#Sử Thượng Đệ Nhất Tổ Sư Gia
Explore tagged Tumblr posts
cosobanhtrangmuoinhubinh · 1 year ago
Text
Khám Phá TÒA THÁNH TÂY NINH Tâm Linh Đạo Cao Đài
Tumblr media
Nổi danh là địa điểm tâm linh, Tòa Thánh Tây Ninh thu hút hàng triệu tín đồ mỗi năm. Độc đáo từ kiến trúc, thiêng liêng trong lịch sử, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh chắc chắn là một trong những công trình tôn giáo – nghệ thuật hàng đầu tại Châu Á mà du khách không thể nào bỏ lỡ. Bài viết sau đây của Cơ Sở Bánh Tráng Muối Như Bình sẽ chia sẻ đôi nét về nguồn gốc tôn giáo cội nguồn này của Tây Ninh, ngoài ra Như Bình còn có rất nhiều bài viết khác giới thiệu về những địa điểm du lịch Tây Ninh nổi tiếng khác TẠI ĐÂY.
Giới Thiệu Tòa Thánh Tây Ninh
Tòa Thánh Tây Ninh là một công trình kiến trúc tôn giáo – nghệ thuật, được xây dựng trên diện tích khoảng gần 12 km2, rộng hơn 2.000 m2, nổi bật với hai lầu chuông và trống cao khoảng 25m. Nơi đây có hàng rào bao bọc xung quanh và đa dạng các công trình: Tòa Thánh, bửu tháp, đền thờ Phật mẫu với quy mô lớn nhỏ khác nhau. Công trình được khởi công xây dựng vào năm 1933, chính thức hoàn thành vào năm 1955. Một điều đáng nói là Tòa Thánh được xây dựng từ cõi Siêu Nhiên. Trong những ngày lập đạo, các đệ tử Cầu Cơ Thông Linh cùng Thượng Đế. Và việc xây dựng Tòa Thánh Tây Ninh được hướng dẫn qua các bài cơ, từ bản thảo chi tiết đều được hướng dẫn cụ thể. Việc còn lại là các đệ tử quyên góp vật liệu xây dựng rồi ra công sức thực hiện Tòa Thánh. 
Tumblr media
Đường Đi Đến Tòa Thánh Tây Ninh
Cách trung tâm Thành phố Tây Ninh chưa đầy 5km về phía Đông Nam, đường đến Tòa Thánh rất nhanh chóng và thuận tiện cho khách du lịch. “Đất Thánh” Tây Ninh cách Sài Gòn chỉ khoảng 100km. Chính vì thế nên nhiều gia đình, hội nhóm lựa chọn tận hưởng cuối tuần với nhiều trải nghiệm độc đáo tại nơi đây, di chuyển bằng xe khách hoặc xe máy đều rất đơn giản. Thời gian di chuyển từ Sài Gòn đến Tây Ninh chỉ mất khoảng 2-3 tiếng tùy phương tiện.
Sơ Đồ Tòa Thánh Tây Ninh
Nổi bật nhất ở Toà Thánh là 2 tháp vuông lớn, cao vút, song song nhau. Đó là Bạch Ngọc Chung Đài và Lôi Âm Cổ Đài, thường gọi là Lầu Chuông và Lầu Trống. Mỗi tháp của Tòa Thánh Tây Ninh đều có 6 tầng, có mái ngắn bao quanh để phân chia các tầng. Khu chính điện là nơi thờ Thiên Nhãn – biểu trưng cho con mắt của Thượng Đế nhìn thấu tất cả những hành vi thiện, ác trên khắp nhân gian, để khen – phạt một cách công minh. Đồng thời, nơi đây cũng được thiết kế và bài trí một quả Càn Khôn khổng lồ, là biểu trưng thiêng liêng cho vũ trụ với Thiên Nhãn nằm trên vì sao Bắc Đẩu. Còn xung quanh là 3.072 vì tinh tú, biểu trưng cho 72 hành tinh địa cầu và 3.000 thế giới trong truyền thuyết của đạo Cao Đài. Tầng trệt của 2 tháp này có 2 khuôn hoa lớn hình chữ nhật, thiết kế ở giữa có 2 chữ Nho lớn trong hình bầu dục, bên Lầu Trống là chữ CAO và bên Lầu Chuông là chữ ĐÀ. Tầng kế bên trên Lầu chuông có đắp tượng Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung mặc Đạo phục đứng trên quả địa cầu, tay cầm quyển Thiên thơ. Còn ở  Lầu Trống thì có đặt một bức tượng Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh, mang Đạo phục đứng trên quả địa cầu, tay phải cầm một nhành hoa, tay trái xách giỏ hoa lam. Tầng thứ ba ở ngay bên trên nổi bật với kiến trúc mỗi bên có gắn 2 bông gió để thông hơi. Lên tầng thứ tư với kiến trúc độc – lạ hình chữ T rất lớn cùng màu trắng thanh thoát, đắp hình một bó hoa lớn, màu sắc sặc sỡ dưới ánh bình minh. Tầng thứ năm và thứ sáu của Tòa Thánh Tây Ninh có 4 góc đều gắn các khuôn bông thông gió, trang trí với nhiều màu sắc vô cùng đẹp mắt. Tầng thứ sáu là tầng cao nhất, được làm lan can bao quanh, để du khách có thể lên đứng trên đó chiêm ngưỡng toàn cảnh vùng Thánh địa.
Tumblr media
Hội Yến Tòa Thánh Tây Ninh
Nếu đến đây vào ngày 14 và 15 tháng 8 âm lịch hàng năm, du khách đừng bỏ lỡ cơ hội tham dự Đại lễ Yến Tòa Thánh Tây Ninh, hay còn gọi là Hội Yến Diêu Trì Cung. Một trong hai ngày lễ lớn nhất chốn Cao Đài. Đại Lễ được Hội Thánh Cao Đài được long trọng tổ chức duy nhất tại Báo Ân Từ – toạ lạc tại nội ô Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh ở thị trấn Hòa Thành. Ngoài tưởng nhớ đến Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên nương, đây còn là dịp để các tín đồ tĩnh tâm, suy niệm về đời mình. Đến với lễ hội một lần, du khách sẽ hòa mình vào đêm hội tâm linh tưng bừng, đầy hoa nến, tận hưởng niềm an lạc của các đạo hữu Cao Đài.
Tumblr media
Bên cạnh đó, du khách khi đến đây cũng cần nắm được một số lưu ý nho nhỏ: Giờ lễ chính là 12h00 trưa, các tín đồ có thể tranh thủ tham quan khuôn viên Cao Đài hoặc các danh thắng gần đó vào buổi sáng hoặc chiều sau khi hành lễ tại Toà thánh Tây Ninh. Ngoài ra, du khách có thể tham quan Tòa Thánh vào bất cứ khoảng thời gian nào trong ngày. Du khách lưu ý không mang giày vào bên trong Tòa Thánh, đặc biệt giữ gìn vệ sinh chung. Lối vào Đại Điện duy nhất là từ hai bên cửa, nam giới đi vào từ cửa bên phải, nữ giới đi cửa bên trái. Ngoài việc tham quan Tòa Thánh, ở Tây Ninh còn hút hồn du khách với các món ăn ngon được ăn kèm với Bánh Tráng Như Bình như bánh xèo rừng, thịt heo cuốn… hay đơn giản chỉ là món ăn vặt bánh tráng sa tế, bánh tráng muối tôm…  Cứ mỗi chiều đến, Tòa Thánh Tây Ninh trở thành nơi thư giãn vô cùng bình yên, dạo mát của người dân trong vùng cũng như du khách thập phương. Đến du hí Tây Ninh, du khách đừng bỏ lỡ cơ hội tham quan nơi đây.  Read the full article
1 note · View note
lnpop · 6 years ago
Photo
Tumblr media Tumblr media
When Xiao Yan saw Lin Feng for the first time, and became his.
well... I mean, technically its true
15 notes · View notes
phatbuttudo · 3 years ago
Photo
Tumblr media Tumblr media Tumblr media
Nguyễn Văn Đợt-Hòa thượng hay Giáo chủ Tà giáo?
 Nguyễn Văn Đợt (Tỳ Kheo ni. Thích Đạt Niệm) là con trai của ông Nguyễn Văn Nhung ở Bình Sơn, Long Thành, Đồng Nai.
Gọi là Tỳ Kheo ni vì Nguyễn Văn Đợt không được chấp thuận thọ Tỳ Kheo giới, người Mẹ nuôi là Ni trưởng Thích Nữ Đạt Nhiễn đã lập đàn truyền giới Tỳ Kheo cho Nguyễn Văn Đợt.
Nguyễn Văn Đợt
Ông Lê Thanh Liêm có người em họ là ông Nguyễn Long Châu cũng ở Đồng Nai. Sinh thời, Nguyễn Long Châu tự xưng là bậc cứu thế do Đức Phật Di Lặc sai xuống trần dọn đường trước khi Phật giáng sinh. Ông Châu đã thành lập riêng 1 Giáo phái trà trộn giáo lý Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Cao Đài để mê hoặc người.
Vào năm 1949 Nguyễn Long Châu về quê nhà Sa Đéc Đồng Tháp dùng chiêu trò quỷ quái tinh ranh lập am lập cố́c cất chùa khai đạo. Kể từ lúc này tà đạo rất mạnh số lượng tín đồ khoảng 2 triệu người. Họ hoạt động khắp Nam kỳ lục tỉnh bí mật chiêu dụ đàn bà và con gái nhà lành, còn những thanh niên trẻ tuổi cũng như những người đàn ông khỏe mạnh ai mà họ kêu gia nhập tà đạo của họ mà không theo thì họ tìm cách ám hại, cho nên thời điểm có cái biệt danh mà ai nghe đến cũng rợn người là (đạo đâm, đạo lụi).Chúng hoạt động mạnh nhất là ở vùng Châu Đốc, Cần Thơ và vùng Đồng Tháp Mười.Đến năm 1956-1957 ở Miền Tây xuất hiện một bật chân tu Phật giáo, người này là Sư tu hành chân chính cũng được rất nhiều người sùng kính và mến mộ về triết lý PHẬT HỌC của ông ta, vị ấy là Tổ Sư Minh Đăng Quang của Đạo Phật Khất Sĩ, sự xuất hiện của ông ta làm cho Nguyễn Long Châu và cái đám tà giáo này không được tín đồ tin tưởng, nên chúng liền lập mưu kế để ám hại Tổ Sư như thế nào cho nhất cử lưỡng tiện.
Kế hoạch được thành công, Tổ Sư Minh Đăng Quang được cho là vắng bóng.
Từ năm 1960 đến 1965,Nguyễn Văn Đợt là cháu lại xuất gia sống trong cửa thiền nên được Nguyễn Long Châu ưu ái coi như là đại đồ đệ của ông ta, đồng thời giao phó cho những nhiệm vụ quan trọng như:truyền bá và chiêu dụ những người Phật tử mê tín, cũng như thu tiền những người tín đồ khắp nơi đem về và kêu gọi các tín đồ nam nữ làm công quả ở những vùng đất mà ông Châu chuẩn bị làm chùa am để che mắt những việc làm bất chính của họ...Nguyễn Long Châu từng được Ngô Đình Diệm và một số đảng phái khác do người Nhậ̣t bảo hộ, nên Tà đạo này phát triển rất nhanh chóng.
Tôn sư. Minh Đăng Quang -Tổ sư Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam
Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ -Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo cũng bị Nguyễn Long Châu chỉ đạo đám Đệ tử  ám hại vì những việc làm của chúng bị đức Thầy vạch mặt nên bọn chúng cần phải thủ tiêu, sau đó đổ cho Việt Minh, Công giáo giết hại... Thật là một mũi tên trúng ba mục tiêu...
Cuối năm 1946, đầu năm 1947 Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, với tư cách là uỷ viên đặc biệt của uỷ Ban hành chánh Nam Bộ và là người lãnh đạo cao nhất của Hoà Hảo, đã về miền Tây theo thư mời của ông Trần Văn Nguyên, thanh tra Quân Khu 8 miền Tây để cùng tìm cách giải quyết xung đột giữa Hoà Hảo và Việt Minh. Theo một số người nắm đc lịch sử thì  Đệ tử của Nguyễn Long Châu đã cấu kết cùng  một số lãnh đạo thuộc phái quân sự ở miền Tây khi đó, nổ súng ở Đốc Vàng bắn chết Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ vào khoảng 9 giờ đêm ngày 16 tháng 4 năm 1947.
Đức Huỳnh Phú Sổ giáo chủ của Phật giáo Hòa Hảo chết dưới tay người Chú của Nguyễn Văn Đợt
Nhưng những việc làm của cái đám tà giáo này không qua được mắt của ông Ngô Đình Diệm. TT.Ngô Đình Diệm ra tay triệt hạ hết giáo phái nà̀y để trừ hậu họa về sau, kế hoạch của Ngô Đình Diệm được thực hiện nhanh chóng.Năm 1959 đám tà giáo của Nguyễn Long Châu được chính quyền họ Ngô dẹp bỏ, nhưng duy nhất chỉ có ông Nguyễn Long Châu là bị bắt kết án chung thân. Còn ông Nguyễn Đạt Niệm do xuất gia làm Sư Phật giáo nên vẫn bình an và điều khiển tín đồ bình thường.Con người Nguyễn Văn Đợt rất khéo léo đánh lừa được tất cả...để sau đó được đề cử chức vụ Thư ký Ban Liên Lạc Phật giáo Yêu Nước.
Sau khi thoát khỏi cái máy chém của Ngô Đình Diệm, nhưng Nguyễn Long Châu cũng lãnh án chung thân, Ngô Đình Diệm vẫn còn muốn khai thác những việc làm bí ẩn của vị giáo chủ tà đạo này thêm coi có những chiêu trò ma mị siêu phàm gì mà làm cho người mê muội, nên đem Nguyễn Long Châu ra tới tận Quảng Ngãi giam để cho Ngô Đình Cẩn quản lý.Còn Nguyễn Văn Đợt, lúc bấy giờ ở Sài Gòn, Miền Nam cùng với những đại đồ đệ của Nguyễn Long Châu vẫn tiếp tục điều hành những tín đồ u mê cuồng tín.Ông Đợt âm thầm cho đồng bọn gia nhập vô quân đội của ông Năm Lửa, Bảy Đổm ở vùng Bảy Núi Thất Sơn và các giáo phái khác vv.., nhằm mục đích để làm nội gián cho ông ta, nhưng mục tiêu chính là đốc xúi ném đá giấu tay, dương đông kích tây.Với chiêu trò tồi bại này làm cho người miền Tây đẫm máu... Theo tài liệu của những nhà mật thám của Pháp nêu ra, có khoản 200.000 người chết do cái đám tà giáo Nguyễn Long Châu dùng chiêu trò ném đá giấu tay.Sự việc cứ vậy cho đến năm 1963,,,??Có biến cố xảy raNgô Đình Diệm bị ám sát,Khi nhà lao được Chế độ Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa tiếp nhận, thì Nguyễn Long Châu được đồng bọn giải cứu .
Cuộc tranh cử giữa Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu được diễn ra vào năm 1967,,, Nguyễn Văn Thiệu đắc cử tổng thống của Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa, do đa số người Miền Nam ủng hộ với lời hiệu triệu của ông Nguyễn Long Châu và Nguyễn Văn Đợt...
Vào khoảng 3 giờ sáng ngày cuối tháng 3/1975. Các chiến sĩ cách mạng bất ngờ vào chùa Phật Đường Tự tại Quận 5, nơi đây là căn cứ đầu não của tà đạo phản động Nguyễn Long Châu.. Gồm có, du kích địa phương và các chiến sĩ biệt động Sài Gòn cùng một số lãnh đạo mật của Cách mạng...Nguyễn Long Châu đã bị bắt theo bản án:Âm mưu cấu kết, lợi dụng tôn giáo,Nhằm chống lại Cách mạng...Khám xét tại chùa các chiến sĩ thu được rất nhiều vũ khí, máy truyền tin, máy in và rất nhiều giấy tờ có liên quan như truyền đơn vv..Cùng một số đồng bọn và khoảng mười mấy người phụ nữ...Nghe được tin Nguyễn Văn Đợt âm thầm từ Sài Gòn về An Giang để xếp đặt lại nội bộ và có ý lên làm Giáo Chủ, nhưng cũng còn một số đàn anh trong tổ chức  không đồng ý...
Nguyễn Long Châu bị Công an Việt Nam  bắt giữ
Hai tháng sau Miền Nam hoàn toàn Giải Phóng. Có rất nhiều đồng bọn của tà đạo này trốn bỏ đi về phía trời Tây... Còn Nguyễn Văn Đợt thì rất bình thản như không có việc gì hết vì Đợt đang ở trong ngoại hình Đại đức. Thích Đạt Niệm, Đại tá biệt đội Sài Gòn có nhiều công lao với Chính quyền Cách Mạng nên bình chân như vạ.Anh em, môn đệ nào bất tuân, không theo thì ông tìm cách thủ đoạn Chính trị để loại trừ. Đây là một con người rất nguy hiểm trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.Chùa Pháp Trí hiện nay vẫn thường xuyên nhận được tài trợ từ các đệ tử cũ ở Hải Ngoại  của Nguyễn Long Châu.Nguyễn Văn Đợt tức  "Hòa thượng" . Thích Đạt Niệm bản thân có công lao to lớn với Cách Mạng, tham gia Biệt động Sài Gòn sát hại địch. Nhưng có chú họ là Nguyễn Long Châu từng tham gia cộng tác với Chế độ cũ. Vậy vấn đề đặt ra thật sự Nguyễn Văn Đợt là Việt Cộng hay Việt Gian?
1 note · View note
Text
Yến sào tốt cho sức khỏe cũng như hỗ trợ điều trị nhiều bệnh
Hồ sơ yến xuất khẩu đi MỹTừ xa xưa cách đây hơn 400 năm thì yến sào đã được biết đến là một trong tám món ăn cao hương mỹ vị của các vua chúa cũng như những nguời chức cao vọng trọng và cực kỳ giàu sang mới được thưởng thức.
Tumblr media
1. Theo kết quả nghiên cứu, chim yến có 84 loài
1.1 Tổ yến có thể ăn được là tổ yến của chim yến hàng
Ở Việt Nam có hai loài yến hông xám thường gặp là yến núi và yến hàng. Tổ yến núi được làm bằng nước bọt và lông chim, không ăn được.
Tổ yến hàng được làm hoàn toàn bằng nước bọt, ăn được. Chim yến hàng đi kiếm ăn từ mờ sáng cho đến tối mịt mới về tổ.
Thức ăn của chúng là kiến, ruồi, muỗi, bọ rầy, bọ rùa, bọ xít, bướm, chuồn chuồn kim, nhện và một số côn trùng khác. Tổ yến hay yến sào (gọi theo âm Hán) là thực phẩm bổ dưỡng có giá trị cao.
1.2 Tổ yến được mệnh danh là “vàng trắng”
Giá tổ yến loại tốt có thể lên tới 2.000–3.000 USD/kg. Vì thế người ta còn gọi tổ yến là “vàng trắng”. Kết quả phân tích cho thấy tổ yến có hàm lượng đạm cao (40–50%), lượng mỡ lại rất thấp (0–0,13%) và có đủ các loại axit amin cần thiết cho cơ thể con người.
Trong tổ yến có 10–15 nguyên tố đa vi lượng rất cần thiết cho sự tạo máu, ổn định thần kinh, kích thích tạo tinh trùng và trứng. Tổ yến còn có hơn 8% axit sialic, rất cần cho sự kích thích phân bào để đổi mới cơ thể.
1.3 Ăn “vàng trắng” có tác dụng gì ?
Yến sào tốt cho sức khỏe cũng như hỗ trợ điều trị nhiều bệnh : Người ta còn phát hiện ở tổ yến một số chất hoạt tính sinh học kích thích phân chia, sinh trưởng tế bào bạch cầu ngoại biên, và tin tưởng rằng sau khi được điều chế, chất này có thể giúp chữa bệnh ung thư vú và HIV/AIDS có hiệu quả hơn.
Theo những nghiên cứu về thành phần, công dụng của yến sào cho thấy: Khi dùng tổ yến có tác dụng bổ phổi, bổ huyết, thanh nhiệt, ổn định thần kinh trí nhớ, kích thích tăng trưởng tế bào, tăng sức đề kháng cơ thể; dùng thường xuyên sẽ đẹp da, chống lão hoá, tăng tuổi thọ.
2. Người Hà Nội xưa thưởng thức yến sào như thế nào ?
Hơn mười năm trước, giáo sư Trần Quốc Vượng sai “hiền đệ” của mình là Trần Hồng Kiên Trung đi tìm hiểu cách chế biến và thưởng thức yến của người Hà Nội “ba mươi sáu phố phường”, “ngàn năm văn vật”.
Ông Trung đã gặp các cụ bà Bích Tần, Phát Đạt, Đức Lợi (tuổi từ 70–83), người Hà Nội gốc, thuộc tầng lớp “thượng lưu” ngày trước, nhà có “bát ăn, bát để”.
Các cụ cho biết có 3 cách ăn yến. Trước tiên, ngâm tổ yến vào nước lã chừng nửa giờ đến một giờ, cho tổ tơi ra; rồi nhặt sạch lông chim, tạp chất dính vào tổ; rút từng sợi yến ra đặt vào đĩa hay bát. Sau đó, các bậc “bề trên” thích món yến gì thì chế biến theo món ấy.
2.1 Thứ nhất là món “yến thả” hay món “yến thả gà”
Đây là món ăn mặn hay món khai vị trước khi ăn cỗ. Phải chọn gà giò hay gà mái tơ, cắt tiết, làm lông, mổ bụng, lấy sạch lòng, gan… rồi cho vào nồi nước đun “sủi tăm”; để lửa to quá thịt gà chín quắt, mất ngon.
Khi thịt gà chín tới, vớt ra, xé từng miếng nhỏ. Đem sợi yến đã làm sạch (chừng nửa tổ), hấp cách thủy cho vừa chín tới (chừng 20–30 phút), rồi thả vào bát nhỏ (loại bát ăn chè).
Đặt gà xé phay lên trên, chan nước dùng thật trong, thật nóng… Đặt bát “yến thả” trên đĩa, rồi bưng lên dâng các cụ xơi khai vị.
2.2 Thứ hai là món chè yến
Đun nước đường kính, đổ lòng trắng trứng và vỏ trứng bóp vụn vào cho quyện lấy tạp chất trong nước đường, rồi dùng muôi vớt ra.
Như thế nước đường mới thật trong. Múc nước đường đun sôi ra bát nhỏ, thả yến đã hấp chín vào là được bát chè yến.
2.3 Thứ ba là món yến hấp đường phèn
Chọn loại đường phèn trong vắt, bỏ vào bát nhỏ, thả yến đã làm sạch lên trên (có khi cho thêm lát sâm) rồi hấp cách thuỷ cho chín.
3. Món ăn cách đây hơn 400 năm dâng lên vua chúa
3.1 Chè yến
Tumblr media
Cho yến đã làm sạch, hạt sen, đậu xanh vào nồi; đổ nước vừa phải, đun sôi 30 phút. Sau đó cho đường phèn vào, đun sôi 15 phút nữa. Múc chè yến ra chén cho nguội. Ăn trước khi đi ngủ.
3.2 Súp yến (món ăn của người Trung Hoa)
Yến đã chế biến nấu lẫn với cước cá mập, hạt sen, táo Tàu, tôm bóc vỏ, nấm mèo, nấm hương, gia vị đủ dùng. Món này thường thấy bán ở một số tiệm, chỉ có khoảng 1% yến, còn 99% là bún Tàu giả yến và cước cá mập.
3.3 Yến nhồi bồ câu (món ăn cho vua)
Bồ câu ra ràng được làm sạch, bỏ nội tạng. Tổ yến đã chế biến, cước cá mập, nấm mèo, nấm hương được nhồi vào bụng bồ câu, chưng cách thuỷ cho nhừ.
Rút xương bồ câu, vo tròn khối “thịt — yến” này và cho lên chảo rán vàng. Đây là món ăn “hàn”, nên phải giữ cho ấm bụng.
4. Cách ăn yến theo sách xưa ghi lại
Vào lúc 19 giờ, lên giường nằm, tĩnh tâm đến khoảng 20–21 giờ. Có người mang yến đã nấu kỹ để nguội, bón cho ăn trong tư thế nằm. Ăn xong tráng miệng bằng nước sôi để nguội rồi ngủ.
Xưa kia, yến sào là món ăn của vua chúa. Ngày nay, người bình thường cũng có thể thưởng thức món ăn giàu dinh dưỡng này.
Yến sào là món ăn cao cấp, cầu kỳ của kho tàng văn hoá ẩm thực Việt Nam. Việc chế biến, thưởng thức món ăn này đòi hỏi một nghệ thuật tinh tế.
Thế nhưng ngày nay, việc ăn yến của một số người rất “loạn xạ”: vừa ăn yến vừa uống rượu, la hét, đàn hát… Có món ăn “đầu sổ” mà không biết thưởng thức cho đúng cách thì coi như chỉ “tiêu hoá” một nửa!
5. Mua Yến sào Khánh Hòa xuất khẩu đi Mỹ ở đâu?
Yến sào là sản phẩm quý hiếm và bổ dưỡng không ai có thể phủ nhận. Tuy nhiên để tìm được địa chỉ uy tín mua sản phẩm thật đảm bảo chất lượng thì khách hàng cần sự cân nhắc tham khảo thật kỹ để tránh tình trạng “tiền mất tật mang” nhé.
Cửa hàng 719 CMT8, phường 6, quận Tân Bình là cửa hàng chuyên kinh doanh các sản phẩm Yến sào xuất khẩu đi Mỹ… với chất lượng tốt nhất và giá cả không thể nào hợp lý hơn tại TPHCM hiện nay.
Tumblr media
Hồ sơ yến xuất khẩu đi Mỹ
Cửa hàng này chuyên cung cấp các loại sản phẩm yến sào xuất khẩu đi Mỹ với chất lượng cao, mẫu mã được thiết kế khá bắt mắt. Thêm vào đó, nơi đây còn sở hữu đội ngũ nhân viên kinh doanh năng động, chuyên nghiệp, có kiến thức sâu về sản phẩm, khả năng tư vấn tốt giúp khách hàng hoàn toàn yên tâm khi đặt niềm tin tại đây.
Khỏi phải nói, để vượt qua hàng loạt các tiêu chuẩn khắt khe của FDA và các cơ quan kiểm soát an toàn thực phẩm Mỹ, sản phẩm này chắc chắn phải có chất lượng hàng đầu và vượt trội.
Tumblr media
Soup, cháo yến vừa ngon vừa bổ, giá chỉ… 100 ngàn
Tumblr media
Chè Yến cực kỳ thơm ngon,.. giá chỉ từ 80 ngàn.
Thêm 1 điểm cộng nữa đó là ở đây có những món chè yến rất ngon với giá khá mềm: chỉ với 80 ngàn. Hàng ngày vào mỗi buổi chiều tối, rất đông lượng khách ghé đến đây để thưởng thức các món ăn ngon, bổ và rẻ này.
Đa số khách hàng đánh giá đây là cửa hàng kinh doanh yến sào lớn nhất và uy tín nhất tại TPHCM hiện nay.
Mong rằng thông qua bài viết này, các bạn có thêm kiến thức về cách sử dụng Tổ Yến, cũng như tìm được một địa chỉ uy tín để có thể mua được những sản phẩm yến sào tốt nhất dành tặng cho bạn bè và người thân của mình.
Xem thêm bài viết tại : Yen sao xuat khau di My
1 note · View note
lemodo · 5 years ago
Text
Những người bạn đồng minh anh hùng
NHỮNG NGƯỜI BẠN ĐỒNG MINH ANH HÙNG - Thưa các bạn, từ trước đến nay, đây là bài viết hay I, Trung thực, công= và lẽ phải I của một T/giả người Mỹ, nói về cuộc chiến máu lửa của VIỆT NAM.
Có bản tiếng Anh kèm theo ở dưới...xin mời đọc và nhận xét.--H.M.
NHỮNG NGƯỜI BẠN ĐỒNG MINH ANH HÙNG
Đây là bản dịch từ nguyên tác có tựa Heroic Allies, Harry F. Noyes III. Tác giả là cựu chiến binh Việt Nam trong binh chủng Không Quân. Sau cuộc chiến trở về, ông lấy được văn bằng cao học về Nghiên Cứu Á Châu từ trường Đại Học Hawaii. Bài này được đăng trong tạp chí Vietnam, số tháng 8 – 1993.
Nguyễn Quân (dịch)
***
Người Lính VNCH
Họ vóc dáng nhỏ con, nói chuyện líu lo như chim hót, ưa thêm nước mắm vào mọi món ăn, và thường hay nắm tay nhau.
Không lạ gì lính Mỹ khi qua viễn chinh ở vùng Đông Nam Á - hầu hết đều là trai trẻ, học thức bình thường, được rập khuôn trong một xã hội quá cao ngạo và quá ít hiểu biết về những nền văn hóa khác – khó lòng cảm thông được với những người chiến binh Miền Nam VN.
Điều đáng tiếc hơn nữa là nhiều cựu chiến binh lúc trở về lại đi gia nhập vào hàng ngũ của những nhóm gây rối, trốn lính và hoạt đầu chính trị để bêu xấu danh dự của một đạo quân nay không còn có thể tự đứng ra bào chữa được mình. Nhục mạ một đạo quân đã mạng vong trong chiến trận do nước Mỹ bỏ rơi là một hành vi đê tiện, không xứng danh là người chiến binh Hoa Kỳ.
Chắc một số người sẽ cho rằng đìều khẳng định của tôi là quá đáng. Vậy chứ tôi phải làm thế nào để bào chữa cho họ đây? Mọi người đều 'cho' họ là một lũ bất tài, phản trắc và hèn nhát, phải như vậy không?
Không, hoàn toàn sai. Bài viết này sẽ trưng ra một vài chứng cớ hùng hồn để đánh đổ cái huyền thoại thô bỉ này, đồng thời cũng sẽ khảo sát xem do đâu phát sinh ra huyền thoại ấy.
Dĩ nhiên phải công nhận là quân lực Nam Việt không toàn hão. Người chiến binh của họ phải chiến đấu với những kẻ lãnh đạo tồi, những quân nhân hèn nhát, chịu đựng những cuộc khủng hoảng, những biến cố tai ương, bất lợi. Quân lực Mỹ ở Đông Nam Á cũng không hơn gì đâu.
Trên một số phạm vi như cơ cấu tổ chức, tiếp liệu, quản trị và lãnh đạo, quân lực Nam Việt thua bên phía Mỹ.Nhưng có ai trông mong gì khác hơn từ một quốc gia đang phát triển, mới vừa thoát khỏi ách thuộc địa lại phải lao đầu vào một cuộc chiến sinh tử với một quân thù hùng mạnh được cả một khối Cộng Sản hỗ trợ?
Thực tế mà nói, những nhược điểm của Nam Quân cũng hệt như của quân Mỹ thời chiến tranh Độc Lập của Hoa Kỳ (American War of Independence), dù rằng nước Mỹ hồi cuối thế kỷ thứ 18có nhiều điểm thuận lợi như: cái qui mô của cuộc Chiến Tranh Cách Mạng (Revolutionary War) nhỏ hơn và dễ chi phối hơn; quá trình thuộc địa Hoa Kỳ đã giúp hình thành được những chính quyền tự phát địa phương, cho phép đất nước này hun đúc nên những vị lãnh tụ tài ba thật sự; quân Anh không quá ngoan cố như quân BV; và quân đồng minh Pháp thời bấy giờ đã không bỏ rơi nước Mỹ non trẻ như kiểu người Mỹ bỏ rơi Nam Việt Nam.
Nhưng dù sao chăng nữa, cơ cấu tổ chức, tiếp liệu, quản trị và ngay cả lãnh đạo đi chăng nữa vẫn chưa phải là những phẩm chất để dựa vào đó mà phỉ báng quân lực Nam Việt.
Có hai câu hỏi đánh động đến đề tài tranh cãi. Phải chăng người chiến binh Nam Việt thiếu chí khí, lòng quả cảm, sự can trường và lòng ái quốc mà người Mỹ đã nêu ra trong lời miệt thị và gán lên đầu họ mọi trọng tội vì đã đánh mất cái giá tự do của vùng Đông Nam Á? Quân Mỹ có khá gì hơn đồng minh của mình để dám khinh khi họ như vậy? Trả lời cho cả hai câu hỏi, tôi xin trân trọng khẳng định là 'Không!'
Chứng cớ quá rõ ràng. Trận Tổng Công Kích Tết 68 coi như sẽ đập tan được ý chí chiến đấu của Nam Việt. Thay vì bỏ cuộc, quân NV đã kháng cự mãnh liệt và hữu hiệu: không một đơn vị nào tan rã hay tháo chạy. Ngay cả cảnh sát cũng chiến đấu, họ đương đầu với quân chính qui đối phương trang bị bằng vũ khí hùng hậu với chỉ bằng những khẩu súng Colts. Dựa theo báo cáo, sau trận này số người xin đăng lính cao đến nỗi chính quyền của quốc gia này phải đình hoản bớt việc thu nhận thêm tân binh.
Sài Gòn - Mậu Thân 1968
Trong cuộc Tổng Tấn Công năm 72, quân trú phòng NV bị vây hãm tại An Lộc đã giữ vững được vị trí của mình trước một lực lượng ghê gớm của quân thù cả về người lẫn hỏa lực kinh hồn của đại pháo và hỏa tiễn. Sau trận này tôi được tiếp xúc với một cố vấn Mỹ để nghe tường thuật lại mẫu chuyện một tiểu đội lính NV trong vùng được cử công tác thanh toán ba chiến xa, đã hành động như thế nào. Họ chu toàn nhiệm vụ hạ được một chiếc, rồi quyết định tìm cách bắt sống hai chiếc còn lại. Theo tôi nhớ thì họ chộp được một chiếc còn một chiếc bỏ chạy, thế là mấy người lính chạy bộ rượt theo đến cuối đường. Việc thi hành thượng lệnh của mấy người lính này có thể không đúng tác phong quân kỷ, nhưng lối hành xử cho thấy tinh thần chiến đấu cao và thế chủ động mà mọi binh sĩ NV đều có. Dĩ nhiên điều tôi kể chưa đủ để bào chữa được cho lời tố giác tội hèn nhát.
Để minh chứng hơn, hãy nhìn vào Nam Việt Nam ở thời điểm cuối cùng vào năm 1975 khi đất nước này đang trong tình trạng tuyệt vọng khi biết rõ Mỹ không ra tay cứu giúp nữa (cả nhiên liệu lẫn đạn dược). Thế mà một đơn vị NV tầm cở một sư đoàn đã cầm chân được bốn sư đoàn BV trong suốt hai tuần giao tranh ác liệt tại Xuân Lộc. Chỉ riêng một trận này thôi sự anh dũng còn nổi bật hơn bất kỳ một chiến công nào có thể tìm thấy trong chiến sử Hoa Kỳ. Quân NV sau đó đành phải lui binh vì không quân của họ không còn bom để yểm trợ chiến đấu.
Xuân Lộc - 1975
Có lần tôi xem được một phim tài liệu truyền hình do một phóng viên người Úc quay tường thuật về cuộc chiến. Khác với các phóng viên HK, anh ta dành hết thời gian bên cạnh các binh sĩ NV. Anh ta ghi rõ tinh thần chiến đấu của Nam quân bằng những thước phim của mình. Anh còn kể rằng anh từng ghé qua một làng do địch kiểm soát và nghe nói lại rằng lính CS còn sợ lính NV hơn cả lính Mỹ. Lý do chính là lính Mỹ bao giờ cũng ồn ào, nên khi nào lính Mỹ đến là họ biết ngay. Chỉ vậy thôi thì có gì họ phải kinh sợ nếu quân NV không là những chiến binh nguy hiểm.
Tuy vậy, chứng cớ quan trọng nhất chứng tỏ ý chí chiến đấu của quân nhân Miền Nam đến từ hai sự kiện hiển nhiên, những sự kiện vốn thường hay bị lãng quên hoặc che giấu để che đậy sự thất bại của người Mỹ ở Việt Nam.
Sự kiện thứ nhất: Chiến tranh VN đã khởi sự đâu đó bảy năm trước khi lực lượng chính của Hoa Kỳ đổ đến và sau đó lại tiếp tục thêm chừng năm năm sau khi quân Mỹ rút ra. Trong khoảng đó phải có ai đó đang chiến đấu mà kẻ đó là người Miền Nam chứ còn ai khác hơn.
Sự kiện thứ hai: Quân đội NV thiệt mất một phần tư triệu binh sĩ trên chiến trường. Theo tỉ lệ dân số thì tương đương hai triệu lính Mỹ chết (một con số gấp đôi tỗn thất của Mỹ trong tất cả các chiến tranh gộp lại). Cho rằng người ta không chịu chiến đấu thì sao họ lại chết nhiều như vậy.
Vậy thì do đâu mà NV phải chịu mang tai tiếng xấu?
Dĩ nhiên có lúc họ tỏ ra bất tài và hoảng loạn. Lính Mỹ cũng vậy thôi. Tôi biết một câu chuyện qua một đơn vị trưởng pháo binh HK rằng khi hay tin đại đội bộ binh bảo vệ mình bị địch đánh tan tành, các pháo thủ đâm hốt hoảng bắn loạn xạ khiến đám quân yểm trợ này hoảng loạn chạy có cờ giữa hai lằn đạn.
Một biến cố đơn thuần đó không thể đem ra mà gán cho cả quân lực HK là hèn nhát thì thỉnh thoảng có sự tan hàng của người đồng minh của nước Mỹ cũng không có nghĩa là tất cả chiến binh Miền Nam là hèn. Thế mà có kẻ lại suy nghĩ như vậy, qua cách nói bởi một số cựu chiến binh, bởi những chính trị gia muốn bào chữa cho một chính quyền Mỹ đã để cho Nam VN bị suy vong.
Sự thật được minh bạch hơn qua mẫu đối thoại sau đây phát xuất từ hai thế kỷ trước, khi một phụ nữ Anh hỏi viên công tước xứ Wellington rằng lính Anh có bao giờ bỏ chạy trên chiến trường không.
Viên công tước đáp, 'Ngoài chiến trường người lính nào cũng có bỏ chạy cả, thưa bà!'
Một nghiên cứu qua loa trong quân sử cũng xác minh được điều này. Những trận đánh thời Nội Chiến (Civil War) cho thấy sự can trường lẫn sợ hãi liên tục khi lên khi xuống, cả những đơn vị phe Confederate lẫn Union thoạt đầu xông pha rất hăng hái, sau đó co cụm lại rồi bỏ chạy trước hỏa lực kinh hồn trước khi tập hợp lại tiếp tục chiến đấu. Chưa có đạo quân nào tự cho mình có nhiều hành động hy sinh anh hùng bằng hai đạo quân này, tuy nhiên họ cũng có lúc chạy tán loạn nơi một chiến trường quá đẫm máu.
Văn sĩ S. L. A. Marshall mô tả sự hoảng hốt bỏ chạy của một đơn vị bộ binh HK thời Đệ Nhị Thế Chiến khi quân cảm tử Nhật vừa tấn công vừa hò hét. Đơn vị thứ hai nằm lại quyết chiến và nhanh chóng tiêu diệt hết đám quân Nhật (chừng 10 tên) và vở lẽ ra là đa số bọn chúng không có võ khí.
Nếu sự việc tương tự xảy đến với một đơn vị Nam Việt, những tên tự xưng là học giả uyên thâm lập tức ra rả lập đi lập lại rằng ấy là chứng cớ rành rành về hành động khiếp nhược của quân đội Miền Nam.
Tại sao vậy? Chúng ta ắt đã ngầm có câu trả lời rồi. Mọi sự còn tùy là cái quân đội đó thuộc chủng tộc gì, nói thứ ngôn ngữ nào. Sự thật đốn mạt là cái quân đội Nam Việt phải chịu mang tai tiếng xấu bắt nguồn từ lòng kỳ thị chủng tộc lẫn tinh thần sô-vanh nước lớn của người Mỹ.
Tôi xin tự minh chứng về khuynh hướng bóp méo sự thật vốn tràn lan rộng khắp. Lúc vừa mới đặt chân đến Nam VN vào tháng Sáu năm 1969, lập tức tôi được chứng kiến những trường hợp bày tỏ thái độ ngu dốt và khinh miệt của một số người Mỹ dành cho người dân cũng như quân đội quốc gia này.
Các binh sĩ Mỹ trắng cũng như đen, luôn cả những người trong các dịch vụ thuộc dân sự như truyền thông báo chí thẩy đều như nhau. Thái độ căm ghét này dành cho xứ sở cùng dân tộc VN kinh khiếp thay lại có một sức mạnh truyền nhiễm kinh hồn.
Một viên đại úy Mỹ tôi được biết có trình độ tốt nghiệp đại học về ngành điện ảnh từ một trường có tiếng tăm (coi như họ được đào tạo để có cái nhìn chuyên môn hơn người thường). Có lần anh ta sau công tác tạm thời ở Thái Lan trở lại VN đã hết lời ca ngợi dân Thái.
'Dân Thái người ta họ cho con đi học đàng hoàng,' anh ta nói, 'khác với tụi nhỏ con của người Việt ở đây' . Khi tôi chỉ cho anh ta thấy không đâu xa mà ngay kế bên căn cứ còn có một trường học thì anh ta ngạc nhiên nhưng không hề tỏ ra ân hận về nhận xét của mình. Hằng trăm trẻ nhỏ trong đồng phục quần xanh áo trắng cắp sách đến trường mỗi ngày mà bất cứ ai có mắt đều nhìn thấy. Vậy mà tên làm phim này lại không.
Chua chát thay, dân VN vốn quí trọng sự học còn hơn dân Mỹ, họ đã nâng trình độ người đi học từ 20 lên đến 80 phần trăm dù chiến tranh đang dày xéo chung quanh (dù ngay cả các giáo viên vẫn thường xuyên bị sát hại bởi đối phương). Vậy mà vẫn còn bị tên làm phim này gán cho cái tội là một xứ sở không trường không lớp.
Vì phải viễn chinh nơi một xứ sở xa lạ, xa gia đình, người Mỹ này đã tự hun đúc cho mình một lòng thù ghét đất nước VN, hắn muốn tin rằng người Việt là đáng khinh. Do vậy, điều quan trọng đối với hắn là phải tin tưởng rằng người Việt không có trường học dành cho con cái họ; và chính cảm xúc đó làm mù đi thị giác của hắn.
Hãy nghĩ tưởng đến cảm tưởng của khối quân Mỹ ít học thức hơn khi phải trực diện với nền văn hóa xa lạ trong một môi trường đầy căng thẳng! Có lẽ ta không nên đổ lỗi cho các binh sĩ ấy về thái độ kém cõi của mình. Trời đất còn biết là giới chỉ huy HK chỉ nổ lực qua loa để giáo dục cho binh sĩ mình về đất nước VN và tính chất của cuộc chiến.
Tuy vậy, đó không phải là lý do để bào chữa cho các cựu chiến binh giả vờ cho là mình hiểu về những gì mình thấy ở VN. Ta phải tri ân các cựu chiến binh chiến tranh VN về đức tính quả cảm, sự hy sinh và lòng trung thành đối với tổ quốc. Nhưng tính quả cảm và sự hy sinh không đi đôi với sự hiểu biết. Chiến đấu ở VN không làm cho người lính thành những chuyên gia về đất nước hay cuộc chiến đó, cũng như có con không phải làm cho người mẹ trở thành một chuyên gia về khoa phôi thai (embryology) .
Những gì người lính Mỹ làm ở VN không dạy cho họ chi tiết hơn về nền văn hóa, xã hội, chính trị, vân vân và vân vân của Nam Việt. Một ít người Mỹ có học lỏm bõm được vài tiếng Việt; ngay cả có một vài người đọc được sách báo VN; và chẳng bao nhiêu người đọc sách vở viết về xứ sở Việt Nam bằng Anh ngữ.
Ngoại trừ các cố vấn, ít người Mỹ nào làm việc gần gũi với những người Việt, có chăng họ có chung đụng với những người làm thư ký, giặt giũ, và nữ hầu bàn do quân đội HK mướn.
Điều quan trọng hơn cả là ít quân nhân HK nào từng chứng kiến sự chiến đấu của binh sĩ NV. Ít ai có bao giờ xét đến thái độ khác biệt hiện hữu trong tâm tư những chiến binh nơi chiến trường ấy, quân Mỹ sang chiến đấu một năm rồi về, họ yên tâm là gia đình họ đều đang bình yên ở nơi chính quốc; trong khi người lính Miền Nam thì khác, hằng ngày họ phải lo lắng cho sự an nguy của gia đình mình, họ thừa hiểu rằng chỉ có cái chết hay chỉ có bị thương ở mức độ tàn phế họ mới ra khỏi được đời sống quân ngũ. Đương nhiên người Việt ắt phải dùng một thước đo riêng để quyết định cái gì là quan trọng hơn để chiến đấu.
Giới nhà báo không khá gì hơn. Thử xét xem về một cuộc tường thuật truyền hình thiên vị mà tôi đã được xem trong đó người phóng viên tố giác không quân NV mặc dù đã Việt Nam Hóa chiến tranh, đã không chịu bay, để cho KQ HK phải lãnh những sứ mạng nguy hiểm chống lại BV.
Nói cho đúng thì chính HK không chịu để cho NV bay ra Miền Bắc (ngoại trừ một vài phi vụ trong thời gian mở màn của các cuộc dội bom). Giới lãnh đạo HK muốn kiểm soát việc ném bom vì có thế HK mới có thế dùng nó như một công cụ để mặc cả trong bàn thương thảo.
Bởi không muốn NV xen vào việc ném bom, HK cố ý chuyển giao cho NV những trang bị không thích hợp cho các phi vụ đánh phá Miền Bắc. Nam Việt không có phi cơ chiến đấu, vũ khí, máy bay tiếp tế xăng trên không, hoặc cả những thiết bị điện tử cấn thiết cho những phi vụ ấy. Chính người Mỹ đã quyết định làm như vậy.
Người phóng viên nêu thắc mắc kể trên hoặc đã quá khờ khạo hoặc đã chọn sự tảng lờ để thực thi hành động báng bổ người đồng minh của HK. Căn cứ vào những lời lẽ vu khống cùng giọng điệu om sòm, tôi đi tới kết luận là sự thiếu kiến thức của anh ta hoàn toàn do cố ý.
Một dẫn dụ khác về tính thiên vị của giới truyền thông là vào thời điểm Khe Sanh bị bao vây. Nếu ta hỏi một ngàn người Mỹ có đơn vị tham chiến ở Khe Sanh, hầu hết ai nghe nhắc đến trận ấy hẳn đều biết TQLC Mỹ chiến đấu ở đó. Nhưng nếu có hơn một người trong số một ngàn người đó biết có một tiểu đoàn BĐQ NV cũng đã san sẻ sự cam khổ ấy thì quả là điều đáng ngạc nhiên. Trong khi ấy còn có những đơn vị NV khác cũng dự phần vào những cuộc hành quân yểm trợ bên ngoài căn cứ đang bị vây hãm này. Báo chí Mỹ coi đồng minh của HK như không đáng để tường thuật đến trừ khi họ phạm điều gì ô nhục, vì thế những chiến sĩ chiến đấu can trường kia trở nên những người hùng vô hình tại Khe Sanh.
Dương Đức Cung tại đồi 689 - Khe Sanh
Sự thiên vị này, lính Mỹ lẫn giới truyền thông HK đã đồng ca rõ rệt khi tường thuật về cuộc hành quân bất ngờ vào lãnh thổ Lào năm 1971.
Thử xem lại một tài liệu truyền hình được đưa ra một thập niên trước đây. Tài liệu này bao gồm cuộc phỏng vấn một số binh sĩ Mỹ trong khi chiến trận tại Lào đang diễn ra. Những quân nhân HK này, đứng bình yên bên lãnh thổ NV, có những lời nhận xét cay độc, kỳ thị dành cho các binh sĩ NV đang chiến đấu ở bên kia biên giới. Người phóng viên truyền hình này bày tỏ rằng lính Mỹ hiểu rõ tình hình hơn các tướng lãnh của họ.
Cuộc tấn công lên đất Lào dĩ nhiên là nguồn gốc của bức hình nỗi tiếng cho thấy hình ảnh một người lính NV đang đeo trên càng một phi cơ trực thăng để tìm cách vượt thoát. Hình ảnh này được liên tục tung ra trước công chúng Mỹ như là 'chứng cớ cho thấy người Miền Nam là đáng khinh tởm.
Quả thực đây là một thủ thuật xưa như trái đất để xuyên tạc sự thật bằng sức mạnh của hình ảnh. Những gì xảy ra bấy giờ đúng ra là như vầy: Quân NV gặp phải lực lượng đông đảo của đối phương trong khi quân Mỹ không yểm trợ được như đã hứa vì hỏa lực phòng không của địch quá mạnh. Có nhiều báo cáo cho biết phi hành đoàn trực thăng phải đạp những két đạn đại bác xuống đầu các đơn vị NV từ độ cao 5000 bộ trở lên chỉ với hy vọng quân NV sẽ nhận được. Các phi cơ này quả tình là không dám xuống thấp hơn.
Trong phạm vi vấn đề này, thử xem nhận xét của một sĩ quan HK, Đại Tá Robert Molinelli, người đã mục kích tận mắt, được đăng tải trong Armed Forces Journal (Tập San Quân Đội) số ngày 19 tháng Tư, 1971 như sau: 'Một tiểu đoàn NV gồm 420 người bị bao vây bởi một trung đoàn đối phương đông đến từ 2500 đến 3300 quân trong suốt ba ngày ròng. Phía HK không thể nào tăng viện cho đơn vị này. Họ phải chiến đấu đến gần cạn kiệt hết đạn dược mới bắt đầu phá vòng vây với vũ khí và đạn dược thu được của địch quân. Đơn vị này còn mang theo những đồng đội bị thương cũng như đã chết. Hình ảnh phi cơ trinh sát chụp được cho thấy rải rác chung quanh đơn vị này là xác của 637 quân địch.
Đơn vị này chỉ còn 253 người trong tình trạng khả thi chiến đấu khi họ chạy đến được một đơn vị NV khác. Một số ít trong số 17 kẻ hoảng sợ đã bám càng trực thăng để thoát thân. Số còn lại, tất cả đều không.
Giờ đây, chắc có người cho rằng đeo càng trực thăng để thoát cho nhanh, dù rằng dễ làm mồi cho hỏa lực phòng không mà phi cơ lại bay cao và nhanh. Nhưng ngoài chuyện ấy ra, một trường hợp cá biệt, việc lui binh trong khi đang giao chiến ác liệt (một chiến thuật khó khăn nhất trong binh pháp) lại bị phóng đại thành một lời buộc tội cho cả một quân đội, một quốc gia và tệ hơn nữa cả một dân tộc?
Câu trả lời rằng đó là do chính lòng kỳ thị chủng tộc. Vì lẽ những người bám càng trực thăng là người ngoại chủng. Thử hỏi kẻ đó là người Mỹ hay người Anh thì sao, cam đoan không sai rằng ta sẽ cảm thông cho là người đó đang phải chịu hoàn cảnh nghiệt ngã.
Minh chứng cho điều này có thể thấy người Mỹ đã phản ứng như thế nào đối với lính Anh trước cuộc triệt thoái của họ hồi thời gian đầu Thế Chiến Thứ Hai.
Nơi đây cũng có những hình ảnh tủi hổ xảy đến cho lính Anh ở Dunkirk cũng như tại một số nơi khác. Ở Dunkirk một hạ sĩ quan để tái lập trật tự phải chĩa súng đại liên vào đồng ngũ của mình đang hốt hoảng trèo lên tàu. Trên một tàu khác, các binh sĩ dùng báng súng dộng liên hồi vào người một sĩ quan để ngăn không cho ông này leo lên tàu qua ngỏ tháp súng. Tại đảo Crete, một lữ đoàn quân Tân Tây Lan đã tạo một vòng đai an toàn với lưỡi lê chĩa ra ngoài ngăn không cho các quân Anh đang hoảng loạn tràn ngập lên được tàu mình.
Tuy thế, hình ảnh nước Anh đơn độc chống lại Hitler năm 1940 lại là một hình ảnh hào hùng. Điều này được minh chứng bởi sự kiện hoàn toàn hiển nhiên, ngay cả những biến cố đơn lẻ như vừa nêu bật ở trên vẫn không làm lu mờ được cái hình ảnh toàn cảnh về đức tính can trường và xả thân cứu nước của dân tộc này.
Quả thật quân Nam Việt đã tỏ ra xuất sắc vào những ngày cuối cùng của Miền Nam qua sự bảo vệ Xuân Lộc vô cùng anh dũng.
Tuy rằng có nhiều lý do như vậy. Thẳn hoặc có nhiều lý do để tin rằng, nếu có sự ủng hộ trung thành của phía người Mỹ ắt Nam Quân sẽ chứng tỏ cho thế giới thấy thêm nhiều Xuân Lộc khác nữa, và có lẽ họ cũng đã cứu được ��ất nước họ không bị mất.
Vấn đề được nêu ra không phải là khả năng chiến đấu của quân Nam Việt như thế nào nhưng mà xét xem người Mỹ sẽ hành xử ra sao nếu tình huống tương tự xảy đến với họ.
Sự thật là quân Mỹ nếu bị HK bỏ rơi như chính NV đã phải chịu, có lẽ họ cũng sẽ không khá chi hơn.
Hãy nhớ rằng: năm 1974 Hoa Kỳ đã cắt viện trợ cho Nam Việt một cách thê thảm một vài tháng trước khi đối phương mở cuộc tấn công sau cùng. Kết quả của sự cắt viện trợ là chỉ một ít nhiên liệu và đạn dược gửi sang cho Miền Nam. Các phương tiện để vận chuyển cả trên không lẫn trên bộ đều phải bị bỏ xó vì không có cơ phận thay thế. Quân lính NV đi hành quân không có bình điện để liên lạc vô tuyến, y tá trên chiến trường không có đủ y dược cụ căn bản. Trong những ngày tháng sau cùng của cuộc chiến, quân Nam Việt phải chiến đấu thắt lưng buộc bụng, họ được phép bắn ba viên mỗi ngày, khẩu phần này áp dụng cho cả súng trường lẫn đại bác.
Tình trạng tồi tệ đến nỗi ngay chính Văn Tiến Dũng, người chiếm được Miền Nam cũng chấp nhận sự thật là khả năng lưu động và hỏa lực của đối thủ của mình chỉ còn phân nửa trước đây. Vậy thì ngoài sự thiếu thốn vật chất này ra, sự chiến đấu kiểu nhà nghèo này cũng tác động lớn lên tinh thần chiến đấu của người lính NV.
Quân BV với trang bị đầy ắp, với những chiến xa tối tân, với những xe cơ giới chở quân hiện đại, họ đã đánh thẳng vào Miền Nam suy sụp này bằng cuộc tấn công phủ đầu.
Phải, quân NV đã gác lại, đã vứt bỏ chiến cụ (không vứt cũng coi như vứt vì có cơ phận đâu mà thay), cả đạn dược cũng bị bỏ lại (số lượng mà họ đã chắt chiu dành dụm được, mang theo đến phút cuối cho tới lúc biết là đã quá muộn màng rồi không có cơ hội để bắn hay mang theo được nữa, họ thừa biết họ sẽ không bao giờ có thêm để mà bắn). Vậy thì lỗi nơi ai? Họ hay người Mỹ?
Phải, quân NV đã triệt thoái khỏi các tỉnh phía bắc một cách vụng về và khá muộn màng, đưa đến tình trạng hỗn loạn và suy sụp. Nhưng làm thế nào chính quyền Miền Nam có thể bỏ mặc dân chúng sớm hơn được, trước khi áp lực địch quá lớn buộc họ phải làm thế?
Đã có lúc Nam VN hy vọng B-52 trở lại để giúp họ chặn bớt làn sóng xâm lăng của Cộng Sản. Khi biết rằng điều ấy sẽ không xảy đến, tinh thần chiến đấu của họ bị suy sụp cũng không có gì đáng ngạc nhiên.
Không còn nhuệ khí chiến đấu, nhiều binh sĩ quay ra đào ngũ - làm thế không phải vì họ hèn nhát hay không có tinh thần hy sinh để bảo vệ đất nước mình, nhưng vì họ không muốn xả thân cho một sự nghiệp biết chắc là đang trên đà phá sản trong khi gia đình họ đang khẩn thiết cần đến mình.
Quân Mỹ liệu sẽ làm gì khá hơn được chăng nếu cũng lâm vào tình huống như Nam VN hồi 1975? Liệu quân Mỹ có chiến đấu ngon lành với quân xa, truyền tin đều hỏng, hệ thống quân y què quặc, thiếu thốn nhiên liệu và đạn dược, và không yểm thì nhỏ giọt hoặc hầu như không có. Với một tình trạng bết bát như thế mà phải đối đầu với một kẻ địch có quyết tâm cao, hùng mạnh, trang bị tối tân, sung mãn. Tôi e là không thắng nổi.
Liệu NV có thắng được trận 1975 nếu chính phủ Mỹ vẫn giữ vững sự cam kết, và tiếp tục chi viện cho NV không kém với chi viện mà khối CS dành cho Miền Bắc?
Câu trả lời là không biết được. Ít ra họ có một cơ hội để đọ sức, cái cơ may mà người Mỹ phản trắc đã tước mất của họ. Hiển nhiên là họ có thể chiến đấu hữu hiệu hơn. Cho dù họ có bại trận họ cũng ngã gục một cách hào hùng trong một trận đánh lưu danh muôn thuở cho hậu duệ, để tiếp tục chiến đấu dưới hình thức du kích chiến rập khuôn theo kiểu Afghanistan.
Cho dù NV có đại bại, sự ủng hộ hết mình của Hoa Kỳ ít ra cũng khiến họ có thể nhún vai mà nói rằng dù sao họ cũng đã giúp đỡ hết mình rồi. Đằng này người Mỹ chưa có hết mình giúp đỡ. Những kẻ nào muốn trốn tránh sự thật ấy bằng cách quay ra báng bổ NV và quân đội ấy là không phải lẽ.
Trước một tội ác tày trời bỏ mặc cho nhân dân Miền Nam rơi vào tay CS, người Mỹ sau này quay ra đi làm điều tốt kể ra đã quá muộn màng. Nhưng nếu biết nhìn lại và công nhận mình đã sai lầm khi sỉ nhục lương tâm của người Miền Nam ấy thì chưa có muộn đâu. Cũng chưa muộn màng gì nếu ta biết khởi đầu vinh danh đúng mức những thành tích họ đã đạt được cùng những hành động hào hùng họ đã tạo nên để bảo vệ cho lý tưởng tự do.
Harry F. Noyes III
Nguồn: https://hung-viet.org/a13959/nhung-nguoi-ban-dong-minh-dung-cam-heroic-allies
2 notes · View notes
solitude555 · 3 years ago
Text
Đức Phật và Nàng ( Bất phụ như lai - Bất phụ khanh
Biết đến “Đức phật và nàng” từ rất lâu rồi nhưng vẫn còn do dự một phần là vì mình là người theo Đạo Phật- bởi tác phẩm đề cập đến tình yêu của nhà xuất gia - những người vốn nên tránh xa sắc dục . Nhưng không , sau khi đọc rất nhiều review - bạn đọc có - thậm chí còn là người đã xuất gia . Người đó viết rằng :"Mình là người xuất gia, cấm đọc truyện ngôn tình để khởi sắc dục. Nhưng quả thật đây là một câu chuyện tình đầy sự trọn vẹn với người tu hành. Vẫn nhập niết bàn để theo phật vẫn yêu Ngải Tình và âm thầm hướng về cô ấy. Sư phụ tôi nói, hãy đọc để trải nghiệm khổ vì yêu là gì, vì vậy khi thấy sư thầy cúi mặt xuống đất hay ngước lên trời thì mong các phật tử hiểu cho chúng tôi lỡ rung vì bạn mất rồi. Rung nhưng không động sẽ là cách tốt nhất để chúng tôi cầu an cho người xuất gia thương "
Nhân vật nam chính trong “Đức phật và nàng” có lẽ là nam chính kinh điển nhất trong lịch sử ngôn tình. Không phải hoàng thượng, một vị vương gia hay một công tử phong trần tuấn dật nào đó, mà người ấy là Kumarajiva – một vị hòa thượng đắc đạo nổi tiếng của phật giáo. Ngài Cưu Ma La Thập là dịch giả kinh phật vĩ đại, là nhân vật có thật trong lịch sử. Như vậy, một vấn đề được đặt ra ở đây là, liệu tác phẩm này có đụng chạm, thậm chí là làm méo mó đi hình tượng của một nhân vật vĩ đại của nhân loại? Tất nhiên là không! Chương Xuân Di là một cây bút vô cùng thông minh, đã từng đi đây đi đó và có nguồn kiến thức sâu rộng về phật giáo, bởi vậy những điều cô viết ra chắc chắn trùng khớp với lịch sử, và những gì được cô thêm vào cũng có căn cứ hợp logic. Chắc hẳn sẽ có những độc giả phân vân không biết có nên đọc tác phẩm này không, bởi truyện đề cập đến tình yêu của nhà sư – những người vốn phải tránh xa sắc dục, nên việc một vị hòa thượng có vợ có con thật khó để chấp nhận. Tuy nhiên theo mình được biết, ngài Cưu Ma La Thập trong lịch sử thật sự phá giới kết hôn với công chúa Khâu Từ, ngài không sống trong chùa như các nhà sư khác mà có phủ đệ riêng, sống vui vầy bên vợ con
Qua ngòi bút của tác giả Chương Xuân Di, vị sư tăng nổi tiếng hiện lên rất người, mà đã là người thì đều có sinh lão bệnh tử, sinh ly tử biệt, vì yêu nên sợ hãi, vì yêu nên ưu phiền, vì yêu mà…ghen. Nhưng vượt lên tất cả, Kumarajiva vẫn không quên đi lý tưởng mà Phật Tổ đã phó thác cho mình.
Bởi vậy mà Chương Xuân Di đã đổi tên từ " Đức Phật và Nàng " thành " Bất Phụ Như Lai Bất Phụ Nàng "
" Nơi ấy trên lưng lạc đà , những dòng kinh văn trôi bồng bềnh
Nơi ấy sau bão giông , sau những chông gai , một bậc danh sư đã đến với cõi đời
Nơi ấy tình yêu vượt qua thời gian , vượt trên thế tụ để trở thành huyền thoại
Nơi ấy , họ đã gặp gỡ , đã tin yêu , đã trao gửi và sánh bước bên nhau "
Ai muốn tìm hiểu về ngài Cưu Ma La Thập có thể xem https://youtu.be/Rf2UkLq5kRY
Tumblr media Tumblr media
1 note · View note
daycattocgiare · 3 years ago
Text
Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Một đời khát vọng đưa đạo pháp cống hiến cho nhân sinh
Xuyên suốt cuộc đời Thiền sư Thích Nhất Hạnh là khát vọng cống hiến
Theo cáo phó của tăng đoàn Làng Mai, Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch lúc 0h ngày 22/1 tại Tổ đình Từ Hiếu (phường Thủy Xuân, TP Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế) ở tuổi 96. 
Trao đổi với PV Dân Việt, Thượng toạ Thích Thanh Huân - Uỷ viên Thư ký Hội đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó Chánh văn phòng Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam chia sẻ, sinh thời Thiền Sư Thích Nhất Hạnh là bậc chân tu, lãnh đạo Phật giáo có tầm ảnh hưởng lớn ở phương Tây và tích cực thúc đẩy vì hoà bình.
Tumblr media
Thiền sư Thích Nhất Hạnh thỉnh chuông tại Làng Mai (Pháp), năm 2009. Ảnh: Plumvillage.org
"Cả cuộc đời mình Thiền sư Thích Nhất Hạnh đem tinh thần đạo pháp phụng sự cuộc sống. Nếu để nói về phẩm hạnh của Ngài không thể kể hết được. Ngài là tăng sĩ, tu sĩ Việt Nam có ảnh hưởng rất lớn kể cả trong nước và trên thế giới. Xuyên suốt hành trình cuộc đời Thiền sư đó là khát vọng đưa tinh thần đạo pháp cống hiến thiết thực cho nhân sinh, xã hội, đất nước con người. 
Thiền sư luôn lan tỏa tư tưởng hoà bình và tinh thần đó xuyên suốt trong cuộc đời hoằng pháp, tịnh tu của Ngài. Hoà bình trong nội tâm để chuyển hoá nội tâm của mình, thay đổi đấu tranh, bạo động xã hội ở ngoài cuộc sống", Thượng toạ Thích Thanh Huân chia sẻ.
Tumblr media
Tại chùa Từ Hiếu (Huế), Thiền sư Thích Nhất Hạnh (bìa phải) đứng bên "ngôi đền gốc rễ" của mình lần đầu tiên, kể từ khi ông rời đi vào tháng 5/1966. Ảnh: Paul Davis/Touching Peace Photography
Thượng toạ Thích Thanh Huân chia sẻ, nhiều lần được yết kiến, đàm đạo với Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại các trung tâm tu tập Làng Mai hoặc ở một số nơi khác. 
"Thiền sư có công hạnh hoằng hóa rộng rãi và ảnh hưởng sâu dày trên khắp thế giới. Ngài đồng thời là một nhà văn hóa, một nhà văn, một nhà thơ, một học giả, một sử gia và một nhà hoạt động hòa bình. 
Thiền sư là một trong những người tiên phong mang đạo Bụt, đặc biệt là pháp môn chánh niệm đến xã hội phương Tây và góp phần xây dựng một cộng đồng Phật giáo dấn thân cho thế kỷ XXI với hàng nghìn đệ tử xuất gia, hàng triệu đệ tử tại gia và hàng trăm triệu độc giả trên khắp năm châu", Thượng Toạ Thích Thanh Huân chia sẻ.
Cuộc đời không ngừng nghỉ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh 
Thiền sư Thích Nhất Hạnh sinh năm Bính Dần (1926) tại làng Thành Trung (huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế) và là con kế út trong gia đình có sáu anh chị em. Cha ngài là cụ ông Nguyễn Đình Phúc, mẹ là cụ bà Trần Thị Dĩ. 
Năm 1942, ngài xuất gia tại Tổ đình Từ Hiếu với Thiền sư Thanh Quý Chân Thật, được ban pháp danh Trừng Quang. Tháng 9/1945, ngài được thọ giới Sa di với Bổn sư, được ban pháp tự Phùng Xuân.
Tumblr media
Thiền sư trong lễ kỷ niệm sinh nhật lần thứ 92 tại Thái Lan, tháng 10/2018. Sau một cơn đột quỵ vào tháng 11/2014, thiền sư Thích Nhất Hạnh chuyển đến Thái Lan để tham gia cùng các đệ tử trẻ từ Việt Nam tại trung tâm thiền làng Mai Thái Lan mới của mình. Ảnh: Plum Village Community of Engaged Buddhism
Năm 1947, ngài theo học Phật học đường Báo Quốc, Huế. Năm 1949, ngài rời Huế vào Sài Gòn tiếp tục tu học. Ngài bắt đầu sự nghiệp sáng tác với pháp hiệu Thích Nhất Hạnh, một trong nhiều bút hiệu của Thiền sư. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đồng sáng lập chùa Ấn Quang, làm giáo thọ Phật học đường Nam Việt.
Thiền sư phối hợp kiến thức của Ngài về nhiều trường phái thiền khác nhau cùng với các phương pháp từ truyền thống Phật giáo Thượng tọa bộ, những nhận thức sâu sắc từ truyền thống Phật Giáo Đại thừa, và một số phát kiến của ngành tâm lý học đương đại phương Tây để tạo thành cách tiếp cận mới đối với thiền.
Ông là người đưa ra khái niệm "Phật giáo dấn thân" trong cuốn "Việt Nam: Hoa sen trong biển lửa". Trong cuộc phỏng vấn với nhà báo John Malkin hơn một thập niên trước, Thiền sư Thích Nhất Hạnh giải thích về Phật giáo dấn thân: "Khi bom dội lên đầu chúng sinh, bạn không thể ngồi trong thiền viện. Thiền là nhận thức về những gì đang xảy ra, không chỉ bên trong mà còn xung quanh cơ thể và cảm xúc của bạn".
"Phật giáo phải gắn liền với cuộc sống thường nhật, với nỗi đau của bạn và những người xung quanh. Bạn phải học cách giúp đỡ một đứa trẻ bị thương trong lúc duy trì hơi thở chánh niệm. Bạn phải giữ cho bản thân khỏi lạc lối trong hành động. Hành động phải đi cùng thiền", Thiền sư nhấn mạnh.
Tumblr media
Thiền sư Thích Nhất Hạnh dẫn đầu thiền hành với cộng đồng của mình tại Làng Mai, tháng 6/2014. Ảnh: Plum Village Community of Engaged Buddhism
Thập niên 1960, ông lập nên trường Thanh niên Phụng sự Xã hội (SYSS), một tổ chức từ thiện giúp dựng lại các làng bị đánh bom, xây trường học, trạm xá, và hỗ trợ những gia đình vô gia cư sau chiến tranh ở Việt Nam.
Năm 1966, ông lập ra dòng tu Tiếp Hiện đồng thời thành lập nhiều trung tâm thực hành và thiền viện trên khắp thế giới. Ông ở nước ngoài từ sau khi Hiệp định Paris được ký kết năm 1973, cư ngụ chủ yếu tại Tu viện Làng Mai, vùng Dordogne, miền nam nước Pháp.
Là một trong những người thầy về Phật giáo ở phương Tây, những lời dạy và phương pháp của thiền sư Thích Nhất Hạnh thu hút sự quan tâm của nhiều thành phần đến từ các quan điểm tôn giáo, tâm linh và chính trị khác nhau. Ông đưa ra cách thực hành chánh niệm thường được điều chỉnh cho phù hợp với tri giác phương Tây.
Tumblr media
Triển lãm giới thiệu 80 tác phẩm thư pháp và 145 đầu sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại Đại học Mỹ thuật Việt Nam hồi tháng 4/2021. Ảnh: Hà Tùng Long
Chánh niệm là sự biết rõ những gì đang có mặt, đang xảy ra. "Khi nắm tay một em bé, ta hãy để tâm một trăm phần trăm vào bàn tay em. Khi ôm người thương trong vòng tay cũng thế. Hãy thực sự có mặt, thực sự tỉnh thức. Điều này trái ngược hẳn với cách sống và làm việc của ta trước đây. 
Chúng ta từng có thói quen làm nhiều việc cùng một lúc: vừa trả lời e-mail, vừa nói điện thoại; trong khi đang họp về một dự án này, ta viết xuống những ghi chú cho một dự án khác. Thay vì luôn làm nhiều việc cùng một lúc, ta phải tập thói quen chỉ làm mỗi lần một việc", Thiền sư viết trong cuốn sách "Quyền lực đích thực". Ông cho rằng thực hành Chánh niệm giúp nhận diện niềm đau nỗi khổ và chuyển hóa chúng.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết hơn 100 cuốn sách, trong đó hơn 40 cuốn bằng tiếng Anh, với một số tác phẩm nổi bật như: Đường xưa mây trắng, Thả một bè lau, Phép lạ của sự tỉnh thức, Hạnh phúc cầm tay, Phật trong ta, Chúa trong ta...
Cuộc đời ông gắn liền với các hoạt động vì hòa bình. Tháng 6/1965, Thiền sư viết thư cho nhà hoạt động nổi tiếng Mỹ Martin Luther King Jr. để kêu gọi ông công khai chống lại Chiến tranh Việt Nam. Một năm sau, hai người lần đầu tiên gặp nhau tại Chicago, thảo luận về hòa bình, tự do và cộng đồng. Trong cuộc họp báo sau đó, King đã phản đối mạnh mẽ Chiến tranh Việt Nam. Năm 1967, King đề cử Thiền sư cho Giải Nobel Hòa bình nhưng năm đó không ai được trao giải.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh tổ chức các khóa tu thiền cho người Israel và người Palestine, khuyến khích họ lắng nghe và học hỏi lẫn nhau; thuyết giảng kêu gọi các nước đang tham chiến hãy đình chiến và tìm kiếm giải pháp ôn hòa cho các mâu thuẫn. Năm 2005, ông tổ chức buổi diễu hành vì hòa bình ở Los Angeles với sự tham gia của hàng nghìn người, theo Christian Science Monitor.
Tháng 5/2013, trong một buổi diễn thuyết kéo dài 3 giờ tại sân vận động ở Hàn Quốc, Thiền sư bàn về mối quan hệ giữa Triều Tiên và Hàn Quốc: "Vũ khí hạt nhân là một trở ngại đối với mối quan hệ tốt đẹp giữa hai miền bán đảo Triều Tiên. Nó phản ánh nỗi sợ hãi, tức giận và nghi ngờ của Triều Tiên bởi nếu không, họ đã không xây dựng vũ khí hạt nhân. Vì hòa bình, điều cơ bản cần làm không phải việc loại bỏ vũ khí hạt nhân mà là loại bỏ sự sợ hãi, tức giận và nghi ngờ trong mỗi người. Qua đó, việc hòa giải sẽ trở nên dễ dàng".
Theo thiền sư Thích Nhất Hạnh, chìa khóa để hòa giải chính là việc "biết lắng nghe". Ông cũng khuyên các chính trị gia nên học theo con đường của Phật giáo để giúp ích cho đàm phán và hòa giải.
Sau hơn 4 thập niên rời xa quê hương, ông về Việt Nam lần đầu vào năm 2005 và năm 2007, ông đi khắp đất nước, tổ chức những khóa tu, buổi pháp thoại và gặp gỡ các tăng ni phật tử. 
Đầu năm 2007, với sự đồng ý của Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ông tổ chức ba trai đàn chẩn tế lớn tại Việt Nam với tên gọi "Đại trai đàn Chẩn tế Giải oan", cầu nguyện và giải trừ oan khổ cho những người từng chịu hậu quả của chiến tranh.
Tại Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc tại Hà Nội, ông được mời về Việt Nam với tư cách là người thuyết trình chủ đề chính. Năm 2014, Thiền sư trải qua quá trình hôn mê do xuất huyết não. Sau khi phục hồi, năm 2016, Thiền sư từ Pháp đến tính dưỡng ở Trung tâm tu học Làng Mai ở Thái Lan để được gần quê hương hơn. Năm 2017, ông một lần nữa trở lại Việt Nam và thăm chùa Từ Hiếu.
Với những hoạt động không ngừng nghỉ của mình, Thiền sư Thích Nhất Hạnh trở thành nhà lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn thứ hai ở phương Tây, chỉ sau Đạt Lai Lạt Ma, AP đánh giá trong một bài viết ra năm 2009. 
Ngày 28/10/2018, Thiền sư Thích Nhất Hạnh trở về Tổ đình Từ Hiếu để tĩnh dưỡng trong sự chào đón của chư tăng và phật tử. Ông quyết định ở lại đây cho đến ngày viên tịch.
0 notes
lnpop · 6 years ago
Photo
Tumblr media
so i’ve been reading  History’s Number 1 Founder lately
This is what I imagine Lin Feng to look like
1 note · View note
vedepphatgiao · 3 years ago
Link
0 notes
trungtamdaynghetocvn · 3 years ago
Text
Di nguyện của Thiền sư Thích Nhất Hạnh trước khi viên tịch: "Đừng xây tháp mộ gì cho thầy"
Ngày 22/1, Hoà thượng Thích Huệ Phước, Chánh thư ký Ban trị sự GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế thông tin, Thiền sư Thích Nhất Hạnh tân viên tịch vào lúc 0 giờ 0 phút ngày 22/1 (tức ngày 20 tháng Chạp năm Tân Sửu), tại Tổ đình Từ Hiếu.
Sau những năm tháng an dưỡng tại Tổ đình Từ Hiếu, Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Niên Trưởng Trú trì Tổ đình Từ Hiếu đã thâu thần thị tịch tại Tổ đình, nơi Người đã xuất gia cách đây 80 năm.
Tumblr media
Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch tại Tổ đình Từ Hiếu, phường Thủy Xuân, TP Huế lúc 0h ngày 22/1, ở tuổi 96. Ảnh: Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thiền sư Thích Nhất Hạnh năm nay 95 tuổi, xuất gia tu học tại chùa Từ Hiếu, người thành lập Đạo tràng Mai Thôn tại Pháp và nhiều trung tâm tu học khác tại Mỹ, Đức, Hồng Kông, Thái Lan. Sau hơn 40 năm kể từ khi rời Việt Nam, Thiền sư trở về quê nhà hoằng pháp lần đầu tiên vào năm 2005 và sau đó là vào năm 2007, 2008… Năm 2017, Thiền sư Thích Nhất Hạnh từ Thái Lan về Việt Nam, trở về Tổ đình Từ Hiếu tịnh dưỡng và lưu trú cho đến hôm nay. 
Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Sư ông Làng Mai có công hạnh hoằng hóa rộng rãi và ảnh hưởng sâu dày trên khắp thế giới. Thiền sư đồng thời là một nhà văn hóa, một nhà văn, một nhà thơ, một học giả, một sử gia và một nhà hoạt động hòa bình. 
Tumblr media
Thiền sư Thích Nhất Hạnh được biết đến qua những buổi thuyết giảng công cộng cho cả hàng chục nghìn người và hơn 120 tác phẩm xuất bản giá trị. Ảnh: Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thiền Sư được biết đến qua những buổi thuyết giảng công cộng cho cả hàng chục nghìn người và hơn 120 tác phẩm xuất bản giá trị. Thiền sư đã mở ra hướng đi và phát triển những pháp môn thực tập với nhiều khoá tu dành cho các nhà giáo dục, thanh thiếu niên, nghệ sĩ, doanh nhân, các nhà lãnh đạo, y bác sĩ… Bên cạnh sự nghiệp hoằng pháp Thiền sư cũng đã tổ chức nhiều Đại Giới Đàn và lễ Truyền Đăng, Việt hoá Nghi lễ và tân tu Giới bản để tiếp dẫn hậu lai.
Mục sư Martin Luther King vinh danh Thiền sư như là "một Thánh tông đồ của hòa bình và bất bạo động" khi đề cử Người cho giải Nobel Hòa bình vào năm 1967. Trong gần 40 năm sống xa quê hương, Thiền sư là một trong những người tiên phong mang đạo Bụt, đặc biệt là pháp môn chánh niệm đến xã hội phương Tây và góp phần xây dựng một cộng đồng Phật giáo Dấn thân cho thế kỷ XXI với gần 1250 đệ tử xuất gia, hàng triệu đệ tử tại gia và hàng trăm triệu độc giả trên khắp năm châu. Rất nhiều học trò của Thiền sư đã gặt hái được nhiều hoa trái trong sự thực tập và tiếp nối được sự nghiệp hoằng hoá mà Thiền sư trao truyền suốt những thập kỷ qua.
Tumblr media
Triển lãm giới thiệu 80 tác phẩm thư pháp và 145 đầu sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại Đại học Mỹ thuật Việt Nam hồi tháng 4/2021. Ảnh: Hà Tùng Long
Trước đó, tháng 11/2014, Thiền sư Thích Nhất Hạnh gặp một biến cố về sức khỏe, được chẩn đoán là tai biến mạch máu não. Sau đó, Thiền sư đã được đưa sang Hoa Kỳ điều trị, sự phục hồi sức khỏe của Thiền sư được cho là "kỳ diệu".
Khi trở về tổ đình Từ Hiếu tịnh dưỡng và lưu trú, Thiền sư Thích Nhất Hạnh hàng ngày được các tăng ni chăm sóc, lo việc ăn uống, đi lại. Những ngày thời tiết đẹp, Thiền sư ngồi trên xe lăn đi thiền hành trong khuôn viên chùa.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết tâm thư gửi đến các Chư tăng, nói rõ ý nguyện sau khi trở về Tổ đình Từ Hiếu. Ông dặn các đệ tử của mình: "Nếu một ngày thầy mất, đ��ng xây tháp mộ gì cho thầy. Tốn kém tiền của. Tốn đất của dân. 
Dân mình còn nghèo lắm. Hãy hỏa táng thầy. Tro cốt thầy, hãy chia đều cho các Thiền viện của Làng Mai trên khắp thế giới rồi rải trên những con đường mà hàng ngày các con đi thiền hành. Làm như thế, ngày ngày, thầy và các con vẫn đi thiền hành chung".
https://trungtamdaynghetoccom.blogspot.com/2022/01/di-nguyen-cua-thien-su-thich-nhat-hanh.html
0 notes
vietnamzen · 3 years ago
Photo
Tumblr media
CÁO PHÓ: THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH VIÊN TỊCH Tổ Đình Từ Hiếu Đạo Tràng Mai Thôn Tu Viện Vườn Ươm - Làng Mai Thái Lan Nam Mô Đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni Kính khải bạch chư tôn Trưởng lão Hòa thượng, chư Thượng tọa Đại đức Tăng Ni, Kính thưa quý vị Thân hữu, Thiền sinh và Phật tử cư sĩ các giới khắp nơi trên thế giới, Sau những năm tháng an dưỡng tại Tổ đình Từ Hiếu, vào lúc 00:00 ngày 22 tháng 01 năm 2022 (nhằm ngày 20 tháng Chạp năm Tân Sửu), Thiền sư pháp hiệu trước Nhất sau Hạnh, Niên Trưởng Trú trì Tổ đình Từ Hiếu đã thâu thần thị tịch tại Tổ đình, nơi Người đã xuất gia cách đây tám mươi năm. Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Sư Ông Làng Mai là bậc thầy hướng dẫn tâm linh có công hạnh hoằng hóa rộng rãi và ảnh hưởng sâu dày trên khắp thế giới. Thiền sư đồng thời là một nhà văn hóa, một nhà văn, một nhà thơ, một học giả, một sử gia và một nhà hoạt động hòa bình. Thiền Sư được biết đến qua những buổi thuyết giảng công cộng cho cả hàng chục ngàn người và hơn 120 tác phẩm xuất bản giá trị. Thiền sư đã mở ra hướng đi và phát triển những pháp môn thực tập với nhiều khoá tu dành cho các nhà giáo dục, thanh thiếu niên, nghệ sĩ, doanh nhân, các nhà lãnh đạo, y bác sĩ… Bên cạnh sự nghiệp hoằng pháp Thiền sư cũng đã tổ chức nhiều Đại Giới Đàn và lễ Truyền Đăng, Việt hoá Nghi lễ và tân tu Giới bản để tiếp dẫn hậu lai. Mục sư Martin Luther King vinh danh Thiền sư như là “một Thánh tông đồ của hòa bình và bất bạo động” khi đề cử Người cho giải Nobel Hòa bình vào năm 1967. Trong gần 40 năm sống xa quê hương, Thiền sư là một trong những người tiên phong mang đạo Bụt, đặc biệt là pháp môn chánh niệm đến xã hội phương Tây và góp phần xây dựng một cộng đồng Phật giáo Dấn thân cho thế kỷ XXI với gần 1250 đệ tử xuất gia, hàng triệu đệ tử tại gia và hàng trăm triệu độc giả trên khắp năm châu. Rất nhiều học trò của Thiền sư đã gặt hái được nhiều hoa trái trong sự thực tập và tiếp nối được sự nghiệp hoằng hoá mà Thiền sư trao truyền suốt những thập kỷ qua. #NammoShykamuniBuddha🙏🙏🙏 #NammoAmitabaBuddha🙏🙏🙏 #NammoBodhisattvas🙏🙏🙏 #ThichNhatHanh #SuOngLangMai #zenMaster #meditationMaster #Vietnamzen #Vietmeditation #ZenBuddhism https://www.instagram.com/zen_viet/p/CZA8-VJPo9c/?utm_medium=tumblr
0 notes
phatbuttudo · 3 years ago
Photo
Tumblr media
Vụ thầy tu hấp diêm trẻ em ở chùa Từ Vân, Khánh Hòa: Đừng đùa với pháp luật và đạo lí!
Vụ việc được nhiều tờ báo đưa tin với những tình tiết cụ thể. Bản thân ông thầy chùa này cũng thừa nhận. Hội Phật giáo TP Cam Ranh đã đuổi “Thượng tọa” Thích Thông Anh (tức Nguyễn Nhanh) ra khỏi chốn tu hành. Vậy mà… chỉ hơn một tháng sau bỗng nhiên, ông thầy tu này lại được “minh oan”?…
Sự thật hiển nhiên không thể chối cãi!
Hành vi cưỡng hiếp cháu Huỳnh Thị Kim Kh (sinh ngày 1/9/1994) từ lúc cháu 13 tuổi trú thôn Tân Sơn 2, xã Thành Hải, TP Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, được thể hiện tại nhiều chứng cứ sát thực.
Đó là đơn tố giác của bà Phan Thị Hà (mẹ cháu Kh) gửi Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Ninh Thuận, được cơ quan này cho cháu Kh đi giám định pháp y và sau đó, ngày 5/1/2010 bà Hà gửi tiếp đơn đến Phòng CSĐT tội phạm về TTXH Công an tỉnh Khánh Hòa. Theo cháu Huỳnh Thị Kim Kh, hành vi hiếp dâm của “sư phụ” không chỉ diễn ra vào đêm 26/12/2009, khi cháu đã về Phan Rang – Tháp Chàm đang lo toan việc học hành thì “sư phụ” bất ngờ gọi ra để hoan lạc, mà trước đó, từ năm 2007 – 2008 ông thầy chùa này đã nhiều lần hiếp cháu.
Vụ việc bị bại lộ, Thượng tọa Thích Thông Anh sai 4 đệ tử gồm: Thích Giác Quốc, Thích Giác Không, Thích Chúc Kỹ, Thích Chúc Lạc cầm 200 triệu đồng của Thích Thông Anh vào tận nhà gặp cha mẹ cháu Kh để thương lượng. Hôm sau đích thân sư Thông Anh đến nhà luật sư Hứa Thanh Ka, là người trợ giúp pháp lí cho cháu Kh, van xin và hứa với luật sư “từ nay lo tu hành chứ không giở trò đồi bại nữa”. Luật sư Ka thương tình, lấy lời dạy của cha ông “đánh kẻ chạy đi chứ không đánh người chạy lại” mà thuyết phục ông Minh, bà Hà nhận tiền và rút đơn tố giác.
Phật tử Phạm Minh Công (sinh năm 1928), pháp danh Trúc Thành, thường trú tổ dân phố Linh Xuân, phường Cam Linh, TP Cam Ranh, nơi có chùa Từ Vân, bức xúc: “Cách đây mấy năm, khi tôi còn là thành viên Ban Đại diện của chùa, đã nhiều lần nhìn thấy Thích Thông Anh có hành vi sàm sỡ với phật tử là phụ nữ trẻ. Tôi góp ý nhưng ông ta không nghe, còn chửi tôi. Có một lần thấy nhà sư đưa gái vào phòng riêng, giở trò bậy bạ, tôi đạp cửa xông vào bắt quả tang, chửi cho một trận và từ đây, tôi từ bỏ chức danh thành viên Ban Đại diện và không bao giờ đặt chân đến chùa Từ Vân nữa”.
Hành vi của Thích Thông Anh còn được chính ông ta thừa nhận trong cuốn băng ghi âm cuộc đối thoại giữa ông ta và cháu Kh: “Thầy (Nhanh) không giữ cho con thì con có chửa lâu rồi”… “Sư phụ (Kh) bảo con còn con nít mà sư phụ hiếp dâm con hoài”… “Con về cố gắng học hành và giữ gìn bản thân”… “Đời con gái của con, sư phụ lấy hết rồi, còn gì nữa đâu mà giữ”. Tường trình gửi Hội Phật giáo tỉnh Khánh Hòa, Thích Thông Anh cũng không giấu diếm: “…Sau đó, thầy Giác Quốc và một số người tìm đến nhà ông Minh (bố nạn nhân), đưa cho ông Minh 200 triệu đồng, kêu là “thầy” cho 100 triệu đồng mua đất, 100 triệu đồng cất nhà và kêu gia đình viết giấy bãi nại. Công an địa phương đã xếp hồ sơ vụ kiện…”.
Sự thật rõ ràng như vậy, nhưng nếu vì ông thầy chùa Thích Thông Anh biết điều, cố gắng thực hiện lời sám hối với luật sư Ka và tổ chức phật giáo tận tình giáo dục, quản lí thì mọi việc đã “êm đẹp”. Đằng này chứng nào tật ấy, ông “thích đủ thứ” vẫn đưa phụ nữ vào chùa sống với họ như tình nhân, lại còn chạy chọt để chuẩn bị được phong lên “Hòa thượng”. Dư luận bất bình, ồn ào và đến tai báo chí. Vậy là vụ việc được phơi bày ra ánh sáng.
Pháp luật và đạo lí?
Trước dư luận và công luận, Hội Phật giáo TP Cam Ranh đã “lột áo” thầy tu Thích Thông Anh, giới phật tử của chùa Từ Vân đang hoan hỉ thì bất ngờ nhận được tin: “Thích Thông Anh được giải oan”.
Thông báo số 47/-VT-BTS ngày 7/6/2014 (kèm Thông báo số 21/CSĐT ngày 22/11/2010 của Cơ quan CSĐT Công an TP Cam Ranh) của Hòa thượng Thích Tịnh Nghiêm, Trưởng ban Trị sự Hội Phật giáo TP Cam Ranh cho biết: Căn cứ thông báo của Công an thị xã Cam Ranh, cho rằng: Đơn tố giác của bà Phan Thị Hà về hành vi hiếp dâm của ông Thích Thông Anh là không có thật (nghĩa là bà Hà vu khống). Do đó, Công an thị xã Cam Ranh ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Thông báo gửi cho một mình ông Nguyễn Nhanh (Thông Anh), từ năm 2010, nhưng sau khi ông Nhanh bị Ban Trị sự Hội Phật giáo TP Cam Ranh, ban hành Thông báo số 24/TV-BTS ngày 3/5/2014, lột áo Thượng tọa, thì ông thầy chùa mới có “lá bùa” này để hóa phép. Thấy Thích Thông Anh trình thông báo của Công an, Hòa thượng Thích Tịnh Nghiêm vội vàng ra thông báo mới hủy thông báo cũ.
Được “giải oan”, Thích Thông Anh bắt đầu phản đòn. Mục tiêu đầu tiên của ông ta là đệ tử Thích Giác Quốc. Đơn kêu cứu của Thích Giác Quốc gửi Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa cho biết: Thích Thông Anh bảo “vì tôi (Quốc) muốn chiếm chùa nên dựng lên chuyện đó”. “Vu khống tôi (Quốc) trong thời gian học ở nước ngoài có hành vi lừa đảo”. “Dùng áp lực của Giáo hội và giới phật tử đuổi tôi (Quốc) ra khỏi chùa”… Theo ông Giác Quốc, đơn của ông Thông Anh gửi Công an, chính quyền địa phương và cả Hội Phật giáo tỉnh. Các cơ quan này đã làm việc với hai bên và xác nhận tố cáo của ông Thông Anh là không đúng sự thật. Hậu thuẫn cho Thích Thông Anh là Thích Chúc Minh (chùa Tư Tôn, TP Nha Trang), từng “nổi tiếng” về hành vi tàn phá danh thắng Quốc gia Hòn Đỏ; coi thường chính quyền từ phường đến tỉnh và cả giới Phật giáo. Chúc Minh viết bài, đăng ảnh lên mạng “minh oan” cho Thông Anh và  kiến  nghị “Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Khánh Hòa nên có văn bản thông báo đến các tự viện, tăng ni, phật tử và các thông tin đại chúng minh oan cho Thượng tọa Thích Thông Anh để ngôi chùa Từ Vân trở lại những sinh hoạt thường ngày”.
Đúng là một chuyện khó hiểu. Thứ nhất, giả sử vì một lí do tế nhị của giới tu hành và sự sám hối của ông thầy tu Thích Thông Anh mà Cơ quan CSĐT Công an TP Cam Ranh gác hồ sơ thì có thể chấp nhận được; nhưng vì sao khi gia đình nạn nhân chỉ rút đơn, mà Công an lại cho rằng tố cáo của bà Phan Thị Hà mẹ nạn nhân là không có thật, để ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự? Theo quy định, hành vi hiếp dâm trẻ em nhất thiết phải được xử lí bằng pháp luật, không cần có hay không có đơn tố cáo. Thứ hai, ông Nguyễn Nhanh là người bị tố cáo; vậy tại sao Thông báo số 21/CSĐT ngày 22/11/2010 của Cơ quan CSĐT Công an TP Cam Ranh lại gửi cho ông Nguyễn Nhanh và chỉ một mình ông Nhanh (Thích Thông Anh) mà thôi? Điều này có trái quy định của pháp luật hay không? Việc bồi thường 200 triệu đồng để được rút đơn bãi nại chỉ là tình tiết giảm nhẹ, chứ không phải để không khởi tố vụ án hình sự(!?).
Thượng tọa Thích Thông Anh không chỉ đồi bại trong chuyện tình ái mà còn nhập nhèm, vụ lợi trong sử dụng tài chính, tài sản của chùa, của người khác. Thử hỏi ông làm gì để có 200 triệu đồng mà cho gia đình cháu Huỳnh Thị Kim Kh để mua đất, làm nhà? Tiền của ông hay của phật tử cúng dường? Chưa hết, ông còn lợi dụng là thầy chùa được phật tử quý trọng hòng chiếm đoạt toàn bộ thửa đất 6.190m2 tại xã Thành Hải, TP Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận do bà Phạm Thị Thệ, Việt kiều ở Mỹ, 5 lần gửi tiền với tổng số 70.000 USD về Việt Nam nhờ ông mua đất. Bà Thệ cam kết: Sau này về Việt Nam sinh sống, bà sẽ cúng cho chùa một nửa lô đất đó. Thế nhưng khi bà về, Thông Anh với lí do: “Trước đây có mượn của cô Hai (bà Thệ) một số tiền để đổ đất, nay cô về Việt Nam không có đất để ở, nên cho cô 20m chiều ngang, 60m chiều dài (1.200m2). Bà Thệ không chấp nhận, khởi kiện ra Tòa án Ninh Thuận. Tòa đã xử cho bà Thệ thắng kiện. Thông Anh buộc phải trả cho bà nửa diện tích như đã cam kết.
“Nhà sư” Thích Thông Anh từ đầu đến chân không còn tư cách là một Thượng tọa trụ trì ngôi chùa mà giới phật tử đã đóng góp biết bao mồ hôi, công sức, tiền của mới xây dựng được. Vậy mà giờ đây ông ta đang lợi dụng đủ điều, đang làm náo loạn cả ngôi chùa cũng như giới phật tử gần xa. Hành vi của ông ta, cả giới phật giáo và pháp luật đều không thể chấp nhận. Việc Hội Phật giáo TP Cam Ranh vừa ban hành thông báo xử lí rồi lại rút thông báo phải chăng đã bị “cái gì đó” mua chuộc và cả việc làm ra thông báo của Cơ quan CSĐT cũng thế! nhưng giờ đây nếu pháp luật bỏ qua cũng là điều không thể chấp nhận. Được biết: Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa đã chuyển đơn của ông Thích Giác Quốc đến Công an tỉnh Khánh Hòa yêu cầu xem xét, làm rõ và xử lí nghiêm minh, bởi Thích Thông Anh ngoài thầy tu còn là công dân của nước Việt Nam…
Nguồn tin:Theo Người cao tuổi
0 notes
dinhthang · 3 years ago
Link
TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ - Chương 9 - Tương Ưng Rừng (2)
PHẦN CHÁNH KINH [09] Chương IX: Tương Ưng Rừng
VII. Nàgadatta (S.i,200)
1) Một thời Tôn giả Nàgadatta trú giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng.
2) Lúc bấy giờ, Tôn giả Nàgadatta đi vào làng quá sớm và trở về quá chiều.
3) Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy, thương xót Tôn giả Nàgadatta, muốn lợi ích, muốn cảnh giác, liền đi đến Tôn giả Nàgadatta.
4) Sau khi đến, vị ấy nói lên những bài kệ với Tôn giả Nàgadatta:
Này Nàgadatta, Hãy vào làng đúng thời, Và khi từ làng về, Hãy về cho thật sớm.
Ông sống quá liên hệ, Với các hàng cư sĩ, Bị vấn vương quá nhiều, Những cảm thọ khổ lạc.
Ta sợ kẻ bạt mạng, Nàgadatta này, Lại bị trói, bị buộc, Trong gia đình thế sự.
Chớ để mình rơi vào, Cường lực của tử thần, Làm sao tránh né được, Khỏi Ác ma chi phối!
5) Tôn giả Nàgadatta được vị Thiên ấy cảnh giác, tâm hết sức xúc động.
VIII. Gia Phụ hay Say Ðắm (S.i,201)
1) Một thời, một Tỷ-kheo trú ở giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng.
2) Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo ấy sống thân mật quá đáng đối với một gia đình.
3) Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy, vì thương xót Tỷ-kheo ấy, muốn hạnh phúc, muốn cảnh giác vị ấy, biến hình thành gia phụ của gia đình ấy và đi đến Tỷ-kheo ấy.
4) Sau khi đến, vị ấy nói lên những bài kệ với Tỷ-kheo ấy:
Trên bờ sông, cửa chợ, Tại trạm nghỉ, lộ trình, Dân chúng thường tập hợp, Tranh luận liền khởi lên. Giữa ta và giữa Ông, Có gì là sai khác?
5) (Vị Tỷ-kheo):
Nhiều tiếng qua tiếng lại, Bậc khổ hạnh kham nhẫn, Chớ cảm thấy bực phiền, Chớ phát sinh nhiễm trước.
Ai bị tiếng rối loạn, Như nai trong rừng rú, Ðược gọi là khinh tâm, Khó tu hành thành tựu.
IX. Vajjiputta: Bạt-kỳ Tử hay Tỳ-xá-lỵ (S.i,201)
1) Một thời, một Tỷ-kheo Vajjiputtaka trú ở Vesàli tại một khu rừng.
2) Lúc bấy giờ một cuộc lễ được tổ chức suốt đêm ở Vesàli.
3) Tỷ-kheo ấy được nghe tiếng nhạc khí, tiếng cồng v.v... đánh lên, tiếng ồn ào khởi lên, liền than thở, nói lên ngay lúc ấy những bài kệ này:
Chúng ta sống một mình, Trong khu rừng cô độc, Như khúc gỗ lột vỏ, Lăn lóc trong rừng sâu,
Trong đêm tối hân hoan, Như hiện tại đêm nay, Ai sống đời bất hạnh, Như chúng ta hiện sống?
4) Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy, có lòng thương xót Tỷ-kheo ấy, muốn hạnh phúc, muốn cảnh giác liền đi đến Tỷ-kheo ấy.
Sau khi đến, vị ấy nói lên những bài kệ:
5)
Ông sống chỉ một mình, Trong khu rừng cô độc, Như khúc gỗ lột vỏ, Lăn lóc trong rừng sâu.
Rất nhiều người thèm muốn, Ðời sống như ông vậy, Như kẻ đọa địa ngục, Thèm muốn sanh thiên giới.
6) Rồi Tỷ-kheo ấy được vị Thiên ấy cảnh giác, tâm hết sức xúc động.
X. Tụng Học Kinh Ðiển hay Pháp (S.i,202)
1) Một thời, một Tỷ-kheo sống giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng.
2) Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo ấy trước kia siêng năng tụng kinh rất nhiều, sau một thời gian, trở thành thụ động, im lặng, an phận.
3) Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy không được nghe pháp từ Tỷ-kheo ấy, liền đi đến vị ấy.
4) Sau khi đến, vị Thiên ấy nói lên những bài kệ cho Tỷ-kheo ấy:
Này Tỷ-kheo, sao Ông Sống chung các Tỷ-kheo, Lại không chịu tụng đọc, Các kinh điển pháp cú?
Ai nghe thuyết Chánh pháp, Tâm sanh được tịnh tín. Và ngay đời hiện tại, Ðược mọi người tán thán.
5) (Vị Tỷ-kheo):
Trước kia đối pháp cú, Ta tha thiết tìm hiểu, Cho đến khi chứng được, Quả vị bậc ly dục;
Từ khi chứng ly dục, Mọi thấy, nghe, xúc cảm, Nhờ trí tuệ hiểu biết, Ðều được bỏ một bên. Chính các bậc Hiền thiện, Giảng dạy là như vậy.
XI. Bất Chánh Tư Duy: (S.i,203)
1) Một thời, một Tỷ-kheo trú ở giữa dân chúng Kosala tại một khu rừng.
2) Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo ấy, khi đang nghỉ ban ngày, khởi lên những tư duy ác, bất thiện, như dục tư duy, sân tư duy, hại tư duy.
3) Rồi vị Thiên trú ở khu rừng ấy, vì lòng thương xót Tỷ-kheo, muốn lợi ích, muốn cảnh giác, liền đi đến Tỷ-kheo ấy.
4) Sau khi đến, vị Thiên ấy nói lên những bài kệ cho Tỷ-kheo:
Ông tác ý bất chánh, Nên say đắm tư duy. Hãy từ bỏ bất chánh, Hãy tư duy chơn chánh,
Nương tựa Phật, Pháp, Tăng, Giữ giới, không thối chuyển, Ông chắc chắn chứng đạt, Hân hoan và hỷ lạc. Với hân hoan sung mãn, Ông chấm dứt khổ đau.
5) Rồi Tỷ-kheo ấy, được vị Thiên ấy cảnh giác, tâm hết sức xúc động.
XII. Giữa Trưa hay Tiếng Ðộng (S.i,203)
1) Một thời, một Tỷ-kheo trú ở giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng.
2) Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy đi đến Tỷ-kheo.
3) Sau khi đến, nói lên những bài kệ này trước mặt Tỷ-kheo:
Nay chính giờ giữa trưa, Chim chóc đậu im lặng, Rừng lớn vang tiếng động, Khiến ta run, hoảng sợ.
4) (Vị Tỷ-kheo):
Nay chính giờ giữa trưa, Chim chóc đậu im lặng, Rừng lớn vang tiếng động, Hoan hỷ đến với ta.
XIII. Không Chế Ngự Căn hay Nhiều Tỷ Kheo (S.i,203)
1) Một thời, rất nhiều Tỷ-kheo trú ở giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng nọ, cống cao, ngạo mạn, ồn ào, lắm miệng, lắm lời, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, các căn không chế ngự.
2) Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy, vì lòng thương xót các Tỷ-kheo, muốn hạnh phúc, muốn cảnh giác, liền đi đến các Tỷ-kheo.
3) Sau khi đến, vị Thiên ấy nói lên những bài kệ với các Tỷ-kheo:
Xưa sống thật an lạc, Chúng đệ tử Cù-đàm, Không tham tìm món ăn, Không tham tìm chỗ trú,
Biết đời là vô thường, Họ chấm dứt khổ đau. Nay tự làm ác hạnh, Như thôn trưởng trong làng, Họ ăn, ăn ngã gục, Thèm khát vật nhà người.
Con vái chào chúng Tăng, Ðảnh lễ một vài vị, Vất vưởng, không hướng dẫn. Họ sống như ngạ quỉ.
Những ai sống phóng dật, Vì họ, con nói lên, Những ai không phóng dật, Chân thành con đảnh lễ.
4) Các Tỷ-kheo ấy, được vị Thiên ấy cảnh giác, tâm hết sức xúc động.
XIV. Sen Hồng hay Sen Trắng (S.i,204)
1) Một thời, một Tỷ-kheo trú giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng.
2) Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo ấy ăn xong, trên con đường đi khất thực trở về, đi xuống hồ nước và ngửi bông sen hồng.
3) Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy, thương xót Tỷ-kheo, muốn hạnh phúc, muốn cảnh giác, liền đi đến Tỷ-kheo.
4) Sau khi đến, vị Thiên ấy liền nói lên những bài kệ với Tỷ-kheo:
Hoa này từ nước sanh, Không cho, Ông ngửi trộm. Như vậy một loại trộm, Ta gọi Ông trộm hương, Này thân hữu của ta.
5) (Vị Tỷ-kheo):
Không lấy đi, không bẻ, Ðứng xa, ta ngửi hoa, Vậy do hình tướng gì, Ðược gọi là "trộm hương"?
Ai đào rễ củ sen, Ăn dùng các loại sen. Do các hành động ấy, Sao không gọi trộm hương?
6) (Vị Thiên):
Người ty tiện độc ác, Như vải nhớp vú em, Với hạng người như vậy, Lời ta không liên hệ.
Nhưng chính thật cho Ông, Chính lời ta tương ưng Với người không cấu uế, Thường hướng cầu thanh tịnh.
Với kẻ ác nhìn thấy, Nhỏ như đầu sợi lông, Vị ấy xem thật lớn, Như đầu mây trên trời.
7) (Vị Tỷ-kheo):
Thật sự này Dạ-xoa, Ông biết ta, thương ta, Hãy nói lại với ta, Khi thấy ta như vậy.
8) (Vị Thiên):
Ta không tùy thuộc Ông, Ông cũng không làm bậy, Này Tỷ-kheo nên biết, Ông có thể sanh Thiên.
9) Vị Tỷ-kheo ấy được vị Thiên ấy cảnh giác, tâm hết sức xúc động.
PHẦN GIẢNG GIẢI CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN (TOẠI KHANH)
Chương 9: Tương Ưng Rừng
NĀGADATTA (Nāgadattasutta)
Sẵn đây nhắc chút xíu chuyện cho nhớ, các vị xem Kinh Bổn Sanh (Jataka) thường thấy nhắc đến nhân vật tên là Brahmadatta. Trong lịch sử PG có một nhân vật rất nổi tiếng tên là Devadatta. Sáng nay mình học kinh Nāgadatta. ‘Datta’ nghĩa là ‘được cho’. ‘Devadatta’ là ‘trời cho’, ‘thiên phú’; sanh con mà đặt là ‘Devadatta’ là ‘đứa bé trời cho’. Brahmadatta là ‘Phạm tứ’ (do Phạm Thiên ban cho). Nāgadattalà ‘Long Tứ’ (do Long Vương ban tặng), Nagadatta là một nhân vật vua bài Thượng Hải. Đây là những cái tên nổi tiếng thường gặp, giống như Ratthapala: Bảo Quốc (ratta: quốc gia, pala: hộ trì). CEO của Facebook: Mark Zuckerberg (Sugar Mountain): Đường Sơn đại huynh. Tôi có viết một bài nhắc đến cái tên này. Ở đây có ai biết Đường Sơn đại huynh không, chắc là không biết đâu, tôi có tuổi mới biết chớ quí vị trẻ quá.
Ngài Nāgadatta có một lúc do có những nhu cầu của đời sống, cộng thêm quen biết với Phật tử, nhiều khi đi đứng giờ giấc hơi thoải mái, không lưu ý. Có lẽ lúc này Đức Phật chưa cấm chứ theo Luật thì tỷ kheo không có đi sớm về muộn. Vị tỷ kheo cũng không nói chuyện tay đôi với phụ nữ quá 6 chữ (chahi vacahi). Có người dịch là sáu tiếng. Không phải là six hours. Sáu câu chớ sáu tiếng thì “quá đã” rồi. Ngài Hộ Tông hay ngài Minh Châu dịch là sáu tiếng. Mấy vị tân thọ tỷ kheo nghe khoái lắm, 6 tiếng thì nói phone cháy máy luôn. Thật ra là 6 câu thôi. Dầu câu ngắn cũng là câu. Ví dụ, câu thứ nhất: Khỏe không? Câu thứ hai: Lúc này thấy ốm dữ nhen! Câu thứ ba là: Có đi thẩm mỹ không? Câu thứ tư là: Diet đi!… Cứ như vậy là một câu.
Vị Thiên nhân thấy ngài Nāgadatta như vậy nên có lòng thương tưởng và e ngại giùm nên mới nhắc ngài không nên lui tới cư sĩ quá nhiều. Trong bài kinh Từ bi (Metta sutta) có câu “kulesu ananugiddho”: lòng không vướng bận với những quan hệ cư sĩ. ‘Kula’là ‘gia đình’, ‘cư sĩ’; ‘anugiddha’: ‘dính mắc’. Theo Chú giải giải thích là lấy niềm vui của người ta làm niềm vui của mình, lấy chuyện buồn lo của người ta làm chuyện buồn lo của mình. Mới nghe qua thì thấy hay quá, nhưng quí vị tưởng tượng đi, nhà quí vị, con nói không nghe, vợ chồng thì không vừa lòng nhau, quí vị vào nói với tôi, rồi tôi lo lắng y như người thân của tôi. Rồi đêm hôm tôi không hành thiền, kinh sách không nghiên cứu viết lách gì hết, đêm thì gọi phone: Thằng Tèo đi học về chưa, thằng Tèo ngủ dậy chưa, ông xã đi làm chưa, bà xã về chưa…, chuyện người ta mà mình lo suốt mùa thu vậy thì ra làm sao, không giống con giáp nào hết.
Người ta cần mình thì đến hỏi thắc mắc về đạo một chút thôi chứ không thể nào “kulesu anugiddha”, cùng buồn cùng vui với họ trong chuyện tào lao thiên tướng là không được. Tôi biết người Phật tử là họ muốn được quan tâm, nhưng làm ơn nhớ giùm, quan tâm thì quan tâm về mặt tâm linh, đời sống tinh thần thì ok, nhưng lâu lâu thôi, không thể thường trực được. Chuyện mỗi người lo đã không hết mà còn dòm đến người khác thì thời gian đâu lo cho mình được. Một người đang ở dưới đầm lầy thì làm sao cứu người khác. Một người đang ở dưới nước thì làm sao đem người khác lên bờ được. Một người không có khả năng tự an lạc với riêng mình làm sao có thể giúp người khác an lạc được. Đừng tưởng vậy là hay, bản thân mình ở dưới sình, không thể lôi người khác ra khỏi sình. Vì vậy ở đây vị thiên nhân nhắc nhở: “như thế là không tốt”.
GIA PHỤ (Kulagharaṇīsutta)
‘Kulagharaṇī’: ‘gia trưởng’. ‘Gia trưởng’ ở đây không hiểu theo nghĩa độc đoán, độc tài. ‘Gia trưởng’ ở đây mang nghĩa trung tính, không phải nghĩa tiêu cực. ‘Gia trưởng’ là người đứng đầu gia đình.
“2) Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo ấy sống thân mật quá đáng đối với một gia đình”. Ở đây, vị tỷ kheo này là một vị A-la-hán. Đừng nghĩ loài khuất mặt có thần thông thì chuyện gì họ cũng biết. Họ y như mình, cặp mắt của họ có thể thấy chuyện mình không thấy, tai họ có thể nghe được chuyện mình không nghe, những tần số những làn sóng mình không nghe được; họ có thể di chuyển bất cứ nơi nào họ muốn, vật chất họ sử dụng là tự cung tự cấp với tốc độ nhanh nhất, muốn là có. Vì vậy tất cả những phương tiện khoa học hôm nay chúng ta có, tưởng đó là ghê gớm, thật ra chỉ cần mình có tu tập trở thành loài phi nhân thì mình nhìn nền văn minh của con người không ra gì hết, chỉ là trò hề, trò chơi của trẻ con mà thôi. Tuy nhiên, sướng gì thì sướng nhưng không phải cái gì họ cũng biết.
Ví dụ như các vị có ống dòm, tôi không có ống dòm nên nhìn thấy mờ mờ không biết họ là cái gì, còn các vị có ống dòm nên có thể nhìn thấy cái đốm đang di động đó là một ông Tây, một bà Đầm, một con bò hay một con gà. Các vị chỉ khác tôi có nhiêu đó thôi chứ không thể biết hơn, các vị không biết ông Tây là người nước nào, nói tiếng gì. Còn tôi thì không có ống dòm nên không biết những chấm đen di động đó là cái gì. Quí vị biết đó là con gà, cái biết của quí vị y như tôi về con gà, chỉ vậy thôi.
Trong kinh này, vị Thọ thần nhìn thấy vị tỷ kheo này mà không biết đó là vị A-la-hán. Không phải vị Thọ thần nào cũng giống nhau về các khả năng và điều kiện sống. Tôi cố ý nhấn mạnh điều này, vì sẽ có nhiều người hiểu lầm, không phải vị nào cũng giống nhau về thần thông, thiên nhãn thiên nhĩ, và điều kiện sống cũng tùy phước ít phước nhiều nữa. Ở đây vị Thọ thần thấy vị tỷ kheo này lui tới với cư sĩ nên nhắc nhở bằng câu hơi nặng: Ngài lui tới những chỗ quán sá tiệm tùng đông đúc như vậy thì giữa ngài và tôi có khác nhau cái gì chứ. Trong Chú giải ghi thế này:
“So kira satthu santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā”, Vị tỷ kheo đó sau khi đến học thiền và xin đề mục với Đức Phật rồi, “vanasaṇḍaṃ pavisitvā” đi vào trong rừng sống, “gāmaṃ piṇḍāya pāvisi” sau đó đi khất thực, “pāsādikehi abhikkantādīhi” oai nghi tế hạnh rất đàng hoàng.
“Aññataraṃ kulaṃ tassa iriyāpathe pasīditvā” có một gia đình thấy ngài liền rất thích. Họ thỉnh ngài. Sau khi họ thỉnh ngài để cúng dường,
“Thero adhivāsetvā”vị trưởng lão đã nhận lời “āhāraṃ paribhuñjamāno” và thọ nhận những gì họ cúng dường, “vīriyaṃ paggayha ghaṭento” nỗ lực tu tập, “arahattaṃ patvā” chứng quả La-Hán “cintesi” và suy nghĩ: “bahūpakāraṃ me etaṃ kulaṃ, aññattha gantvā kiṃ karissāmī’’ti?” Gia đình này có lòng hộ trì mình như vậy tại sao mình phải bỏ đi nơi khác.
“Phalasamāpattisukhaṃ anubhavanto tattheva vasi”. Thế là vị đó ở lại nơi này thường xuyên an trú vào thiền Quả và không đi đâu hết.
Vì cảm tấm lòng của người ta, ngài muốn đem công đức cho người ta nên ngài ở lại đó, khỏi đi bôn ba chỗ khác và sự có mặt của ngài đem lại công đức lớn cho gia đình đó. Vì không còn chuyện gì để làm nên ngài thường xuyên an trú trong thiền Quả.
“sā kira therassa khīṇāsavabhāvaṃ ajānantī” tương truyền vị Trời này không hề biết rằng đây là vị La-Hán, nên mới nhắc nhở như vậy. Có những vị Trời xuất sắc nhưng cũng có vị kém cõi; vị Trời này không biết vị tỷ kheo là A-la-hán, thấy lui tới nhà cư sĩ nên nhắc nhở như vậy. Đây là những chi tiết nếu không coi trong kinh thì các vị Phật tử không thể tự biết.
Ví dụ như nếu nói mình học A-tỳ-đàm, A-tỳ-đàm cho mình công thức, nguyên tắc này nọ, nhưng có những chuyện A-tỳ-đàm không nói, thí dụ như chuyện này. Vi diệu pháp mình giỏi mấy đi nữa nhưng nếu mình không đọc Kinh Tạng thì mình không biết. Nếu chỉ căn cứ theo Vi diệu pháp thì khó mà ngờ được chuyện một vị Thọ thần có tha tâm thông mà hoàn toàn mù tịt về nhân loại đang ngồi trước mặt mình; trong bài kinh này, đó là vị A-la-hán mà vị Thọ thần này hoàn toàn không biết gì hết.
Theo Vi diệu pháp thì mình cứ nghĩ là hễ có tha tâm thông thì dầu không đủ trình độ để biết đây là A-la-hán nhưng mà tối thiểu cũng phải biết đây là con người trong sạch chứ, biết người này không tham, không sân, không si chứ; nhưng không phải vậy, đọc ở đây mới biết thì ra tha tâm thông như thế nào, chỉ biết tối đa là vị này đang bực mình thôi. Nếu các vị Thọ thần không học Phật pháp thì không hề biết được A-la-hán không còn tâm sân. Có những vị biết và có những vị không biết, không biết con người trước mặt mình không còn tham, không còn sân, không còn si nữa. Bài kinh này chỉ là sự hiểu lầm, và vị tỷ kheo này trả lời, ngài nói ngài sống như con nai hồn nhiên trong rừng, không bị dính mắc trong thế gian.
VAJJIPUTTA (Vajjiputtasutta)
Có một điều đáng tiếc thế này, Phật tử VN khoái đi chùa, cúng dường, bái lạy, khấn nguyện, cầu vãng sanh, đó là Bắc Tông, còn Nam Tông thì thích phục vụ cúng dường chứ còn rờ tới kinh tạng thì không nhiều. Tôi giảng mà cứ ngậm ngùi, có những chi tiết không biết có nên nói hay không, mà nói thì cứ như vịt nghe sấm, rất là uổng. Ví dụ như chữ Vajjiputta, nói ra có rất nhiều chuyện để nói, đây là tên gọi rất nổi tiếng trong PG, dĩ nhiên là đối với người có đọc kinh sách, chớ còn người đi chùa cầu phước thì nói ra uổng lắm.
‘Vajji’: ‘bị lưu đày’, trong trường hợp đặc biệt có nghĩa là ‘bị xua đuổi’, ‘bị hắt hủi’. Ngậm ngùi vậy đó, đàng sau cái tên này là một câu chuyện rất buồn, rất ngậm ngùi. Ngày xưa có một ông đạo sĩ lượm được hai đứa bé đem về nuôi. Khổ nỗi, ông là đạo sĩ nên chỉ nuôi chừng mực, sau chúng lớn lên ông phải đem trả về lại cho đời chứ không thể để mãi trong rừng. Hai đứa bé này rất khỏe mạnh, lại lớn lên trong rừng, tính tình hồn nhiên như thú hoang, nên chơi với mấy đứa bé cùng trang lứa lúc nào cũng tỏ ra lấn lướt. Từ chỗ đó, các gia đình cấm con cái mình chơi chung và xa lánh chúng. Hai đứa lớn lên có vợ, sanh con nhưng tính tình vẫn cứ ngang tàng. Dân làng mới nói hai anh em ra ngoài làng ở chứ không cho ở chung trong làng xóm nữa. Hai anh em mới ra ngoài làng cất nhà cất sanh con đẻ cháu thành cái làng xã đông đúc và người ta gọi đó là đám Vajji nghĩa là đám người bị xua đuổi.
Nếu vị nào có coi tạng Luật thì sẽ thấy chữ này rất nổi tiếng. Khi PG trải qua một trăm năm thì có nhóm tỷ kheo tên là nhóm Vajjiputta, nhóm này chủ trương tu mà ôm Luật trăm phần trăm chỉ có chết, chi bằng nới nới chút cho dễ thở, vì thế những vị này chế ra một số chuyện, ví dụ trong Luật cấm không cho tỷ kheo ăn chiều, nhưng nếu trễ chút đỉnh thì không sao. Tuy nhiên họ quên một chuyện ‘chút đỉnh’ là như thế nào, ví dụ thế hệ trước là 12h15 ăn được, thế hệ sau thì 12h35, thế hệ sau nữa là 12h40… cứ vậy rồi tới chiều luôn, họ chủ trương lấn được bao nhiêu thì lấn.
Rồi kế đến, họ nghĩ, nếu cứ ôm bát thế này rồi lỡ có ngày người ta dời nhà hoặc vì lý do nào đó không cúng, vì vậy họ tích trữ của nả. Thế là họ bày ra chuyện tỷ kheo được quyền giữ vàng bạc. Mỗi lần lễ lạt họ để trước chùa cái chậu to, ai muốn cúng bao nhiêu tiền bạc vàng ngọc cứ liệng vào trong đó. Đức Phật không cho tỷ kheo xài đồ bằng ngà, thế là họ nghĩ không cần phải cữ kiêng, cho gì xài đó, họ quên rằng xài đồ ngà là tiếp tay hại cho loài voi chết. Đồ ngà lại đắt tiền cư sĩ nhìn thấy họ nói, và sợ mất nữa thì tiếc nên đi đâu cũng cứ cầm theo. Nhóm tỷ kheo có quan niệm đó gọi là nhóm Vajjiputta. Nhóm này là con cháu của dòng họ Vajji. Chính vì vậy mà tôi nói đây là tên gọi rất nổi tiếng. Trong Kinh Đại bát Niết Bàn, những ngày tháng cuối cùng của Đức Phật có gắn liền với nhiều nhân vật hoặc vùng đất của dân Vajji này.
Có một vị tỷ kheo là con cháu của dòng họ Vajji đi xuất gia, đêm hôm ngồi trong chỗ thanh vắng nghe người ta hát xướng, tiếng vọng từ xa, nghe ngậm ngùi thấy buồn. Cũng dễ hiểu thôi, bây giờ ông sư có ipad, iphone, internet muốn tu hành thiền định muốn nghiên cứu kinh sách hay đọc báo coi phim thì cũng dễ dàng, ngày xưa thì ông sư hoàn toàn không có cái gì hết, nói cho rốt ráo là chỉ có cái bình bát sáng đã đi xin ăn rồi, còn buổi chiều thì không có cái gì tiêu khiển, giải trí, bầu bạn. Bây giờ buồn quá thì bóc cái phone lên, cứ alô người này không được thì alô người kia, lên facebook, email, facetime, viber, tango tùm lum hết.
Có nhiều người Phật tử họ nói tôi một câu mà tôi không biết nên nói cái gì: Sao trong Kinh con thấy hồi xưa mấy sư sao tệ quá, thích nhiều cái rất là kỳ. Tôi đã trả lời: Quí vị đang đọc lại nhịp sống của những con người trong xã hội mấy ngàn năm về trước bên Ấn Độ, vậy mà đọc trang kinh đó bằng não tr��ng, tâm trạng của một con người thời nay thì trật lất rồi. Ngay cả truyện Kiều, mặc dù là hư cấu nhưng ít ra phải hiểu ngầm là những chuyện xảy ra trong Kiều đã rất là xa lạ với mình. Thời mình làm gì có chuyện người đối xử với người như trong Kiều. Phải hiểu rằng thời điểm cụ Nguyễn Du nhắc tới trong Kiều thì đã cách đây biết bao lâu rồi, đời nhà Minh, “Rằng năm Gia tĩnh triều Minh”, gần 500 trước, nói chi là chuyện thời Đức Phật.
Vị tỷ kheo này thấy cô quạnh chạnh lòng khi nghe tiếng đàn ca hát xướng, lúc đó một vị Trời xuất hiện nhắc cho biết: Thật ra đời sống của ngài không dễ kiếm đâu, không phải ai muốn cũng được. Nếu mình tin Phật thì phải tin luôn một chuyện, chuyện con rùa mù. Một trăm năm con rùa mù trồi đầu lên mặt biển một lần, một sự trùng hợp hiếm hoi nào đó cái đầu con rùa chui lọt vào tấm ván đang trôi dạt trên mặt biển, đây là xác suất chưa được một phần ngàn tỷ, vậy mà cơ hội làm người còn khó hơn vậy nữa.
Tôi tin Ngài nói đúng, một ngày hăm bốn giờ mình sống bằng tâm thiện được bao nhiêu. Mình biết Phật pháp, biết A-tỳ-đàm, biết Tứ Niệm Xứ, vậy mà mình sống bất thiện một ngày bao nhiêu phần trăm thời gian? Kẻ không Phật pháp thì không còn gì để nói, vậy cơ hội đâu mà làm người? Cơ hội được làm người được gặp chánh pháp càng khó khăn hơn. Cơ hội vị Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian này còn hiếm hơn cơ hội làm người nữa.
Bây giờ được gặp Phật pháp, được làm người nam khỏe mạnh không bịnh hoạn, có niềm tin có hiểu biết, đi xuất gia nữa, vì vậy phải nói vị Thọ thần này nói rất đúng: Ngài có biết rằng đời sống của ngài nhiều người mơ mà không được giống như chúng sanh ở địa ngục thấy người ta ở Cõi Trời mà thèm vậy. Tôi phải nói rằng đức tin mình yếu quá, mình dốt quá, mình giống như người mù vô nhà hát vậy. Câu nói của vị Thọ thần là câu nói của người có đức tin, có chánh kiến, chớ còn Phật tử VN mình nghe câu nói đó thì thấy hơi quá đáng.
TỤNG HỌC KINH ĐIỂN (Sajjhāyasutta)
Vị tỷ kheo trong bài kinh này là một vị A-la-hán, không phải người phàm. Mình tưởng chư thiên cái gì cũng biết nhưng trong bài kinh này thì thấy không phải chư thiên thì cái gì cũng biết.
Tôi nhớ câu chuyện có một ông linh mục đi đánh golf với một giáo dân, ông giáo dân này có tật xấu mỗi lần đánh trật là chửi thề. Linh mục la bảo không nên như vậy, chơi cho vui thôi chứ đừng chửi thề coi chừng Chúa phạt. Ông giáo dân nghe lời, nhưng lát sau đánh trật nữa và lại chửi thề. Vừa lúc đó một lằn sét từ trên trời đánh xuống trúng linh mục. Linh mục lăn ra chết. Một tiếng vọng từ trên cao: Ta là Chúa Trời còn đánh hụt nói chi là nó. Các vị tưởng tượng, tôi đọc câu chuyện đó tôi rất là tâm đắc. Chúa Trời còn đánh trật, thay vì đánh ông giáo dân lại trúng ông linh mục.
Đừng tưởng chư thiên có thần thông thì cái gì cũng biết, họ cũng có nhầm lẫn của họ. Trong bài kinh này kể về một vị tỷ kheo ở chung với sư phụ của mình học Tam Tạng, mỗi ngày cứ dưng nước hầu cơm chăm sóc cho thầy, một thời gian ngắn vị này đắc A-la-hán. Có một điều trong thời gian học Tam tạng với thầy, mỗi lần thuộc một ít là mang ra tụng, hết kinh này qua kinh khác. Lúc đó có một vị Thọ thần ở gần đó nghe ké, ngày nào cũng nghe, nay thì Thất Giác Chi, mai là giáo lý Duyên Khởi, mốt là Tứ Niệm Xứ, nghe suốt mùa thu như vậy khoái lắm; nhưng ông này là Thọ thần người Ấn Độ chớ còn gặp Phật tử VN mình nghe thì chỉ có bực mình, vì thứ nhất mình không thích, thứ hai mình nghe có hiểu gì đâu. Ông Thọ thần này xuất thân Ấn Độ nên nghe đọc tụng thì vui lắm dù chỉ là nghe ké, tới khi vị tỷ kheo đắc A-la-hán, và có những điều suy nghĩ.
Đây là việc mình cũng nên lưu ý, có những vị A-la-hán hoan hỉ trong chuyện tụng, nghe. Ví dụ như Đức Phật, khi nghe người khác trùng tụng trùng tuyên Ngài rất hoan hỉ. Vị A-la-hán nào cũng vậy, tuy nhiên, ‘thích’ không phải là nghe suốt mùa thu như mình tưởng tượng, vị ấy thấy thời gian tụng đọc như vậy không bằng thời gian sống an trú Tứ Niệm Xứ hoặc nhập Thiền quả. Trong Chú giải nói rõ như vậy: ‘phalasamāpatti’: thiền Quả, Quả định.
Quả định
Quả định là an trú trong thánh quả mình đã chứng, an trú trong một thời gian dài ngắn bất định. Ví dụ một vị Tu-đà-hoàn hoặc vị A-la-hán, một lúc nào đó thấy mỏi mệt, thấy cần an dưỡng tinh thần không muốn suy nghĩ gì hết thì vị này ngồi lại một nơi thích hợp nào đó, quán tưởng danh sắc: quán tưởng thân quán niệm xứ, hoặc thọ quán, hoặc tâm quán, hoặc pháp quán niệm xứ tùy căn cơ sở thích. Ngày xưa đắc quả bằng con đường nào thì bây giờ quay lại con đường y hệt như vậy.
Ví dụ thân quán niệm xứ, vị đó quan sát theo nguyên tắc của thân quán niệm xứ; tùy theo vị độn căn hay lợi căn, trí chậm hay trí nhanh; thời gian thiền quả rất là nhanh, chỉ quan sát một chút là xuất hiện bốn hoặc ba sát na tâm: Chuẩn Bị, Cận Hành, Thuận Thứ và Bỏ Bực. Bỏ Bực trong trường hợp này là từ tâm Hiệp-thế chuyển qua tâm Siêu-Thế. Bỏ Bực có ba trường hợp:
Gotrabhū: Tâm Chuyển-tộc, có ba trường hợp:
1- Đưa người lìa cảnh Dục vào cảnh Đáo đại
Người lần đầu tiên đắc thiền, khi loại tâm này xuất hiện thì từ giây phút đó trở đi người đó được gọi là người chứng thiền Đáo đại tối thiểu từ Sơ thiền trở lên cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, nhờ Gotrabhū người đó trở về sau đã bước vào thế giới của Phạm thiên, tuy mang thân nhân loại nhưng tắt thở là về cõi Phạm Thiên, nếu thiền chưa bị hoại. Dù cho có mang thân đàn bà kể cả ghẻ chóc hôi hám xấu xí, miễn đắc Sơ thiền rồi là đã dự vào cảnh giới của Phạm thiên.
2- Đưa người lìa phàm tánh vào thánh trí lúc chứng đạo.
Tâm này xuất hiện là người ấy từ nay về sau không còn là phàm nữa mà đã là thánh nhân. Ví dụ lần đầu tiên đắc Sơ quả thì từ lúc đó người này vĩnh viễn không còn khả năng sa đọa nữa, sát na đó gọi là gotrabhū.
3- Đưa người lìa tâm Hiệp thế và tâm Siêu thế, lúc nhập Quả định.
Khi nào vị đó muốn nhập Quả định, sau khi quan sát danh sắc, một loạt tâm Chuẩn Bị, Cận Hành, Thuận Thứ, Chuyển Tánh xuất hiện, sát na Chuẩn bị này đối với người lợi căn không xuất hiện nhưng với người độn căn thì xuất hiện, thời gian xuất hiện nhanh vô cùng nên có hay không có cũng như nhau, nhỏ ít giống như một hột nếp nằm trong kho gạo. Khi bốn hoặc ba sát na tâm trên xuất hiện trong đó có tâm gotrabhū thì từ lúc đó trở về sau tâm Thánh quả (một trong bốn) Sơ, Nhị, Tam, Tứ xuất hiện, thời gian lâu hay mau tùy vị đó quyết định.
Ví dụ, nếu vị đó quyết định nhập Thiền quả trong vòng 15 phút, nửa tiếng, hai tiếng, 10 tiếng, 30 tiếng v.v… tùy ý, vị đó chỉ chú nguyện là sẽ bao lâu thì đến lúc đó tự động sẽ ngưng. Sau khi ngừng thì tâm hữu phần chen vào, từ đó về sau lại tiếp tục, mắt thấy tai nghe bình thường. An trú thiền Quả là như vậy, trong thời gian đó tâm vị ấy chỉ biết một cảnh là cảnh niết-bàn, toàn thân vị ấy được an dưỡng tuyệt đối.
Quí vị hãy tưởng tượng, nếu quí vị đang vui, đang nghe pháp hoặc đang có mặt trong một sân chùa vắng lặng nhìn người ta đi kinh hành, lòng mình vui suốt hai tiếng đồng hồ, thì con người mình khỏe biết chừng nào. Hoặc buổi chiều ra ngoài biển ngồi suốt hai tiếng đồng hồ, buông hết mọi sự không nghĩ ngợi lăng xăng, chỉ nhìn sóng vỗ, chim bay, gió lùa, tiếng trẻ con đùa giỡn xa xa vọng lại một chút, ngồi như vậy thì đã khỏe cỡ nào huống chi đàng này lìa cảnh thế gian mà chỉ an trú vào cảnh niết-bàn thì sung sướng cỡ nào. Tôi không có vô làm sao tôi dám nói tôi liễu niết-bàn, tôi chỉ gợi ý cho quí vị, trong suy nghĩ đó không còn chuyện danh lợi, thương ghét, sầu hận, không sợ hãi ghen tuông toan tính.
Chính vì chỗ này, sau khi chứng quả, vị tỷ kheo không còn đọc nữa, vị Thọ thần không còn nghe tiếng tụng đọc nên mới hỏi “sao không tụng đọc gì hết” và vị tỷ kheo mới trả lời như vậy. Vì vậy bữa nào quí vị thấy tới giờ mà tôi không vô giảng thì biết đâu bữa đó…
BẤT CHÁNH TƯ DUY (Akusalavitakkasutta)
Vị tỷ kheo sống một mình và có những tư niệm không hay. Trong kinh dùng ngôn ngữ 2500 trước nghe cầu kỳ thay vì nói là suy nghĩ bậy bạ thì dùng chữ “bất chánh tư duy”. Chánh tư duy, tà tư duy là gì?
Tà tư duy
Dục tư duy: có suy nghĩ nặng về tham dục, thích cái này thích cái kia,
Sân tư duy: bất mãn này nọ, bực mình không vui, không thích cái này không thích cái nọ.
Hại tư duy: Lòng nghĩ, muốn nói, muốn làm gì đó ảnh hưởng quyền lợi người khác.
Đối lập với Dục tư duy là ly tham, ly dục, nhàm chán trong các dục: tâm sở vô tham.
Đối lập với Sân tư duy là Từ tâm: tâm sở vô sân
Đối lập với Hại tư duy là Bi tâm: tâm sở bi
Có người hỏi: Tại sao có Hại tư duy? Nếu hiểu đâm chém, đốt nhà bạo hành người ta là quá nặng rồi, hại tư duy là có suy nghĩ làm phương hại, tổn thương người khác. Chỉ cần một suy nghĩ: “Cái mặt đó hồi nãy mình chào uổng thiệt, mai mốt mình gặp không chào” hoặc “tại sao hồi sáng mình không nói câu đó cho bả thấm”, đó là hại tư duy. Quí vị tưởng tượng mình gặp người ta mà mình không chào thì người ta sốc chứ, đó là hại tư duy.
Vị tỷ kheo này hôm đó sống chìm trong Tà tư duy. Vị Thọ thần thấy vậy nên xuất hiện để nhắc nhở. Theo trong tinh thần Phật pháp, cái bất thiện mà Đức Phật nói có phần rất khác xa đối với cách hiểu của mình. Ví dụ mình nghĩ rằng: Cha mẹ thương con, lo cho con là đúng rồi; vợ chồng lo lắng thương yêu là đúng rồi. Theo trong lời Phật thì trách nhiệm mình lo cho chồng cho con, cho cha cho mẹ là đúng, nhưng phải hiểu rằng: Trong tình cảm với kẻ khác luôn có một trong hai yếu tố tâm lý: tham ái hoặc hoặc từ tâm; từ tâm thường hiếm hơn tham ái.
Vợ chồng thương nhau, cha mẹ thương con cái, con cháu thương ông bà cha mẹ, bạn bè thương nhau, thầy trò thương nhau… mình cứ nói là tôi thương ông thầy, tôi quý ông thầy tôi coi như cha, như anh, như cậu v.v… Nói vậy là sai bét, đừng tưởng nói vậy trời không biết đất không biết. Trong tình cảm giữa người với người thì có một trong hai: từ tâm và tham ái, nhưng từ tâm thường rất hiếm. Phải có gan nhìn thấy như vậy. Có nhiều người Phật tử khi nói chuyện với họ tôi biết được chuyện này, họ nghĩ rằng chuyện “ăn miếng trả miếng” không phải bậy, người ta nói mình mà mình nhịn, im lặng không trả lời cho đúng mức là hèn, là dở, là nhục; họ nói mình tu hành không hại ai nhưng mình phải có phản ứng; cái này phải xét lại!
Hành giả mà không nhận diện được phiền não ở mức độ vi tế nhất thì làm sao mình biết nó là cái gì. Mình thấy món đồ đó của mình bị người ta xài mà không hỏi mình bực, thì lúc đó mình phải biết rõ đây là tâm sân, đây là bỏn xẻn, chớ đừng đem đạo đức nguyên tắc pháp luật xã hội ngoài đời mà nói: cái này của tôi mà xài không hỏi tôi nên tôi bực. Trong tinh thần Phật pháp thì phải biết rõ, người ta chém mình mà mình bực mình thì đó vẫn là tâm sân. Phật pháp vốn rất khoa học, muối trong bàn tay của mẹ vẫn mặn, đường trong bàn tay kẻ thù vẫn luôn ngọt. Tinh thần giáo lý rõ ràng như vậy, đừng nói muối nằm trong tay của mẹ không mặn. Tâm bất thiện dù xuất hiện trong hoàn cảnh điều kiện nào thì vẫn là tâm bất thiện, còn lý do tại sao nó xuất hiện thì không mắc mớ gì ở đây hết.
GIỮA TRƯA HAY TIẾNG ĐỘNG (Majjhanhikasutta)
Bài kinh này học rồi,trong chương đầu tiên khi chúng ta gặp nhau ở lớp Tương Ưng Bộ Kinh này. Trong đây còn nói rõ “taṃ devatāsaṃyutte nandanavagge vuttameva”: bài kinh này đã được nói trong chương Tương Ưng Chư Thiên.
Vị tỷ kheo này cũng là một vị thánh. Vị Thọ thần này tới chia sẻ: Chỗ này con là thọ thần, con ở con còn teo mà ngài ở được hay quá. Vị tỷ kheo trả lời: Rừng là chỗ ở hoan hỉ đối với một người như ta.
Tôi nhớ từng nói nhiều lần: Con người mình ra làm sao thì sự cảm nhận thế giới đối với mình sẽ tương ứng như vậy. Đây là một câu nói đáng được xem là nguyên tắc. Thế giới này ra làm sao thì tùy thuộc vào khả năng nhận thức, tùy thuộc cảm nhận của mình. Sự thanh vắng là món quà đối với người không sợ hãi thích sống nội tâm hướng nội, nhưng là nỗi kinh hoàng đối với người nhút nhát hoặc có đời sống tinh thần quá nghèo.
Tôi biết có những ông cụ bà lão không chịu nổi nếu không có tiếng cười con cháu, thà bồng ẵm cực nhọc nặng nề mà họ thích, trong khi đó có người nghe tiếng con nít khóc là lạnh xương sống nổi da gà bịt tai không kịp. Có người thích sống lăng xăng quây quần đoàn tụ, nhưng có những người mỗi lần chỉ nghe tiếng xe Honda đậu vào cửa, nghe tiếng gạt chân chống khách sửa soạn bước vào là nổi da gà. Có người sợ nghe chuông reo, có nhiều người thì không thể nào rời phone.
Tôi chia sẻ một chuyện rất thật, một kinh nghiệm bằng vàng đối với tôi. Tôi để ý, trong thời gian nào tôi sống có liên lạc nhiều bằng email, phone, thì trong thời gian đó tôi rất là nhiều sân si vì phần lớn những đề tài mình trao đổi với nhau toàn chuyện phiền não. Bây giờ tôi đang ở Đức, tôi để ý trong một thời gian dài tôi không tiếp xúc với bà con, cảm giác an lạc lạ lùng lắm.
Còn một chuyện nữa, ngoại trừ bậc đại căn, nếu mình có lòng nguyện giác ngộ thành Thanh Văn, Tu-đà-hoàn cũng được, đắc được lúc nào thì đắc, đi liền đi sớm chừng nào càng tốt chừng đó, còn nếu kẻ nào có lòng muốn đi xa, đường dài, muốn làm Độc Giác, Chí thượng Thanh văn, Chánh Đẳng Giác thì không thể nào không tu từ tâm. Bắt buộc phải tu từ tâm! Bồ tát ngày xưa bỏ một thời gian để chỉ chuyên tu có một chuyện là từ tâm. Người không có từ tâm sẽ tạo ra vô vàn ác nghiệp mà toàn là ác nghiệp cản trở những Ba-la-mật khác. Người không có phước bố thí thì sẽ rơi vào vô số tội lỗi của người túng thiếu. Người không giữ giới sẽ rơi vào những hoàn cảnh cực kỳ bất lợi. Không có trí tuệ sẽ rơi vào những hoàn cảnh bất lợi, không có từ tâm sẽ rơi vào hoàn cảnh cực kỳ bất lợi. Bất lợi ở đây là không có tiện cho việc trau dồi thiện pháp. Đừng nghĩ là từ tâm đem lại phước báu kiếp sau sanh ra mặt đẹp được người khác thương, hiểu vậy là chết. Người không từ tâm thì sẽ gặp tất cả đủ thứ trong vòng luân hồi này, không từ tâm thì không thương chúng sanh khác, rất dễ sát sanh, rất dễ bỏn xẻn, rất dễ làm chuyện trộm cắp tà dâm, nói lời đâm thọc, ác ngữ.
Có nhiều minh tinh Holywood của Mỹ từ chối không xài đồ da và đồ lông vì họ chủ trương thà không mặc áo quần còn hơn sử dụng trang phục có được do việc giết chết thú. Họ yêu thú vật như vậy. Thiếu từ tâm thì mình sẽ có những nhu cầu làm tổn hại chúng sinh khác, ví dụ, ngay trong chuyện hưởng thụ ăn mặc của mình đã là một thứ cộng nghiệp rồi, chưa kể không có phước bố thí thì sẽ sanh vào cảnh khó nghèo, từ khó nghèo thì chuyện gì cũng làm được. Có thể buổi đầu ngại không làm chuyện ác lớn nhưng làm được chuyện ác nhỏ. Ác nhỏ làm được thì từ từ ác khá hơn và cuối cùng là ác cỡ nào cũng làm được. Từng thiện pháp quan trọng ghê gớm và từng ác pháp nguy hiểm ghê gớm là vậy đó.
Trong đời này nếu tôi không chết yểu thì tôi muốn bỏ ít nhất một năm cho đến bảy năm tu từ tâm. Muốn tu tập từ tâm thì chỉ có một con đường duy nhất, không có con đường thứ hai đó là hạn chế những tiếp xúc và quan hệ liên lạc không cần thiết. Chỉ có cách này mình mới lắng yên để thương yêu người khác. Đừng hòng tu tập từ tâm mà cứ tiếp xúc liên tục và liên tục email, điện thoại, gặp gỡ ngoài đời… Đời này ít nhất phải có một năm tu từ tâm chuyên nghiệp, không xen kẽ cái gì hết, không có bè bạn học trò đệ tử con cháu gì hết, nếu là xuất gia mà cần thiết thì ít nhất một vị thị giả mà thôi, còn cư sĩ thì tự thu xếp tìm về phương trời xa vắng nào đó ở với người bạn vừa ý mình, hoặc là thà ở một mình, chỉ có như vậy quí vị mới có thể tu tập từ tâm một cách trọn vẹn.
Hễ còn tiếp xúc dù đó là bậc mình thương kính đi nữa, vẫn phải cẩn thận vì có những trường hợp bực mình, trong Kinh An Lành gọi là: “kālena dhammassavana” (đúng thời nghe pháp) hoặc là “kālena dhammasakaccha” (tùy thời đàm luận pháp). Tùy thời nghĩa là chỉ đến gặp gỡ lắng nghe trao đổi trong lúc nào thật sự cần thiết và khi nào chuyện đó chỉ đem lại lợi ích hoặc không mang lại điều vô ích thì mình mới đi. Ví dụ như mình đang hành thiền tự nhiên có người rủ đi nghe thuyết pháp vì bữa nay có vị nào đó về thuyết pháp, cái đó phải xét lại, chớ không phải có ai đó rủ đi trai tăng, đi đặt bát vui quá là đi liền. Nếu là hành giả thứ thiệt là phải xét lại.
Vì vậy, muốn tu tập từ tâm hãy lìa xa những quan hệ không cần thiết. Đây là lời giải thích cho bài kinh Tiếng Động này. Không thể nào không có một năm tu từ tâm, tối thiểu, muốn tu được thì phải tránh cho bằng được những quan hệ không cần thiết, khó vô cùng. Còn ai thấy rằng mình tu không tiến bộ thì làm ơn ngó thử mình đang sống ra làm sao, phải nhìn lại tại sao mình không tiến bộ. Đừng ngồi tưởng tượng rằng mình là hành giả mà, mình đang ở Miến Điện mà, đang ngồi trong thiền viện mà, có thiền sư hướng dẫn mà, tu có pháp môn đàng hoàng mà, đúng như vậy, nhưng thật ra không có tiến bộ vì thật ra quan hệ tiếp xúc, bối cảnh môi trường điều kiện của mình không thích hợp, toàn tưởng tượng.
Có người sẽ không đồng ý và nói lìa xa chúng sanh thì đối tượng đâu cho mình tu từ tâm. Cứ thử đi, còn kỹ thuật tu tập từ tâm thì coi trong Thanh Tịnh Đạo, hoặc coi cuốn Triết Học Phật Giáo tôi vừa in, trong đó có phần giảng về thiền Quán thiền Chỉ rất kỹ, đặc biệt là cuốn Triết học A-tỳ-đàm. Thời gian sau này tôi không đọc sách tiếng Việt bởi vì sách bên đây nhiều quá, nên tôi chỉ giới thiệu cái nào tôi biết rõ thôi.
KHÔNG CHẾ NGỰ CĂN (Pākatindriyasutta)
Thất niệm và phiếm luận
Trong Chú giải cũng không giải thích nhiều, đã giảng trong chương Chư Thiên. Bài kinh này nói về một số vị tỷ kheo sống chung với nhau rồi thất niệm, nói nhiều. Tôi muốn nói một việc rất thường nhưng tôi cho đó là điều quan trọng bậc nhất, lúc nãy tôi đã nói, đó là không thể nào muốn tu tập từ tâm mà sống va chạm cọ xát chung đụng nhiều người.
Không hiểu vì sao ở tuổi này tôi lại thấm thía chuyện phiếm luận. Mỗi lứa tuổi tôi chú ý một chuyện, hai năm nay tôi chú ý nhiều đến chữ “phiếm luận”. Đối với tôi đây là một đại tội. Phiếm luận là tiếp xúc hay trao đổi những đề tài không liên quan gì đến Phật Pháp, những đề tài làm cho mình xuống tinh thần, nóng nảy nhiều hơn, tham dục nhiều hơn. Ngày xưa tôi không có thấm cái này, bây giờ tôi mới thấm cái này. Dù cho quí vị có tu học ghê gớm cách mấy, miễn là còn phàm, mà quí vị thích thú phiếm luận thì trong vòng ba nốt nhạc sẽ rớt từ trên trời xuống sình luôn, bởi vì phàm tâm mà.
Bài kinh này nói một số vị tỷ kheo sống trong rừng, ồn ào, lắm lời, thất niệm. Dầu có thương ai bằng trời đi nữa, phải để ý, người này khi ở gần mình họ nói cái gì, cái đó quan trọng lắm. Đừng coi thường người này là dốt, đừng coi thường người này là học trò của mình, đừng coi thường người này không ra gì trong mắt mình. Vua đứng đầu thiên hạ, là thiên tử con trời, nhưng quí vị biết, một trong những người tác động đến vua nhiều nhất là thái giám và cung nữ, nhiều khi họ tác động còn hơn cả hoàng hậu, thái hậu và trọng thần trong triều, bởi vì thái giám và cung nữ là thường xuyên chung đụng gần gũi vua nhất. Con người mình khi nào kiêu ngạo cống cao mình coi người ta là rác, nhưng mình có khuynh hướng lây lan rất dễ, vì vậy tất cả những ai mình thương quí cỡ nào mà họ có khuynh hướng mê phiếm luận thì bằng mọi giá mình phải nhấn nút lìa xa.
Điểm đặc biệt quan trọng trong bài kinh này là thất niệm và phiếm luận. Mình dễ duôi cỡ nào thì dễ duôi nhưng phải nhớ đây là hai chuyện cực kỳ quan trọng. Mình gần chết rồi, thời gian qua nhanh vô cùng. Các vị biết rồi, một tuần tôi đi học năm ngày, bữa nào tôi làm biếng tôi phải đếm, bữa nay thứ sáu rồi, chỉ cần học ngày thứ bảy nữa thì được nghỉ hai ngày cuối tuần, mừng lắm. Nhưng cứ chú ý thứ Bảy Chủ Nhật thì tôi phát hiện ra một việc, thời gian chỉ lê thê đối với người nào không có lý tưởng sống hoặc không có việc gì để làm, thực ra nó qua vun vút.
Cái niệm Chết là cái mà tôi rất là tâm đắc, bao nhiêu chuyện phiền muốn bỏ chỉ nhớ đến cái chết thôi, nghĩ tới đó là cái gì cũng lắng xuống hết. Nghĩ đến cái chết là lạnh xương sống. Sợ chứ! Chỗ tôi ở bước ra nghĩa trang đi thong thả là từ năm đến bảy phút. Nghĩa trang bên đây không có nấm cao như mình, chôn xuống rồi họ đặt miếng đá sát mặt đất, bên trên là miếng đá nhỏ bằng cái gối nằm nghiêng nghiêng. Nhìn xa xa giống như cái chiếu trải và cái gối. Nghĩa trang mênh mông mà một con chó hay đứa bé bò trên đất mình cũng thấy, lối đi trồng hoa trải sỏi rất đẹp. Những kẻ đang nằm ở dưới một thời là chủ những cái villa chung quanh đây. Đứng ở chỗ chúng tôi nhìn qua là thấy biên giới giữa hai nước Thụy Sĩ và Đức, con sông chia đôi, mênh mông nhìn hút mắt, bên đó là nghĩa trang.
SEN HỒNG HAY SEN TRẮNG (Gandhatthenasutta)
‘Gandha’: ‘mùi thơm’; ‘thena’=’cora’: ‘kẻ trộm’. ‘Gandhathena’: ‘kẻ trộm mùi thơm’. ‘Manohara’: ‘kẻ đánh cắp trái tim’. ‘Thera’: ‘trưởng lão’, ‘thena’: ‘kẻ trộm’.
Giống như Phật tử mình hay nhầm lẫn hai chữ này: casino, kasina. Kasina là hành thiền. Trong một số bài viết của tôi, pháp danh tôi là Giác Nguyên, có lúc tôi không muốn để là Giác Nguyên mà để là Duyên Ngát, hơi trật chính tả một chút nhưng thú vị.
Chữ ‘Gandhathena’ này rất hay. Vị tỷ kheo này đi bát về thấy có hồ sen, vị đó bước xuống để ngửi. Vị Thọ thần trong bụng nghĩ trách, cho rằng chuyện ngửi một đóa hoa là hành động thế tục, hưởng thụ, không đẹp đối với một vị Sa-môn.
Ở Thụy Sĩ có cô Phật tử lạ lắm, cổ không hoan hỉ khi thấy trong chùa Tích Lan có những món đồ đắt tiền, cổ thấy chùa có bộ salon đắt tiền, vị sư nào xài phone đắt tiền, mang giày mới hay dép mới, khăn quàng cổ hơi tốt tốt thì cổ khó chịu. Không phải cổ ganh tị nhưng cổ nghĩ là vị sư không nên xài những thứ đồ đó. Quí vị phải thông cảm, cái bậy là mình cố ý bỏ tiền ra đi tìm kiếm order những thứ đắt tiền. Dĩ nhiên những vị sư cũng tránh dùng những thứ đắt tiền để tránh người ta hiểu lầm vì người ta biết đó là của đàn na mà.
Cách đây không lâu có ông thầy chỉ vì hình ảnh cầm iphone 6 mà Trúc Lâm dậy sóng, vào internet xem “Thầy đập hộp iphone 6” là biết. Một người thật lòng cầu đạo giải thoát thì nhu cầu càng ít càng tốt. Càng lệ thuộc vào cái gì đó, thì khả năng giải thoát tự tại càng bị thu hẹp. Nhu cầu tầm thường càng nhiều thì nhu cầu cao cấp sẽ bị mất chỗ. Chỉ cần mình thích xe đẹp, thích ăn mặc đẹp là mình biết mình mất đi một góc trời giải thoát. Mỗi lần mình thích một cái là mình bị mẻ đi một góc tự tại, càng thích vật chất chừng nào thì phải hiểu ngầm tinh thần sẽ bị bỏ ngõ, bị làm lơ.
Phúc thay cho kẻ nào có khả năng an lạc với đời sống tinh thần tự thân một cách lành mạnh và hữu ích. Đáng thương thay cho kẻ nào không có khả năng an lạc với riêng mình. Cái nhu cầu vật chất của mình biết kiếp nào mới thỏa mãn được, riêng cái khoảng Apple Production thì nó cứ lên đời nâng cấp liên tục. Nhìn cái Ipad tôi không biết 50 năm nữa nó sẽ ra tới cái gì không biết, tôi chỉ biết mơ hồ là một lúc nào đó người ta không cần dùng keyboard như mình nữa, bàn phím sau này có lúc chỉ là ánh sáng rọi trên mặt phẳng, chạm tay vào ánh sáng đó là chạm tay vào bàn phím rồi.
Cách đây không lâu, tôi đọc, sau này sẽ có xe tự hành, mình set up sẵn, chỉ cần bấm địa chỉ thì tự động nó chạy trên đường và đến nơi. Có điều, tôi nghĩ là ở nước ngoài chứ nước mình bà con chạy ẩu, khi nào mà toàn bộ mọi người đều dùng thì ok chứ không thì cái máy nó đỡ không nổi. Chính ông James Bond khi qua VN ổng nói ổng lái xe bắn súng không sợ mà gặp dân Sài Gòn, Hà Nội chạy xe ổng tối tăm mặt mũi, mặt ổng tái mét. Vì vậy ở tại Sài Gòn ngoài đèn xanh đèn đỏ người ta còn có một cách là nhìn mặt người bên cạnh, thấy họ mặt tái thì biết mình đang chạy nhanh, thấy họ mặt đỏ thì biết là có thằng nào vừa chạy ẩu. Nhìn mặt người hành khách là đoán được tốc độ xe và xe đang lưu hành thế nào.
Mình đang phiếm luận rồi đó nhưng có đi xe ở VN mới biết xã hội mình có một tỷ vấn đề. Sẽ có một lúc, đời sống nhân loại càng văn minh, nhưng nếu đời sống tinh thần mình nghèo quá thì cái văn minh đó chỉ làm cho mình cô quạnh thêm mà thôi. Cách đây 10 năm tôi có đọc một bài viết rất ngậm ngùi, đó là con người bây giờ có điều kiện khả năng di chuyển đi rất xa và rất nhanh nhưng không còn khả năng đến với nhau nữa. Con người có khả năng lên trăng nhưng không có khả năng bước qua nhà hàng xóm. Con người có khả năng nói chuyện xuyên đại dương nhưng không còn thời gian về thăm mẹ thăm cha để gặp mặt nói chuyện trực tiếp. Chúng ta có khả năng kiếm rất nhiều tiền nhưng không còn thời gian để rót cho mẹ cho cha một ly nước. Một bài viết chỉ khoảng chừng hai ba chục gạch đầu dòng nhưng tôi đọc rất là xúc động. Chúng ta bây giờ có đủ thứ nhưng đánh mất rất nhiều thứ, trong đó có một điều, chúng ta bây giờ có thể đọc nhiều thứ trên internet nhưng chúng ta bắt đầu chán đọc và sợ đọc rồi, gặp cuốn sách hai ba trăm trang là sợ hãi rồi.
Phật tử VN, khi tôi về tôi để ý thấy họ điều kiện khó khăn tôi thương, nhưng tôi thầm cầu nguyện mong sao họ chỉ đủ ăn thôi và bệnh thì có thuốc. Tôi chỉ không mong họ giàu đến mức lười đọc sách. Đến bây giờ tôi vẫn chủ trương là in sách ra giấy mà không gởi trên internet, lượng độc giả mà tôi nhắm tới phần lớn là trong nước mà số người xài tablet, ipad, laptop gọn gọn cho đến bây giờ vẫn là con số ít, đặc biệt là những người lớn tuổi từ 50 trở lên, đi đâu họ lận cuốn sách trong người tiện hơn là ipad. Đó là nhận xét của tôi, và trong nước bây giờ vẫn còn người thích đọc sách, cầm theo cuốn sách tiện hơn khi ra ngoài công viên, bờ hồ…
Trong bài kinh này, vị Thọ thần này hơi khắt khe, tuy nhiên cái hay của bài kinh này nằm ở điểm: càng sống lệ thuộc nhiều chừng nào thì khả năng giải thoát càng hạn chế chừng đó, nhu cầu thấp càng nhiều thì nhu cầu cao sẽ bị mất chỗ. Đó là hai điều quí vị phải nhớ khi khép lại chương này.
#Vietnam #daobut #kinhtươngưngbộ https://www.daobut.com/2021/09/Tim-hieu-kinh-phat-Tuong-Ung-Bo-Chuong-9-Tuong-Ung-Rung-2.html
0 notes
reading-time · 3 years ago
Text
《细说江南园林》,孙旭著。当代中国出版社,2009. 第四章: 自然古朴 – 沧浪亭 Chương 4: Tự nhiên cổ phác – Thương Lãng Đình. Bản dịch  “Chi tiết các viên lâm ở Giang Nam”, tác giả Tôn Húc. Tâm Anh dịch.
Thương Lãng Đình nằm ở gần ngõ Tam Nguyên phía nam thành Tô Châu, là hoa viên tư nhân do văn nhân Tô Châu là Tô Thuấn Khâm cho xây dựng. Những năm đầu thời Nam Tống (đầu thế kỉ 12), nơi này trở thành phủ đệ của võ tướng Hàn Thế Trung. Thời Nguyên, Minh dường như bị bỏ hoang phế, cho đến thời Thanh được cho xây dựng lại, dần dần thành ra diện mạo như ngày nay. Thương Lãng Đình diện tích chừng 16 mẫu (*ghi chú người dịch: 1 ha = 10.000 m2 = 15 mẫu), sơn thủy có đủ, cảnh trí đa dạng, đình đài lầu các phong phú.
1.     Sự lựa chọn của Tô Thuấn Khâm  - non xanh nước biếc cùng dựa vào nhau, văn nhân gửi nỗi lòng
Thời Bắc Tống năm Khánh Lịch thứ 4 (1044), Tô Thuấn Khâm lúc đó 36 tuổi (tự Tử Mĩ) bị người khác hãm hại tấu lên hoàng thượng, mất chức về làm dân thường.
Tô Thuấn Khâm là người vốn tính hào sảng. Trong cuốn “Tứ hữu trai tùng thuyết” của Hà Lương Tuấn thời nhà Minhghi chép lại một chuyện oan tình thời trẻ của ông. Tô Thuấn Khâm thích uống rượu, lúc sống ở nhà cậu ngoại Đỗ Lang Công, mỗi tối đọc sách, đều phải uống một đấu rượu. Đỗ Lang Công rất hoài nghi, bèn sai gia nhân để ý. Gia nhân nghe được Tô Thuấn Khâm đọc thơ “Hán Thư. Trương Lương Truyện”, đến đoạn “Lương cùng Khách đánh lén Tần Thủy Hoàng nhầm trúng phải  xe phụ”, vỗ tay nói rằng: “Tiếc là đánh không trúng!”, mà rồi uống cạn một ly đầy, đọc đến “Lương … Sau khi nghe gia nhân bẩm báo, Đỗ Lang Công cười mà rằng: “Uống rượu như thế này, một đấu không đủ rồi”. Tô Thuấn Khâm 27 tuổi ra làm quan, nhận chức y sử ở Hào Châu, đem hết sức tiến hành chỉnh đốn trật tự xã hội. Sau về kinh làm tiểu sử gia, cũng dám nói dám làm. Vì thế, ông đắc tội với thế lực đượng quyền, bị bãi quan.
Những ngày nhàn rỗi ở đất Ngô (*ghi chú người dịch: đất Ngô ý chỉ Giang Nam), Tô Thuấn Khâm không giống kiểu Khuất Nguyên khi xưa, ôm đá tự vẫn dưới đáy sông, đương nhiên cũng không bỏ mình theo dòng nước, ông gửi nỗi lòng vào giữa sơn thủy Giang Nam, “có hứng thì đi thuyền ra sông, ngâm thơ lãm cảnh núi non sông nước”. Ông yêu thích phong cảnh sơn thủy hữu tình một vùng đất Tô Châu, do vậy đã bỏ 4 vạn quan tiền mua khoảnh đất cỏ cây rậm rạp, sông rộng đồi cao ở phía đông Khổng Miếu. Nơi này vốn trước là hoa viên thời Ngũ đại Ngô Việt Quảng Lăng Vương tiến cống cho vua Ngô Tiết độ sứ Tôn Thừa Hữu. Tại nơi này Tôn Thuấn Khâm cho xây đình dựa theo mạch nước, gọi tên là “Thương Lãng Đình”, đồng thời tự gọi bản thân là “Thương Lãng Ông”.
Như thế, Thương Lãng Đình thực sự khiến Tô Thuấn Khâm đạt được sự an ủi tâm linh rồi không?
Trong bài thơ “Lãm chiếu”, Tô Thuấn Khâm viết:” …
Một người hơn 30 tuổi đang khỏe khoắn tráng kiện, bỗng nhiên mặt như gặp họa, ánh mắt u tối, yếu ớt nhiều bệnh, nỗi đau đớn về thể chất và tinh thần có thể nhìn ra. Sau 5 năm ở Thương Lãng Đình, Tôn Thuấn Khâm lại được trọng dụng trở lại, được điều đến Hồ Châu làm trưởng sử. Tuy vậy trời chưa già lão người đã mệt mỏi, năm cuối cùng này, ông bệnh mà chết ở Hồ Châu, mới chỉ 40 tuổi.
2.     Một hoạt động văn hóa – Đào Chú ngũ lão, một đoạn giai thoại
Sau khi Tô Thuấn Khâm qua đời, Thương Lãng Đình qua nhiều đời chủ nhân, cũng không ngừng mở rộng. Thời Nam Tống, viên lâm này thuộc sở hữu của danh tướng chống Kim tên là Hàn Thế Trung. Nhưng từ thời Nguyên đến Minh, nơi này lại bị đem làm nơi chùa chiền.
Thời Thanh năm Đạo Quang thứ 7 (1827), tuần phủ Tô Châu là Đào Chú cho trùng tu toàn bộ Thương Lãng Đình. Đồng thời, Đào Chú còn triển khai một hoạt động văn hóa mới mẻ tại Tô Châu. Theo Bích Cương Tiểu Trúc của nhà sưu tập sách Cố Nguyên, Đào Chú từng xem hơn 300 bản vẽ nổi tiếng vùng Giang Nam. Về sau, với sự trợ giúp của nhân sĩ địa phương, ông lại thu thập thêm hơn 200 bức nữa. Đào Chú cho rằng, những bức họa này có đóng góp với văn hóa Tô Châu. Ông lệnh cho người đem những bức họa này tổ chức triển lãm, để mọi người cùng tán thưởng, lại đem khắc trên đá. Đương thời Thương Lãng Đình đã được trùng tu xong, Đào Chú do vậy cùng với bộ chính Sử Lương Chương, mua lại các dãy nhà ở phía tây Thương Lãng Đình thuộc nhà họ Trương.
Sau khi vào thành, Đào Chú vẫn dụng tâm tổ chức một lần ngũ lão hội – mời nội các trung thư đã 88 tuổi Phan Xích Nãi, Chưởng Sơn Đông Đạo giám sát ngự sử đã 81 tuổi Ngô Vân, Sơn Đông an sát sử 72 tuổi Thạch Viêm Ngọc, Thượng Thư hình bộ 71 tuổi Hàn Phong, cùng với bản thân Đào Chú là Giang Tô tuần phủ 50 tuổi, theo tuổi tác cao thấp sắp xếp, mỗi người theo một bài thơ, họa thành một bức “Ngũ lão đồ”. Người đương thời gọi đó là giai thoại Thái bình thịnh sự, hiền đạt phong lưu.
30 năm sau giai thoại về ngũ lão hội của Đào Chú, khói lửa chiến tranh đội quân nông dân Thái Bình Thiên Quốc đã thiêu hủy Thương Lãng Đình, các cây cổ thụ trong viên lâm bị chặt phá không còn.
Năm Đồng Trị thứ 12 (1873), Tuần phủ Giang Tô Trương Thụ Thanh cho trùng tu lại Thương Lãng Đình, đồng thời lại thêm vào số 500 bức tranh trước đây thành 594 bức. Sau đó, Thương Lãng Đình được đổi tên thành “Ngũ bách danh hiền từ” (Đền 500 hiền nhân). Chủ đề viên lâm văn nhân của Thương Lãng Đình dần dần cũng nhạt dần, chủ yếu được coi trọng ở công dụng đạo đức lễ giáo. Năm 1955, “Thương Lãng Đình” lấy lại tên cũ.
 3.     Sơn thủy ở Thương Lãng – bố cục quanh núi, hồ sâu hoa nở
Bố cục ở Thương Lãng Đình vô cùng đặc sắc: lấy giả sơn làm trung tâm, từ đó vòng theo các giả sơn này mà xây dựng; không tạo mặt nước rộng, thủy cảnh mượn con suối tự nhiên ngoài viên lâm. Con suối theo phía bắc viên lâm nhẹ nhàng chảy từ tây sang đông, du khách đi đến bên bờ suối, chưa vào trong viên lâm đã có thể thưởng ngoạn cảnh. Chỉ trông thấy dãy hành lang phía bờ nam suối, qua những song cửa, cổ thụ rậm rạp, đá tảng rất nhiều. Điểm này là khác biệt rất lớn với những bức tường cao bao kín các viên lâm khác ở Tô Châu.
Một cây cầu phẳng vượt qua con suối, thông vào cổng viên lâm. Qua cây cầu này, có thể trông thấy một giả sơn bằng đất ở chính giữa.
Đoạn phía đông Thổ sơn được tạo thành từ hoàng thạch, tương truyền là di vật thời Tống. Đoạn phía Tây được đắp thêm hồ thạch, tuy lung linh nhưng hơi phức tạp, là kết quả tu sửa về sau. Các viên đá đắp trên thổ sơn được mài bóng, cây cối um tùm, các bụi hoang tự nhiên. Đứng trong đó, cảm giác như đang ở chốn rừng núi thật. Cổ nhân vì thế mà hình gọi Thương Lãng Đình một cách hình tượng là “Cận sơn lâm”, chỉ ra đặc sắc giả sơn ở Thương Lãng Đình. Thương Lãng Đình được xây ở vị trí cao nhất phía đông dãy giả sơn. Bốn bên có mái cong, cột đá. Trên cột đá có câu đối đề “Thanh phong minh nguyệt bổn vô giá, cận thủy viễn sơn giai hữu tình”, do bộ chính Sử Lương Chương năm Đạo Quang thu thập, viết cảnh viết tình.
Phía tây nam giả sơn có bức tường, gần xuống hồ sâu, trên đá có đề hai chữ “Lưu ngọc”. Phía tây bắc giả sơn có một cây sơn trà, khi hoa nở đến 6, 7 nghìn bông, cảnh vô cùng rực rỡ, có thể so sánh với “Bảo châu sơn trà” ở Chuyết Chính Viên, và “Thập tam thái bảo” ở Võng Sư Viên.
 4.     Hành lang song hoa – nghệ thuật độc đáo, tinh xảo
Giữa giả sơn và h�� nước ở Thương Lãng Đình, có tường bao quanh co tạo thành một hành lang hướng về bên trong. Phía ngoài hành lang sát mép nước hồ xanh, phía trong gần giả sơn, dựa sơn gần nước, quanh co lên xuống. Trên tường hành lang có nhiều song hoa hình quạt. Song hoa ở Thương Lãng Đình đa dạng, khoảng 108 dạng thức, phân bố trên các bức tường hành lang hướng vào phía trong viên lâm. Hoa văn các song hoa đa dạng, điển hình hoa văn viên lâm Tô Châu. Các hoa song này không chỉ kết nối cảnh phía trong là giả sơn và phía ngoài là hồ nước, khiến giả sơn, hồ nước hòa làm một thể thống nhất, còn rất tiện cho du khách thưởng ngoạn cảnh quan: khi đi bộ dọc hành lang, trước mắt là nước chảy quanh co, cách bức hoa song nhìn vào thấy giả sơn.
Phía tây hành lang có thủy tạ, gọi là “Diện thủy hiên”. Hiên này hai mặt sát mép nước, trước đình cổ thụ phản chiếu, tên gọi chính là lấy ý thơ Đỗ Phủ “Tằng hiên giai diện thủy, lão thụ bao kinh sương”.
5.    Kiến trúc dựa theo núi – thạch ốc ấn tâm, viên linh chính minh
Vòng quanh giả sơn, từ đông sang tây có các kiến trúc Minh Đạo Đường, Dao Hoa Cảnh Giới, Khán Sơn Lầu, Thúy Linh Long Quán, Ngưỡng Chỉ Đình, Ngũ Bách Danh Hiền Từ, Thanh Hương Quán, Bộ Kỉ Đình, Ngự Bi Đình, v.v…
Minh Đạo Đường nằm ở phía nam Thương Lang Đình, vốn là nơi dạy học của văn nhân. Thời nhà Thanh những năm Đồng Trị nơi này được xây dựng lại, lấy ý từ “Thương Lãng Đình kí” của Tô Thuấn Khâm, “Quan thính vô nha, tắc đạo dĩ minh” mà đặt tên. Minh Đạo Đường rộng rãi, sáng sủa, là kiến trúc lớn nhất trong viên lâm. Trong đường có ba tấm bia đá rất quý thuộc Tô Châu thời Tống, đó là Thiên Văn Đồ, Địa Lý Đồ, Bình Giang Đồ. Các bia đá gốc này hiện được lưu giữ trong Bảo tàng thành phố Tô Châu, rất có giá trị.
Khán Sơn Lầu nằm ở cuối phía nam viên lâm, xây dựng trên một động giả sơn. Cao rộng thông thoáng, các góc mái cong vút, là lầu đài độc đáo trong số các kiến trúc viên lâm ở Tô Châu. Lên lầu có thể nhìn xa phía tây nam các đỉnh núi, trong khi từ các ô song hoa có thể ngắm Thương Lãng Đình, như đang đứng sâu trong rừng núi vậy.
Dưới Khán Sơn Lầu có hai nhà xây bằng đá, trên cửa khắc bốn chữ “Ấn tâm thạch ốc”, do chính vua Đạo Quang đề. Tên của kiến trúc này lấy từ sách Phật gia “Y dĩ biểu tín, pháp nãi ấn tâm”.
Trước thạch ốc lấy giả sơn bao quanh thành tiểu viện, trên cổng viện đề bốn chữ từ “Viên linh chứng minh” trong sách của Lâm Tắc Từ.
Mặt phía bắc Khán Sơn Lầu là Thúy Lệnh Long Quán. Tên gọi lấy từ câu thơ của Tô Thuần Khâm “nhật quang xuyên trúc thúy lệnh long” (ánh sáng mặt trời xuyên qua lá trúc lung linh). Tiểu quán bao quanh bởi các ô cửa màu lục, trước sau có trúc, bách, ba tiêu. Trong quán có câu đối: “Phụng đế tiêm trường địch | Lưu thủy đương minh cầm”, ý thơ chỉ cảnh yên tĩnh nơi đây.
Từ Thúy Lệnh Long Quán đi xiên hướng bắc, là đến Ngưỡng Chỉ Đình. Tên đình này lấy từ “Thi Kinh”, câu “cao sơn ngưỡng chỉ, cảnh hành hành chỉ”. Giữa đình trên tường có bức tranh khắc đá tranh của họa gia thời Minh Văn Trưng Minh, trên tường hành lang có “thương lãng ngũ lão đồ vĩnh”, “chu tồn kí thất hữu đồ”, và các khắc đá khác.
Hành lang phía trái Ngưỡng Chỉ Đình có bức tường, trên có khắc trên gạch hình các nhân vật đang cưỡi mây. Đây là sản phẩm của các nghệ nhân ở Tô Châu, chạm khắc tinh tế, sinh động, tỉ mỉ, có lịch sử ít nhất đều ít nhất 100 năm.
https://www.youtube.com/watch?v=66VV9En7Gvk
0 notes
blogtintonghop24h · 3 years ago
Text
Song hành giúp chồng sở hữu tài sản trăm triệu đô, vợ bị 'đá' khi tiểu tam tuyệt sắc xuất hiện và màn phản công 'như văn mẫu' phá tan sự nghiệp kẻ phản bội!
Phụ nữ không ngốc nghếch, họ có thể nằm im, chờ đợi thời cơ để phản công lại người chồng của mình nếu như anh ta sai trái. Phụ nữ dù có thể không giàu có bằng nhưng luôn có cách gieo trái đắng cho đàn ông đúng lúc.
Chuyện ly hôn của triệu phú ngành công nghệ Vương Vi và cô vợ Dương Lỗi cũng thế.
Cặp đôi yêu đương thắm thiết bất ngờ
Vương Vi sinh ra trong một gia đình bác sĩ. Ngay từ nhỏ vì thấy bản thân có thành tích học tập không tốt, chẳng thể nối nghiệp gia đình nên anh sinh ra chán nản. Từ những năm cấp 2, Vương Vi đã xin bố mẹ cho ra nước ngoài học tập. Sống ở Mỹ 9 năm, họ Vương quay về Trung Quốc để bắt đầu công việc kinh doanh của riêng mình.
Tháng 4/2005, Tudou - một app xem phim, tải phim và video của Vương Vi ra đời. Vào thời điểm đó, Tudou là website video đầu tiên ở Trung Quốc.
Vương Vi khi đó vẫn chưa có nhiều tiền, bởi thế, muốn nhận được đầu tư, mở rộng mạng lưới và phát triển sự nghiệp thì anh phải đi ngoại giao.
Tumblr media
Dương Lỗi là một MC chủ chốt của Tập đoàn truyền thông Thượng Hải. Vương Vi quen Dương Lỗi trong một buổi tụ tập bạn bè đại học. Khi đó, anh vừa nhận được khoản đầu tư 500 nghìn đô la Mỹ của IDG (một tổ chức đầu tư của Mỹ) và cần mở rộng quan hệ, gặp gỡ bạn bè cùng các cơ quan truyền thông.
Cũng như Vương Vi, Dương Lỗi là một nhân vật không tồi và được coi là tài năng xuất chúng, sở hữu khả năng xuất sắc trong lĩnh vực truyền thông. Dương Lỗi tốt nghiệp Đại học Truyền thông Trung Quốc và có bằng Thạc sĩ báo chí ở Đại học Phúc Đán. Ngày đó, cô chuyên dẫn các chương trình “đinh” của đài Phương Đông Thượng Hải và rất được yêu mến.
Hai cái tên nổi bật trong hai lĩnh vực gặp mặt thì nhanh chóng nảy sinh tình cảm. Họ yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên.
Tumblr media Tumblr media
Cặp đôi Vương Vi và Dương Lỗi.
Tuy nhiên, nói gì thì nói lúc đó Vương Vi chỉ mới là thanh niên khởi nghiệp, chưa giàu có. Dương Lỗi là người nổi tiếng nhưng vẫn yêu bởi một lí do đơn giản: Cô là nữ nhân văn chương, ngưỡng mộ người tài mà tới.
Sau khi ở bên nhau, Dương Lỗi bắt đầu chạy quảng cáo, truyền thông cho dự án của bạn trai. Cô cũng góp phần công sức, chứng kiến Tudou ngày càng phát triển.
Năm 2007, cặp đôi khi đang cùng đi du lịch ở cao nguyên Thanh Hải - Tây Tạng thì Vương Vi lấy một chiếc nhẫn gấp từ tờ giấy bạc 1 đô la và cầu hôn. Dương Lỗi đồng ý, cả hai nhanh chóng tính chuyện hôn nhân.
Tháng 8/2007 họ chính thức là vợ chồng. Thời gian tiếp theo, Tudou bước vào thời kỳ phát triển nhanh chóng. Chứng kiến chồng có sự nghiệp riêng, ngày càng trở nên giàu có, Dương Lỗi cũng hạnh phúc thay cho chồng mình.
Tumblr media Tumblr media
Vụ án ly hôn phức tạp và bước phản công của cô vợ
Mối quan hệ của họ thắm thiết và hạnh phúc đến mức ngay cả trong cuộc họp, Dương Lỗi cũng ngồi trên đùi Vương Vi như một cô nàng mới lớn đang yêu. Thế nhưng thời gian thuận lợi cho mối quan hệ ấy không kéo dài vì một kẻ thứ ba xuất hiện.
Cô gái đó là vũ công ba lê nổi tiếng của Trung Quốc Đàm Nguyên Nguyên.
Họ Đàm quê gốc Thượng Hải, bắt đầu học nhảy từ năm 11 tuổi. Cô là một thiên tài khiêu vũ. 18 tuổi đã trở thành vũ công solo trẻ nhất của San Francisco Ballet - một trong ba đoàn ba lê lớn nhất của Mỹ.
Đàm Nguyên Nguyên sau đó trở thành nữ diễn viên chính trẻ nhất lịch sử đoàn. Cô là nữ diễn viên múa chính người Trung Quốc duy nhất trong các đoàn múa ba lê hàng đầu thế giới.
Tumblr media Tumblr media
Đàm Nguyên Nguyên được cho là chen chân vào cuộc hôn nhân của Vương Vi và Dương Lỗi.
Chẳng biết lí do thế nào mà Vương Vi qua lại với Đàm Nguyên Nguyên. Thậm chí có thông tin cho rằng anh ta mua cho nhân tình một căn hộ sang chảnh bậc nhất. Ngay sau đó, họ Đàm từ bỏ sự nghiệp ở nước ngoài vì Vương Vi và về Hong Kong phát triển sự nghiệp. Cô cũng là trưởng đoàn của Hong Kong Ballet.
Có lẽ phát cuồng vì tình yêu, Vương Vi quyết định chìm đắm trong mối quan hệ sai trái. Vào thời điểm đó, Tudou đã phát triển vượt bậc, Vương Vi trở nên giàu có vô cùng.
Đột ngột đến tháng 8/2008, Vương Vi đệ đơn ly hôn với Dương Lỗi khiến cô bàng hoàng. Lúc đó, nữ MC này vẫn rất yêu chồng. Nhưng có lẽ đúng như nhận định của cô, người đàn ông ấy chỉ đi sưu tập hoa thơm cỏ lạ.
“Anh ấy yêu tất cả những gì đẹp đẽ. Sau khi chinh phục xong xuôi, anh ấy sẽ tìm kiếm người tiếp theo”.
Tumblr media Tumblr media
Đàm Nguyên Nguyên là mĩ nhân tuyệt sắc.
Thế nhưng Dương Lỗi không đồng ý ly hôn vì lí do vẫn còn tình cảm. Nhiều ý kiến khác cho rằng bên cạnh việc của Đàm Nguyên Nguyên thì Tudou đang phát triển quá mạnh mẽ, Vương Vi sợ sau này tài sản sẽ là tài sản chung của hai vợ chồng nên muốn ly hôn sớm.
Sau đó, Dương Lỗi quá đau đớn nên phải buông tay. Dù bản thân khi đó đã giàu có nhưng Vương Vi đã có cách khiến cho tài khoản trống rỗng, khai báo tình hình bản thân khó khăn. Anh ta chỉ chi ra đúng 100 nghìn NDT (khoảng 350 triệu) bồi thường.
Dương Lỗi đau đớn xách đồ ra khỏi căn nhà mà trước đó khi kết hôn cô đã bỏ ra gấp đôi số tiền trên để trang hoàng, sửa sang.
Nếu mọi chuyện kết thúc ở đây thì chẳng còn gì để nói. Dương Lỗi chính thức thua cuộc nhưng ai ngờ cô có màn “phản công” quyết liệt tận cùng. Nhất là khi bên cạnh Dương Lỗi có bạn thân nhất làm cố vấn họ Trương - cũng là luật sư có tiếng ở Thượng Hải chuyên tham gia vào các vụ việc tranh chấp tài sản.
Lùm xùm ly hôn kéo dài đến tận năm 2010 mới xong xuôi. Khi đó, Tudou chuẩn bị IPO tại Mỹ (lên sàn chứng khoán), vào thời điểm quan trọng bậc nhất cuộc đời Vương Vi, Dương Lỗi đã khởi kiện chồng cũ ra tòa với lý do phân chia tài sản không hợp lý và yêu cầu chia lại tài sản.
Tumblr media
Vương Vi chính thức "sa hố" trước khi đẩy sự nghiệp đến đỉnh cao nhất.
Tòa án thụ án và buộc phải đóng băng toàn bộ cổ phiếu của Vương Vi tại Tudou. Tudou cũng hoãn niêm yết. Tất cả các nhà đầu tư đều choáng váng nhưng không thể làm được gì. Cuối cùng, Vương Vi phải trả 7 triệu đô la Mỹ để hòa giải với Dương Lỗi.
Tuy nhiên, vì vụ kiện đó mà số phận của Vương Vi và Tudou đã thay đổi hoàn toàn. Họ bị trì hoãn nửa năm và lỡ thời điểm tốt nhất lên sàn chứng khoán. Đối thủ của họ, Youku đã chớp lấy cơ hội đó. Hiện tại, Youku là gã khổng lồ và được coi là Youtube của Trung Quốc.
Tudou trượt dốc hoàn toàn và sau này buộc phải bán lại cho Youku. Vương Vi đánh mất luôn cơ hội đứng lên đỉnh cao của sự nghiệp và cũng mất luôn đứa con mình tâm huyết nhiều năm.
Tumblr media Tumblr media
Dương Lỗi đã có màn phản công tuyệt vời.
Có lẽ vì bài học này, giới đầu tư thậm chí còn đưa ra quy định rằng CEO của một công ty niêm yết phải ký hợp đồng để đảm bảo rằng anh ta không kết hôn trước khi tình hình công ty ổn định.
Có người cho rằng Dương Lỗi nhẫn tâm nhưng càng nhiều ý kiến lên án Vương Vi. Chính anh ta là người gây ra những lùm xùm trước, dù nắm giữ tài sản lớn nhưng tìm mọi cách tẩu tán để rồi chỉ chi ra đúng 100 nghìn NDT bồi thường. Không chỉ vậy, anh ta còn tính toán và tàn nhẫn, phản bội hôn nhân. Đến cuối cùng, Dương Lỗi cũng chỉ dùng pháp luật để dạy dỗ chồng cũ mà thôi.
Nguồn: Sohu, QQ
Theo Ca Ca (Nhịp Sống Việt)
Adblock test (Why?)
Nguồn https://ift.tt/2V7jvwX
0 notes
daycattocgiare · 3 years ago
Text
Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Một đời khát vọng đưa đạo pháp cống hiến cho nhân sinh
Xuyên suốt cuộc đời Thiền sư Thích Nhất Hạnh là khát vọng cống hiến
Theo cáo phó của tăng đoàn Làng Mai, Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch lúc 0h ngày 22/1 tại Tổ đình Từ Hiếu (phường Thủy Xuân, TP Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế) ở tuổi 96. 
Trao đổi với PV Dân Việt, Thượng toạ Thích Thanh Huân - Uỷ viên Thư ký Hội đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó Chánh văn phòng Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam chia sẻ, sinh thời Thiền Sư Thích Nhất Hạnh là bậc chân tu, lãnh đạo Phật giáo có tầm ảnh hưởng lớn ở phương Tây và tích cực thúc đẩy vì hoà bình.
Tumblr media
Thiền sư Thích Nhất Hạnh thỉnh chuông tại Làng Mai (Pháp), năm 2009. Ảnh: Plumvillage.org
"Cả cuộc đời mình Thiền sư Thích Nhất Hạnh đem tinh thần đạo pháp phụng sự cuộc sống. Nếu để nói về phẩm hạnh của Ngài không thể kể hết được. Ngài là tăng sĩ, tu sĩ Việt Nam có ảnh hưởng rất lớn kể cả trong nước và trên thế giới. Xuyên suốt hành trình cuộc đời Thiền sư đó là khát vọng đưa tinh thần đạo pháp cống hiến thiết thực cho nhân sinh, xã hội, đất nước con người. 
Thiền sư luôn lan tỏa tư tưởng hoà bình và tinh thần đó xuyên suốt trong cuộc đời hoằng pháp, tịnh tu của Ngài. Hoà bình trong nội tâm để chuyển hoá nội tâm của mình, thay đổi đấu tranh, bạo động xã hội ở ngoài cuộc sống", Thượng toạ Thích Thanh Huân chia sẻ.
Tumblr media
Tại chùa Từ Hiếu (Huế), Thiền sư Thích Nhất Hạnh (bìa phải) đứng bên "ngôi đền gốc rễ" của mình lần đầu tiên, kể từ khi ông rời đi vào tháng 5/1966. Ảnh: Paul Davis/Touching Peace Photography
Thượng toạ Thích Thanh Huân chia sẻ, nhiều lần được yết kiến, đàm đạo với Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại các trung tâm tu tập Làng Mai hoặc ở một số nơi khác. 
"Thiền sư có công hạnh hoằng hóa rộng rãi và ảnh hưởng sâu dày trên khắp thế giới. Ngài đồng thời là một nhà văn hóa, một nhà văn, một nhà thơ, một học giả, một sử gia và một nhà hoạt động hòa bình. 
Thiền sư là một trong những người tiên phong mang đạo Bụt, đặc biệt là pháp môn chánh niệm đến xã hội phương Tây và góp phần xây dựng một cộng đồng Phật giáo dấn thân cho thế kỷ XXI với hàng nghìn đệ tử xuất gia, hàng triệu đệ tử tại gia và hàng trăm triệu độc giả trên khắp năm châu", Thượng Toạ Thích Thanh Huân chia sẻ.
Cuộc đời không ngừng nghỉ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh 
Thiền sư Thích Nhất Hạnh sinh năm Bính Dần (1926) tại làng Thành Trung (huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế) và là con kế út trong gia đình có sáu anh chị em. Cha ngài là cụ ông Nguyễn Đình Phúc, mẹ là cụ bà Trần Thị Dĩ. 
Năm 1942, ngài xuất gia tại Tổ đình Từ Hiếu với Thiền sư Thanh Quý Chân Thật, được ban pháp danh Trừng Quang. Tháng 9/1945, ngài được thọ giới Sa di với Bổn sư, được ban pháp tự Phùng Xuân.
Tumblr media
Thiền sư trong lễ kỷ niệm sinh nhật lần thứ 92 tại Thái Lan, tháng 10/2018. Sau một cơn đột quỵ vào tháng 11/2014, thiền sư Thích Nhất Hạnh chuyển đến Thái Lan để tham gia cùng các đệ tử trẻ từ Việt Nam tại trung tâm thiền làng Mai Thái Lan mới của mình. Ảnh: Plum Village Community of Engaged Buddhism
Năm 1947, ngài theo học Phật học đường Báo Quốc, Huế. Năm 1949, ngài rời Huế vào Sài Gòn tiếp tục tu học. Ngài bắt đầu sự nghiệp sáng tác với pháp hiệu Thích Nhất Hạnh, một trong nhiều bút hiệu của Thiền sư. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đồng sáng lập chùa Ấn Quang, làm giáo thọ Phật học đường Nam Việt.
Thiền sư phối hợp kiến thức của Ngài về nhiều trường phái thiền khác nhau cùng với các phương pháp từ truyền thống Phật giáo Thượng tọa bộ, những nhận thức sâu sắc từ truyền thống Phật Giáo Đại thừa, và một số phát kiến của ngành tâm lý học đương đại phương Tây để tạo thành cách tiếp cận mới đối với thiền.
Ông là người đưa ra khái niệm "Phật giáo dấn thân" trong cuốn "Việt Nam: Hoa sen trong biển lửa". Trong cuộc phỏng vấn với nhà báo John Malkin hơn một thập niên trước, Thiền sư Thích Nhất Hạnh giải thích về Phật giáo dấn thân: "Khi bom dội lên đầu chúng sinh, bạn không thể ngồi trong thiền viện. Thiền là nhận thức về những gì đang xảy ra, không chỉ bên trong mà còn xung quanh cơ thể và cảm xúc của bạn".
"Phật giáo phải gắn liền với cuộc sống thường nhật, với nỗi đau của bạn và những người xung quanh. Bạn phải học cách giúp đỡ một đứa trẻ bị thương trong lúc duy trì hơi thở chánh niệm. Bạn phải giữ cho bản thân khỏi lạc lối trong hành động. Hành động phải đi cùng thiền", Thiền sư nhấn mạnh.
Tumblr media
Thiền sư Thích Nhất Hạnh dẫn đầu thiền hành với cộng đồng của mình tại Làng Mai, tháng 6/2014. Ảnh: Plum Village Community of Engaged Buddhism
Thập niên 1960, ông lập nên trường Thanh niên Phụng sự Xã hội (SYSS), một tổ chức từ thiện giúp dựng lại các làng bị đánh bom, xây trường học, trạm xá, và hỗ trợ những gia đình vô gia cư sau chiến tranh ở Việt Nam.
Năm 1966, ông lập ra dòng tu Tiếp Hiện đồng thời thành lập nhiều trung tâm thực hành và thiền viện trên khắp thế giới. Ông ở nước ngoài từ sau khi Hiệp định Paris được ký kết năm 1973, cư ngụ chủ yếu tại Tu viện Làng Mai, vùng Dordogne, miền nam nước Pháp.
Là một trong những người thầy về Phật giáo ở phương Tây, những lời dạy và phương pháp của thiền sư Thích Nhất Hạnh thu hút sự quan tâm của nhiều thành phần đến từ các quan điểm tôn giáo, tâm linh và chính trị khác nhau. Ông đưa ra cách thực hành chánh niệm thường được điều chỉnh cho phù hợp với tri giác phương Tây.
Tumblr media
Triển lãm giới thiệu 80 tác phẩm thư pháp và 145 đầu sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại Đại học Mỹ thuật Việt Nam hồi tháng 4/2021. Ảnh: Hà Tùng Long
Chánh niệm là sự biết rõ những gì đang có mặt, đang xảy ra. "Khi nắm tay một em bé, ta hãy để tâm một trăm phần trăm vào bàn tay em. Khi ôm người thương trong vòng tay cũng thế. Hãy thực sự có mặt, thực sự tỉnh thức. Điều này trái ngược hẳn với cách sống và làm việc của ta trước đây. 
Chúng ta từng có thói quen làm nhiều việc cùng một lúc: vừa trả lời e-mail, vừa nói điện thoại; trong khi đang họp về một dự án này, ta viết xuống những ghi chú cho một dự án khác. Thay vì luôn làm nhiều việc cùng một lúc, ta phải tập thói quen chỉ làm mỗi lần một việc", Thiền sư viết trong cuốn sách "Quyền lực đích thực". Ông cho rằng thực hành Chánh niệm giúp nhận diện niềm đau nỗi khổ và chuyển hóa chúng.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết hơn 100 cuốn sách, trong đó hơn 40 cuốn bằng tiếng Anh, với một số tác phẩm nổi bật như: Đường xưa mây trắng, Thả một bè lau, Phép lạ của sự tỉnh thức, Hạnh phúc cầm tay, Phật trong ta, Chúa trong ta...
Cuộc đời ông gắn liền với các hoạt động vì hòa bình. Tháng 6/1965, Thiền sư viết thư cho nhà hoạt động nổi tiếng Mỹ Martin Luther King Jr. để kêu gọi ông công khai chống lại Chiến tranh Việt Nam. Một năm sau, hai người lần đầu tiên gặp nhau tại Chicago, thảo luận về hòa bình, tự do và cộng đồng. Trong cuộc họp báo sau đó, King đã phản đối mạnh mẽ Chiến tranh Việt Nam. Năm 1967, King đề cử Thiền sư cho Giải Nobel Hòa bình nhưng năm đó không ai được trao giải.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh tổ chức các khóa tu thiền cho người Israel và người Palestine, khuyến khích họ lắng nghe và học hỏi lẫn nhau; thuyết giảng kêu gọi các nước đang tham chiến hãy đình chiến và tìm kiếm giải pháp ôn hòa cho các mâu thuẫn. Năm 2005, ông tổ chức buổi diễu hành vì hòa bình ở Los Angeles với sự tham gia của hàng nghìn người, theo Christian Science Monitor.
Tháng 5/2013, trong một buổi diễn thuyết kéo dài 3 giờ tại sân vận động ở Hàn Quốc, Thiền sư bàn về mối quan hệ giữa Triều Tiên và Hàn Quốc: "Vũ khí hạt nhân là một trở ngại đối với mối quan hệ tốt đẹp giữa hai miền bán đảo Triều Tiên. Nó phản ánh nỗi sợ hãi, tức giận và nghi ngờ của Triều Tiên bởi nếu không, họ đã không xây dựng vũ khí hạt nhân. Vì hòa bình, điều cơ bản cần làm không phải việc loại bỏ vũ khí hạt nhân mà là loại bỏ sự sợ hãi, tức giận và nghi ngờ trong mỗi người. Qua đó, việc hòa giải sẽ trở nên dễ dàng".
Theo thiền sư Thích Nhất Hạnh, chìa khóa để hòa giải chính là việc "biết lắng nghe". Ông cũng khuyên các chính trị gia nên học theo con đường của Phật giáo để giúp ích cho đàm phán và hòa giải.
Sau hơn 4 thập niên rời xa quê hương, ông về Việt Nam lần đầu vào năm 2005 và năm 2007, ông đi khắp đất nước, tổ chức những khóa tu, buổi pháp thoại và gặp gỡ các tăng ni phật tử. 
Đầu năm 2007, với sự đồng ý của Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ông tổ chức ba trai đàn chẩn tế lớn tại Việt Nam với tên gọi "Đại trai đàn Chẩn tế Giải oan", cầu nguyện và giải trừ oan khổ cho những người từng chịu hậu quả của chiến tranh.
Tại Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc tại Hà Nội, ông được mời về Việt Nam với tư cách là người thuyết trình chủ đề chính. Năm 2014, Thiền sư trải qua quá trình hôn mê do xuất huyết não. Sau khi phục hồi, năm 2016, Thiền sư từ Pháp đến tính dưỡng ở Trung tâm tu học Làng Mai ở Thái Lan để được gần quê hương hơn. Năm 2017, ông một lần nữa trở lại Việt Nam và thăm chùa Từ Hiếu.
Với những hoạt động không ngừng nghỉ của mình, Thiền sư Thích Nhất Hạnh trở thành nhà lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn thứ hai ở phương Tây, chỉ sau Đạt Lai Lạt Ma, AP đánh giá trong một bài viết ra năm 2009. 
Ngày 28/10/2018, Thiền sư Thích Nhất Hạnh trở về Tổ đình Từ Hiếu để tĩnh dưỡng trong sự chào đón của chư tăng và phật tử. Ông quyết định ở lại đây cho đến ngày viên tịch.
0 notes