thơ. + Câu đặc biệt: Trên giàn thiên lí. Gợi cái nhìn tinh tế về sự chuyển mùa, nhà thơ như nhìn thấy sự hiện diện trong mỗi bước xuân sang. + Đảo ngữ : sột soạt gió trêu tà áo biếc - Nổi bật bức tranh sống động. + Dùng các từ láy: lấm tấm, sột soạt, gợi hình tượng về cảnh đẹp mùa xuân. Câu 5. Đoạn thơ của Hàn Mặc Tử cho thấy một hồn thơ yêu đời mãnh liệt, tha thiết. Câu 6. HS bày tỏ quan điểm cá nhân, có thể theo hướng. - Môi trường hiện đang bị ô nhiễm nghiêm trọng nên việc cấp thiết ngay lúc này là chung tay bảo vệ môi trường, bảo vệ nơi sinh sống của chính chúng ta. - Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ tất yếu không chỉ của riêng ta, là vấn đề sống còn của nhân loại. - ...... Đề đọc hiểu Mùa xuân chín số 2 Đọc bài thơ dưới đây rồi trả lời các câu hỏi từ câu 1 đến câu 4: MÙA XUÂN CHÍN Trong làn nắng ửng: khói mơ tan, Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng. Sột soạt gió trêu tà áo biếc, Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang. Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời Bao cô thôn nữ hát trên đồi; - Ngày mai trong đám xuân xanh ấy, Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi... Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi, Hổn hển như lời của nước mây, Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc, Nghe ra ý vị và thơ ngây... Khách xa gặp lúc mùa xuân chín, Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng: - “Chị ấy, năm nay còn gánh thóc Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?” (Hàn Mặc Tử) Câu 1. Chủ đề của bài thơ trên là gì? Câu 2. Câu thơ "Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời" gợi anh/chị liên tưởng tới câu thơ nào, của ai? Chỉ ra điểm giống và khác nhau giữa hai câu thơ. Câu 3. Phân tích biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ: Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi, Hổn hển như lời của nước mây Câu 4. Lý giải tại sao tác giả lại đặt tên cho bài thơ là “Mùa xuân chín”? Đáp án đề đọc hiểu Mùa xuân chín số 2: Câu 1. Chủ đề của bài thơ: Trả lời 1: Bức tranh mùa xuân đẹp, xanh tươi, đầy sức sống qua tình yêu tha thiết, mãnh liệt và một nỗi nhớ nhung khắc khoải, da diết của nhân vật trữ tình về một thế giới tươi đẹp giờ chỉ còn trong kí ức. Trả lời 2: Bài thơ là một bức tranh mùa xuân nơi thôn dã, tất cả đều đậm vẻ xuân, xuân trong cảnh vật và xuân trong lòng người. Câu 2. Câu thơ Hàn Mạc Tử gợi liên tưởng đến hai câu thơ Nguyễn Du trong Truyện kiều: Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
- Điểm giống nhau: đều miêu tả hình ảnh có mùa xuân với không gian rộng mở đến chân trời. - Khác nhau: Một mảng xanh khác lại đột ngọt hiện ra bướng bỉnh, và lần này không phải là một đốm, một nét mà lại là một mặt bằng mênh mông của cỏ. Rõ ràng là con “sóng cỏ” đã bay lượn hơn, sống động hơn. Nó đang vỗ bờ từng nhịp bồi hồi từ một nửa trái tim mênh mông đa tình, đa cảm. Câu 3. Biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ là: so sánh: "Hổn hển như lời của nước mây." Tác dụng của những biện pháp tu từ này: thể hiện được thần thái của tiếng hát màu xuân vừa hồn nhiên trong trẻo vừa thiết tha rạo rực. Câu 4. Tác giả đặt tên cho bài thơ là “Mùa xuân chín” với ý nghĩa: cảnh sắc thiên nhiên mùa xuân trong bài thơ đang ở độ tươi đẹp nhất, viên mãn nhất. Nhưng trạng thái đó cũng đồng nghĩa với việc mùa xuân đang và sẽ trôi qua, cái đẹp không tồn tại vĩnh hằng, mãi mãi, để lại trong lòng nhà thơ sự nuối tiếc khôn nguôi. (Nguồn bài thơ:thivien.net) -------------- Trên đây là một số đề đọc hiểu Mùa xuân chín mà THPT Ngô Thì Nhậm đã sưu tầm được, mong rằng sẽ giúp ích cho các em trong quá trình ôn tập tại nhà và đừng quên tham khảo các đề đọc hiểu ngữ văn 12 mà THPT Ngô Thì Nhậm đã biên tập nhé!
0 notes
tintucsuckhoecom · 14 days
Link
0 notes
thiendoanng · 1 month
Text
0762 / TÌNH XA BỎ LẠI
Bao la vụ trụ trời cao muôn ánh ,
Đêm mơ màng lấp lánh ngàn sao .
Vi vu trong gió vang tiếng thì thào ,
Khơi lại niềm đau l�� trào nhung nhớ …
Dâng con nước lên dập dồn nức nở ,
Mây hững hờ muôn thuở bay lang thang .
Ánh trăng treo soi bóng ở trên ngàn ,
Buồn than phận số phũ phàng đơn côi !
Ngày ra đi biền biệt xa vời ,
Sương thu lạnh giọt sầu tuôn rơi .
Sông Ngân Hà Ngưu Lang nhỏ lệ ,
Mắt tuôn trào Chức Nữ chia phôi …!
Xoay lưng cất bước mù khơi …,
Xuôi trên con sóng thả trôi cuộc tình ..?
Còn đâu giấc mộng ba sinh ,
Để anh ở lại một mình thương đau !
Đất lạ bôn ba nắng dãi mưa dầu ,
Em đã theo ai bắt cầu viễn xứ .?
Chân yếu tay mềm , làm sao phận nữ ,
Đơn hành độc mã cô lữ thân hàn …!
Cũng chẳng trách cưu mang phận bạc ,
Lỡ yêu người ngàn vạn đắng cay .
Ô hay con tạo khéo bày ,
Lầu xây trên cát chóng chầy vỡ tan …!
Nhớ thương , thương nhớ vô vàn ,
Ôi thôi cách trở dặm đàng chơi vơi .
Yêu nhau điêu đứng một thời ,
Âm thầm lặng lẽ không lời trối trăn ?
U hoài mối muộn màng than thở ,
Mãi hận người sao nở còn chi …?
Thâu canh nhắc nhở cũng vì ,
Quay quắt thắt ruột lời thề oái ăm…!…?
Nguyễn Doãn Thiện
Antioch , California Ngày 15 tháng 4 năm 2016
Tumblr media
0 notes
Text
Cho Thuê Xe Máy Tại Đà Nẵng - Bin Motorbike Rental
Địa chỉ thuê xe máy đáng tin cậy cho du khách tại Đà Nẵng!
Khi đến Đà Nẵng, việc di chuyển dễ dàng và thoải mái là điều quan trọng. Tại Bin Motorbike Rental, chúng tôi cung cấp dịch vụ cho thuê xe máy uy tín và chuyên nghiệp, giúp bạn khám phá thành phố biển một cách trọn vẹn nhất.
Tại sao nên chọn Bin Motorbike Rental?
Vị trí thuận tiện: Chúng tôi nằm ở trung tâm Đà Nẵng, dễ dàng tiếp cận các địa điểm du lịch nổi tiếng như Bãi biển Mỹ Khê, Cầu Rồng, Cầu Sông Hàn,..
Dịch vụ chuyên nghiệp: Đội ngũ nhân viên thân thiện và tận tâm luôn sẵn sàng hỗ trợ bạn mọi lúc, từ việc chọn xe đến hỗ trợ trong suốt thời gian thuê xe.
Giá cả hợp lý: Chúng tôi cung cấp mức giá cạnh tranh với nhiều gói thuê phù hợp với mọi nhu cầu của khách hàng.
Xe đa dạng, chất lượng: Từ xe số đến xe tay ga, tất cả xe máy đều được bảo dưỡng thường xuyên, đảm bảo an toàn và chất lượng.
Quy trình thuê xe dễ dàng
Đặt xe nhanh chóng: Chỉ cần gọi trực tiếp, bạn sẽ được tư vấn và hỗ trợ ngay lập tức.
Giao xe tận nơi: Chúng tôi cung cấp dịch vụ giao xe tại khách sạn, sân bay, hoặc bất kỳ địa điểm nào trong thành phố.
Khám phá Đà Nẵng dễ dàng với Bin Motorbike Rental
Chọn Bin Motorbike Rental để chuyến đi của bạn trở nên thuận lợi và đáng nhớ hơn. Hãy đặt xe ngay hôm nay để nhận nhiều ưu đãi hấp dẫn!
Thông tin Liên hệ
Website: https://binmotorbikesdanang.com/
Số điện thoại: 0786681187
Địa chỉ: K30/1b Hà Bổng, Phước Mỹ, Sơn Trà, Đà Nẵng 550000
0 notes
nhahangchamdana · 1 month
Text
Đà Nẵng về đêm vi vu 8 điểm hấp dẫn mà ai cũng nên đến dù chỉ 1 lần
1. Chợ đêm Đà Nẵng
Đà Nẵng nổi tiếng với nền ẩm thực phong phú và đa dạng. Những khu chợ đêm ở đây là nơi tuyệt vời để thưởng thức các món ngon và khám phá sự phong phú của ẩm thực Việt Nam.
Địa chỉ:
- Chợ Đêm Helio: 02 tháng 09, Quận Hải Châu, Tp. Đà Nẵng
- Chợ Đêm Sơn Trà: Mai Hắc Đế, Quận Sơn Trà, Tp. Đà Nẵng
- Chợ Đêm An Thượng: 226 Hoàng Kế Viêm, Quận Ngũ Hành Sơn, Tp. Đà Nẵng
Tumblr media
2. Biển Đà Nẵng về đêm
Biển Mỹ Khê, nằm trong danh sách các bãi biển quyến rũ nhất thế giới, không chỉ nổi bật với cảnh đẹp ban ngày mà còn trở nên lôi cuốn vào ban đêm. Các sự kiện văn hóa, âm nhạc và hàng quán dọc bờ biển tạo nên một không gian sôi động.
Địa chỉ:
- Bãi biển Mỹ Khê: 12 -13 Võ Nguyên Giáp, Sơn Trà, Đà Nẵng
- Bãi biển Phạm Văn Đồng: Quận Sơn Trà, Đà Nẵng
- Bãi biển Non Nước: Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
Tumblr media
3. Cầu Rồng – biểu tượng đêm Đà Nẵng
Cầu Rồng không chỉ là một công trình kiến trúc ấn tượng mà còn là điểm nhấn về đêm với màn trình diễn ánh sáng và phun lửa, nước vào các ngày cuối tuần.
Địa chỉ: Đầu đường Nguyễn Văn Linh, Hải Châu, Tp Đà Nẵng.
Tumblr media
4. Du thuyền trên Hàn Giang
Du thuyền trên sông Hàn mang đến trải nghiệm thư giãn tuyệt vời với cảnh thành phố lung linh ánh đèn và các hoạt động giải trí như vũ điệu Champa và cocktail sang trọng.
Địa chỉ: Bến tàu sông Hàn – Đường Bạch Đằng, Đà Nẵng.
Tumblr media
>>> Xem thêm bài viết đầy đủ và chi tiết tại đây: https://nhahangcham.com/da-nang-ve-dem/
>>> Các nền tảng khác:
Website: https://nhahangcham.com/da-nang-ve-dem/
Blogger: https://nha-hang-cham-da-nang.blogspot.com/2024/08/a-nang-ve-em-i-au-choi-gi-ban-biet-hay.html
Pinterest: https://www.pinterest.com/nhahangchamteamwebsite/du-l%E1%BB%8Bch-%C4%91%C3%A0-n%E1%BA%B5ng/
Linkedin: https://www.linkedin.com/pulse/kham-pha-top-8-diem-den-hap-dan-da-nang-ve-dem-nha-hang-cham-chepc/
Twitter: https://x.com/NhahangCham/status/1823168274928181445
0 notes
levantu · 2 months
Video
youtube
HUYỀN THOẠI TRƯƠNG LƯƠNG PHẦN I!LÃO GIÀ NGÃ BẢY SÀI GÒN.
 Trương Lương, họ Trương tên Lương, tự là Tử Phòng, người nước Hàn. Tổ tiên 5 đời của Trương Lương đều làm quan Tướng Quốc nước Hàn. Cha tên là Bình, làm Tướng Quốc cho vua Hàn là Ly Vương và Điệu Huệ Vương. Khi cha chết, Trương Lương còn ít tuổi nên chưa được tập ấm làm quan. Khi nước Hàn bị Tần Thủy Hoàng đánh tan, sáp nhập vào nước Tần, lúc đó Trương Lương có 300 tôi tớ trong nhà. Em của Lương chết, Lương không lo chôn cất, mà lo bán tất cả gia tài, giải tán các tôi tớ, dùng tiền đi tìm một người làm thích khách để giết vua Tần, báo thù cho nước Hàn. Trương Lương thường học lễ ở Hoài Dương, đi về đông yết kiến một vị ẩn sĩ tên là Thương Hải Quân, tìm được một dũng sĩ họ Lê, thường gọi là Trưng Hải Công, sử dụng một đôi chùy nặng 120 cân. Khi hay tin Tần Thủy Hoàng đi chơi qua miền đông, Trương Lương cùng với dũng sĩ rình núp ở bãi cát Bác Lãng, chờ khi xe của Tần Thủy Hoàng đi qua thì xông ra đánh, nhưng lại đánh nhầm xe của bọn tùy tùng. Tần Thủy Hoàng nổi giận, giết chết dũng sĩ họ Lê, rồi cho lịnh truy lùng bắt cho kỳ được Trương Lương. Lương phải đổi tên họ, cải dạng, trốn tránh ở Hạ Bì. TRƯƠNG LƯƠNG DÂNG DÉP 3 LẦN Một hôm, Trương Lương tản bộ ra cầu Hạ Bì, gặp một cụ già mặc áo cộc, cốt cách phương phi, đi ngang qua cầu, bỗng làm rớt chiếc dép xuống cầu. Cụ quay lại thấy Lương ngồi đó thì bảo rằng: - Thằng bé, xuống cầu lượm dép giùm ta. Lương ngạc nhiên muốn cự lại, nhưng thấy cụ già cả nên cố nhịn, lội xuống dạ cầu lượm chiếc dép đem lên cho cụ. Ông cụ lại bảo: - Xỏ vào chân ta. Lương đã trót lấy dép lên nên luôn tiện ngồi xuống xỏ dép vào chân của cụ. Cụ già mang dép xong, cười rồi bỏ đi. Lát sau cụ quay lại cầu, loay quay thế nào lại rớt dép lần nữa. Rồi Cụ cũng biểu Lương lội xuống lượm dép cho Cụ và xỏ vào chân Cụ. Lương thấy việc nầy có vẻ lạ, nên cũng vâng lời, làm vừa lòng cụ già lần nữa. Cụ già lại dở chưn dở tay thế nào lại làm rớt dép lần thứ ba. Lần nầy Cụ cũng biểu Lương xuống nhặt dép cho Cụ như hai lần trước. Trương Lương đã trót hai lần giúp Cụ già nên lần nầy cũng ráng giúp cụ cho trót. Cụ già mang dép vào chân xong, cười rồi bỏ đi. Một lát Cụ quay trở lại, nói với Trương Lương rằng: - Thằng bé nầy dạy được! Năm ngày sau, sáng tinh mơ, mày đến gặp ta tại đây. Trương Lương lấy làm lạ, nhưng cũng đáp: - Vâng. Đúng 5 ngày sau, sáng tinh mơ, Trương ra cầu thì đã thấy Cụ già đã ở đó từ trước. Cụ có ý giận, nói: - Đã hẹn với người già cả, lại đến sau, là cớ gì? Cụ bỏ đi, rồi quay lại nói: - Năm ngày nữa ra gặp ta ở đây cho sớm. Năm ngày sau, Trương Lương ra cầu thật sớm, vào lúc gà gáy, nhưng lại thấy Cụ già đã đến trước rồi. Cụ giận, nói: - Năm ngày sau, hãy ra đây cho sớm. Đúng năm ngày sau nữa, chưa đến nửa đêm thì Trương Lương ra cầu, một lát sau thì thấy Cụ già đi tới. Cụ vui vẻ nói: - Thế mới phải chứ! Rồi Cụ trao cho Lương một quyển sách, Cụ nói: - Học trong quyển sách nầy thì làm thầy của bực đế vương. Mười năm sau sẽ ứng nghiệm. Mười ba năm sau con sẽ đến gặp ta, hòn đá màu vàng dưới chơn núi Cốc Thành ở phía Bắc sông Tế là ta đó. Cụ già nói xong thì đi mất. Sáng hôm sau, Trương Lương mở sách ra xem thì đó là quyển 'THÁI CÔNG BINH PHÁP'. Trương Lương vô cùng mừng rỡ, ngày đêm chuyên cần nghiên cứu học tập. Cụ già tặng sách cho Trương Lương là Ông Tiên Huỳnh Thạch Công. (Huỳnh Thạch là cục đá màu vàng). Nhờ công dâng dép 3 lần cho Tiên Ông nên được Tiên Ông tặng cho sách quí, học trong đó mới trở nên tài giỏi, làm thầy cho bực đế vương (tức là làm Quân Sư), bày mưu tính kế, đánh đông dẹp bắc, bình trị thiên hạ. (Theo CỔ HỌC TINH HOA)
 LÃO GIÀ NGÃ BẢY SÀI GÒN.
***
HUYỀN THOẠI TRƯƠNG LƯƠNG PHẦN I!LÃO GIÀ NGÃ BẢY SÀI GÒN.
  #huyenthoaitruongluongphan1
#phattrienbanthan
#laogiangabaysaigon
#tslevantucantho
#facebooklevantu
#kenhyoutubetslevantu
#kenhtiktoktslevantu
#hoasinhtanhd.com
0 notes
vivuvietnamcom · 4 months
Text
Đà Nẵng - Thành phố đáng sống bên bờ sông Hàn không chỉ nổi tiếng bởi những cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, những câu cầu xinh đẹp cùng những bờ biển thơ mộng trải dài đến tận chân núi, mà nơi đây còn níu chân du khách bởi thiên đường ẩm thực với vô vàn món ngon khó cưỡng. Trong bài viết này, hãy cùng Vivu Việt Nam khám phá 40+ món ăn Đà Nẵng mà bạn nhất định phải thử khi đến với thành phố mộng mơ này, Bánh Tráng Cuốn Thịt Heo - Đậm Đà Hương Vị Đà Nẵng Bánh tráng cuốn thịt heo là một món ăn đặc sản nổi tiếng của Đà Nẵng, được du khách yêu thích bởi hương vị thơm ngon, thanh mát và cách trình bày đẹp mắt. Món ăn này được làm từ những nguyên liệu đơn giản nhưng lại mang đến hương vị vô cùng tinh tế. Khi thưởng thức món này, bạn sẽ cảm nhận được hương vị thanh mát từ rau sống, ngọt tự nhiên từ thịt heo và đậm đà từ nước mắm nêm. Sự kết hợp hài hòa giữa các nguyên liệu tươi ngon và cách chế biến tinh tế đã khiến cho món ăn này trở nên hấp dẫn và khó quên. Đến Đà Nẵng, đừng bỏ lỡ món này nhé: Bánh tráng thịt heo Bi Mĩ: Chợ Cồn, Đ. Ông Ích Khiêm, TP. Đà Nẵng Quán Đại Lộc: 97 Đ. Trưng Nữ Vương, TP. Đà Nẵng Bánh tráng thịt heo Bà Hường: 126 Đ. Duy Tân, TP. Đà Nẵng Quán Trần: 4 Đ. Lê Duẩn, Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng Quán Mậu: 35 Đ. Đỗ Thúc Tịnh, Q. Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng Bánh Tráng Cuốn Thịt Heo Bánh Canh Ruộng Bánh canh ruộng là món ăn dân dã, xuất hiện từ lâu đời ở Đà Nẵng. Sở dĩ có tên gọi "bánh canh ruộng" vì trước đây, các quán bánh canh thường nằm ven những cánh đồng lúa, người dân từ đó quen miệng gọi là bánh canh "ruộng". Ngay từ lần thưởng thức đầu tiên, du khách sẽ bị chinh phục bởi hương vị thơm ngon được tạo nên từ sự hài hòa giữa vị ngọt thanh của nước dùng, vị dai dai của sợi bánh canh, vị béo ngậy của các loại topping cùng vị cay nồng của ớt. Đặc biệt, đừng quên thử qua một lượt các loại bánh canh khác nhau, từ bánh canh cua, bánh canh chả, bánh canh cá cho đến bánh canh trứng cút… để cảm nhận rõ nét vị ngon của từng món, bạn nhé! Dưới đây là một số địa chỉ bán bánh canh ruộng mà bạn có thể tham khảo: Bánh canh cô Cúc: 84 Đ. Bùi Dương Lịch, Sơn Trà, TP. Đà Nẵng Bánh canh ruộng: 20 Hà Thị Thân, Q. Sơn Trà, TP. Đà Nẵng Bánh canh ruộng Phương: 27/3 Đ. Ngũ Hành Sơn, Q. Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng Bánh Canh Ruộng Bánh Đập Đà Nẵng Từ một chiếc bánh tráng nướng, người ta sẽ phủ lên trên một lớp bánh bột gạo mỏng, sau đó thêm một chút đậu phộng, tép đỏ và hành phi thơm phức. Khi thưởng thức, bạn có thể gấp đôi và đập nhẹ để bánh phẳng hơn rồi chấm vào nước mắm nêm. Tin chắc rằng, sự giòn tan của bánh tráng, dẻo dai của lớp bánh bột gạo và vị mặn mà của mắm nêm sẽ khiến du khách nhớ mãi không quên nếu có dịp được nếm thử. Bánh đập thường được người dân Đà Nẵng dùng làm thức ăn sáng hoặc ăn xế chiều. Ghé ngay một số địa điểm bánh bánh đập ngon tại Đà Nẵng sau để thưởng thức hương vị đặc trưng này: Bún mắm, bánh đập Vân: K77A/15 Đ. Lê Độ, Q. Thanh Khê, TP. Đà Nẵng Bánh căn – Bánh đập Đỗ Quang: 47 Đ. Đỗ Quang, Q. Thanh Khê, TP. Đà Nẵng Bánh đập cô Liên: 8/26 Đ. Nguyễn Duy Hiệu, Q. Sơn Trà, TP. Đà Nẵng Bánh đập Bà Tứ: 354 Đ. Lê Duẩn, Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng Bánh đập Phan Châu Trinh: 251 Đ. Phan Châu Trinh, Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng Bánh Đập Đà Nẵng Món ăn Đà Nẵng - Mì Quảng Mì Quảng có nguồn gốc từ Quảng Nam - một tỉnh nằm ở miền Trung Việt Nam. Món ăn này đã tồn tại và phát triển từ lâu đời, gắn liền với cuộc sống và văn hóa của người dân nơi đây. Sau khi Quảng Nam và Đà Nẵng được tách riêng thành 2 tỉnh thành khác nhau, món ăn này vẫn luôn tồn tại và trở thành một nét đặc trưng của nơi đây. Nếu đến đây, đừng bỏ qua cơ hội được thưởng thức món mì quảng thơm ngon, đậm vị. Sợi mì dày, dai làm từ bột gạo sẽ được ăn kèm với các loại topping như tôm, thịt heo, thịt gà, trứng, sau đó chan thêm một chút nước lèo ngọt thanh và ăn cùng rau sống tươi ngon, tất cả sẽ tạo nên một sự kết hợp tuyệt vời. Ghé các địa điểm sau để thử nhé: Mì Quảng Ánh: 45 Đ. Phạm Văn Nghị, TP. Đà Nẵng
Mì Quảng Phú Chiêm: 63 Đ. Phạm Văn Nghị, TP. Đà Nẵng Mì Quảng Phú Chiêm: 75 Đ. Châu Thị Vĩnh Tế, TP. Đà Nẵng Quán Mì Quảng Thi: 251 Đ. Hoàng Diệu, Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng Mì Quảng Bà Mua: 19 Đ. Trần Bình Trọng, Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng Mì Quảng Bà Vị: 166 Đ. Lê Đình Dương, Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng Món ăn Đà Nẵng - Mì Quảng Bánh Tráng Kẹp Đà Nẵng Bánh tráng kẹp (còn gọi là bánh tráng nướng) là một món ăn vặt đường phố nổi tiếng của Đà Nẵng. Loại bánh này được làm từ bánh tráng mỏng, nướng giòn trên than hoa hoặc chảo nóng, kết hợp với nhiều loại nhân phong phú như trứng cút, trứng gà, pate, ruốc (mắm ruốc), xúc xích, bò khô và hành phi. Khi ăn, bạn sẽ cảm nhận được sự giòn tan của bánh tráng nướng, hòa quyện với vị béo ngậy của trứng và pate, cùng với vị mặn mà của bò khô, ruốc và xúc xích. Để tăng thêm phần hấp dẫn, bánh còn được phết thêm tương ớt, sốt mayonnaise và rắc hành phi, tạo nên hương vị đậm đà, thơm ngon khó cưỡng. Đừng quên ghé các địa chỉ sau để thưởng thức món bánh này: Bánh tráng Cô Ty: K18/52 Đ. Đào Duy Từ, TP. Đà Nẵng Bánh tráng kẹp Dì Sương: 130/62 Đ. Điện Biên Phủ, TP. Đà Nẵng Bánh tráng kẹp cô Thê: 381 Đ. Nguyễn Văn Linh, TP. Đà Nẵng Bánh tráng kẹp Dì Hoa: 62/2A Đ. Núi Thành, Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng Bánh tráng kẹp Dì Hoàng: K142/46/09 Đ. Điện Biên Phủ,Q. Thanh Khê, TP. Đà Nẵng Bánh Tráng Kẹp Đà Nẵng Bánh Bèo - Món ăn Đà Nẵng không thể bỏ lỡ Bánh bèo là một trong những món ăn đặc sản không thể bỏ qua khi đến Đà Nẵng. Bánh được làm từ bột gạo, được hấp chín trong chén nhỏ. Sau đó, người ta sẽ rắc đầy thịt tôm băm nhuyễn, hành tỏi phi vàng và tóp mỡ giòn rụm lên bên trên để tạo nên sự kết hợp hoàn hảo giữa các hương vị trong một món ăn. Bánh bèo thường được bán tại các quán ăn nhỏ, quầy hàng ven đường, hoặc trong các khu chợ. Ngồi thưởng thức bánh bèo trong không gian bình dị, gần gũi của quán ăn đường phố, bạn sẽ cảm nhận được sự thân thiện và ấm áp của người dân địa phương. Bánh bèo Nhung: 322 Đ. Nguyễn Hoàng, TP. Đà Nẵng Quán bánh bèo Đà Nẵng: K54/45 Đ. Nguyễn Công Trứ, TP. Đà Nẵng Bánh bèo đêm: 14 Đ. Cồn Dầu 6, TP. Đà Nẵng Bánh bèo nóng: 197 Đ. Núi Thành, TP. Đà Nẵng Bánh bèo Bà Bé: 100 Đ. Hoàng Văn Thụ, Hải Châu, TP. Đà Nẵng Quán Tâm: 291 Đ. Nguyễn Chí Thanh, Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng Bánh Bèo - Món ăn Đà Nẵng không thể bỏ lỡ Bánh Căn - Món ăn Đà Nẵng hấp dẫn Bánh căn là một món ăn sáng đặc sản của Đà Nẵng, thu hút du khách bởi hương vị thơm ngon, độc đáo và giá cả bình dân. Món ăn này được làm từ bột gạo pha loãng, tráng mỏng trên khuôn bánh có nhiều lỗ nhỏ, sau đó cho thêm nhân và nướng chín. Mỗi chiếc căn Đà Nẵng với hình dạng nhỏ xinh, vàng ươm, giòn rụm ở phần viền và mềm dẻo ở phần nhân sẽ khiến du khách không thể nào cưỡng lại được. Dưới đây là một số địa điểm bán bánh căn ngon, hãy ghé ngay khi có cơ hội nhé: Bánh căn 2K: 26 Đ. Hồ Đắc Di Bánh căn xíu mại Đà Lạt: 119 Đ. Thái Thị Bôi Bánh căn Thúy: 154 Đ. Huỳnh Thúc Kháng, TP. Đà Nẵng Bánh căn Loan: 274 Đ. Hải Phòng, TP. Đà Nẵng Bánh Căn - Món ăn Đà Nẵng hấp dẫn Ram Cuốn Cải Đà Nẵng Ram cuốn cải là món ăn vặt nổi tiếng tại thành phố của những cây cầu. Món ăn này có thể chinh phục mọi thực khách dù là khó tính nhất bởi sự kết hợp hài hòa giữa vị giòn tan của ram, vị cay nhẹ của cải xanh và vị chua ngọt của nước chấm. Ram cuốn cải được làm từ bánh tráng mỏng cuốn nhân gồm thịt heo băm, tôm, mộc nhĩ và miến, sau đó chiên vàng giòn tạo nên lớp vỏ giòn tan bên ngoài và nhân mềm thơm bên trong. Khi ăn, ram được cuốn trong lá rau cải tươi xanh, có vị hơi đắng nhẹ, giúp cân bằng hương vị béo ngậy của ram chiên. Nước chấm chua ngọt, pha từ nước mắm, tỏi, ớt, đường và chanh, thêm phần đậm đà và hấp dẫn cho món ăn. Ram cuốn cải Đào Duy Từ: 14/22 Đ. Đào Duy Từ, TP.  Đà Nẵng Ram cuốn cải Út Tồ: K23/15 Đ. Phan Châu Trinh, TP.  Đà Nẵng Ram cuốn cải Cô Tiến: 28 Đ. Lê Duẩn, TP.  Đà Nẵng Ram cuốn cải chân cầu Trần Thị Lý: Chân cầu Trần Thị Lý, TP.  Đà Nẵng
Ram cuốn cải Việt: 27 Đ. Lê Duẩn, TP.  Đà Nẵng Ram Cuốn Cải Đà Nẵng Gỏi Cá Nam Ô Đà Nẵng Đến Đà Nẵng, đừng bỏ qua món gỏi cá Nam Ô - món ăn gắn liền với cuộc sống của người dân vùng Nam Ô của thành phố. Món ăn này được làm từ cá trích tươi ngon của vùng biển Nam Ô. Cá trích sau khi bắt lên sẽ được cắt nhỏ và tẩm ướp gia vị nhằm loại bỏ đi mùi tanh vốn có. Khi thưởng thức, người ta sẽ ăn cùng với bánh tráng, rau sống và một loại nước chấm mè đậu phộng đặc biệt. Để ăn đúng món gỏi cá chuẩn vị Nam Ô, bạn nên tìm đến những địa chỉ sau: Gỏi cá Đông Đông: 928 Đ. Nguyễn Lương Bằng, Q. Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng Gỏi cá Vinh: 960 Đ. Nguyễn Lương Bằng, Q. Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng Gỏi cá Nam Ô A Sinh: 130 Đ. Huỳnh Thúc Kháng, Q. Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng Quán Gỏi Nam Ô: 972 Đ. Nguyễn Lương Bằng, quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng Quán Gỏi Cá Thanh Hương: 1029 Đ. Nguyễn Lương Bằng, Q. Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng Gỏi Cá Nam Ô Đà Nẵng Bánh Nậm Đà Nẵng - Món Ăn Sáng Thơm Ngon Ở Đà Nẵng Đà Nẵng không chỉ nổi tiếng với những bãi biển tuyệt đẹp mà còn là thiên đường ẩm thực với nhiều món ăn độc đáo, trong đó không thể không nhắc đến bánh nậm. Đây là một món ăn mang đậm hương vị miền Trung, được nhiều người yêu thích bởi hương vị đặc biệt khó quên. Bánh nậm được làm từ bột gạo và gói trong lá chuối để hấp chín. Bánh thường có hình chữ nhật, mỏng và lớn hơn so với bánh bèo. Sự hấp dẫn của của bánh nậm Đà Nẵng đến từ lớp nhân tôm thịt bằm nhuyễn, xào cùng hành tỏi lấp ló bên trong lớp bột mịn. Khi bánh được hấp chín, mùi thơm của lá chuối quyện vào bột bánh, tạo nên một hương vị hấp dẫn lạ thường. Dưới đây là một số địa chỉ bán bánh nậm mà bạn có thể tham khảo: Quán Tâm: 291 Đ. Nguyễn Chí Thanh, TP. Đà Nẵng Quán Mĩ: Đ. Chi Lăng, sau Chợ Cồn, TP. Đà Nẵng Quán Bi: 74 Đ. Trưng Nữ Vương, TP. Đà Nẵng Quán Phụng: 30 Đ. Bàu Hạc 5, TP. Đà Nẵng Quán An Thành : 510 Đ. Nguyễn Tri Phương, TP. Đà Nẵng Quán Cô Tiên: K164/1 Đ. Hoàng Diệu, TP. Đà Nẵng Bánh Nậm Đà Nẵng Bánh Bột Lọc Đà Nẵng Bánh bột lọc vốn là món ăn trứ danh của xứ Huế, nhưng ở Đà Nẵng, món này cũng được ưa chuộng và bày bán nhiều tại các khu chợ lớn nhỏ. Bánh bột lọc được làm từ bột lọc (bột năng) và gói trong lớp lá chuối xanh.. Khi hấp chín, vỏ bánh trở nên trong suốt, lấp lánh, để lộ nhân tôm thịt đỏ hồng bên trong. Khi thưởng thức, hãy bóc lớp lá chuối ra và chấm bánh vào trong nước mắm mặn ngọt đặc trưng. Sự kết hợp giữa bánh dai mềm, nhân tôm thịt đậm đà và nước chấm thơm ngon chắc chắn sẽ khiến bạn không thể quên khi đến với thành phố này. Thử ngay tại địa chỉ sau: Lò bánh Thanh Trà: 22 Đ. Phạm Văn Nghị, TP. Đà Nẵng Bánh lọc Thủy: 12 Đ. Thạch Lam, TP. Đà Nẵng Quán Bà Bé: 100 Đ. Hoàng Văn Thụ, Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng Quán Tâm: 291 Đ. Nguyễn Chí Thanh, Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng Bánh Bột Lọc Đà Nẵng Mít Trộn Đà Nẵng Mít Trộn Đà Nẵng là một món ăn độc đáo và nổi tiếng của thành phố biển Đà Nẵng. Món ăn này được làm từ mít non luộc chín, xé nhỏ, trộn cùng với tôm khô rang, thịt ba chỉ luộc và các loại rau sống như rau răm, rau thơm, sau đó rải lên trên chút đậu phộng rang, hành vi vàng và nước mắm chua ngọt. Sự kết hợp hoàn hảo của các nguyên liệu này tạo nên một món ăn vừa thanh mát, vừa đậm đà, làm hài lòng cả những thực khách khó tính nhất. Không chỉ là một món ăn ngon miệng, Mít Trộn Đà Nẵng còn chứa đựng những giá trị văn hóa ẩm thực đặc trưng của vùng đất miền Trung. Đây là món ăn vặt lý tưởng cho những buổi họp mặt gia đình hay những dịp gặp gỡ bạn bè. Hãy tham khảo các địa chỉ bán mít trộn - món ăn Đà Nẵng tại đây để không bỏ lỡ cơ hội được thưởng thức hương vị đặc trưng này nhé:  Mít trộn Dì Lan: 362 Đ. Hoàng Diệu, TP. Đà Nẵng Quán Dì Dung: 106 Đ. Lê Độ, TP. Đà Nẵng Quán mít trộn Bà Già: 47/25 Đ. Lý Thái Tổ, Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng Quán Mít trộn Dì Anh: 34 Đ. Phạm Văn Nghị, Q. Thanh Khê, TP. Đà Nẵng Mít Trộn Đà Nẵng Kem Bơ Đà Nẵng Đến Đà Nẵng mà bỏ qua món kem bơ là một điều cực kỳ đáng tiếc.
Giữa tiết trời nóng bức của mùa hè, còn gì tuyệt vời bằng việc được thưởng thức một ly kem bơ béo ngậy và mát lạnh. Món kem này được chế biến từ những nguyên liệu đơn giản như bơ, sữa đặc, đá bào và một số topping khác như đậu phộng, dừa sấy khô…  Đặc biệt đừng quên ghé qua chợ Bắc Mỹ An để thưởng thức món kem bơ trứ danh. Dưới đây là một số địa chỉ mà bạn có thể tham khảo. Kem bơ cô Vân: Chợ Bắc Mĩ An, Q. Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng Kem bơ cô Cúc: Chợ Bắc Mĩ An, Q. Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng Kem bơ Thiên Thanh: 73 Đ. Phạm Thế Hiển, Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng Kem Bơ Đà Nẵng Bê Thui Cầu Mống Đà Nẵng Món ăn ngon Đà Nẵng tiếp theo mà du khách không thể bỏ lỡ khi đến đây là bê thui cầu mống. Món ăn này được chế biến từ thịt bê tươi ngon, sau đó thái thành từng lát mỏng và ướp gia vị đậm đà. Cuối cùng, người ta sẽ mang thịt thui qua lửa than hồng nóng bỏng, tạo ra lớp vỏ ngoài giòn và hương vị thơm ngon đặc trưng. Bê Thui thường được ăn kèm với bánh tráng mỏng, rau sống và nước mắm chua ngọt (hoặc nước mắm nêm). Thịt bê thơm ngon kết hợp cùng những nguyên liệu còn lại dường như được nâng lên một tầm cao mới. Thưởng thức ngay món này tại các địa chỉ sau: Quán Hồ Gia: 05 Đ. Trần Đình Nam, TP. Đà Nẵng Cỏ bê thui: 08 Đ. Hà Khê, TP. Đà Nẵng Quán Rô: 8 Đ. Bắc Sơn, quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng Quán Ngọc Lan: 895 Đ. Ngô Quyền, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng Quán Hương: 18 Đ. Lê Quý Đôn, quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng Bê Thui Cầu Mống Đà Nẵng Món ăn Đà Nẵng Bún Bò  Khác với bún bò Huế, Bún Bò Đà Nẵng mang nét đặc sắc riêng với nước dùng ngọt thanh từ xương bò hầm kỹ, kết hợp với hương vị cay nồng của sa tế và gia vị. Thịt bò trong món bún thường là bắp bò, thái mỏng, mềm và thấm đượm gia vị, được ăn kèm với chả cua, giò heo và các loại rau sống như giá đỗ, rau thơm, rau răm, và hoa chuối thái mỏng. Sẽ thật đáng tiếc nếu bạn bỏ qua món bún bò khi đến với Đà Nẵng. Hãy thưởng thức chúng vào buổi sáng để có một ngày mới tràn đầy năng lượng. Ghé ngay những địa chỉ sau: Gánh bún bò: 09 Đ. Võ Văn Tần, TP. Đà Nẵng Bún bò Huế Na: 63 Đ. Lê Quang Đạo, TP. Đà Nẵng Bún bò Huế bà Thương: 23 Đ. Trần Quốc Toản, TP. Đà Nẵng Quán bún bò Huế O Ngọc: 48/2 Đ. 2 Tháng 9, TP. Đà Nẵng Quán bún bò Huế O Lành: 145 Đ. Hà Huy Tập, TP. Đà Nẵng Món ăn Đà Nẵng Bún Bò  Bún Mắm Nêm Đà Nẵng Bún mắm nêm là một món ăn đặc sản nổi tiếng của thành phố Đà Nẵng. Các thành phần chính của món ăn gồm bún tươi, thịt heo quay (hoặc thịt heo luộc) thái mỏng, mít luộc và các loại rau sống như xà lách, rau thơm, giá đỗ, dưa leo… Trong đó, không thể không kể đến mắm nêm - linh hồn của món ăn, là loại mắm được lên men tự nhiên từ cá cơm hoặc cá nục để tạo nên hương vị đặc trưng khó lẫn. Khi ăn, bạn có thể ăn kèm với bánh tráng nướng, đậu phộng rang giã nhỏ và hành phi vàng ruộm. Tất cả cùng kết hợp với nhau sẽ khiến bạn không thể ngừng đũa chỉ sau 1 lần thử. Ghé ngay các địa chỉ sau để thưởng thức nhé: Bún mắm nêm Bi Mĩ: Chợ Cồn, TP. Đà Nẵng Bún mắm dì Xem: Bờ hồ Hàm Nghi, TP. Đà Nẵng Bún mắm heo quay: 43-45 Đ. Phan Thanh, TP. Đà Nẵng Bún mắm Ngọc: 20 Đoàn Thị Điểm, TP. Đà Nẵng Bún mắm Bà Thuyên: K424/03 Lê Duẩn, TP. Đà Nẵng Bún Mắm Nêm Đà Nẵng Bún Thịt Nướng Đà Nẵng Nếu bún mắm hơi nặng đô với bạn, thì hãy thử đổi sang món bún thịt nướng thơm ngon và dễ ăn hơn. Món ăn này gây ấn tượng mạnh bởi sự kết hợp hoàn hảo giữa thịt nướng thơm ngon, bún tươi mềm mịn và các loại rau sống tươi mát. Thịt nướng được ướp gia vị đậm đà, nướng chín vàng, tạo nên hương thơm quyến rũ và vị ngọt tự nhiên. Khi ăn, người ta sẽ cho bún tươi, thịt nướng, rau sống như xà lách, giá đỗ, dưa leo, rau thơm, đậu phộng, hành phi, đồ chua rồi chan một ít nước mắm chua ngọt lên trên. Hãy trộn đều và thưởng thức hương vị của nó nhé! Quán bún thịt nướng Cô Lựu: K119 Đ. Quang Dũng, bờ hồ Hàm Nghi, TP. Đà Nẵng Quán bún thịt nướng: 413 Đ. Núi Thành, TP. Đà Nẵng Quán bún thịt nướng Bình Minh: 23 Đ. Lê Thanh Nghị, TP. Đà Nẵng
Quán bún thịt nướng Cô Trâm địa chỉ: Số 66/7 Đ. Ông Ích Đường, TP. Đà Nẵng Bún Thịt Nướng Đà Nẵng Bún Chả Cá Đà Nẵng Nếu có dịp đến với Đà Nẵng, đừng bỏ lỡ cơ hội được thưởng thức món bún chả cá thơm ngon đậm vị. Món ăn này có phần nước dùng được nấu từ xương cá và các loại rau củ nên sẽ tạo được vị ngọt thanh tự nhiên. Chả cá thơm ngon, dai dai, thấm đượm gia vị, hòa quyện với bún tươi mềm mịn, khi ăn cùng các loại rau sống như xà lách, giá đỗ, rau thơm và hành lá thái nhỏ sẽ tạo nên sự kết hợp không thể tuyệt vời hơn. Ngoài ra, đừng quên cho vào một ít mắm tôm hoặc mắm ruốc, chanh tươi, ớt bằm và rau sống để tăng thêm hương vị và tạo nên sự cân bằng hoàn hảo. Tham khảo ngay những địa chỉ dưới đây để thưởng thức món ăn này: Quán bún chả cá Bà Lữ: 319 Đ. Hùng Vương, TP. Đà Nẵng Quán bún chả cá Ông Tạ: 113 Đ. Nguyễn Chí Thanh, TP. Đà Nẵng Quán bún chả cá Bà Toải: 104 Đ. Trần Cao Vân, TP. Đà Nẵng Bún Bà  n: 295 Đ. Hùng Vương, TP. Đà Nẵng Quán bún chả cá không tên: 109 Đ. Nguyễn Chí Thanh, TP. Đà Nẵng Bún Chả Cá Đà Nẵng Cơm Gà - Món ăn Đà Nẵng thơm ngon Khi đến du lịch Đà Nẵng mà phân vân không biết ăn gì, thì cơm gà sẽ là gợi ý hàng đầu dành cho bạn. Món ăn này không chỉ thơm ngon, hấp dẫn, mà còn cực kỳ ấm bụng và cung cấp đủ năng lượng để bạn có thể khám phá thành phố xinh đẹp cả ngày dài. Cơm gà Đà Nẵng thường được nấu bằng nước luộc gà, sau đó ăn cùng với gà chiên hoặc gà xé và một số topping khác như rau sống, ớt băm, chanh tươi, đồ chua, nước mắm chua ngọt cùng chén canh gà nóng hổi. Dưới đây là một số địa chỉ bán cơm gà Đà Nẵng mà bạn không thể bỏ lỡ: Quán Cơm gà Lan: 520 Đ. Trưng Nữ Vương, TP. Đà Nẵng Cơm gà Tam Kỳ Bảy Ký: 22 Đ. Ngô Thì Nhậm, TP. Đà Nẵng Cơm gà Bà Ba: 125 Đ. Hà Bổng, TP. Đà Nẵng Cơm gà thố Số Dzách: 47 Đ. Trưng Nữ Vương, TP. Đà Nẵng Quán Cơm Gà Tài Ký 1: Số 478A2 Đ. Điện Biên Phủ, TP. Đà Nẵng Cơm Gà - Món ăn Đà Nẵng thơm ngon Bún Hải Sản Đà Nẵng Tận dụng nguồn tài nguyên biển dồi dào, hải sản Đà Nẵng luôn là một cái gì đó rất đỉnh và thu hút đông đảo du khách tìm đến thưởng thức. Trong đó, ngoài những món hải sản tươi ngon, bạn có thể đổi vị với món bún hải sản - một nét ẩm thực mới lạ giữa lòng thành phố. Thành phần chính của Bún Hải Sản Đà Nẵng bao gồm bún tươi, tôm, mực, cá và đôi khi có thêm các loại nghêu, sò. Hải sản được lựa chọn kỹ lưỡng, tươi sống, sau đó chế biến nhanh để giữ được độ ngọt tự nhiên và hương vị biển đặc trưng. Nước dùng được nấu từ xương cá và các loại rau củ, tạo nên vị ngọt thanh và hương thơm dễ chịu. Hãy đến và thưởng thức hương vị này tại những địa chỉ sau: Thanh Hương Quán: 335 Đ. Hồ Nghinh, Thanh Khê, TP. Đà Nẵng. Bún Thái Hải Sản Bà Liên: 170 Đ. Lê Độ, Thanh Khê, TP. Đà Nẵng. Bún Hải Sản Nguyễn Hữu Thọ: 24 Đ. Nguyễn Hữu Thọ, TP. Đà Nẵng. Bún Hải Sản Ông Thành: 118 Đ. Nguyễn Chí Thanh, TP. Đà Nẵng Bún Hải Sản Đà Nẵng Bánh Xèo, Nem Lụi Đà Nẵng Bánh Xèo Đà Nẵng là món ăn được yêu thích bởi lớp vỏ bánh vàng giòn, thơm lừng, nhân bánh gồm tôm tươi, thịt heo và giá đỗ. Khi ăn, bánh xèo được cuốn trong bánh tráng mỏng cùng các loại rau sống như xà lách, rau thơm và chấm với nước mắm chua ngọt được pha chế khéo léo, vừa miệng. Ngoài ra, đừng quên thử qua món nem lụi - một đặc sản thơm ngon khó cưỡng tại Đà Nẵng. Nem lụi được làm từ thịt heo xay nhuyễn, ướp gia vị, cuốn quanh que tre hoặc sả rồi nướng trên than hồng. Nem lụi thơm lừng, mềm mại và thấm đẫm gia vị sẽ được thưởng thức cùng bánh tráng, rau sống và nước lèo đặc biệt nấu từ gan heo, đậu phộng và các gia vị khác để tạo nên vị béo ngậy, mặn mà và ngọt dịu. Ghé ngay những địa điểm sau để thử qua món bánh xèo, nem lụi đặc trưng nơi đây: Quán bánh xèo Đà Nẵng: 130 Đ. Mẹ Suốt, TP. Đà Nẵng Bánh xèo Bà Thúy: 319 Đ. Trưng Nữ Vương, TP. Đà Nẵng Bánh xèo Đà Nẵng: 313 Đ. Hà Huy Tập, TP. Đà Nẵng Quán Bà Dưỡng: K280/23 Đ. Hoàng Diệu, TP. Đà Nẵng Quán cô Mười: 23 Đ. Châu Thị Vĩnh Tế, TP. Đà Nẵng Bánh Xèo, Nem Lụi Đà Nẵng
Cơm Hến Đà Nẵng Cơm Hến Đà Nẵng là một món ăn dân dã, bình dị nhưng lại vô cùng hấp dẫn và đậm đà hương vị của miền Trung Việt Nam. Món ăn này được chế biến từ những nguyên liệu đơn giản, gồm cơm trắng nguội, hến xào và các loại rau sống như rau răm, rau thơm, giá đỗ. Khi thưởng thức, người ta sẽ rắc thêm một ít hành phi, đậu phộng rang và bì lợn chiên giòn để tăng hương vị cho món ăn. Hến sau khi được làm sạch, xào chín cùng hành, tỏi và gia vị, sẽ có vị ngọt tự nhiên và hương thơm đặc trưng. Chỉ cần đã ăn qua một lần là bạn sẽ nhớ mãi. Ghé ngay các địa chỉ sau để thưởng thức nhé: Cơm Hến Xuyến Lợi: đối diện 636 Đ. Hải Phòng, TP. Đà Nẵng Cơm Hến Cô Giao: 364/27 Đ. Lê Duẩn, TP. Đà Nẵng Cơm Hến Kiệt: 356 Đ. Hoàng Diệu, TP. Đà Nẵng Cơm Hến – Cơm hến Huế: 258 Đ. Trưng Nữ Vương, TP. Đà Nẵng Cơm hến Thanh: 105 Đ. Huỳnh Thúc Kháng, TP. Đà Nẵng Cơm Hến Đà Nẵng Món ăn Đà Nẵng - Hải sản Đến với thành phố biển Đà Nẵng, hải sản là món ăn mà bạn tuyệt đối không nên bỏ qua. Hải sản ở đây không chỉ được biết đến với độ tươi sống, mà còn khiến du khách say mê bởi cách chế biến đặc biệt góp phần giữ nguyên được vị ngọt tự nhiên của biển cả. Một “đại tiệc” hải sản tại Đà Nẵng thường bắt đầu với các món khai vị như gỏi cá, nộm hải sản, tiếp theo là các món nướng, hấp, và kết thúc với lẩu hải sản thơm ngon, đậm đà. Bên cạnh các nhà hàng hải sản sang trọng, bạn cũng có thể thưởng thức hải sản tươi ngon tại các quán ăn ven biển, chợ hải sản hoặc các khu ẩm thực đêm. Ở đây, bạn có thể tự tay chọn lựa những loại hải sản tươi sống và yêu cầu chế biến theo phương pháp mà bạn yêu thích. Khám phá ngay tại các địa chỉ sau: Hải sản Năm Đảnh: K139/59/38 Đ. Trần Quang Khải, TP. Đà Nẵng Hải sản Bé Mặn: 08 Đ. Võ Nguyên Giáp, TP. Đà Nẵng Hải sản Bà Rô: 115 Đ. Lý Tử Tấn, TP. Đà Nẵng Quán Lộng Gió: Lô 5 – 6 – 7 Đ. Trần Hưng Đạo, TP. Đà Nẵng Cua Biển Quán: Lô 10, Võ Nguyên Giáp, TP. Đà Nẵng Món ăn Đà Nẵng - Hải sản Cao Lầu Đà Nẵng Cao lầu, vốn là một món ăn đặc sản nổi tiếng của Hội An, nhưng khi du nhập vào Đà Nẵng đã được biến tấu nhằm tạo nên hương vị riêng biệt hơn bao giờ hết. Với món cao lầu, bạn sẽ thưởng thức sợi mì đặc biệt được làm từ bột gạo thơm ngon, ăn cùng với thịt heo thái lát mỏng, mì khô chiên giòn, rau sống và nước dùng đặc trưng. Nếu đây là món ăn mà bạn muốn thưởng thức khi đến Đà Nẵng, đừng bỏ qua các địa điểm nổi tiếng dưới đây: Cao lầu Phố Hội: 163 Đ. Phan Đăng Lưu, TP. Đà Nẵng Cao lầu Hoài Phố: 255 Đ. Nguyễn Chí Thanh, TP. Đà Nẵng Cao lầu chay Hương Sen: 142/16 Đ. Hàm Nghi, TP. Đà Nẵng Cao lầu Phước: Đ. Nguyễn Huy Diệu, TP. Đà Nẵng Cao lầu Lý Hội An: 267 Đ. Thái Thị Bôi, TP. Đà Nẵng Cao lầu Hoài Phố: 255 Đ. Nguyễn Chí Thanh, TP. Đà Nẵng Cao Lầu Đà Nẵng Nem Tré Đà Nẵng Nem tré là một trong những đặc sản nổi tiếng nhất của Đà Nẵng. Món ăn này thu hút du khách bởi hương vị thơm ngon, độc đáo và giá cả hợp lý. Để làm được nem tré, người ta sẽ gói thịt heo ba chỉ, bì heo, tai heo, thính gạo và các loại gia vị vào trong lá ổi rồi ủ trong vài ngày cho lên men. Nem tré Đà Nẵng thường được ăn kèm với bánh tráng, rau sống, bún và nước chấm đặc biệt để cho ra một hương vị không thể lẫn vào đâu được. Nếu có cơ hội đến Đà Nẵng và muốn mua một món ăn thơm ngon đặc trưng về làm quà, bạn có thể ghé qua một số địa chỉ dưới đây để mua nem tré: Tré Bà Đệ: 81 Đ. Hải Phòng, Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng Tré bà Cúc: 107 Đ. Hải Phòng, Q.  Hải Châu, TP. Đà Nẵng Nem Tré Đà Nẵng Món ăn Đà Nẵng - Phá lấu Phá lấu là một món ăn ngon tại Đà Nẵng quen thuộc mà bạn không thể bỏ qua. Nội tạng heo sau được làm sạch kỹ lưỡng sẽ được ướp với hỗn hợp gia vị gồm nước mắm, đường, tỏi, hành, gừng và các loại gia vị khác như quế, hồi, thảo quả. Tiếp theo, người ta sẽ cho tất cả vào hầm chung với nước dừa tươi hoặc nước hầm xương để tạo nên hương vị thơm ngon, đậm đà và béo ngậy. Với cách chế biến công phu và hương vị đậm đà, Phá Lấu Đà Nẵng chắc chắn sẽ để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mỗi thực khách. Tham khảo ngay các địa chỉ bán nổi tiếng tại đâ:
Phá lấu 1976: 57 Đ. Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng Phá lấu Cu Mập: 09 Đ. Võ Văn Tần, TP. Đà Nẵng Phá lấu Thủy: 57 Đ. Nguyễn Huy Tưởng, TP. Đà Nẵng Phá lấu Sinh: 282 Đ. Trưng Nữ Vương, TP. Đà Nẵng Món ăn Đà Nẵng - Phá lấu Ốc Hút Đà Nẵng Ốc hút là một món ăn vặt đường phố nổi tiếng tại thành phố Đà Nẵng. Món ốc hút thu hút thực khách bởi sự tươi ngon của ốc cùng với cách chế biến đặc biệt để tạo nên hương vị thơm ngon đặc trưng. Đặc biệt, món ăn này có giá rất phải chăng và bạn có thể tìm thấy tại hầu hết các quán ốc ven đường ở Đà Nẵng Ốc hút sau khi làm sạch thường được xào với sả, ớt, gừng, hành tím,... và ăn kèm với bánh tráng, rau sống, bún và nước chấm đặc biệt. Để cảm nhận rõ nét hương vị này, hãy tham khảo các địa chỉ bán ốc trộn - món ăn ngon ở Đà Nẵng không thể bỏ lỡ tại thành phố của những cây cầu tại đây:  Ốc Zè Zè: 19 Đ. Núi Thành, TP. Đà Nẵng Ốc Ken Sài Gòn – Núi Thành: 146 Đ. Núi Thành, TP. Đà Nẵng Ốc Hút Đĩa Bay: Đ. 2/9, TP. Đà Nẵng Ốc Hút Đà Nẵng Cháo Quẩy Sườn Sụn Đà Nẵng Sẽ thật tuyệt vời nếu được thưởng thức một tô cháo quẩy nóng hổi vào những ngày mưa lạnh. Cháo được nấu cùng với sườn sụn, không quá đặc cũng không quá loãng, đảm bảo độ mịn màng và dễ ăn. Trong mỗi bát cháo, người ta sẽ rắc thêm một lớp ruốc thơm ngon để làm tăng thêm hương vị đậm đà của món ăn. Ăn kèm với cháo là quẩy được chiên nóng hổi, giòn tan rất cuốn miệng. Hương vị mềm mịn của cháo, giòn rụm của quẩy và độ sần sật của sườn sụn hòa quyện tạo nên một món ăn vô cùng đặc biệt và khó quên. Đến Đà Nẵng, đừng bỏ qua món ăn này tại các địa chỉ sau: Quán Hiền Eo: 114 Đ. Lê Đình Lý, TP. Đà Nẵng Cháo sườn sụn Bé Bi: 159 Đ. Phan Thanh, TP. Đà Nẵng Cháo quẩy Hẻm 34: 144/34 Đ. Nguyễn Lương Bằng, TP. Đà Nẵng Cháo Quẩy Sườn Sụn Đà Nẵng Tào Phớ - Món ăn Đà Nẵng không thể bỏ lỡ Tào phớ, hay còn gọi là tàu hủ, được làm từ đậu nành xay nhuyễn, sau đó lọc lấy nước và đun sôi với một chút đường và nước gừng. Kết quả là những miếng tào phớ mịn màng, tan ngay trong miệng, mang lại cảm giác mát lành và dễ chịu. Điểm đặc biệt của tào phớ Đà Nẵng chính là nước đường. Nước đường ở đây thường được nấu từ đường nâu hoặc đường thốt nốt, kết hợp với gừng tươi để tạo ra hương vị ngọt thanh và một chút cay nhẹ, tạo nên sự cân bằng hoàn hảo. Khi ăn, người ta sẽ rưới nước đường gừng lên tào phớ, một số nơi còn thêm các loại topping như trân châu, hạt é, nước cốt dừa hoặc dừa nạo, làm cho món ăn trở nên phong phú và đa dạng hơn. Ghé các địa điểm sau để thưởng thức nhé: Tiệm Phớ: 17 Đ. Đống Đa, TP. Đà Nẵng Tàu hủ đá: 12 Đ. Pasteur, TP. Đà Nẵng Tàu hủ Singapore 1995: 507 Đ. Trưng Nữ Vương, TP. Đà Nẵng Tào phớ TOFU: 278 Đ. Trưng Nữ Vương, TP. Đà Nẵng Tàu hủ Nguyễn Văn Linh: 15 Đ. Nguyễn Văn Linh, TP. Đà Nẵng Tàu hủ đá Phan Thanh: Ngã 3 Đ. Phan Thanh – Đặng Thai Mai, TP. Đà Nẵng Tào Phớ - Món ăn Đà Nẵng không thể bỏ lỡ Chè Xoa Xoa Hạt Lựu Đà Nẵng Ngoài tào phớ, chè xoa xoa hạt lựu cũng là một món giải khát thơm ngon mà bạn nên thử trong những ngày nắng nóng. Món chè này có vị ngọt thanh, mát lạnh với những viên xoa xoa dai dai, hạt lựu đỏ tươi và nước cốt dừa béo ngậy. Xoa xoa là loại thạch trắng trong được làm từ bột rau câu, còn hạt lựu thực chất là những viên bột lọc nhỏ xíu được nấu chín và ngâm trong nước đường để tạo nên độ giòn ngọt dễ chịu. Đi kèm với đó là thạch lá dứa xanh mướt, thơm mùi lá dứa kết hợp với đậu xanh nấu chín mềm, tất cả tạo nên một món chè đa sắc và hấp dẫn. Thưởng thức ngay tại các địa chỉ sau: O Châm Chợ Cồn: 187 Hải Phòng, TP. Đà Nẵng Xoa xoa Trần Bình Trọng; 46 Trần Bình Trọng, TP. Đà Nẵng Chè xoa xoa Phan Thanh: 111 Phan Thanh, TP. Đà Nẵng Chè Xoa Xoa Hạt Lựu Đà Nẵng Chè Sầu Riêng Đà Nẵng Chè sầu riêng Đà Nẵng là một món tráng miệng đặc sản nổi bật với hương vị thơm ngon và béo ngậy của sầu riêng, loại trái cây được mệnh danh là "vua của các loại trái cây nhiệt đới". Món chè này thu hút thực khách bởi sự kết hợp hoàn hảo giữa sầu riêng chín mềm, nước cốt dừa béo ngậy và đậu xanh bùi bùi.
Thêm vào đó, các loại thạch rau câu, trân châu và hạt é được thêm vào tạo độ giòn, dai, mang đến trải nghiệm ẩm thực phong phú và đầy lôi cuốn. Nếu bạn là “fan cứng” của sầu riêng, đừng bỏ qua cơ hội được thưởng thức món ăn Đà Nẵng này tại một số địa chỉ sau:  Quán Cô Liên: 189 Đ. Hoàng Diệu, TP. Đà Nẵng Chè Thái Liên: 175 Đ. Hải Phòng, TP. Đà Nẵng Chè Sầu Riêng Chi Chi: 198 Đ. Trần Cao Vân, Thanh Khê, Đà Nẵng Chè Xuân Trang: 27 Đ. Ông Ích Khiêm, Hải Châu, Đà Nẵng Chè Thái Ngon: 20 Đ. Hoàng Diệu, Hải Châu, Đà Nẵng Chè Sầu Riêng Đà Nẵng Đùi Cừu Nướng Đà Nẵng Đùi cừu nướng Đà Nẵng là một món ăn sang trọng và hấp dẫn, nổi tiếng với hương vị đậm đà cùng cách chế biến tinh tế. Món ăn này là sự kết hợp hoàn hảo giữa thịt cừu mềm mại thấm đều gia vị cùng kỹ thuật nướng chuyên nghiệp, tất cả sẽ tạo nên một trải nghiệm ẩm thực đỉnh cao cho thực khách. Cắn thử một miếng thịt cừu dai dai, thơm mềm rồi uống thêm một ngụm rượu sim, tất cả hương vị dường như đọng lại để rồi tạo nên một cảm giác không thể lẫn vào đâu được. Ghé ngay địa chỉ sau để thưởng thức nhé: Địa Chỉ Bán Đùi Cừu Nướng Ngon Ở Đà Nẵng: Nhà hàng Nhất Thủy Phong: Đối diện số 24 Đ. Trần Đình Đàn, TP. Đà Nẵng Quán thịt Cừu: 67 Đ. Trần Đình Đàn, TP. Đà Nẵng Đùi Cừu Nướng Đà Nẵng Bánh Mì - Món ăn Đà Nẵng Đến Đà Nẵng, không khó để bạn tìm thấy một cửa hàng bán bánh mì. Thậm chí, có vô số thương hiệu nổi lên và xuất hiện ở hầu hết các ngõ ngách của thành phố như Ba Hưng, Đồng Tiến, Anh Quân… Bánh mì không chỉ ngon miệng mà còn rất tiện lợi, phù hợp cho bữa sáng, bữa trưa hoặc bữa tối. Khi thưởng thức bánh mì Đà Nẵng, bạn sẽ cảm nhận được sự giòn tan của bánh, hương vị đậm đà của nhân cùng với vị tươi mát, chua ngọt của rau củ và đồ chua, tất cả hòa quyện với nhau để rồi tạo nên một trải nghiệm ẩm thực khó quên. Để thưởng thức món này, bạn có thể mua tại bất kỳ cửa hàng hay xe đẩy nhỏ nào trên đường phố thay vì tìm đến một địa chỉ nhất định. Bánh Mì - Món ăn Đà Nẵng Món ăn Đà Nẵng - Ốc lễ  Ốc lể, hay còn gọi là ốc gạo, ốc ruốc, là một món ăn vặt đặc sản nổi tiếng tại Đà Nẵng. Món ăn này thường xuất hiện vào mùa xuân, từ tháng Giêng đến tháng Tư âm lịch hàng năm, thu hút đông đảo du khách bởi hương vị thơm ngon, độc đáo và giá cả bình dân. Mỗi con ốc lể chỉ to bằng cái cúc áo, vỏ màu trắng ngà, có sọc nâu, nhưng lại khiến người ăn không thể ngừng “lể” bởi vị ngọt thanh, mặn mặn, béo béo, quyện cùng vị cay nồng của ớt và vị thơm nồng của các loại gia vị. Sở dĩ có tên ốc lể là vì trong tiếng Đà Nẵng, lể là hành động lấy phần thịt ốc ra khỏi vỏ ốc. Để ăn ốc lể, bạn chỉ cần đến đúng mùa và mua tại bất cứ khu chợ nào của Đà Nẵng. Món ăn Đà Nẵng - Ốc lễ  Chả Bò - Đặc sản của Đà Nẵng Đến với thành phố biển xinh đẹp, bạn sẽ ấn tượng với món chả bò - thường xuất hiện trong bánh mì hoặc các món gỏi thơm ngon. Chả Bò được làm từ thịt bò tươi ngon, xay nhuyễn, kết hợp cùng với mỡ heo, hành tím, tỏi, tiêu, muối, nước mắm... tạo nên hương vị đặc trưng không thể lẫn vào đâu được. Chả Bò có vị ngọt thanh của thịt bò, vị béo ngậy của mỡ heo, vị cay nồng của tiêu, vị thơm nồng của hành tím, tỏi và vị mặn đậm đà của nước mắm. Khi ăn, bạn có thể cắt ra ăn ngay hoặc hấp, nướng và chiên lên sao cho phù hợp với sở thích của mình. Tương tự, chả bò cũng được bán tại các khu chợ và cửa hàng đặc sản tại Đà Nẵng, đừng quên ghé mua và mang về làm quà cho gia đình, bạn bè nhé! Chả Bò - Đặc sản của Đà Nẵng Mực Rim Me Đà Nẵng Nếu bạn đang tìm kiếm một món ăn mang về làm quà, đừng bỏ qua mực rim me. Món ăn này được chế biến từ những con mực sữa tươi ngon, được phơi khô vừa đủ và rim cùng với me, đường, ớt, tỏi,... tạo nên hương vị đặc trưng không thể nào quên. Mực rim me có thể để lâu được, sẽ ngon hơn khi thưởng thức cùng cơm trắng. Hoặc, bạn cũng có thể sử dụng món này làm “mồi béng” trong các buổi sum họp. Để mua được món này, bạn chỉ cần đến các khu chợ của Đà Nẵng như chợ Bắc Mỹ An, chợ Cồn, chợ Hàn,... Khi mua, đừng quên trả giá để có một mức giá tốt nhất nhé!
Mực Rim Me Đà Nẵng Bánh Khô Mè Đà Nẵng Món ăn Đà Nẵng cuối cùng mà bạn tuyệt đối không nên bỏ qua khi đến với Đà Nẵng đó là bánh khô mè Bà Liễu. Bánh khô mè đã có tuổi đời lâu năm và gắn liền với cuộc sống của người dân thành phố biến.  Khi thưởng thức, bạn sẽ cảm nhận được vị ngọt thanh của đường, vị bùi bùi của mè cùng độ giòn tan trong miệng. Tất cả sẽ tạo nên một trải nghiệm tuyệt vời mà bạn không thể quên. Đặc biệt, mỗi miếng bánh khô mè không chỉ mang đến hương vị thơm ngon mà còn gợi nhớ về hương vị quê hương, ấm áp và thân thuộc của người miền Trung. Hiện nay, bánh khô mè được bán ở hầu hết các khu chợ và cửa hàng đặc sản của Đà Nẵng. Vì thế, bạn có thể dễ dàng tìm thấy và ghé mua để mang về biếu cho gia đình, bạn bè, người thân. Bánh Khô Mè Đà Nẵng Mực Một Nắng Đà Nẵng Thơm Ngon Nếu bạn không thích món mực rim me với hương vị quá đậm, hãy thử mua mực một nắng để tự mình nướng lên và thưởng thức trong các buổi tụ họp cùng gia đình, bạn bè. Mực một nắng được làm từ những con mực tươi ngon, sau khi làm sạch sẽ phơi qua đúng một lần nắng để giữ nguyên được độ tươi ngon và dinh dưỡng của mực. Khi nướng lên, mực vẫn giữ được độ mềm, dai và ngọt tự nhiên. Ngoài ra, bạn cũng có thể dùng mực một nắng để chế biến ra các món ăn khác nhau như mực chiên, mực xào… Đây cũng là món đặc sản có thể mang về làm quà tại thành phố biển, nên đừng quên ghé chợ hoặc các khu bán đồ đặc sản để chọn mua loại tươi ngon nhất nhé. Mực Một Nắng Đà Nẵng Thơm Ngon Nước Mắm Nam Ô Đà Nẵng Nước mắm Nam Ô là một đặc sản nổi tiếng của Đà Nẵng, được du khách và người dân địa phương yêu thích bởi hương vị thơm ngon, đậm đà và giá trị truyền thống lâu đời. Nước mắm này được sản xuất tại làng nghề truyền thống Nam Ô, có lịch sử hơn 500 năm, lưu giữ bí quyết làm mắm độc đáo qua nhiều thế hệ. Cá cơm là nguyên liệu chính để làm nước mắm Nam Ô. Loại cá này được đánh bắt tươi ngon từ vùng biển Nam Ô, ngay sau khi bắt lên sẽ được mang đi làm mắm để đảm bảo chất lượng cao nhất. Tiếp theo, người ta sẽ ướp cá với muối biển tinh khiết để tạo nên vị mặn tinh khiết và đặc trưng. Để mua nước mắm Nam Ô chính gốc, bạn có thể ghé đến làng chài Nam Ô hoặc tìm mua tại những điểm bán đặc sản uy tín. Xem thêm tổng hợp 1000+ địa điểm du lịch nổi tiếng, siêu hấp dẫn trên đất nước Việt Nam hình chữ S ta! Nước Mắm Nam Ô Đà Nẵng Bên trên là 40+ món ăn Đà Nẵng mà bạn không thể bỏ lỡ khi có cơ hội đến với thành phố biển. Ngoài ra, đừng quên tham khảo các bài viết tiếp theo của Vivu Việt Nam để khám phá nền ẩm thực đặc trưng của mỗi vùng miền trên mảnh đất hình chữ S, bạn nhé!
0 notes
diadiemdiadanh04 · 4 months
Link
0 notes
thptngothinham · 2 months
Text
Phan tich bai tho Que huong, hướng dẫn lập dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và bài mẫu tham khảo phân tích bài Quê hương của Tế Hanh. Tài liệu hướng dẫn phân tích bài thơ Quê hương (Tế Hanh) của THPT Ngô Thì Nhậm gồm những gợi ý chi tiết giúp em làm tốt các bước phân tích đề, lập dàn ý và sơ đồ tư duy kèm theo một số mẫu bài văn tham khảo hay. I.Hướng dẫn phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh Đề bài: Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh. 1. Phân tích yêu cầu đề bài - Yêu cầu về nội dung: phân tích nội dung, nghệ thuật của bài thơ Quê hương - Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: các từ ngữ, chi tiết, hình ảnh tiêu biểu... trong bài thơ Quê hương (Tế Hanh) - Phương pháp lập luận chính: phân tích 2. Luận điểm bài thơ Quê hương - Luận điểm 1: Bức tranh làng quê miền biển. - Luận điểm 2: Cảnh lao động của người dân chài. + Cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá + Cảnh đoàn thuyền trở về sau một đêm đánh cá - Luận điểm 3: Nỗi nhớ da diết, tình cảm thắm thiết của tác giả với quê hương. 3. Kiến thức cần củng cố trước khi làm bài a) Kiến thức cơ bản về tác giả Tế Hanh - Tế Hanh (1921 - 2009), tên khai sinh là Trần Tế Hanh, sinh ra tại một làng chài ven biển tỉnh Quảng Ngãi. -  Ông là một nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến với nguồn cảm hứng lớn nhất chính là quê hương. - Năm 1938, ông viết bài thơ đầu tiên: "Những ngày nghỉ học" khi đó mới 17 tuổi. - Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I - Ông qua đời ngày 16/07/2009 tại Hà Nội sau nhiều năm chống chọi với căn bệnh xuất huyết não. - Tác phẩm chính: Những ngày nghỉ học (1938), Hoa niên (1945), Chuyện em bé cười ra đồng tiền (1960, thơ thiếu nhi), Thơ Tế Hanh (1989), Tuyển tập Tế Hanh, tập II (1997),... b) Kiến thức chung về tác phẩm Quê hương - Hoàn cảnh sáng tác: "Quê hương" được viết năm 1939, khi Tế Hanh đang học tại Huế trong nỗi nhớ quê hương - một làng chài ven biển tha thiết. Bài thơ được rút trong tập Nghẹn ngào (1939) và sau đó được in trong tập Hoa niên (1945) - Nội dung chính: Bài thơ Quê hương đã vẽ ra một bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển. Trong đó nổi bật lên hình ảnh khỏe khoắn, đầy sức sống của người dân chài và cảnh sinh hoạt lao động chài lưới. Qua đó cho thấy thấy tình cảm quê hương trong sáng, tha thiết của nhà thơ. - Đặc sắc nghệ thuật: Thể thơ tám tiếng với bút pháp lãng mạn; hình ảnh so sánh, nhân hoá, động từ, tính từ, từ láy, câu cảm thán; giọng thơ mượt mà, sâu lắng. >>> Tham khảo thêm tài liệu Giới thiệu về tác giả Tế Hanh và tác phẩm Quê hương để nắm được những kiến thức cơ bản nhất phục vụ việc phân tích bài thơ. c) Một số nhận xét về thơ văn Tế Hanh "Tế Hanh là một người tinh lắm, Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy được cả những điều không hình sắc, không thanh âm như mảnh hồn làng, trên cánh buồm giương, như tiếng hát của hương đồng quyến rũ, con đường quê nho nhỏ. Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi"... (Nhà phê bình văn học Hoài Thanh và Hoài Chân) "Ngay từ lúc xuất hiện trong phong trào Thơ Mới, thơ Tế Hanh đã là hiện tượng vì sự "mộc mạc, chân thành", vì sự "trong trẻo, giản dị như một dòng sông". (Nhà thơ Thanh Thảo) "Trong thơ Việt Nam tiền chiến, ông chưa bao giờ tạo được một sự hấp dẫn lạ lùng như Hàn Mặc Tử hoặc Nguyễn Bính, cũng không có lúc nào làm chủ thi đàn như Thế Lữ hoặc Xuân Diệu. Nhưng ông vẫn có chỗ của mình. Tập "Nghẹn ngào" từng được giải thưởng Tự Lực văn đoàn. Từ sau 1945, ông vẫn làm thơ đều đều, những tập thơ mỏng mảnh, giọng thơ không có gì bốc lên nồng nhiệt, nhưng được cái tình cảm hồn nhiên, và tập nào cũng có một ít bài đáng nhớ, khiến cho ngay sau Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu người ta nghĩ ngay đến Tế Hanh". (Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn) 4. Sơ đồ tư duy phân tích bài Quê hương Gợi ý phân tích bài thơ Quê hương bằng sơ đồ tư duy II. Lập dàn ý phân tích bài thơ Quê hương Dàn ý ngắn gọn Phân tích bài thơ Quê hương I. Mở bài - Giới thiệu khái quát về bài thơ "Quê hương" II. Thân bài * Hình ảnh quê hương trong nỗi nhớ của tác giả
- "Làng tôi" - cách gọi giản dị mà đầy thương yêu. - Vị trí của làng chài gần biển và sông. → Mô tả một làng chài ven biển tự nhiên và cụ thể. * Bức tranh lao động của làng chài - Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi - Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về + Không khí trở về + Hình ảnh người dân chài + Hình ảnh con thuyền * Nỗi nhớ quê hương da diết - Những hình ảnh, màu sắc bình dị, thân thuộc và đặc trưng thể hiện nỗi nhớ quê hương chân thành da diết và sự gắn bó sâu nặng với quê hương III. Kết bài Tổng kết giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm "Quê hương". Rút ra bài học Dàn ý chi tiết Phân tích bài thơ Quê hương 1. Mở bài phân tích Quê hương - Giới thiệu vài nét về nhà thơ Tế Hanh: + Tế Hanh (1921 - 2009) là một trong những nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam trong giai đoạn phong trào thơ mới cũng như giai đoạn thơ tiền chiến, tác giả của rất nhiều bài thơ về chủ đề quê hương đất nước. - Giới thiệu khái quát về bài thơ Quê hương: Bài thơ Quê hương đã vẽ ra một bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển bằng cảm xúc chân thành giản dị của Tế Hanh với quê hương. 2. Thân bài phân tích Quê hương * Khái quát về bài thơ - Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ viết năm 1939, khi Tế Hanh đang học tại Huế trong nỗi nhớ quê hương - một làng chài ven biển tha thiết. Bài thơ được rút trong tập Nghẹn ngào (1939) và sau đó được in trong tập Hoa niên (1945). - Mạch cảm xúc: Bài thơ đã được viết bằng tất cả tấm lòng yêu mến thiên nhiên thơ mộng và hùng tráng, yêu mến những con người lao động cần cù, tình yêu quê hương sâu sắc của nhà thơ. * Phân tích bài thơ Quê hương - Bức tranh làng quê miền biển trong nỗi nhớ của tác giả (2 câu đầu): "Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới Nước bao vây cách biển nửa ngày sông" + "Vốn làm nghề chài lưới": làng nghề truyền thống đánh bắt cá từ bao đời. + Vị trí địa lí: làng quê sát ngay bờ biển, “nước bao vây”. => Lời giới thiệu giản dị, mộc mạc không hoa mĩ, rườm rà thể hiện được sự gắn bó, hiểu biết cùng nỗi nhớ của đứa con xa quê đối với làng quê thân thuộc trong tâm tưởng. - Cảnh lao động của người dân làng chài (6 câu tiếp theo) + Cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá Thời gian bắt đầu: "Sớm mai hồng" => gợi niềm tin, hi vọngKhông gian: “trời xanh”, “gió nhẹ” => Không gian thiên nhiên hiền hòa, tươi sáng và tràn đầy sức sống hứa hẹn một chuyến ra khơi bình an, thuận lợi. "Dân trai tráng": hình ảnh con người hiện lên trong một vóc dáng khỏe khoắn, tràn đầy sinh lực.Chiếc thuyền “hăng như con tuấn mã”: phép so sánh thể hiện sự dũng mãnh của con thuyền khi lướt sóng ra khơi, sự hồ hởi, tư thế tráng sĩ của trai làng biển.“Cánh buồm như mảnh hồn làng”: phép ẩn dụ "cánh buồm" chính là linh hồn của làng chài, hồn quê hương cụ thể gần gũi, đó là biểu tượng của làng chài quê.Phép nhân hóa “rướn thân trắng” kết hợp với các động từ mạnh: con thuyền từ tư thế bị động thành chủ động. => Cảnh tượng lao động hăng say, hứng khởi tràn đầy sức sống. + Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về Không khí trở về: trên biển ồn ào, dân làng tấp nập, hớn hở với thành quả của một ngày đánh bắtHình ảnh người dân chài: làn da “ngăm rám nắng", thân hình “nồng thở vị xa xăm” -> Khỏe mạnh, đậm chất miền biển, đầy lãng mạn với “vị xa xăm” - vị của biển khơi, của muối, của gió biển - đặc trưng cho người dân chài.“con thuyền” được nhân hóa “im bến mỏi trở về nằm” kết hợp với nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác -> Con thuyền như một con người lao động, biết tự cảm nhận thân thể của mình sau một ngày lao động mệt mỏi."Nhờ ơn trời, biển lặng cá đầy khoang": người dân làng chài biết ơn mẹ thiên nhiên đã giúp đỡ để có một cuộc đánh bắt thuận lợi, mang về những thành quả tốt đẹp. -> Một nét đẹp trong phẩm chất của người dân chài. => Bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển và hình ảnh khỏe khoắn, tràn đầy sức sống, tinh thần lao động của người dân làng chài, gợi tả một cuộc sống bình yên, no ấm. - Nỗi nhớ da diết, tình cảm thắm thiết của tác giả với quê hương: + “màu nước xanh”, “cá bạc”, “chiếc buồm vôi”, “con thuyền rẽ sóng”,… -> Một loạt
các hình ảnh của làng quê được liệt kê thể hiện nỗi nhớ quê hương chân thành, da diết của tác giả. => Từng hình ảnh giản dị đời thường của quê hương khắc sâu trong tâm khảm của nhà thơ. "Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!" + “mùi nồng mặn”: mùi của biển khơi, cá tôm, mùi của con người là hương vị đặc trưng của quê hương miền biển. => Câu cảm thán không hề khoa trương mà mộc mạc chân tình như một lời nói thốt ra từ chính trái tim của người con xa quê với một tình yêu thủy chung, gắn bó với nơi đã bao bọc mình. 3. Kết bài phân tích Quê hương - Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ + Nội dung: Bài thơ đã vẽ ra một bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển. Trong đó nổi bật lên hình ảnh khỏe khoắn, đầy sức sống của người dân chài và cảnh sinh hoạt lao động chài lưới. Qua đó cho thấy tình cảm quê hương trong sáng, tha thiết của nhà thơ. + Đặc sắc nghệ thuật: Thể thơ tám chữ phóng khoáng, bộc lộ cảm xúc giản dị, tự nhiên; hình ảnh liên tưởng, so sánh, nhân hóa độc đáo; ngôn ngữ giản dị, mộc mạc; giọng điệu nhẹ nhàng, da diết; kết hợp các phương th���c miêu tả và biểu cảm, trữ tình; hình ảnh thơ giàu tính sáng tạo và gợi cảm. - Liên hệ với lòng yêu quê hương, đất nước. >>> Đọc thêm hướng dẫn soạn bài Quê hương để nắm rõ nội dung phân tích với từng luận điểm. Sau khi đã xây dựng được hệ thống dàn ý cơ bản cho bài văn, trước khi chắp bút viết thành bài hoàn chỉnh, các em có thể đọc tham khảo trước một số bài văn mẫu hay phân tích bài Quê hương dưới đây để mở rộng vốn từ cũng như rút kinh nghiệm về cách trình bày. III. Top 12 bài văn hay không trùng lặp phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh 1. Phân tích bài thơ Quê hương mẫu số 1 Quê hương là một nỗi niềm chung của những người xa quê, những người luôn mang trong lòng niềm nhớ và tình yêu với đất nước mình. Không chỉ riêng những người thường dân, mà ngay cả những nhà thơ thuộc phong trào Thơ Mới cũng tràn đầy nỗi nhớ về quê hương. Và một trong số đó là Tế Hanh, một nhà thơ đã viết nên tác phẩm đặc biệt mang tên "Quê hương", đưa người đọc lạc vào không gian biển cả và nhớ về mảnh đất quê hương. Bức tranh quê hương trong tâm trí của tác giả được khắc họa vô cùng sống động. Từ cách gọi đơn giản và trìu mến như "Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới", chúng ta được giới thiệu về một miền quê ven biển, nơi mà nghề chính của người dân là chài lưới. Đó là một miền đất tự nhiên tươi đẹp, cách biển nửa ngày sông. Những hình ảnh mơ hồ về làng chài nơi biển cả và sông cùng hòa quyện, mang lại một sự giới thiệu tự nhiên nhưng rất cụ thể về quê hương của tác giả. Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới  Nước bao vây cách biển nửa ngày sông Trong tác phẩm, chúng ta được tận mắt chứng kiến bức tranh lao động của làng chài. Cảnh thuyền đánh cá ra khơi được miêu tả với những chi tiết tinh tế. Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá. Thời gian bắt đầu từ "sớm mai hồng", mang đến sự hi vọng và niềm tin vào một ngày đầy thành công. Trời xanh và gió nhẹ trở thành nguyên liệu cho một buổi sáng đẹp trời, hứa hẹn một chuyến ra khơi đầy thắng lợi. Chiếc thuyền "hăng như con tuấn mã" lướt sóng ra khơi, tạo ra một hình ảnh dũng mãnh, tư thế tráng sĩ của những người trai làng biển. Cánh buồm trở thành biểu tượng linh hồn của làng chài, cùng với nghệ thuật ẩn dụ, chúng ta thấy sự sống động và hân hoan trong cảnh tượng lao động của những người chài. Mỗi động tác trên thuyền đều toát lên sự hăng say và hứng khởi. Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió… Trong cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về, tác giả tạo ra một không khí tưng bừng và sôi động. Trên biển, tiếng ồn ào và huyên náo lan tỏa khắp nơi, tạo nên một bầu không khí sống động. Dân làng tấp nập, nhộn nhịp, tất cả đều háo hức chờ đợi những tài sản từ biển cả. Những người chài tràn đầy niềm vui và biết ơn đối với biển cả đã ban cho họ những con cá tôm phong phú. Hình ảnh của người dân chài cũng được mô tả tinh tế.
Da ngăm rám nắng, nồng thở vị xa xăm, từng làn da và thịt thơm ngon của họ phản ánh vẻ đẹp khỏe khoắn, vạm vỡ. Con thuyền, trong tình trạng "im bến mỏi trở về nằm", như được nhân hóa, trở nên sống động và có hồn. Từ phép nhân hóa này, con thuyền cũng như một con người, cảm nhận được vị nắng gió xa xăm trong từng phần cơ thể. Tất cả những hình ảnh này tạo nên một bức tranh sinh động về một làng chài đầy ắp niềm vui, gợi tả một cuộc sống bình yên và no ấm. Sự da diết của nỗi nhớ quê hương được tác giả thể hiện qua những hình ảnh và màu sắc đặc trưng. Màu xanh của nước biển, màu bạc của cá tôm, màu vôi của cánh buồm, hình ảnh con thuyền và mùi mặn mòi của biển cả - tất cả đều là những biểu hiện chân thành và sâu sắc của nỗi nhớ về quê hương. Những hình ảnh và màu sắc đơn giản, bình dị nhưng thân thuộc, đặc trưng cho quê hương, đồng thời khắc sâu trong lòng người đọc một tình yêu và gắn bó không thể tả. Kết bài, tác phẩm "Quê hương" của Tế Hanh không chỉ có giá trị nội dung sâu sắc mà còn thể hiện một nghệ thuật tinh tế và cuốn hút. Bức tranh về quê hương trong tâm trí của tác giả được khắc họa một cách sống động và tài tình. Từ cách miêu tả chân thực, cảm xúc chân thành cho đến sử dụng các phép tu từ, nghệ thuật ẩn dụ và nhân hóa, Tế Hanh đã tạo ra một tác phẩm đầy màu sắc và cảm xúc. Ngoài việc tạo ra một bức tranh về quê hương đẹp đến nao lòng, tác phẩm còn chứa đựng một bài học quý giá về lòng yêu quê hương và đất nước. Tế Hanh gửi gắm thông điệp rằng trong trái tim mỗi người, tình yêu và gắn bó với quê hương là điều không thể tách rời. Những màu sắc, hình ảnh và kỷ niệm về quê hương sẽ luôn là nguồn cảm hứng và động lực để chúng ta gìn giữ và xây dựng đất nước mình. Với sự mê đắm và thu hút từ đầu đến cuối, tác phẩm "Quê hương" của Tế Hanh đã chinh phục lòng người đọc bằng những hình ảnh tươi đẹp và cảm xúc chân thành. Nó không chỉ là một bức tranh về quê hương mà còn là một tình khúc ca ngợi tình yêu và lòng trung thành với đất nước. Nhờ tài nghệ và tình cảm sâu sắc, tác phẩm đã để lại dấu ấn mãi mãi trong lòng người đọc, khơi gợi niềm tự hào và ý thức bảo vệ quê hương, đất nước của chúng ta. Qua bài thơ "Quê hương", chúng ta được nhắc nhở về giá trị vô cùng quan trọng của quê hương và đất nước. Đó là nơi gắn bó, nơi ta sinh ra, lớn lên và trưởng thành. Đất nước không chỉ là một miền đất, mà còn là nơi chúng ta gửi gắm những giá trị tâm hồn và những kỷ niệm đẹp nhất. Hãy trân trọng và yêu quý quê hương, đất nước của mình, để chúng ta cùng nhau xây dựng và phát triển, truyền lại những giá trị tốt đẹp cho thế hệ sau. Tham khảo thêm: Phân tích tình yêu quê hương đất nước qua bài Quê hương của Tế Hanh để hiểu rõ hơn tình cảm sâu sắc của tác giả với quê hương, đất nước mình. 2. Phân tích bài thơ Quê hương mẫu số 2 Ai trong đời cũng có một mảnh đất chôn nhau cắt rốn. Dù như con chim non sớm lạc bay hay cánh đại bàng đã vút bay lên, hỏi ai mà không một lần tưởng nhớ về nơi ấy? Đã có rất nhiều nhà thơ sáng tác về quê hương, nhưng bài thơ Quê hương của Tế Hanh thực sự là một bài thơ cảm động. Bài thơ được tác giả viết năm 1938, khi ông mới 17 tuổi, phải xa quê vào Huế học tập. Bài thơ là nỗi nhớ nhà, nhớ quê da diết cùng những người dân thân thiết và bình dị! Bài thơ đau đáu, rưng rưng như một tiếng gọi mẹ âm thầm. Mở đầu bài thơ là những hồi ức thật trong sáng hồn nhiên: "Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới  Nước bao vây cách biển nửa ngày sông" Quê ông như một cù lao nổi giữa bốn bề sông nước. Dân làng ông gắn chặt đời mình với biển cả thiên nhiên đầy dữ dội. Đây là một làng nghèo giống như bao làng biển khác, nhưng khi xa rồi, nỗi nhớ đến quặn lòng: "Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng  Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá  Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã  Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang  Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng  Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…" Qua đoạn thơ này, tác giả đã sử dụng những sắc màu thật tươi thắm để phác họa một bức tranh quê vui tươi mộc mạc: bầu trời trong vắt, nắng hồng, gió nhẹ.
Những chàng trai lực lưỡng trẻ trung giong thuyền ra khơi như chàng Gióng cưỡi ngựa ra trận mạc. Những từ thật đắt được sử dụng cùng âm điệu liên tiếp nhau: "hăng, phăng, giang, làng..." tạo thành một âm thanh ngân nga mênh mông giữa biển rộng trời cao. Một cảnh lao động vừa yên bình, lại vừa mạnh mẽ biết bao! Hình như ở đó ẩn chứa bao niềm kiêu hãnh và tự hào về quê hương thân yêu: "Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng  Rướn thân trắng bao la thâu góp gió" Vâng, mảnh hồn làng nghe khiêm tốn bao nhiêu, thì cái khả năng "thâu góp gió" của làng chài ấy lại lớn lao kì vĩ bấy nhiêu. Hình ảnh cánh buồm là một hình ảnh hữu hình, được đem ví với một "mảnh hồn làng" vừa thiêng liêng, lại vừa trừu tượng. Ở đ��y, tác giả không nói đến một vị thần "hoàng làng" hay một cá nhân nào, chỉ duy nhất một danh từ độc đáo được nhắc đến là: "mảnh hồn làng" nghe thật lạ lùng, trữ tình, tha thiết và thiêng liêng biết bao! Cánh buồm từ một vật vô tri đã được biến thành một vật thể mới, có tâm hồn riêng, có sức sống riêng, và là sức sống của cả một làng quê hun đúc lại! Cảnh ra khơi lãng mạn như một bức tranh thắm sắc, như một bài thơ đượm màu lãng mạn, thì cảnh đoàn thuyền trở về lại ồn ào một không khí ấm no: "Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ  Khắp dân làng tấp nập đón ghe về Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe  Những con cá tươi ngon thân bạc trắng." Có lẽ hình ảnh này là niềm ước mong của toàn dân chài. Người ra biển và người đón thuyền đều chỉ có một ước mong: "nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe". Hỏi có niềm vui nào hơn là biển êm, sóng lặng không có phong ba bão tố, không có hiểm nguy giữa trùng dương. Với cánh buồm mong manh chẳng chút tối tân, dân chài đã phó mặc tất cả sinh mệnh mình cho đại dương suốt mấy ngày đi biển. Cái kết quả sau cùng thật bí ẩn, thật quyết định cho hạnh phúc của làng chài: cá đầy ắp khoang thuyền! Chẳng còn sự sung sướng nào hơn, tác giả thốt lên một câu thơ, như thay mặt cả làng, cảm tạ ơn trời đất, như tiếng reo mừng của người em nhỏ, người vợ hiền: "Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe". Cũng trong niềm vui đoàn tụ ấy, nhà thơ đã thật sự xúc động trước vẻ đẹp của những chàng trai quanh năm vật lộn với phong ba bão tố: "Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng  Cả thân hình nồng thở vị xa xăm" Và chiếc thuyền thân yêu cũng như một chiến binh mệt mỏi sau một trận chiến hào hùng với nhiều công trạng: "Chiếc thuyền im, bến mỏi trở về nằm  Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ" Tế Hanh tả tâm trạng của "chiếc thuyền" mà sao ta cứ ngỡ như tác giả tả một chú ngựa ngoan cường dũng mãnh? Câu thơ như một bàn tay vuốt ve chú ngựa, vuốt ve con thuyền với tấm lòng trìu mến, ánh mắt biết ơn. Cảm xúc chưa hết dạo dào yêu thương trong đoạn trên, tác giả lại cho chúng ta một cảm giác nhung nhớ xót xa vì xa xôi cách trở: "Nay xa cách, lòng tôi luôn tưởng nhớ  Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi  Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi  Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá." Nỗi nhớ trong lòng tác giả chẳng diễn đạt bằng những từ lớn lao, mà chỉ bằng một cảm xúc giản dị: "Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá" "Cái mùi nồng mặn" ấy nghe thật là chân quê, nhưng đó là những từ chân thành nhất, chính xác nhất nếu ai đã từng ngửi mùi cá tươi trên biển, mùi muối đang khô. Đó là tất cả cảm xúc yêu quê hương của một tâm hồn thơ lúc mười bảy tuổi. Một tài năng thơ đã sớm phát tiết và lưu lại cho chúng ta một bài thơ dạt dào cảm xúc về một vùng quê biển bình yên. Có lẽ khi tha hương, ai nhớ về quê hương, cũng nhớ những phút giây bình yên nơi đó, để mà thương yêu, để mà nuối tiếc. Có phải thế không? 3. Phân tích bài thơ Quê hương mẫu số 3 Quê hương là nguồn cảm hứng lớn suốt đời thơ của Tế Hanh. Dưới ngòi bút của ông, nguồn cảm hứng này đã tạo thành một dòng chảy tâm tình với nhiều bài thơ nổi tiếng. Bài thơ "Quê hương" được sáng tác năm 1939, in trong tập thơ "Hoa niên", là tác phẩm mở đầu cho mạch cảm hứng viết về đề tài này của ông. Gói ghém trong bài thơ là lời yêu, nỗi nhớ và niềm tự hào tha thiết chân thành của Tế Hanh về sông nước quê hương mình. Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh quê hương hiện lên trong nỗi nhớ của người con xa quê.
Nổi bật trong bức tranh quê hương là làng chài ven biển tươi sáng, đẹp đẽ, sống động, cùng với hình ảnh những người ngư dân lao động khỏe khoắn tươi vui trong công việc của chính mình. Trước hết, hai câu thơ mở đầu là lời giới thiệu về quê hương của nhà thơ: Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới: Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông. Lời thơ ngắn gọn, tự nhiên như một câu văn xuôi thông thường nhưng đã giới thiệu một cách đầy đủ từ công việc thường làm đến vị trí của "làng tôi". Đó là một làng nghề chài lưới ven biển xinh xắn với con sông Trà Bồng thơ mộng uốn khúc, bao quanh. Người đọc nhận ra trong lời kể hàm chứa một nỗi xúc động nghẹn ngào và nỗi nhớ nhung da diết của một người con xa xứ. Và từ đó, hình ảnh làng chài quê hương cứ lần lượt hiện lên như một thước phim quay chậm trong tâm trí, chiếm lĩnh tâm hồn của nhà thơ. Nhớ về quê hương, ấn tượng đẹp và in sâu đậm nhất trong lòng Tế Hanh đó là hình ảnh về những con người lao động đang giong thuyền ra khơi đánh bắt cá:    Khi trời trong, gió nhẹ sớm mai hồng    Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.    Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã    Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang. Khung cảnh của biển cả thiên nhiên hiện lên thật nhẹ nhàng, thơ mộng. Ánh mặt trời mới nhô lên khỏi mặt biển, ánh nắng hồng dịu nhẹ trải khắp muôn nơi. Và khi ấy, những người ngư dân lại bắt đầu cuộc hành trình lao động của chính mình. Họ bắt đầu nhổ neo, đẩy thuyền tiến ra khơi xa. Nghệ thuật so sánh, kết hợp với những động từ mạnh như "hăng", "phăng", "vượt" không chỉ cho thấy sức mạnh khỏe khoắn, đầy tự tin của chiếc thuyền khi ra khơi mà còn thể hiện khí thế hăng hái, căng tràn sinh lực và cả sự hăng say trong lao động của những con người làm chủ vũ trụ, làm chủ biển lớn đại dương mênh mông. Khi ấy, con thuyền hiện lên thật chứa chan sức sống, tâm hồn của làng chài ven sông:    Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng    Rướn thân trắng bao la thâu góp gió... Cánh buồm được gió trời thổi căng như chứa đựng cả hồn thiêng quê hương, ẩn chứa trong đó biết bao nhiêu là niềm tin, sự hi vọng của những người ngư dân về một cuộc thủy trình đánh bắt cá bình yên và thu được những mẻ lưới bội thu. Động từ "rướn" vừa cho thấy sự khéo léo, uyển chuyển linh hoạt; lại vừa cho thấy sức mạnh vươn lên, rướn cao lên cùng mây gió của con thuyền khi ra khơi. Vì thế, con thuyền như càng trở nên kì vĩ hơn, lớn lao hơn và hùng tráng hơn trước vụ trụ thiên nhiên. Chắc hẳn phải có một tâm hồn lãng mạn, sức liên tưởng dồi dào cùng với tình yêu quê hương sâu sắc thì Tế Hanh mới có được những cảm nhận độc đáo về "mảnh hồn làng" trên "cánh buồm giương to" đến như vậy. Đến khổ ba, cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong niềm náo nức, phấn khởi, tấp nập, đông vui: Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ    Khắp dân làng tấp nập đón ghe về    Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe    Những con cá tươi ngon thân bạc trắng. Dưới ngòi bút tài hoa của Tế Hanh, bức tranh lao động hiện lên thật chân thực, khỏe khoắn, náo nhiệt, đầy ắp tiếng cười nói của con người. Và người ngư dân hiện lên thật hồn hậu, chất phác khi gửi lời biết ơn chân thành tới người mẹ biển khơi đã che chắn, bảo vệ và cho họ một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Lời thơ như thể hiện niềm vui tràn đầy, ngây ngất của Tế Hanh như đang cùng với ngư dân quê mình hát lên bài ca lao động. Trong niềm phấn khởi, say mê và niềm tự hào về người lao động, nhà thơ đã viết lên hai câu thơ thật đẹp về người ngư dân: Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng Cả thân hình nồng thở vị xa xăm. Vẻ đẹp ngoại hình với làn da ngăm đen rám nắng với những bắp thịt cuồn cuộn, rắn rỏi, mạnh mẽ đã tạo nên một thần thái phong trần, dẻo dai, kiên cường khi làm chủ biển khơi của họ. Chính cái vị mặn mòi của muối biển, nồng đượm đã thấm sâu trong từng thớ thịt, từng hơi thở của người dân làng chài. Cụm từ "vị xa xăm" còn gợi lên hơi thở của đại dương mênh mông, của lòng biển sâu, của những chân trời tít tắp, của phong ba dữ dội. Cho nên, người ngư dân hiện lên như những chiến binh, những người anh hùng phi thường, kì diệu.
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ. Nghệ thuật nhân hóa đã thổi hồn cho con thuyền vô tri, vô giác. Những động từ chỉ trạng thái: "im, mỏi, trở về, nằm, nghe" khiến cho con thuyền hiện lên như con người, biết nghỉ ngơi, thư giãn sau một hành trình ra khơi vất vả. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác qua động từ "nghe" đã làm cho con thuyền có tâm hồn, có suy nghĩ như đang tự cảm nhận "chất muối" - hương vị biển cả quê hương đang dần thấm vào cơ thể. Phải chăng sự cảm nhận đó của con thuyền cũng chính là sự cảm nhận con người ngư dân nơi đây, đó là vẻ đẹp tâm hồn mặn mà, nồng hậu, chan chứa tình yêu thương luôn tồn tại trong họ. Chắc hẳn Tế Hanh phải là một người con đằm cả hồn mình vào quê hương với tình yêu quê da diết thì mới có thể có được những cảm nhận sâu sắc đến như thế. Khép lại bài thơ là lời bộc bạch chân thành về nỗi nhớ làng da diết, khôn nguôi: Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi, Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi, Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá! Lúc viết bài thơ này, Tế Hanh khi ấy mới 18 tuổi, còn rất trẻ và đang phải xa quê hương - nơi gắn bó với biết bao nhiêu kỉ niệm của tuổi thơ. Có lẽ vì thế mà nỗi nhớ quê luôn trở đi trở lại trong tâm hồn nhạy cảm của ông. Điệp khúc "luôn tưởng nhớ", "tôi thấy nhớ" đã diễn tả tấm lòng tha thiết, thành thực về làng quê với cả hình ảnh, màu sắc và hương vị của Tế Hanh. Tất cả đều khắc sâu, in đậm mà không bao giờ có thể quên đi được đối với người con xa xứ này. Về mặt nghệ thuật, bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa miêu tả và biểu cảm. Nếu như miêu tả được thể hiện ở hệ thống hình ảnh, từ ngữ phong phú, gợi hình, với một loạt các nghệ thuật so sánh, nhân hóa, ẩn dụ... đã góp phần tái hiện một bức tranh rộng lớn về làng chài ven sông: rộn rã, náo nức, khỏe khoắn, lãng mạn thì phương thức biểu cảm lại điễn tả thật cảm động nỗi nhớ, tình yêu và niềm tự hào sâu sắc của nhà thơ đối với quê hương, xứ xở. Đặt bài thơ vào trong dòng chảy của phong trào thơ Mới, chúng ta mới thấy hết được cái độc đáo, cái khác biệt và giá trị của bài thơ. Nếu như các nhà thơ mới cùng thời đang say sưa trong tháp ngà cá nhân, bi lụy, trốn tránh thực tại thì Tế Hanh lại hướng hồn thơ của mình đến quê hương, với một tình yêu tha thiết, chân thành. Đó là trái tim thổn thức của một người con xa quê, luôn một lòng thủy chung, như nhất tới quê hương xứ xở. Tóm lại, với vần thơ bình dị mà gợi cảm, bài thơ "Quê hương" của Tế Hanh đã vẽ ra một bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển, trong đó nổi bật lên hình ảnh khỏe khoắn, đầy sức sống của người dân chài và sinh hoạt lao động làng chài. Bài thơ cho thấy tình cảm quê hương trong sáng, tha thiết của nhà thơ. 4. Phân tích bài thơ Quê hương mẫu số 4 Quê hương là nguồn cảm hứng vô tận của nhiều nhà thơ Việt Nam và đặc biệt là Tế Hanh - một tác giả có mặt trong phong trào Thơ mới và sau cách mạng vẫn tiếp tục sáng tác dồi dào. Ông được biết đến qua những bài thơ về quê hương miền Nam yêu thương với tình cảm chân thành và vô cùng sâu lắng. Ta có thể bắt gặp trong thơ ông hơi thở nồng nàn của những người con đất biển, hay một dòng sông đầy nắng trong những buổi trưa gắn với tình yêu quê hương sâu sắc của nhà thơ. Bài thơ “Quê hương” là kỉ niệm sâu đậm thời niên thiếu, là tác phẩm mở đầu cho nguồn cảm hứng về quê hương trong thơ Tế Hanh, bài thơ đã được viết bằng tất cả tấm lòng yêu mến thiên nhiên thơ mộng và hùng tráng, yêu mến những con người lao động cần cù. Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ phối hợp cả hai kiểu gieo vần liên tiếp và vần ôm đã phần nào thể hiện được nhịp sống hối hả của một làng chài ven biển: Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới Nước bao vây cách biển nửa ngày sông Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá. Quê hương trong tâm trí của những người con Việt Nam là mái đình, là giếng nước gốc đa, là canh rau muống chấm cà dầm tương. Còn quê hương trong tâm tưởng của Tế Hanh là một làng chài nằm trên cù lao giữa sông
và biển, một làng chài sóng nước bao vây, một khung cảnh làng quê như đang mở ra trước mắt chúng ta vô cùng sinh động: “Trời trong - gió nhẹ - sớm mai hồng”, không gian như trải ra xa, bầu trời như cao hơn và ánh sáng tràn ngập. Bầu trời trong trẻo, gió nhẹ, rực rỡ nắng hồng của buổi bình minh đang đến là một báo hiệu cho ngày mới bắt đầu, một ngày mới với bao nhiêu hi vọng, một ngày mới với tinh thần hăng hái, phấn chấn của biết bao nhiêu con người trên những chiếc thuyền ra khơi: Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang Nếu như ở trên là miêu tả vào cảnh vật thì ở đây là đặc tả vào bức tranh lao động đầy hứng khởi và dạt dào sức sống. Con thuyền được so sánh như con tuấn mã làm cho câu thơ có cảm giác như mạnh mẽ hơn, thể hiện niềm vui và phấn khởi của những người dân chài. Bên cạnh đó, những động từ “hăng”, “phăng”, “vượt” diễn tả đầy ấn tượng khí thế băng tới vô cùng dũng mãnh của con thuyền toát lên một sức sống tràn trề, đầy nhiệt huyết. Vượt lên sóng. Vượt lên gió. Con thuyền căng buồm ra khơi với tư thế vô cùng hiên ngang và hùng tráng: Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió… Từ hình ảnh của thiên nhiên, tác giả đã liên tưởng đến “hồn người”, phải là một tâm hồn nhạy cảm trước cảnh vật, một tấm lòng gắn bó với quê hương làng xóm Tế Hanh mới có thể viết được như vậy. Cánh buồm trắng vốn là hình ảnh quen thuộc nay trở nên lớn lao và thiên nhiên. Cánh buồm trắng thâu gió vượt biển khơi như hồn người đang hướng tới tương lai tốt đẹp. Có lẽ nhà thơ chợt nhận ra rằng linh hồn của quê hương đang nằm trong cánh buồm. Hình ảnh trong thơ trên vừa thơ mộng vừa hoành tráng, nó vừa vẽ nên chính xác hình thể vừa gợi được linh hồn của sự vật. Ta có thể nhận ra rằng phép so sánh ở đây không làm cho việc miêu tả cụ thể hơn mà đã gợi ra một vẻ đẹp bay bổng mang ý nghĩa lớn lao. Đó chính là sự tinh tế của nhà thơ. Cũng có thể hiểu thêm qua câu thơ này là bao nhiêu trìu mến thiêng liêng, bao nhiêu hy vọng mưu sinh của người dân chài đã được gửi gắm vào cánh buồm đầy gió. Dấu chấm lửng ở cuối đoạn thơ tạo cho ta ấn tượng của một không gian mở ra đến vô cùng, vô tận, giữa sóng nước mênh mông, hình ảnh con người trên chiếc tàu nhỏ bé không nhỏ nhoi đơn độc mà ngược lại thể hiện sự chủ động, làm chủ thiên nhiên của chính mình. Cả đoạn thơ là khung cảnh quê hương và dân chài bơi thuyền ra đánh cá, thể hiện được một nhịp sống hối hả của những con người năng động, là sự phấn khởi, là niềm hi vọng, lạc quan trong ánh mắt từng ngư dân mong đợi một ngày mai làm việc với bao kết quả tốt đẹp: Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ Khắp dân làng tấp nập đón ghe về Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe Những con cá tươi ngon thân bạc trắng. Những tính từ “ồn ào”, “tấp nập” toát lên không khí đông vui, hối hả đầy sôi động của cánh buồm đón ghe cá trở về. Người đọc như thực sự được sống trong không khí ấy, được nghe lời cảm tạ chân thành đất trời đã sóng yên, biển lặng để người dân chài trở về an toàn và cá đầy ghe, được nhìn thấy “những con cá tươi ngon thân bạc trắng”. Tế Hanh không miêu tả công việc đánh bắt cá như thế nào nhưng ta có thể tưởng tượng được đó là những giờ phút lao động không mệt mỏi để đạt được thành quả như mong đợi. Sau chuyến ra khơi là hình ảnh con thuyền và con người trở về trong ngơi nghỉ: Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng Cả thân hình nồng thở vị xa xăm Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ. Có thể nói rằng đây chính là những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của bài thơ. Với lối tả thực, hình ảnh “làn da ngăm rám nắng” hiện lên để lại dấu ấn vô cùng sâu sắc thì ngay câu thơ sau lại tả bằng một cảm nhận rất lãng mạn “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm” - thân hình vạm vỡ của người dân chài thấm đẫm hơi thở của biển cả nồng mặn vị muối của đại dương bao la. Cái độc đáo của câu thơ là gợi cả linh hồn và tầm vóc của con người biển cả. Hai câu thơ miêu tả về con thuyền nằm im trên bến đỗ cũng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Nhà thơ không chỉ thấy con thuyền nằm im trên bến mà còn thấy cả sự mệt mỏi của nó.
Cũng như dân chài, con thuyền có vị mặn của nước biển, con thuyền như đang lắng nghe chất muối của đại dương đang thấm trong từng thớ vỏ của nó. Thuyền trở nên có hồn hơn, nó không còn là một vật vô tri vô giác nữa mà đã trở thành người bạn của ngư dân. Không phải người con làng chài thì không thể viết hay như thế, tinh như thế, và cũng chỉ viết được những câu thơ như vậy khi tâm hồn Tế Hanh hòa vào cảnh vật cả hồn mình để lắng nghe. Ở đó là âm thanh của gió rít nhẹ trong ngày mới, là tiếng sóng vỗ triều lên, là tiếng ồn ào của chợ cá và là những âm thanh lắng đọng trong từng thớ gỗ con thuyền. Có lẽ, chất mặn mòi kia cũng đã thấm sâu vào da thịt nhà thơ, vào tâm hồn nhà thơ để trở thành nỗi niềm ám ảnh gợi bâng khuâng kì diệu. Nét tinh tế, tài hoa của Tế Hanh là ông “nghe thấy cả những điều không hình sắc, không âm thanh như “mảnh hồn làng” trên “cánh buồm giương”… Thơ Tế Hanh là thế giới thật gần gũi, thường ta chỉ thấy một cách lờ mờ, cái thế giới tình cảm ta đã âm thầm trao cảnh vật: sự mỏi mệt, say sưa của con thuyền lúc trở về bến…” Nói lên tiếng nói từ tận đáy lòng mình là lúc nhà thơ bày tỏ tình cảm của một người con xa quê hướng về quê hương, về đất nước: Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ Màu nước xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá Nếu không có mấy câu thơ này, có lẽ ta không biết nhà thơ đang xa quê, ta thấy được một khung cảnh vô cùng sống động trước mắt chúng ta, vậy mà nó lại được viết ra từ tâm tưởng một cậu học trò, từ đó ta có thể nhận ra rằng quê hương luôn nằm trong tiềm thức nhà thơ, quê hương luôn hiện hình trong từng suy nghĩ, từng dòng cảm xúc. Nỗi nhớ quê hương thiết tha bật ra thành những lời nói vô cùng giản dị: “Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá”. Quê hương là mùi biển mặn nồng, quê hương là con nước xanh, là màu cá bạc, là cánh buồm vôi. Màu của quê hương là những màu tươi sáng nhất, gần gũi nhất. Tế Hanh yêu nhất những hương vị đặc trưng quê hương đầy sức quyến rũ và ngọt ngào. Chất thơ của Tế Hanh bình dị như con người ông, bình dị như những người dân quê ông, khoẻ khoắn và sâu lắng. Từ đó toát lên bức tranh thiên nhiên tươi sáng, thơ mộng và hùng tráng từ đời sống lao động hàng ngày của người dân. Bài thơ đem lại ấn tượng khó phai về một làng chài cách biển nửa ngày sông, lung linh sóng nước, óng ả nắng vàng. Dòng sông, hồn biển ấy đã là nguồn cảm hứng theo mãi Tế Hanh từ thuở “hoa niên” đến những ngày tập kết trên đất Bắc. Vẫn còn đó tấm lòng yêu quê hương sâu sắc, nồng ấm của một người con xa quê: Tôi dang tay ôm nước vào lòng Sông mở nước ôm tôi vào dạ Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả Kẻ sớm hôm chài lưới ven sông Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến Nhưng lòng tôi như mưa nguồn gió biển Vẫn trở về lưu luyến bến sông (Nhớ con sông quê hương – 1956) Với tâm hồn bình dị, Tế Hanh xuất hiện trong phong trào Thơ mới nhưng lại không có những tư tưởng chán đời, thoát li với thực tại, chìm đắm trong cái tôi riêng tư như nhiều nhà thơ thời ấy. Thơ Tế Hanh là hồn thi sĩ đã hòa quyện cùng với hồn nhân dân, hồn dân tộc, hoà vào “cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”. “Quê hương” - hai tiếng thân thương, quê hương - niềm tin và nỗi nhớ ùa trong tâm tưởng người con đất Quảng Ngãi thân yêu - Tế Hanh - đó là những gì thiêng liêng nhất, tươi sáng nhất. Bài thơ với âm điệu khoẻ khoắn, hình ảnh sinh động tạo cho người đọc cảm giác hứng khởi, ngôn ngữ giàu sức gợi vẽ lên một khung cảnh quê hương “rất Tế Hanh”. Văn mẫu tham khảo: Giới thiệu về tác giả Tế Hanh và bài thơ Quê hương 5. Phân tích bài thơ Quê hương - mẫu số 5 Quê hương luôn là đề tài không bao giờ cạn kiệt đối với các thi sĩ. Mỗi người có một cách nhìn, cách cảm nhận riêng, đặc trưng về quê hương của mình. Chúng ta bắt gặp những bài thơ viết về quê hương của Đỗ Trung Quân, Giang Nam, Tế Hanh. Trong đó sự nhẹ nhàng, mộc mạc của bài “Quê hương” tác giả Tế Hanh khiến người đọc xốn xang khi nhớ về nơi đã chôn rau cắt rốn, nơi nuôi dưỡng tâm hồn của mình.
“Quê hương” là hai tiếng thân thương, được tác giả dùng làm nhan đề của bài thơ. Mở đầu bài thơ bằng sự mộc mạc, chân thành mà sâu sắc: Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới Nước bao vây cách biển nửa ngày sông Hai câu thơ như một lời kể tâm tình rất đỗi bình dị nhưng đã khiến người đọc hình dung được mảnh đất mà tác giả đáng sống là một vùng biển có truyền thống lâu đời làm nghề chài lưới. Một ngôi làng giản dị, chân chất. Hình ảnh “nước”, “biển” rất đặc trưng cho một vùng quê làng biển. Có lẽ những điều bình dị đó khiến cho tác giả vẫn luôn mong ngóng, nhớ nhung khi xa quê hương. Những câu thơ tiếp theo gợi tả lên một khung cảnh tuyệt đẹp mỗi khi sáng mai thức dậy. Sự tinh tế của ngôn từ và cảm xúc khiến cho vần thơ trở nên trữ tình, tuyệt đẹp: Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá. Một loạt từ ngữ mang tính chất liệt kê khung cảnh, không gian thanh bình, tươi đẹp của cảnh biển vào buổi sáng như: “gió nhẹ”, “sớm mai hồng” là những gì còn neo giữ trong lòng của tác giả khi nhớ về quê hương. Và một hoạt động vẫn diễn ra đầu ngày là “bơi thuyền đi đánh cá” được tác giả vẽ nên rất nhẹ nhàng nhưng khỏe khoắn. Chiếc thuyền hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang Nếu những câu thơ trên nhẹ nhàng, tinh tế bao nhiêu thì hai câu thơ này càng mạnh mẽ, quyết liệt và khỏe khoắn bao nhiêu. Với hai động từ “hăng”, “phăng” kết hợp với phép so sánh độc đáo khiến cho bức tranh đi đánh cá trở nên giàu chất tạo hình, giàu đường nét và giàu cá tính mạnh. Với động từ “phăng” đã phần nào gợi tả lên sự khéo léo kết hợp sự tinh tế và khỏe mạnh của những người dân vùng chài lưới. Hai câu sau lại trở về với vẻ lãng mạn đến bất ngờ: Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió Một hình ảnh bình dị, thân quen như cánh buồm nhưng trong thơ của Tế Hanh lại có hồn, đậm chất thơ. Phép so sánh cánh buồm “như mảnh hồn làng” có sức gợi rất sâu sắc, bởi rằng đối với những người làm nghề chài lưới thì cánh buồm chính là biểu tượng cho cuộc sống của họ. Một sự so sánh hữu hình và vô hình đã làm nên sự sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời. Con thuyền đã mang theo cả tin yêu, hạnh phúc và hi vọng của những người dân nơi đây. Câu thơ khỏe khoắn và tự nhiên đã phần nào làm toát lên được khí thế hào hùng trong công cuộc chinh phục biển khơi. Tế Hanh đã miêu tả nên một bức tranh thiên nhiên và bức tranh lao động sáng tạo tuyệt vời nhất. Đó là niềm tự hào, sự ca ngợi quê hương, đất nước. Đặc biệt, khung cảnh dân chài lưới chào đón thành quả sau một ngày căng thẳng vất vả được miêu tả chân thực và đầy niềm vui: Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ Khắp dân làng tấp nập đón ghe về Nhờ ơn giời biển lặng cá đầy ghe Những con cá tươi ngon thân bạc trắng Hình ảnh dân làng “ồn ào”, “tấp nập” đã phần nào tái hiện được không khí vui tươi và phấn khởi của người dân chài sau một ngày hoạt động hết công suất. Những con cá “tươi ngon” nằm im lìm là những thành quả mà họ đạt được. Và có lẽ hình ảnh con người mạnh mẽ, khỏe khoắn là hình ảnh trung tâm không thể thiếu trong bức tranh ấy: Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng Cả thân hình nồng thở vị xa xăm Hình ảnh thơ mặn mòi, đậm chất biển, vừa khỏe khoắn, vừa chân chất vừa mộc mạc toát lên được vẻ đẹp của những con người vùng biển quanh năm vất vả. Tế Hanh đã phát hiện ra vẻ đẹp tiềm ẩn đó như một điều bình dị trong cuộc sống này. Và có lẽ những hình ảnh thân quen nơi làng quê ấy đã khiến cho Tế Hanh dù đi xa nhưng vẫn không thể nào quên, vẫn nhớ về đau đáu: Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ Màu nước xanh cá bạc chiếc buồm vôi Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá. Một khổ thơ dạt dào tình cảm, nghèn nghẹn ở trong trái tim tác giả khi nhớ về mảnh đất thân yêu một thời. Nỗi nhớ quê dạt dào không nguôi khi những hình ảnh thân quen ấy cứ ùa về. Thật vậy bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh không chỉ là riêng tình cảm của tác giả dành cho quê hương; mà bài thơ này còn nói hộ rất nhiều tấm lòng khác đang ở xa quê hương. Chúng ta càng trân trọng hơn nữa mảnh đất chôn rau cắt rốn, yêu hơn nữa những điều bình dị nhưng thiêng liêng.
6. Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh mẫu số 6 Quê hương – bến đỗ bình yên nhất trong cuộc đời của mỗi con người. Dù có đi đâu xa, trôi dạt giữa dòng đời tấp nập thì sâu thẳm trái tim vẫn luôn mong ngóng và trở về quê hương. Với nhà thơ Tế Hanh cũng vậy, cũng dạt dào và cháy bỏng một tình yêu với nơi chôn rau cắt rốn. Để rồi bài thơ “Quê Hương” ra đời như là một sự tất yếu của tâm hồn giàu cảm xúc của một người con xa quê. Đó là cảm giác nhớ nhung da diết và cháy bỏng của một chàng thanh niên 18 tuổi.Nỗi nhớ cái mùi nồng mặn của biển khơi.Cái vị mặn đặc trưng đó đã theo nhà thơ suốt cả cuộc đời. Mở đầu bài thơ, ngay ở dưới nhan đề, Tế Hanh đã vô cùng khéo léo khi thêm vào một câu đề từ trích dẫn: “Chim bay dọc biển mang tin cá.” Một hình ảnh hiện lên thật đẹp và nên thơ, giữa một vùng biển bao la và rộng lớn ấy xuất hiện những cánh chim bay lượn. Khung cảnh vùng quê vẽ ra trước mắt chúng ta thật yên bình. Tuy nhiên giá trị mà câu đề từ nhà thơ trích vào đây không phải nằm ở hình ảnh mà là ý nghĩa vô cùng đặc biệt ẩn đằng sau đó. Ở đây nhà thơ đang nhắc tới một kinh nghiệm ngàn đời của những người ngư dân. Nhìn đàn chim bay lượn để dự đoán thời tiết. Biển động hay sóng êm để người dân xem xét trước lúc ra khơi. Nếu như những cánh chim ấy thong dong bay lượn thì ngư dân có thể yên tâm ra khơi. Còn nếu cánh chim bay vội vã thì có thể ngoài kia biển đang động, sóng to gió lớn, người đi biển phải hết sức cẩn thận và lưu tâm. Sự hiểu biết cụ thể và tường tận như vậy chỉ có thể là người sinh ra từ vùng biển, gắn bó với biển khơi. Bởi vì gắn bó như vậy nên khi đi xa những hình ảnh vô cùng thân quen ấy bỗng ùa về, trỗi dậy như đang hiện lên trước mắt nhà thơ. Ông giới thiệu về quê hương của ông bằng hai câu vô cùng ngắn gọn: “Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới. Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.” Phân tích bài thơ quê hương “Làng tôi” – làng chài bên cù lao sông Trà Bồng ấy vốn làm nghề chài lưới. Nghề đi biển như đã có ở đây từ ngàn đời. Một sự giới thiệu trực tiếp và ngắn gọn để người đọc hiểu rõ về quê hương của ông. Tiếp theo ông đưa người đọc đi khám phá những hoạt động đặc trưng của một làng chài. Nó sẽ diễn ra như thế nào ? Những câu thơ dưới đây chúng ta sẽ hiểu rõ: “Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng, Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang. Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.” Khởi đầu cho một ngày mới là hình ảnh ra khơi của những con thuyền, của những thanh niên “trai tráng”. Một ngày mưu sinh, lênh đênh giữa biển khơi đã bắt đầu. Thời tiết buổi sớm với trời trong, gió nhẹ, nắng hồng, quả thật vô cùng lý tưởng cho những chuyến ra khơi. Một dấu hiệu may mắn cho những ngư dân khi mà thời tiết đang ủng hộ họ. Hình ảnh con thuyền xuất hiện thật thi vị khi nó được nhà thơ ví von như những con tuấn mã mạnh mẽ và can trường. Chiếc thuyền ấy sẽ gắn bó với người dân trên hành trình vạn dặm biển, giữa muôn trùng lớp sóng. Bởi vậy chúng phải thật bền và chắc chắn để “phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang”. Còn những cánh buồm cũng góp mặt trong buổi sáng tươi vui và nhộn nhịp ấy bằng hành động “rướn thân trắng bao la thâu góp gió”. Một hình ảnh thật đẹp và giàu ý nghĩa cánh buồm như biểu tượng của làng chài. Nó thâu góp gió biển để thuyền rẽ sóng ra khơi nhưng nó cũng thâu góp những hy vọng. Những mong ước của bà con ngư dân về một chuyến ra khơi bội thu với khoang đầy tôm, cá. Vậy lúc những chiếc thuyền trở về thì sao.Có chở đầy những hy vọng của bà con làng chài nơi vùng sông nước này không: “Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ Khắp dân làng tấp nập đón ghe về. “Nhờ ơn trời, biển lặng cá đầy ghe”, Những con cá tươi ngon thân bạc trắng. Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng, Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.” Không khí của bến đỗ buổi sáng ngày hôm sau thật tưng bừng, nhộn nhịp. Dân làng tấp nập ra đón những con thuyền trở về với khoang đầy cá tôm. Còn hạnh phúc nào lớn hơn khi nhìn thấy thành quả sau một ngày lao động vất vả.
Việc liên tục sử dụng những động từ “ồn ào , tấp nập” càng làm nổi bật lên bức tranh của bến thuyền buổi sáng, khung cảnh sống động như hiện lên trước mắt chúng ta. Cảnh vật nào cũng tươi mới , hoạt động nào cũng vui tươi, nhộn nhịp và rồi giữa sự tấp nập đó nhịp thơ bỗng dưng sâu lắng khi nhà thơ viết: “Nhờ ơn trời, biển lặng cá đầy ghe”. Hân hoan trong niềm hạnh phúc người dân cũng không quên cảm ơn “Trời” đã mang cho họ có được thành quả như ngày hôm nay. Câu nói chứa chan bao nhiêu tình cảm , thể hiện cách sống “sâu sắc như cơi đựng trầu” của những ngư dân hiền hòa, chất phác. Bởi chúng ta biết rằng đặc thù của công việc làm nông hay đánh cá phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết. Sóng êm , biển lặng thì con thuyền ra khơi mới được bình yên. Ở đây không phải là sự mê tín mà là một niềm tin, niềm tin đã hình thành từ ngàn đời và tất yếu trong suy nghĩ của những người dân làng chài. Hình ảnh của những người lao động cũng hiện lên thật đẹp qua ngòi bút của nhà thơ. Họ mang những nét đặc trưng của người dân vùng biển với làn da ngăm rám nắng khỏe mạnh và rắn rỏi. Và đặc biệt nhất ở khổ thơ này là hình ảnh: "nồng thở vị xa xăm”. Một hình ảnh vô cùng trừu tượng và giàu liên tưởng. Vị xa xăm ấy hay chính là vị của biển khơi, vị mặn mòi của muối, vị của đất trời, quê hương. Qua hình ảnh những người ngư dân nhà thơ cũng muốn ca ngợi lên vẻ đẹp của những người lao động nói chung. Chỉ khi lao động con người ta mới có niềm hạnh phúc, lao động chính là vinh quang. Nối tiếp những hình ảnh giàu chất thơ ấy là khung cảnh đầy thơ mộng của con thuyền sau một ngày lao động vất vả: “Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”. Với dân chài , thuyền như là một người bạn gắn bó với họ trong những hành trình vượt biển khơi. Chuyến ra khơi vất vả và bình yên trở về. Con thuyền cũng tự tìm cho mình một bến nghỉ, phút giây thư thái và nghỉ ngơi hiếm hoi đó thật quý giá biết bao.Thuyền ơi hãy nghỉ ngơi nhé để ngày mai lại cùng “những trai tráng” ra khơi mang về cho người dân lộc biển , lộc trời. Và rồi khi những hình ảnh về quê hương hiện lên sống động, chân thực quá. Nhà thơ đã không giấu được tình cảm của mình: “Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi, Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi, Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!” Chưa bao giờ nỗi nhớ lại dâng trào như lúc này đây. Cái cảm giác nhớ nhung và khắc khoải đó chỉ những người con xa quê mới hiểu. Ông nhớ từng chiếc thuyền, từng con cá, nhớ màu nước biển xanh trong và nhớ cả những cánh buồm giương to ra khơi đánh cá. Nỗi niềm sâu kín, nhớ thương đó nay chỉ chờ giây phút nhìn thấy nơi xứ người hình ảnh một con thuyền ra khơi đã bỗng nhiên trỗi dậy, cuộn trào như từng lớp sóng. Ở ngoài kia gió biển đang thổi, vậy sóng biển ở trong lòng người biết đến khi nào mới ngừng thổi đây. Sinh ra từ vùng biển, gắn bó nơi chôn rau cắt rốn này. Để rồi cái vị mặn mòi của biển đã ăn sâu vào trong từng thớ thịt , từng hơi thở. Khái niệm “mùi nồng mặn” tuy trừu tượng nhưng đối với tác giả nó gần gũi và thân thuộc biết bao. Đối với nhà thơ Đỗ Trung Quân, quê hương có thể là “chùm khế ngọt, là cầu tre nhỏ”.Với Giang Nam là “những ngày trốn học, đuổi bướm cạnh bờ ao”. Thì với Tế Hanh, quê hương chính là “vị mặn nồng” của biển cả. Cuộc đời mỗi chúng ta ai cũng có một quê hương để nhớ nhung, để trở về. Vì mưu sinh, vì dòng đời xô đẩy những đứa con phải rời quê hương tới xứ người lao động. Nhưng lúc nào trong lòng họ nỗi nhớ quê vẫn luôn dâng đầy. Tế Hanh cũng chung cảm xúc xa quê đó. Quê hương qua ngòi bút của ông hiện lên với những hình ảnh thật sinh động và tươi đẹp. Giọng văn ẩn chứa niềm tự hào và nỗi nhớ, là mong ngóng khát khao được trở về. 7. Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh - mẫu số 7 Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới…, Quê hương tôi có con sông xanh biếc – Nước gương trong soi bóng những hàng tre…; những vân thơ thiết tha đôi với đất mẹ quê cha là nét đẹp nhất trong hồn thơ Tế Hanh hơn 60 năm qua. Bài thơ Quê hương được Tế Hanh viết năm 1939, khi nhà thơ vừa tròn mười tám tuổi, đang học Trung học tại Huế.
Nỗi nhớ làng chài, quê hương thân yêu ở Bình Dương, Quảng Ngãi đã tỏa rộng và thấm sâu vào bài thơ. Hai câu thơ đầu nói về làng tôi. Thân mật, tự hào, yêu thương… được thể hiện qua hai tiếng làng tôi ấy: Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới; Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông. Quê hương là một làng chài, bốn bề sông nước bao vây, một làng nghèo thuộc vùng duyên hải miền Trung cách biển nửa ngày sông. Giọng điệu tâm tình, một cách nói chân quê dân dã vừa cụ thể, vừa trừu tượng. Những câu thơ tiếp theo là hồi tưởng lại một nét đẹp của quê hương: Cảnh làng chài ra khơi đánh cá. Kỉ niệm về quê hương như được lọc qua ánh sáng tâm hồn. Một bình minh đẹp ra khơi có gió nhẹ, có ánh mai hồng. Có những chàng trai cường tráng, khỏe mạnh bơi thuyền đánh cá. Cảnh đẹp, sáng trong, giọng thơ nhẹ nhàng thể hiện khung cảnh niềm vui của làng chài trong buổi xa khơi. Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá. Một loạt ẩn dụ, so sánh nói về con thuyền, mái chèo và cánh buồm. Tác giả ví chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã tạo nên một hình ảnh khỏe, trẻ trung diễn tả khí thế hăng hái, phấn khởi lên đường. Chữ hăng dùng rất hay, rất đích đáng. Nó liên kết với các từ ngữ: dân trai tráng và tuấn mã hợp thành tính hệ thống, tạo nên một vẻ đẹp của văn chương. Có người lầm tưởng là chữ băng rồi bình giảng là băng băng lướt sóng! Mái chèo như những lưỡi kiếm khổng lồ chém xuống nước, phăng xuống nước một cách mạnh mẽ, đưa con thuyền vượt trường giang. Sau hình ảnh chiếc thuyền, mái chèo là hình ảnh cánh buồm giương, to như mảnh hồn làng. Giương nghĩa là căng lên để đón gió ra khơi. So sánh cánh buồm to như mảnh hồn làng là hay, đặc sắc. Cánh Buồm to biểu tượng cho hình bóng và sức sống quê hương. Nó tượng trưng cho sức mạnh lao động sáng tạo, ước mơ về ấm no, hạnh phúc của quê nhà. Nó còn tiêu biểu cho chí khí và khát vọng chinh phục biển khơi của đoàn trai tráng bơi thuyền đi đánh cá. Câu thơ Rướn thân trắng bao la thâu góp gió là một câu thơ đậm đà ý vị mang cảm hứng lao động và cảm hứng vũ trụ. Cánh buồm được nhân hóa. Ba chữ rướn thân trắng gợi tả một cuộc đời trải qua nhiều mưa nắng, gắng sức quyết tâm lên đường. Đây là khổ thơ xuất sắc tả cảnh ra khơi của đoàn thuyền đánh cá, tự hào ca ngợi sức sống của làng chài thân thương: Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang. Cánh buồm giương, to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió… Đứa con xa quê có bao giờ quên được cảnh bà con làng chài đón đoàn thuyền đánh cá từ biển khơi trở về. Các từ ngữ ồn ào, tấp nập diễn tả niềm vui mừng đón ghe về. Niềm vui sướng tràn ngập lòng người, là của khắp dân làng. Cảnh đón ghe về thực sự là ngày hội lao động của bà con ngư dân: Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ Khắp dân làng tấp nập đón ghe về. Cá tươi ngon thân bạc trắng đầy khoang thuyền. Được mùa cá, vui sướng trong niềm vui ấm no, hạnh phúc, bà con làng chài khẽ thốt lên lời cảm tạ đất trời đã cho biển lặng sóng êm, cho cá đầy ghe. Sự cầu mong và niềm tin thánh thiện nhờ ơn trời ấy đã biểu lộ những tấm lòng mộc mạc, hồn hậu của những con người suốt đời gắn bó với biển, vui sướng, hoạn nạn cùng với biển. Tế Hanh đã thấu tình quê hương khi ông viết: “Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe” Những con cá tươi ngon thân bạc trắng. Ta tưởng như ca dao, dân ca đã thấm sâu vào hồn thơ Tế Hanh: Ơn trời mưa nắng phải thì, Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu… Nhờ trời hạ kế sang đông Làm nghề cày cấy, vun trồng tốt tươi… Đoạn bốn bài thơ nói về bến quê bằng hai nét vẽ khỏe khoắn và bình yên. Những chàng trai làng chài có làn da ngăm rám nắng khỏe mạnh, can trường được tôi luyện trong gió sóng đại dương, trong mưa nắng dãi dầu. Họ mang theo hương vị biển. Hai chữ: nồng thở rất thần tình làm nổi bật nhịp sống lao động hăng say, dũng cảm của những dân chài mang tình yêu biển. Hình tượng thơ mang vẻ đẹp lãng mạn: Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng Cả thân hình nồng thở vị xa xăm. Nét thứ hai là con thuyền. Sau một chuyến ra khơi vất vả trở về nó mỏi mệt nằm im trên bến.
Con thuyền là một biểu tượng đẹp của làng chài, của những cuộc đời trải qua bao phong sương thử thách, bao dạn dày sóng gió: Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ. Con thuyền được nhân hóa với nhiều yêu thương, vần thơ giàu cảm xúc, mang tính triết lí về lao động trong thanh bình, Chữ nghe (nghe chất muối) thể hiện sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế và thi vị. Bến quê trở thành một mảnh tâm hồn của đứa con li hương. Đoạn cuối nhiều bồi hồi nhớ thương, thương nhớ hình bóng quê hương. Điệp ngữ nhớ làm cho giọng thơ thiết tha, bồi hồi, sâu lắng. Xa quê nên tưởng nhớ khôn nguôi. Nhớ màu nước xanh của sông, biển làng chài. Nhớ cá bạc, nhớ chiếc buồm vôi… Thấp thoáng trong hoài niệm là hình ảnh con thuyền rẽ sóng ra khơi đánh cá. Xa quê nên mới thấy nhớ hương vị biển, hương vị làng chài thương yêu cái mùi nồng mặn quá. Tình cảm thấm vào câu chữ, màu sắc, vần thơ. Tiếng thơ cũng là tiếng lòng trang trải của hồn quê vơi đầy thương nhớ. Cảm xúc đằm thắm mênh mang: Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi, Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá! Bài thơ Quê hương có một câu thơ đề từ rất gợi cảm: "Chim bay dọc biển đem tin cá". Đó là câu thơ của phụ thân nhà thơ. Nhớ quê hương, nhớ người cha thân yêu dào dạt trong hồn thơ Tế Hanh. Sau này, 1963, khi sống ở miền Bắc, trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, trong bài thơ Nghe tin cha mất, ông xót xa hồi tưởng: Cuộc khởi nghĩa cần Vương thất bại Đắng cay cha trở lại quê nhà (…) Vịnh quê hương vài vần thơ ca: Chim bay dọc biển đem tin cá. Nhà ở kề sân, sát mái nhà Có cảm nhận được câu thơ đề từ ấy ta mới nắm bắt được tình thương nhớ quê hương của Tế Hanh qua bài thơ kiệt tác này. Bài thơ Quê hương đã đi suốt một hành trình trên 60 năm. Nó gắn liền với tâm hồn trong sáng, với tuổi hoa niên của Tế Hanh. Thể thơ tám tiếng, giọng thơ đằm thắm dào dạt, gợi cảm. Những câu thơ nói về dòng sông, con thuyền, cánh buồm, khoang cá, chàng trai đánh cá, bến quê… và nỗi nhớ của đứa con xa quê… rất hay, đậm đả biểu lộ một hồn thơ đẹp. Nghệ thuật phối sắc, sử dụng các biện pháp tu từ như ẩn dụ, so sánh, nhân hóa và chuyển đổi cảm giác khá thành công, tạo nên những vần thơ trữ tình chứa chan thi vị. Tham khảo thêm: Cảm nhận về bài thơ Quê hương của Tế Hanh 8. Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh - mẫu số 8 Quê hương là gì hở mẹ Mà cô giáo dạy phải yêu Quê hương là gì hở mẹ Ai đi xa cũng nhớ nhiều (Quê hương – Đỗ Trung Quân) Quê hương – hai tiếng gọi giản dị và thân thương nhưng chứa đựng biết bao tình cảm. Có thể nói, mỗi con người đều có quê hương. Đó chính là nơi chúng ta sinh ra, lớn lên và gắn bó. Thế nên, mỗi lần xa quê, ta nhớ quê biết chừng nào. Chính cái miền quê miền biển, đầy nắng và gió, đã nhức nhối trong lòng Tế Hanh bao nỗi nhớ cồn cào. Nỗi nhớ và tình yêu quê hương đó, được khắc họa rõ nét trong bài thơ Quê Hương của ông. Tế Hanh – người con của làng chài Quảng Ngãi. Quê ông không phải là một miền trung du với những rặng chè ngút ngàn tầm mắt, không phải là nơi phố thị với những tòa nhà cao tầng đồ sộ. Quê ông chỉ là một miền quê làng chài ven biển, nhưng ông tự hào biết bao về làng quê của mình: “Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới: Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông.” Hai câu thơ mở đầu bài thơ là lời giới thiệu về nghề nghiệp (làm nghề chài lưới) và vị trí địa lý (gần sông, cách biển nửa ngày) của quê hương Tế Hanh. Lời giới thiệu ngắn gọn, chân thành, giản dị nhưng đầy đủ, thể hiện được niềm tự hào của nhà thơ về quê hương mình. Nghề chài lưới, một công việc lao động bình thường, nhưng qua con mắt của một thi sĩ yêu quê và đang phải xa quê, cái công việc ấy hiện lên thật đẹp đẽ biết bao: “Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang” Trong khung cảnh bình minh của một buổi sớm mai tuyệt đẹp: sớm mai hồng, với trời trong, gió nhẹ. Dân làng chài là những chàng trai khỏe mạnh, trai tráng đưa con thuyền của mình ra khơi.
Bằng biện pháp tu từ so sánh: như con tuấn mã và sử dụng các động từ mạnh: hăng, phăng, vượt Tế Hanh đã miêu tả cảnh con thuyền ra khơi với một khí thế thật dũng mãnh, oai hùng. Con thuyền như một con ngựa đẹp, khỏe và phi nhanh, chuẩn bị xông ra chiến trường để tiêu diệt kẻ thù. Và trong cái nỗi nhớ da diết về cảnh người dân chài đi đánh cá, hình ảnh cánh buồn là tâm điểm mà Tế Hanh miêu tả một cách đẹp nhất: “Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…” Cánh buồm trắng được nhà thơ so sánh như mảnh hồn làng. Đó chính là biểu tượng, là linh hồn của làng chài. Mỗi lần ra khơi, cánh buồm là vật quan trọng, dắt đường, chỉ lối cho con thuyền. Thế nhưng với Tế Hanh, cánh buồm có vị trí đặc biệt hơn thế nữa. Nó như thâu góp vào trong mình biết bao giông bão của sóng gió để con thuyền luôn trở về bình an. Nó còn mang trong mình biết bao yêu thương, mong ngóng, đợi chợ của những người mẹ, người chị, người con ở đất liền dành cho những người ra khơi. Tế Hanh đã rất thành công khi so sánh một vật hữu hình, cụ thể với một hình ảnh lãng mạn, trừu tượng. Hình ảnh con thuyền với cánh buồm trắng vì vậy mà trở nên đẹp đẽ hơn, lãng mạn hơn. Sau những ngày tháng bôn ba trên biển khơi, con thuyền trở về, trong sự chào đón hân hoan, vui mừng của người dân quê: “Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ Khắp dân làng tấp nập đón ghe về. Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe, Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.” Những câu thơ trên, đã miêu tả được cái không khí sinh hoạt của người dân làng chài. Đó là một khung cảnh tươi vui, ồn ào, tấp nập, tràn trề nhựa sống. Có thể nói, Tế Hanh như đang được đắm chìm vào cái khung cảnh sinh hoạt nơi bến đỗ ấy. Nhờ công ơn trời đất, mưa thuận gió hòa, trời yên biển lặng, những chàng trai đi đánh cá nay đã trở về với rất nhiều thành quả lao động. Hình ảnh những con cá tươi ngon thân bạc trắng ấy, chính là kết quả của sự cần cù, chịu khó, chịu khổ và của niềm yêu thích lao động chân chính. Sau chuyến ra khơi là hình ảnh con thuyền và con người trở về trong ngơi nghỉ: “Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng Cả thân hình nồng thở vị xa xăm Chiếc thuyền im bến mỏi trở về năm Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.” Có thể nói rằng đây chính là những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của bài thơ. Với lối tả thực, hình ảnh “làn da ngắm rám nắng” hiện lên để lại dấu ấn vô cùng sâu sắc thì ngay câu thơ sau lại tả bằng một cảm nhận rất lãng mạn “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm” – Thân hình vạm vỡ của người dân chài thấm đẫm hơi thở của biển cả nồng mặn vị muối của đại dương bao la. Cái độc đáo của câu thơ là gợi cả linh hồn và tầm vóc của con người biển cả. Với hình ảnh này, Tế Hanh đã góp vào kho tàng văn học Việt Nam một bức tượng đài về người lao động Việt Nam thật đặc sắc. Những câu thơ miêu tả chiếc thuyền “im” trên bến cũng rất độc đáo. Thi nhân dường như cảm nhận được cả sự mệt nhọc say sưa của con thuyền sau những ngày ra khơi. Bằng biện pháp nhân hóa, nhà thơ đã biến một hình ảnh vô tri, vô giác trở thành một cá thể có hồn, có thần. Con thuyền như đang cảm nhận được những mặn mòi của muối biển đang thấm sâu vào da thịt mình. Với nghệ thuật độc đáo này, chúng ta thấy con thuyền đã trở thành một phần không thể thiếu của làng chài. Xa quê, chắc hẳn không ai không nhớ quê. Là một người con của vùng quê miền biển, khi xa quê, Tế Hanh nhớ tới: màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi, con thuyền và mùi nồng mặn của biển cả. Trong những nỗi nhớ ấy, thì da diết hơn cả, phải kể đến nỗi nhớ về cái vị mặn mòi của biển khơi, mà chỉ những ai sinh ra ở vùng quê ấy mới có thể cảm nhận được. Với tâm hồn bình dị, Tế Hanh xuất hiện trong phong trào Thơ mới nhưng lại không có những tư tưởng chán đời, thoát li với thực tại, chìm đắm trong cái tôi riêng tư như nhiều nhà thơ thời ấy. Thơ Tế Hanh là hồn thi sĩ đã hoà quyện cùng với hồn nhân dân, hồn dân tộc, hoà vào “cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”. “Quê hương” – hai tiếng thân thương, quê hương – niềm tin và nỗi nhớ, trong tâm tưởng người con đất Quảng Ngãi thân yêu – Tế Hanh – đó là những gì thiêng liêng nhất, tươi sáng nhất.
Bài thơ với âm điệu khoẻ khoắn, hình ảnh sinh động tạo cho người đọc cảm giác hứng khởi, ngôn ngữ giàu sức gợi vẽ lên một khung cảnh quê hương “rất Tế Hanh”. Và khiến cho bất cứ ai, dù đang ở nơi đâu, cũng sẽ thêm yêu quê hương mình hơn. 9. Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh - mẫu số 9 Nhà thơ Thanh Thảo có đôi lời nhận xét về nhà thơ Tế Hanh rằng: “Ngay từ lúc xuất hiện trong phong trào Thơ Mới, thơ Tế Hanh đã là hiện tượng vì sự mộc mạc, chân thành, vì sự trong trẻo, giản dị như một dòng sông”. Nếu để nói về vị trí của ông trong thơ Mới thì ta có thể dùng hai từ “bình lặng”, hồn thơ ông không bật lên mạnh mẽ như cái cuồng nhiệt, say mê của Xuân Diệu, cũng không đủ kỳ dị, điên cuồng như Hàn Mặc Tử, không gây ấn tượng sâu sắc bởi sự “quê mùa” của Nguyễn Bính, và cũng chẳng có cái buồn thiên thu của Huy Cận. Thế nhưng sau tất cả chưa bao giờ người ta quên đi Tế Hanh, một nhà thơ có chất giọng hồn nhiên, phong độ sáng tác đều đều, và mỗi tập thơ của ông đều được ghi dấu bằng một vài bài thơ đáng nhớ, đủ để ghi vào lòng độc giả những cảm xúc mới mẻ, tinh tế của một hồn thơ trẻ. Có thể nói quê hương là nguồn cảm hứng lớn nhất trong đời thơ của Tế Hanh mà bài thơ Quê hương chính là một khởi đầu đầy xuất sắc và hứa hẹn. Quê hương dù được sáng tác vào những năm đầu khi Tế Hanh chập chững đặt những dấu chân đầu tiên trên thi đàn Việt Nam, cụ thể là trong phong trào thơ Mới thế nhưng bản thân tác phẩm đã đem đến những nguồn cảm xúc mới lạ, đồng thời cũng thể hiện được cái tài năng và duyên đặc biệt của nhà thơ đối với quê hương, một khái niệm rất đỗi thân thuộc nhưng không phải nhà thơ nào cũng đủ tinh tế để viết về nó một cách mềm mại và sâu sắc. Khi nhận định về Tế Hanh và Quê hương Hoài Thanh đã viết rằng: “Tế Hanh là một người tinh lắm, Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy được cả những điều không hình sắc, không thanh âm như mảnh hồn làng, trên cánh buồm giương... Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi thường ta chỉ thấy mờ mờ…”. Mà sở dĩ có được ánh nhìn sâu sắc như vậy cũng bởi ông có sẵn một tâm hồn tha thiết sâu nặng với cuộc đời với quê hương và đất nước. Mở đầu bài thơ là hai câu thơ giới thiệu khái quát về làng quê “Làng tôi vốn làm nghề chài lưới/Nước bao vây cách biển nửa ngày sông”, với giọng thơ rất đỗi nhẹ nhàng tình cảm tựa như một lời tự sự chân thành. Nhưng đó không chỉ là một lời giới thiệu, mà hơn thế nữa nó còn gợi ra dáng hình của quê hương, đó một làng chài “nước bao vây” tựa như một cù lao nổi lên trên sông dập dềnh sóng nước. Nó cũng gợi ra những đặc điểm về vị trí địa lý, về khoảng cách từ làng ra tới biển cả bằng cụm từ “cách biển nửa ngày sông”, và cũng chỉ ra đó là một làng quê nghèo làm ăn sinh sống bằng nghề chài lưới vất vả. Tất cả đều được Tế Hanh dùng những từ ngữ giản dị, mộc mạc với lối ăn sóng nói gió đậm chất miền biển để diễn tả về một quê hương đầy tha thiết, với đôi mắt mặn nồng yêu thương. “Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng, Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá: Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang. Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió...” Với một người con miền biển có lẽ rằng cảnh dong thuyền đi đánh cá của ngư dân đã in sâu vào trí óc, thế nên Tế Hanh đã ghi lại bằng những cảm xúc dạt dào, trong sáng với những hình ảnh đầy chất thơ. Đó là một buổi sáng đẹp, trời trong xanh, gió hiu hiu thổi, ánh nắng ban mai ráng hồng trên khắp cả làng chài, và dưới khung cảnh tuyệt đẹp ấy nh��ng người thanh niên khỏe khoắn tràn đầy sức sống, bắt đầu công việc của mình với khí thế sôi nổi, rộn ràng “Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá”. Khung cảnh lao động dưới ánh mắt của nhà thơ diễn ra thật mạnh mẽ, tràn đầy khí thế, dưới sự hợp sức đầy quyết tâm của những chàng trai làng chài chiếc thuyền lướt nhẹ ra khơi, dường như không chịu bất kỳ cản trở nào, hùng dũng, tràn đầy sinh lực tựa như con tuấn mã đã kinh qua hàng trăm trận chiến. Có thể nói rằng con thuyền
trong thơ của Tế Hanh luôn nắm giữ vị thế chủ động, “Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang”, sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn, thuần thục và can trường trước sóng biển. Trước biển lớn, sóng nước mênh mông thế nhưng chiếc thuyền nhỏ bé lại nổi lên với khí thế mạnh mẽ, sôi sục lòng nhiệt huyết, dường như biển cả đã trở thành bức nền xanh làm bật lên vẻ đẹp hiên ngang của chiếc thuyền đánh cá. Nhưng không chỉ dừng lại ở việc miêu tả khí thế sôi nổi lúc ra khơi, mà Tế Hanh còn rất tinh tế và khéo léo trong việc vận dụng thủ pháp so sánh giữa “cánh buồm” với “mảnh hồn làng”. Có thể nói rằng đây là đột phá nghệ thuật trong phong cách thơ của tác giả, lấy cái hữu hình đem so sánh với cái trừu tượng vốn tưởng là điều không thể nhưng Tế Hanh đã làm được mà còn làm rất xuất sắc. Ông đã vẽ ra dáng hình mảnh hồn của làng chài miền biển một cách rất thần tình, tinh tế. Cánh buồm trắng mang theo mảnh hồn, mảnh tình, thấm đẫm tình cảm của quê hương, luôn theo sát từng bước chân ngư dân trong công cuộc lao động. Ở đó dung hòa nhiều thứ tình cảm đó là nỗi mong đợi, hy vọng thiết tha của những người ở lại và cả nỗi nhớ da diết, một lòng hướng về quê hương của những người đang lao động ngoài khơi xa. Hình ảnh so sánh độc đáo đã mang về cho vần thơ của Tế Hanh sự lãng mạn, bay bổng, ở đó tình quê hiện lên một cách nhẹ nhàng, nhưng sâu sắc và gắn bó vô cùng. Ở câu thơ tiếp “Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”, ta nhận ra tác giả đã dùng biện pháp nhân hóa thông qua hai từ rất có sức gợi “rướn” và “thâu”. Dường như cánh buồm mang mảnh hồn làng ấy cũng có linh tính về công việc của người ngư dân thế nên nó mới cố sức “rướn” tấm thân trắng sao cho thật rộng để “thâu” góp được nhiều gió, đẩy thuyền ra khơi thật nhanh, thật xa. Như vậy trong đôi mắt của Tế Hanh cánh buồm giờ đây cũng trở thành một nhân lực lao động, có những đóng góp nhất định vào công việc đánh bắt của người ngư dân. Từ đó ta nhìn ra được tư tưởng đoàn kết, hỗ trợ và gắn bó sâu sắc của người dân làng chài, gắn bó từ trong tâm hồn, tư tưởng, không chỉ là ở con người mà còn ở cả sự vật, tất cả đã kết hợp nhịp nhàng để làm ra những kết quả lớn. Có cảnh ra khơi sôi nổi, nhiệt huyết thì cảnh ngư dân trở về cũng náo nhiệt và tươi vui không kém. “Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ Khắp dân làng tấp nập đón ghe về Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.” Vẫn tiếp tục với giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết yêu thương Tế Hanh, người đọc cảm nhận từ đoạn thơ cái cảm giác thư thái, thanh bình và niềm vui ấm no của ngư dân sau một đợt ra khơi đầy vất vả. Đồng thời Tế Hanh cũng thể hiện tấm lòng biết ơn sâu sắc đến biển cả quê hương, đã cho người dân được cuộc sống ấm no hạnh phúc, mẹ thiên nhiên nhân từ đã cho “biển lặng”, dốc công nuôi dưỡng nên nguồn cá dồi dào, ban cho ngư dân “Những con cá tươi ngon thân bạc trắng”, để họ được hưởng niềm sung sướng hạnh phúc khôn tả về một chuyến ra khơi về bội thu. “Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng  Cả thân hình nồng thở vị xa xăm  Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm  Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ” Chính bởi sinh ra và lớn lên giữa làng quê làm nghề chài lưới nên Tế Hanh mới có được những cảm nhận rất chân thực và tinh tế về người ngư dân và cuộc sống tâm hồn của họ. Người ngư dân quan năm vật lộn với biển cả thế nên họ chẳng thể nào có được một làn da trắng trẻo, thay vào đó họ mang một màu da đặc trưng “làn da ngăm rám nắng”, mang cảm giác khỏe khoắn và cũng nhiều vất vả. Tinh tế hơn cả không biết bằng cách nào mà Tế Hanh có thể cảm nhận được cái “nồng thở vị xa xăm” trên những con người của biển cả, đó là hương muối mặn mòi, hương gió tận khơi xa đã thấm vào tận trong tâm hồn, cốt cách của con người. Từ đó xây dựng nên một hình tượng rất riêng, hình tượng người dân làng chài với phong vị của biển cả, rất khỏe khoắn, rất lam lũ và cũng thân thuộc vô cùng. Không chỉ có riêng cảm nhận về người ngư dân sau buổi đánh bắt xa bờ, mà Tế Hanh còn chú tâm đến cả con thuyền, nếu như lúc ra khơi thuyền hăng hái, xung phong một cách
mạnh mẽ, thì khi trở về thuyền cũng trở nên trầm tĩnh, nằm nghỉ mệt sau một đêm dài dong buồm ra khơi. Có thể nói Tế Hanh luôn cảm nhận sự vật ở góc độ chúng linh tính, ông luôn mang ánh mắt thông cảm và yêu thương để nhìn tất thảy mọi vật trên quê hương, kể cả mảnh hồn làng vốn không bóng hình cũng trở nên có nét. Thuyền cũng như con người cũng biết cố sức dong buồm căng gió, rồi sau những cố gắng không ngừng nghỉ thuyền cũng muốn được nghỉ ngơi, tạo nên một cảm giác thư thả, yên bình của làng chài sau những ngày lao động vất vả. Con thuyền nằm im “Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ” như đang tâm sự với biển cả, ôn lại kỷ niệm ra khơi, và ở đó người ta nhận thấy có một sự chuyển đổi cảm giác rất đặc sắc, vị giác của Tế Hanh nếm thấy vị mặn của muối, tai thì “nghe” thấy vị muối và dùng xúc giác để cảm nhận sự mặn mòi của biển cả đang thấm dần trong thớ vỏ con thuyền, hay trong thân thể con người quê hương. Đó chính là sự hòa quyện, gắn bó sâu sắc của vạn vật đối với biển cả của quê hương. Quê hương của Tế Hanh mang những đặc điểm nghệ thuật quen thuộc như so sánh, nhân hóa, từ ngữ giản dị, mộc mạc, thế nhưng bằng cái ánh nhìn và cảm nhận tinh tế nhà thơ đã đưa chúng ta đến với một bức tranh sinh hoạt của làng chài vừa sinh động vừa tình cảm nên thơ vô cùng. Ở đó ta thấy Tế Hanh đã dành cho quê hương mình những tình cảm rất đỗi tha thiết sâu nặng, thế nên dù khi đã đi xa nhưng ông vẫn mãi nhớ về một quê hương với những con người mặn mòi muối biển, hơi thở nồng đượm vị xa xăm, vẫn nhớ như in cảnh con thuyền nằm im trên bến đỗ ngẫm nghĩ về biển cả mênh mông. Tham khảo thêm: Cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên con người trong bài thơ Quê hương và Đoàn thuyền đánh cá 10. Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh - mẫu số 10 Tế Hanh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, ông đã góp phần đem đến cho thơ ca Việt Nam một hương sắc mới mẻ và lạ lẫm. Nếu như đến với Huy Cận, ta bắt gặp một hồn thơ mang nặng nỗi đau đời, tuyệt vọng. Hay Chế Lan Viên, với nỗi đau được tạo nên từ một tâm hồn đang trỗi dậy với bao điều suy nghĩ, bao nỗi xót xa về cuộc đời. Thì đến với Tế Hanh, ta bắt gặp một hồn thơ mang một vẻ đẹp non tơ, trong trẻo khác lạ. Điều đó được thể hiện rõ trong bài thơ "Quê hương" của ông được viết 1938 - khi đó nhà thơ mới tròn 17 tuổi. Hai tiếng "quê hương" nghe rất thân thương, mộc mạc và gần gũi với mỗi con người Viêt Nam. Đó là nơi ta sinh ra, cất tiếng khóc chào đời, là khi đi xa ta muốn trở về trong vòng tay của gia đình để được yêu thương, bao bọc. Vì vậy, trong tâm trí của mỗi người, quê hương rất đỗi quen thuộc, nó gắn liền với tuổi thơ là những giếng nước, gốc đa, với vườn rau, buồng chuối, với cánh đồng lúa mênh mông.... Còn quê hương trong tâm trí Tế Hanh là một làng chài ven biển nằm trên cù lao giữa bốn bề sông nước: Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông. "Làng tôi" - hai tiếng được cất lên một cách rất tự nhiên. Tác giả muốn giới thiệu chung về làng quê của mình, một làng quê nghèo bình dị như bao làng quê khác. Ở đây người dân sống bằng nghề chài lưới, cuộc đời gắn liền với tiếng sóng, tiếng gió, với vị mặn của vùng biển thôn quê. Không chỉ dừng lại ở việc giới thiệu, mà nhà thơ còn miêu tả cụ thể bức tranh làng quê thật sinh động, tỉ mỉ đến từng chi tiết: “Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng, Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá." Đến đây, một khung cảnh làng quê đang được mở ra trước mắt với một không gian bao la rộng lớn, với bầu trời cao rộng trong veo ngập ánh sáng. Cùng với gió nhè nhẹ nhuốm thêm ánh nắng hồng của buổi bình minh. Một ngày mới bắt đầu. Ngày mới tràn đầy năng lượng với tinh thần hăng hái của người dân ra khơi. Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang Bức tranh lao động được tác giả miêu tả cụ thể như đang được chứng kiến tận mắt vậy. Với lối viết độc đáo, đặc sắc bằng việc sử dụng biện pháp so sánh "con thuyền như con tuấn mã", cùng với việc sử dụng liên tiếp các động từ mạnh "hăng, phăng, vượt", thêm tính từ "mạnh mẽ" đã tạo nên một bức tranh vô cùng hùng vĩ.
Làm cho ta thấy được khí thế phăng phăng, một tinh thần dứt khoát của những người con đất biển, thấy được sức mạnh dũng mãnh của con thuyền băng băng như muốn vượt lên sóng vỗ, vượt lên gió to giữa không gian biển cả để vươn mình ra khơi. Chiếc buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió. Với tình cảm tươi trẻ và hồn nhiên, tác giả đã cảm nhận được vẻ đẹp và sức sống bền vững của quê hương qua những hình ảnh thơ đẹp, giàu sức sáng tạo. Chiếc thuyền, một hình ảnh bình dị mà thân quen nay được nhà thơ ví như "mảnh hồn làng". Hình ảnh thơ bay bổng, giàu tính tưởng tượng. Từ một vật vô tri vô giác, cánh buồm đã được ví như như một linh hồn rất đỗi linh thiêng của quê hương. Nó như một phần không thể thiếu, không thể tách rời của người dân làng chài. Chỉ có những người gắn bó rất gần gũi, có tình cảm yêu thương sâu nặng với cuộc đời, với làng chài ven biển và với con người nơi đây thì nhà thơ mới cảm nhận được một cách tinh tế đến vậy. Nếu như ở trên tác giả miêu tả đoàn thuyền ra khơi đánh cá với một khí thế sôi nổi, vui vẻ, năng động thì cảnh đoàn thuyền đánh cá về bến cũng được nhà thơ khắc họa với một giọng điệu đầy sự phẩn khởi, lạc quan: Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ Khắp dân làng tấp nập đón ghe về Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe Những con cá tươi ngon thân bạc trắng. Đoạn thơ là cảnh thuyền cá về bến sau một ngày lao động vất vả trên biển. Với việc sử dụng tính từ "ồn ào, tấp nập" đã toát lên một không khí náo nhiệt đầy hối hả của những người dân vui mừng đón đoàn thuyền đánh cá trở về với "những con cá tươi ngon thân bạc trắng" nhìn bắt mắt. Đã là dân vùng biển, thì cuộc sống của họ phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Họ lao động vất vả để mong muốn có được cuộc sống no ấm hơn. Vì thế, giây phút đón người thân trở về bình an sau chuyến đi là niềm vui lớn lao hơn tất cả. Họ thầm cảm ơn trời đất đã cho sóng yên biển lặng để người dân trở về được an toàn. “Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng  Cả thân hình nồng thở vị xa xăm  Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm  Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ” Nổi bật lên giữa khung cảnh người người, nhà nhà đang tấp nập, nhộn nhịp thu hoạch cá là hình ảnh khỏe khoắn đầy sức sống của những thân hình vạm vỡ, cường tráng quanh năm bôn ba vật lộn với đại dương bao la. Những thân hình ấy thấm đẫm những hơi thở, nhịp sóng và vị mặn nồng của muối biển. Đến đây hình ảnh chiếc thuyền được tác giả nhân hóa lên giống như con người sau một ngày làm việc vất vả và giờ là lúc được nghỉ ngơi. Hình ảnh con thuyền đã trở nên có hồn hơn bao giờ hết. Nó không còn là một phương tiện giao thông thông thường nữa mà nó đã trở thành một người bạn thân thiết của cư dân. Không chỉ con người mà cả chiếc thuyền cũng thấm đẫm hương vị biển, cái hương vị mằn mặn chan chát như thấm sâu thấm đậm vào từng làn da, thớ thịt của con người. Một bức tranh toàn cảnh đã được nhà thơ tái hiện lại vô cùng sắc bén. Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ Màu nước xanh, cá bạc chiếc buồm vôi Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi Tối thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá. Đằng sau bức tranh quê hương với những hoạt động của người dân làng chài trên vùng biển là nỗi lòng nhớ thương da diết của nhà thơ. Nhớ những gì gần gũi nhất, thân thương nhất, quen thuộc nhất của quê hương mình "như màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi", đặc biệt nhớ cái mùi đặc trưng không thể lẫn đi đâu được của vùng biển, cái vị nồng mặn của đất trời yêu thương. Có thể nói, đây là một bức tranh toàn cảnh về quê hương yêu dấu của nhà thơ. Với một giọng điệu khỏe khoắn, với những hình ảnh sinh động cùng với sự kết hợp hài hòa, độc đáo những biện pháp nghệ thuật như: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa. Tế Hanh đã tạo nên một bức tranh quê hương rất mới mẻ và tươi tắn. Phải là một nhà thơ gắn bó tha thiết với cuộc đời, với đời sống cần lao của người dân nơi đây thì nhà thơ mới có được những vần thơ hay đến vậy. 11. Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh - mẫu số 11 Quê hương trong xa cách là cả một dòng cảm xúc dạt dào, lấp lánh suốt đời Tế Hanh. Cái làng
chài nghèo ở một cù lao trên sông Trà Bồng nước bao vây cách biển nửa ngày sông đã nuôi dưỡng tâm hồn thơ Tế Hanh, đã trở thành nỗi nhớ da diết để ông viết nên những vần thơ thiết tha, lai láng. Trong dòng cảm xúc ấy, Quê hương là thành công khởi đầu rực rỡ. Nhà thơ đã viết Quê hương bằng tất cả tình yêu thiết tha, trong Sáng, đầy thơ mộng của mình. Nổi bật lên trong bài thơ là cảnh ra khơi đánh cá của trai làng trong một sớm mai đẹp như mơ: Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá. ... Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió. Giữa trời nước bao la nổi bật hình ảnh con thuyền hiên ngang, hăng hái, đầy sinh lực dưới bàn tay điều khiển thành thạo của dân trai tráng đang nhẹ lướt trên sóng qua hình ảnh so sánh như con tuấn mã. Đằng các từ ngữ sinh động, nhà thơ đã khắc hoạ tư thế kiêu hãnh chinh phục sông dài, biển rộng của người làng chài. Lời thơ như băng băng về phía trước, như rướn lên cao bao la cùng với con thuyền, với cánh buồm Tế Hanh đã cảm nhận cuộc sống lao động của làng quê bằng cả tâm hồn thiết tha gắn bó nên mới liên tưởng Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng. Bao nhiêu trìu mến thiêng liêng, bao nhiêu hi vọng mưu sinh của người lao động được gửi gắm ở đấy. Cảnh đón thuyền đánh cá trở về ồn ào, tấp nập cũng được miêu tả với một tình yêu tha thiết: Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ Khắp dân làng tấp nập đón ghe về Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe Những con cá tươi ngon thân bạc trắng. Ở đoạn trước, khi tả cảnh ra đi mạnh mẽ vượt trường giang của đoàn thuyền, hơi thở băng băng, phơi phới. Đến đoạn này, âm điệu thơ thư thái và dần lắng lại theo niềm vui nó ấm, bình yên của dân làng. Chính từ đây, xuất hiện những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của Quê hương: Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng Cả thân hình nồng thở vị xa xăm Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ. Chỉ ai sinh ra và lớn lên ở nơi sông nước mới viết được những câu thơ như thế. Tế Hanh xây dựng tượng đài người dân chài giữa đất trời lộng gió với hình khối, màu sắc và cả hương vị không thể lẫn: bức tượng đài nồng thở vị xa xăm – vị muối mặn mòi của biển khơi, của những chân trời tít tắp mà họ thường chinh phục. Chất muối mặn mòi ấy ngấm vào thân hình người dân chài quê hương, thấm dần trong thớ vỏ chiếc thuyền hay đã ngấm sâu vào làn da thớ thịt, vào tâm hồn thơ Tế Hanh để thành niềm cảm xúc bâng khuâng, kì diệu? Một tâm hồn như thế khi nhớ nhung tất chẳng thể nhàn nhạt, bình thường. Nỗi nhớ quê hương trong đoạn kết đã đọng thành những kỉ niệm ám ảnh, vẫy gọi. Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá – câu thơ cuối cùng cho ta rõ thêm tâm hồn thiết tha, thành thực của Tế Hanh. Quê hương của Tế Hanh đã cất lên một tiếng ca trong trẻo, nồng nàn, thơ mộng về cái làng vạn chài từng ôm ấp, ru vỗ tuổi thơ mình. Bài thơ đã góp phần bồi đắp cho mỗi người đọc chúng ta tình yêu quê hương thắm thiết. 12. Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh - mẫu số 12 Quê hương mỗi người chỉ một Như là chỉ một mẹ thôi Bài hát với giai điệu và ca từ sâu lắng, chân tình đã đi vào biết bao trái tim người Việt để rồi khi nhớ về mảnh đất chôn nhau, cắt rốn của mình, ai ai cũng không khỏi rưng rưng. Tế Hanh đã sáng tác không ít tác phẩm về miền quê làng chài ven biển của ông như một nỗi nhớ, niềm thương về một nơi đầy những hồi ức yêu dấu, ngọt ngào. "Quê hương" là một trong những sáng tác nằm trong dòng cảm xúc ấy. Hai câu thơ mở bài như một lời giới thiệu của tác giả về làng quê miền biển của mình. Nó là một làng quê nằm ăn sát ra biển, bốn bề quanh năm sóng vỗ. Qua hai câu mở bài này, tác giả còn muốn giới thiệu với mọi người về nghề nghiệp chính ở quê mình, đó là nghề ngư nghiệp. Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá Hai câu thơ tiếp theo như những dòng nhật kí tâm tình của Tế Hanh, nói về công việc thường nhật xảy ra ở ngôi làng ven biển này. Tiết trời ở đây thật trong lành: bầu trời trong xanh, gió biển nhẹ, bình minh rực rỡ sắc hồng. Lúc đó, những người thanh niên, trai tráng trong làng cùng nhau căng buồm, tiến ra biển cả.
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang Trong hai câu thơ này, tác giả Tế Hanh đã sử dụng những động từ, tính từ mạnh: “hăng, phăng, vượt” và sử dụng nghệ thuật so sánh “chiếc thuyền nhẹ” với “con tuấn mã”, làm gợi lên vẻ đẹp, sự dũng mãnh của con thuyền. Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió Ở hai câu tiếp theo này, nghệ thuật so sánh lại được sử dụng. “Cánh buồm” được so sánh với “mảnh hồn làng”, thể hiện tình yêu quê hương luôn tiềm tàng trong con người Tế Hanh. Được sử dụng một lần nữa, động từ, tính từ mạnh: “giương, rướn, bao la” đã cho ta thấy một vẻ đẹp kiêu hãnh, đầy tự hào của cánh buồm vi vu trong gió biển. Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ, Khắp dân làng tấp nập đón ghe về. “Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe” Những con cá tươi ngon thân bạc trắng. Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng, Khắp thân mình nồng thở vị xa xăm. Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm, Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ. Tám câu thơ tiếp theo này thể hiện hình ảnh làng chài khi những chiếc thuyền cá trở về sau những ngày chìm trong gió biển. Người dân làng chài vui sướng biết bao khi những người thân của họ đã mang về những thành quả tương xứng. Dân chài lưới mang một màu da thật riêng, có một mùi hương riêng biệt. Cái mùi này chỉ những người yêu quê hương tha thiết, nồng nàn như tác giả Tế Hanh mới có thể cảm nhận được. Chiếc thuyền cũng mệt mỏi sau những ngày đi biển, tựa như con người vậy. Cái chất muối thấm trong thớ vỏ cũng được tác giả cảm nhận bằng cách “nghe”, thật độc đáo! Nay xa cách, lòng tôi luôn tưởng nhớ: Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi, Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi, Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá! Khi viết bài thơ này, tác giả đang ở xa quê hương. Vậy mà, ông vẫn luôn nhớ về mảnh đất quê hương yêu dấu của mình. Nhớ màu nước biển xanh, nhớ những con cá bạc, nhớ cánh buồm trắng, nhớ con thuyền đang băng băng rẽ sóng ra khơi. Ông còn nhớ cả cái mùi muối mặn của biển quê nhà. Với những vần thơ bình dị mà gợi cảm, bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh đã vẽ ra một bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển, trong đó nổi bật lên hình ảnh khoẻ khoắn, đầy sức sống của người dân làng chài và sinh hoạt lao động làng chài. Bài thơ còn cho thấy tình cảm quê hương trong sáng, tha thiết của nhà thơ. -/- Tổng kết phân tích bài Quê hương Các bạn vừa tham khảo những gợi ý làm bài và một số bài văn mẫu hay phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh (chương trình Ngữ Văn 8). Truy cập kho tài liệu Văn mẫu lớp 8 để cập nhật thêm nhiều bài văn hay khác giúp bạn rèn luyện kỹ năng làm văn, chuẩn bị tốt cho các bài thi và kiểm tra môn Văn. Chúc các bạn học tốt !
0 notes